Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.17 KB, 87 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế, các loại hình kinh doanh,
ngành nghề kinh doanh phát triển mạnh mẽ, thị trường chứng khoán đã ổn định và
phát triển. Hòa mình vào tiến trình đổi mới, phát triển của đất nước, ngành xây lắp
cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhờ đó mà bộ mặt quốc gia, diện mạo
của hệ thống công trình giao thông được đổi mới, khang trang và không ngừng lớn
mạnh. Để có được những thành quả như mong muốn thì các doanh nghiệp xây lắp
phải đổi mới mọi mặt, chú trọng công tác tổ chức quản lý, phát triển sản xuất. Do
vậy, vị trí và vai trò của kế toán quản trị trong các doanh nghiệp ngày được nâng
cao. Ở những nước có nền kinh tế phát triển, kế toán quản trị trở thành một công cụ
quan trọng cho các nhà quản trị kinh doanh, đưa ra các quyết định đầu tư, chọn
phương án tối ưu. Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, vị trí vai trò của kế toán
quản trị ngày càng được khẳng định. Nhằm đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường,
nhu cầu quản trị chi phí các công trình xây dựng dân dụng của các doanh nghiệp
xây dựng, tác giả chọn đề tài nghiên cứu khoa học: "Hoàn thiện kế toán quản trị
chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
".
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới kế toán quản trị đã tồn tại rất lâu trong hệ thống kế toán doanh
nghiệp, các nhà quản trị doanh nghiệp càng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến kế
toán quản trị, nhất là kế toán quản trị chi phí, mục đính nhằm nâng cao chất lượng
quản lý chi phí, tăng cường khả năng kích ứng và cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường. Từ nhu cầu thông tin kế toán quản trị chi phí của các nhà quản trị, phối hợp
giữa các bộ phận trong doanh nghiệp đến việc tổ chức bộ máy kế toán và các phần
hành công việc kế toán toán quản trị chi phí để đáp ứng tốt nhu cầu thông tin về chi
phí cho nhà quản trị của các nhà quản lý các cấp trong doanh nghiệp. Bởi lẽ, trong
nền kinh tế thị trường, cạnh tranh về giá luôn luôn xảy ra quyết liệt, cho nên, để có
đủ thông tin kịp thời và đáng tin cậy phần lớn là do kế toán quản trị cung cấp nhằm
phục vụ cho chức năng hoạch định, tổ chức điều hành, kiểm soát và ra quyết định


của nhà quản trị. Kế toán quản trị chi phí là nội dung và là bộ phận quan trọng hệ


2
thống kế toán tại doanh nghiệp. Công tác kế toán quản trị chi phí được thực hiện tốt
là cơ sở đề xuất những giải pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, trên cơ sở
đó nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế đang
phát triển mạnh mẽ, để đứng vững trong xu thế đó đòi hỏi các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh, nhất là các doanh nghiệp xây lắp, ngày càng phát triển không
ngừng cả về quy mô lẫn chất lượng góp phần vào sử phát triển kinh tế đất nước, cần
phải thiết lập được các công cụ quản lý khoa học mà trong đó kế toán quản trị chi
phi1la2 một công cụ hữu ích nhất. Do đó tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện kế toán
quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai " làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Các vấn đề về kế toán quản trị, trong đó có kế toán quản trị chi phí được các
tác giả Việt Nam bắt đầu nghiên cứu từ đầu những năm 2000
Luận văn của tác giả Phan Thị Thùy Nga (2011) với đề tài “Hoàn thiện
công tác kế toán quản trị chi phí tại công ty cổ phần du lịch Quảng Ngãi”. Trong
luận văn này, tác giả mới chỉ đưa ra mô hình lý thuyết cơ bản của kế toán quản trị
chi phí, nghiên cứu khả năng ứng dụng thực tiễn vào doanh nghiệp cụ thể đó là
công ty cổ phần du lịch Quảng Ngãi để đánh giá, đưa ra những giải pháp tốt nhất
cho việc vận dụng vào doanh nghiệp cụ thể này chưa đưa ra được những lý luận hay
việc ứng dụng thực tiễn của việc kế toán quản trị chi phí tại Thành phố Biên Hòa.
Luận văn của tác giả Nguyễn Thùy Phương (2011) nghiên cứu “Hoàn thiện
công tác kế toán quản trị chi phí tại công ty cổ phần du lịch xanh – Huế”. Tuy
nhiên tác giả cũng nghiên cứu về kế toán quản trị chi phí ở phạm vi hẹp chỉ giới hạn
trong phạm vi doanh nghiệp du lịch chứ chưa đi sâu nghiên cứu ở phạm vi thành
phố với nhiều doanh nghiệp với các lĩnh vực hoạt động đa dạng.
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Ka Ly (2012) với đề tài “Hoàn thiện công

