Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Hình tượng người lính trong thơ ca việt nam 1945 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.95 KB, 13 trang )

Hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam
1945 – 1975
Hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam 1945 – 1975
Đặt vấn đề:
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong
lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt
Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng
của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ.
Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của
hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những
khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống
kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến
tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng,
người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác
phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ
đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình
tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi
các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.
Nội dung:
Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã
giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm
không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp
nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ
đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã
đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện
Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên


Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa
xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công


đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế
kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của
cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi
đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội
cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và
trong trái tim của các nhà thơ.
Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của
anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền
quê nghèo khắp mọi miền đất nước:
“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau
trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người
nông dân mặc áo lính.
“Anh chiến sỹ hiền lành
Tỳ tay trên mũi súng”.


(Cá nước – Tố Hữu)
Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo
dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo
trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió
buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn
được bước tiến của anh:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời.
Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời
kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ”. Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô
sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc:
“Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”.
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao
gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu“áo anh rách vai”,
“Quần tôi vài mảnh vá”, “Chân không giầy”, thêm vào đó thiếu thuốc
men – bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất


đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây
Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và
chịu đựng:

“Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão ”
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước
thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng
đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả:
“Mai mốt bên cửa rừng


Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung”
(Viếng bạn – Hoàng Lộc)
Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng,
chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc:
“Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền”.
(Bầm ơi – Tố Hữu)
Đến với nhân dân “Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng
bé nhỏ“, (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có
sự sống và niềm vui:
“Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về, sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca…”
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã
cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định
số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang
dội:
“Đánh một trận dập đầu quỷ dữ
Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên”


(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh
Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ
chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết
sức bình dị mà rất đỗi kiên cường:
“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”
(Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu)
Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên
cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ
cùng ra trận ” – ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời
kêu gọi của Bác Hồ: ” Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta
còn phải chiến đấu quét sạch nó đi “. Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng
thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc
Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn “Rạo rực lòng ta trống trận Quang
Trung” – (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời
chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và
thời đại:” Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”
– (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường:
” Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành

Mắt tìm thù sao bay rực rỡ
Rượt đuổi thù chân như chiến mã
Đâm chết thù sức núi dồn tay”.
(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành – Phạm Hổ)
Lòng căm thù của anh có thêm ” nghìn độ lửa thiêu” và trở thành vô địch:


” Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc”.
( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật
huyền thoại của thời đại mới:
” Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ
Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng
Chân như pha sắt, hồn pha thép
Ngẩng cao đầu thở gió biển đông
(Phan Minh Đạo)
Con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với
tiền tuyến lớn – Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn
bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các
anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy
đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài:
” Không kính, rồi xe không đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn ” Ung dung buồng lái
ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Bất chấp bom đạn kẻ thù:
” Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)



” Có một trái tim”- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với
đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng.
Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin
cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy
nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương:
” Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ Quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
ổ trứng hồng tuổi thơ.
( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh
cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Anh xứng đáng là những ” Con người đẹp nhất “, là niềm tự hào của dân
tộc:
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ
Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu


Hỡi chàng dũng sỹ
Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”.
( Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)
Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là ” Cái chết hóa

thành bất tử “- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê
Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng
Việt Nam tạc vào thế kỷ:
” Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
( Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công
kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh
Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện
thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975,
anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của
Lê Lợi, Quang Trung:
” Anh đánh như sét nổ trời rung
Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn
Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên
Quét Huế – Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng”
( Toàn thắng về ta – Tố Hữu)
Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả ” Năm
châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên,
không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người
mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ:


” Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”
( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)
Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và
giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu thương mênh

mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng rất dịu
dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của
anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ
qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng
sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng
khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục
và rèn luyện:
” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào
Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”
( Tố Hữu)
Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam
thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ
Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp
cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng
không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.
III. Kết luận:
Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu
thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến


tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của
người lính.
Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát
bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ,
trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ
vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của
những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế
người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các
anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ
đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những

con người anh hùng dân tộc.
Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử
còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ
hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để
đất nước Việt Nam mãi là:
“ Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao, thần thoại.”



×