tác kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty sản xuất đầu tư dịch vụ xuất nhập
khẩu Bình Định” đã tập trung nghiên cứu sâu hơn trong việc vận dụng kế toán
quản trị chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất đa lĩnh vực với quy mô lớn là kế
toán quản trị chi phí. Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn, tác giả chưa khái quát


3
cho việc phải hoàn thiện kế toán quản trị chi phí cho các doanh nghiệp xây lắp tại
Thành phố Biên Hòa.
Các công trình khoa học nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận cơ bản về kế toán quản trị chi phí, kế toán quản trị chi phí trong quản trị
doanh nghiệp. Đưa ra thực trạng công tác kế toán quản trị chi phí tại các doanh
nghiệp nói chung hoặc một số loại hình doanh nghiệp cụ thể nói riêng như doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp du lịch…Tuy nhiên, những công trình nghiên
cứu đã được công bố chưa đề cập đến khía cạnh kế toán quản trị chi phí của các
doanh nghiệp xây lắp Thành phố Biên Hòa. Vì vây, việc lựa chọn đề tài “Hoàn
thiện kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai” là mới mẻ và không trùng lắp với những đề tài đã được công
bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán quản trị chi phí.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán quản trị chi phí trong các doanh
nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và các điều kiện để thực hiện về việc
kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu về kế toán quản trị chi phí trong các doanh
nghiệp xây lắp tại thành phố Biên Hòa.
- Phạm vi: Các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài sử dụng phương pháp định tính, phương pháp thống kê mô tả. Phân
tích, tổng hợp, hệ thống hóa khái quát những vấn đề lý luận về kế toán quản trị chi
phí . Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng phương pháp khảo sát, phỏng vấn, so sánh,
quy nạp để làm rõ mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin chi tiết cho nhu cầu quản trị
doanh nghiệp.
6. Những đóng góp mới của luận văn


4
Thông qua việc phản ánh thực trạng về quy trình và phương pháp kế toán quản
trị chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa, luận văn đã chỉ
ra được một số vấn đề mà các doanh nghiệp xây lắp đang gặp phải hiện nay là làm
thế nào để đạt mục tiêu kiểm soát chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao năng
lực cạnh tranh khi hội nhập.
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ việc các nhà quản trị trong các doanh
nghiệp xây lắp cần phải biết cách phân loại, tính toán, tập hợp chi phí kinh doanh
một cách chính xác, cần phải có thông tin về chi phí không phải ở phạm vi toàn
doanh nghiệp mà từng hạng mục, từng dự án, từng bộ phận, từng cái nhân tham gia
vào quá trình sản xuất kinh doanh để có thể kiểm soát được chi phí.
Luận văn đã chỉ ra nguồn gốc cũng như đặc trưng của các loại chi phí trong
các doanh nghiệp xây lắp để từ đó đưa ra các phương pháp phân tích để phân loại
chi phí một cách khoa học. Qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí
khá cụ thể để các doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn thành phố Biên Hòa có thể ứng
dụng vào thực tiễn quản trị chi phí doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu; mục lục; danh mục từ viết tắt; danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục; luận văn chia thành 03 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp
xây lắp
Chƣơng 2: Thực trạng kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp xây

lắp tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chƣơng 3: Các giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí trong các doanh
nghiệp xây lắp tại Thành phố Biên Hòa.


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Một số vấn đề chung về kế toán quản trị chi phí
1.1.1. Khái niệm và vai trò của kế toán quản trị chi phí
1.1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị chi phí
Kế toán quản trị chi phí là một bộ phận của hệ thống kế toán nói chung và kế
toán quản trị nói riêng, chính vì vậy, bản chất của kế toán quản trị chi phí trước hết
thể hiện ở bản chất kế toán. Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu đời, có
rất nhiều định nghĩa về kế toán dưới các góc độ khác nhau. Trong phần này tác giả
chỉ phân tích hai định nghĩa cơ bản dưới góc độ bản chất và nội dung của kế toán.
Thứ nhất, kế toán được định nghĩa là một bộ phận của hoạt động quản lý, với
chức năng xử lý và cung cấp thông tin thực hiện về khách thể quản lý cho chủ thể
quản lý. Định nghĩa này hướng về bản chất của kế toán. Quá trình sản xuất ra của
cải vật chất là yêu cầu tất yếu khách quan cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Để quá trình sản xuất được thực hiện một cách có hiệu quả, nhất thiết phải
có hoạt động quản lý, tức là hoạt động định hướng cho quá trình sản xuất và tổ chức
thực hiện theo những hướng đã định. Trong hoạt động quản lý này, kế toán đóng vai
trò là cầu nối thông tin giữa khách thể quản lý (quá trình sản xuất) và chủ thể quản
lý.
Thứ hai, kế toán được định nghĩa là một quá trình định dạng, đo lường, ghi
chép và cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế của một tổ chức. Định nghĩa này
hướng về nội dung của kế toán. Dưới góc độ này, kế toán cần áp dụng hệ thống các

phương pháp đặc thù (chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá và tổng hợp-cân đối) để
cung cấp các thông tin phù hợp, tin cậy, nhất quán và so sánh được nhằm giúp cho
những người sử dụng thông tin đưa ra được các quyết định đúng đắn đối với tổ
chức.


6
Theo quan điểm của Giáo trình Kế toán quản trị Trường Đại học Kinh tế quốc
dân (2002) do PGS.TS Nguyễn Minh Phương chủ biên, “Kế toán quản trị là quy
trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt
các số liệu tài chính và phi tài chính cho Ban giám đốc để lập kế hoạch, đánh giá,
theo dõi thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh nghiệp và để đảm bảo
cho việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này”
Theo quan điểm giáo trình kế toán quản trị củaTrường Đại học Kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh do TS Phạm Văn Dược chủ biên , “Kế toán quản trị là hệ thống
thông tin cung cấp cho các nhà quản trị để xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện,
kiểm tra đánh giá và ra quyết định cho các tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả của
các hoạt động”
Theo luật kế toán (2003), “Kế toán quản trị là việc thu thập, ử l , phân tích
và cung cấp thông tin inh tế tài chính th o y u c u quản trị và quyết định inh tế
tài chính trong nội ộ đ n vị kế toán”. Theo khoản 3, điều 4, trang 2 - uật

ế

toán Việt Nam số 03/2003/QH11 ngày 17/06/2003)
Từ những quan điểm trên có thể rút ra khái niệm chung về kế toán quản trị
như sau:

ế toán quản trị là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp những thông tin


định lượng kết hợp với định tính về các hoạt động của một đơn vị cụ thể, giúp các
nhà quản trị trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của đơn vị
Chi phí là một trong những yếu tố trung tâm của công tác quản lý hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp tồn tại và hoạt động phải
chi nhiều khoản chi phí khác nhau trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh và chi
phí có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, vấn đề được đặt
ra là làm sao có thể kiểm soát được tất cả các khoản chi phí. Kế toán quản trị chi phí
là công cụ hữu hiệu đáp ứng cho nhu cầu thông tin chi phí cho các nhà quản trị để
đưa ra các quyết định kinh doanh, cơ sở cho kiểm soát, sử dụng chi phí của đơn vị
một cách có hiệu quả.
Theo tác giả, “Kế toán quản trị chi phí là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp các thông tin về chi phí của doanh nghiệp nhằm giúp các nhà quản trị


7
doanh nghiệp thực hiện tốt các chức năng quản trị chi phí trong quá trình kinh
doanh”.
1.1.1.2. Vai trò của kế toán quản trị chi phí
Kế toán quản trị chi phí cung cấp thông tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp
trong việc thực hiện các chức năng quản lý. Để thực hiện vai trò của mình, kế toán
quản trị chi phí tiến hành lập dự toán chi phí để trợ giúp các nhà quản trị doanh
nghiệp thực hiện chức năng lập kế hoạch; phản ánh thông tin thực hiện để trợ giúp
các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện chức năng tổ chức thực hiện kế hoạch và
xử lý thông tin thực hiện để từ đó các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện chức
năng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Như vậy, kế toán quản trị chi phí
đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho quản lý cả trước, trong
và sau quá trình kinh doanh.
Kế toán quản trị chi phí có các vai trò sau:
- KTQT chi phí tiến hành cụ thể hoá các hoạt động của doanh nghiệp thành

các dự toán sản xuất kinh doanh. KTQT chi phí cung cấp thông tin về chi phí ước
tính cho các sản phẩm, dịch vụ hoặc các đối tượng khác theo yêu cầu của nhà quản
lý nhằm giúp họ ra các quyết định quan trọng về đặc điểm của sản phẩm, cơ cấu sản
phẩm sản xuất và phân bổ hợp lý các nguồn lực có hạn cho các hoạt động của doanh
nghiệp.
- Bên cạnh cung cấp thông tin về dự toán chi phí cho việc lập kế hoạch và ra
quyết định của các nhà quản lý, TQT chi phí cũng cung cấp thông tin để nhà quản
lý kiểm soát quá trình thực hiện kế hoạch thông qua các báo cáo đánh giá, đặc biệt
là giúp ích cho các nhà quản lý trong việc kiểm soát chi phí và nâng cao hiệu quả và
hiệu năng của quá trình hoạt động. Việc cung cấp thông tin về chi phí sản xuất của
các hoạt động một cách chi tiết và thường xuyên sẽ giúp ích cho các nhà quản lý rất
nhiều trong kiểm soát và hoàn thiện quá trình sản xuất sản phẩm hoặc thực hiện các
dịch vụ vì những thông tin này giúp các nhà quản lý phát hiện các hoạt động tốn
kém quá nhiều chi phí để thiết kế lại quá trình sản xuất, loại bỏ hoạt động tốn kém
chi phí đó hoặc có những cải tiến làm cho hoạt động đó có hiệu quả hơn, tốn kém
chi phí ít hơn.


8
Ngoài ra, các báo cáo hoạt động định kỳ so sánh kết quả thực tế với mục tiêu
dự kiến về chi phí, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ được sử dụng để
làm cơ sở cho việc đánh giá hoạt động quản lý và do đó cung cấp động lực để các
nhà quản lý cố gắng thực hiện tốt công việc của mình.
- KTQT chi phí còn cung cấp các thông tin thích hợp cho các nhà quản trị
nhằm xây dựng các chiến lược cạnh tranh bằng cách thiết lập các báo cáo định kỳ
và báo cáo đặc biệt. Báo cáo định kỳ phản ánh về khả năng sinh lời của các bộ phận
khác nhau trong doanh nghiệp, như các sản phẩm, dịch vụ, các thị trường tiêu thụ
nhằm bảo đảm doanh nghiệp chỉ tiến hành các hoạt động mang lại lợi nhuận. KTQT
chi phí cũng cung cấp các thông tin để phân bổ các nguồn lực của doanh nghiệp
cũng như quyết định cơ cấu sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, hay quyết định ngừng

sản xuất hợp lý. Các báo cáo đặc biệt giúp cho các nhà quản lý đưa ra các quyết
định chiến lược, như phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, đầu tư các thiết bị,
nhà xưởng mới, đàm phán các hợp đồng dài hạn với các nhà cung cấp và các khách
hàng. Trong một số tình huống đặc biệt, các thông tin về chi phí sản xuất đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc xác định giá bán sản phẩm, nhất là trong các
trường hợp sản xuất theo yêu cầu của khách hàng mà chưa có trên thị trường.
Để thực hiện vai trò cung cấp thông tin của mình, mô hình kế toán quản trị chi
phí được tổ chức thành hai nội dung cơ bản: tổ chức bộ máy kế toán quản trị chi phí
và tổ chức các khâu công việc kế toán quản trị chi phí. Bộ máy kế toán quản trị chi
phí cần được tổ chức hợp lý để thực hiện tốt các nội dung kế toán quản trị chi phí
như lập dự toán chi phí, tổ chức thu thập thông tin thực hiện, kiểm soát quá trình
thực hiện dự toán, phân tích thông tin chi phí để ra các quyết định kinh doanh.
1.1.2. Đối tƣợng của kế toán quản trị chi phí
Đối tượng của kế toán quản trị chi phí là nghiên cứu chi phí trong mối quan
hệ với việc hình thành giá trị. Chi phí được hiểu là giá trị của mọi khoản hao phí về
nhân tài, vật lực nhằm thu được các loại sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ. Chi phí có
thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau để có thể cung cấp những thông tin phù
hợp với nhu cầu của nhà quản trị, trong đó việc xem xét chi phí trong mối quan hệ
với khối lượng, hay mức độ hoạt động và với lợi nhuận có thể được xem là đối
tượng chủ yếu của kế toán quản trị chi phí.


9
Kế toán quản trị chi phí nghiên cứu sâu về chi phí của doanh nghiệp theo các
góc độ khác nhau như phân loại chi phí, dự toán chi phí, xây dựng định mức chi
phí, lập các báo cáo quản trị chi phí nhằm mục đích kiểm soát và quản lý chi phí
chặt chẽ và dự toán chi phí chính xác để tối thiểu hóa chi phí.
Xét về góc độ huy động và sử dụng nguồn lực, kế toán quản trị chi phí gắn
liền với việc phản ánh, mô tả chi phí, diễn biến chi phí trong quá trình sử dụng ở các
nơi tiêu dùng các chi phí đó các bộ phận hoặc trung tâm) và sự kết tinh chi phí

thành kết quả các hoạt động.
Kiểm soát việc thực hiện từng khâu công việc, phân tích nguyên nhân gây ra
sự biến động tăng, giảm) chi phí theo dự toán và thực tế để có chế độ khen thưởng,
cũng như kỷ luật, quy trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận trong doanh
nghiệp điều này cũng đồng nghĩa với việc phát huy thế mạnh trong hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng như biện pháp ngăn chặn những điểm yếu nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động.
Kế toán quản trị chi phí còn tập trung phân tích chi phí nhằm đưa ra các
quyết định của nhà quản trị như đầu tư thêm hay thu hẹp hoặc chấm dứt hoạt
động của bộ phận nào đó, lựa chọn các phương án đầu tư...
1.2. Nội dung của kế toán quản trị chi phí
1.2.1. Phân loại chi phí
1.2.1.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Chi phí phát sinh trong các DNXL, xét theo công dụng của chúng hay nói
một cách khác, xét theo hoạt động có chức năng khác nhau trong quá trình sản xuất
kinh doanh mà chúng phục vụ, được chia làm 2 loại: chi phí sản xuất và chi phí
ngoài sản xuất.
 Chi phí sản xuất: giai đoạn sản xuất là quá trình thi công biến nguyên vật
liệu thành sản phẩm (các công trình, hạng mục công trình) thông qua sức lao động
của công nhân kết hợp với việc sử dụng máy móc thiết bị. Chi phí sản xuất xây lắp
bao gồm các khoản mục chủ yếu: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung.
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: khoản mục chi phí này bao gồm các loại
nguyên vật liệu và vật liệu xuất dùng trực tiếp cho việc thi công xây dựng công


10
trình, hạng mục công trình. Trong đó, nguyên vật liệu chính xi măng, sắt, thép, cát,
đá...) dùng để cấu tạo nên sản phẩm xây lắp và các loại vật liệu phụ, vật liệu luân
chuyển (ván khuôn, giàn giáo) có tác dụng kết hợp với nguyên vật liệu chính để

hoàn chỉnh sản phẩm về mặt chất lượng và hình dáng.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Khoản mục chi phí này bao gồm tiền lương,
phụ cấp có tính chất thường xuyên (phụ cấp trách nhiệm) cho bộ phận công nhân
trực tiếp sản xuất xây lắp.
+ Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy thi công
phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất xây lắp công trình bao gồm: chi phí khấu
hao máy thi công, chi phí sửa chữa lớn, sữa chữa thường xuyên máy thi công, chi
phí tiền lương của công nhân điều khiển máy và phục vụ máy thi công, chi phí
nhiên liệu và động lực dùng cho máy thi công và các chi phí khác như chi phí di
chuyển, tháo lắp máy thi công...
+ Chi phí sản xuất chung: là các chi phí phục vụ và quản lý quá trình thi công
các công trình, phát sinh ở tổ, đội, các công trường xây dựng bao gồm: chi phí vật
liệu phục vụ quá trình thi công xây dựng, tiền lương của nhân viên quản lý các tổ,
đội xây dựng, các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất xây lắp,
nhân viên quản lý đội, công nhân điều khiển thi công, chi phí khấu hao, sửa chữa,
bảo trì máy móc thiết bị, chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ vô xây dựng tại các
công trường và các chi phí bằng tiền khác như chi phí thuê lán, trại để tiến hành xây
dựng.
 Chi phí ngoài sản xuất
Đây là các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm liên quan đến
quá trình tiêu thụ sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung toàn doanh
nghiệp. Thuộc loại chi phí này gồm có 2 khoản mục chi phí: chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp.
Riêng đối với các DNX thì chi phí bán hàng thường ít phát sinh, đặc thù
của ngành là trúng thầu mới tiến hành xây dựng, và sản phẩm được bàn giao cho
nhà đầu tư ngay tại nơi sản xuất, thi công. Chứ hoàn toàn không giống các doanh
nghiệp. Khoản mục này bao gồm các chi phí như: chi phí quảng cáo, chi phí văn
phòng, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý doanh



11
nghiệp, khấu hao tài sản cố định như văn phòng, các phương tiện vận tải,..) phục
vụ cho quản lý doanh nghiệp, các chi phí mua ngoài khác...
1.2.1.2. Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế
Để phục vụ cho việc tập hợp và quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban
đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi
phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích
định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích Dự toán chi phí.
Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia thành các
yếu tố:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: là toàn bộ giá trị nhiên liệu, động lực sử
dụng cho máy móc thi công phục vụ cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí nhân công: là tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản trả khác
cho công nhân viên chức trong kỳ.
- Chi phí BHXH, BHYT, BHTN, PCĐ: là các khoản trích theo lương theo
quy định của Nhà nước trong kỳ.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: là phần giá trị hao mòn tài sản cố định dịch
chuyển và chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là các khoản tiền điện, tiền nước, điện thoại,..
- Chí phí bằng tiền khác: là những chi phí sản xuất kinh doanh khác chưa
được phản ánh trong các chi phí trên nhưng đã chi bằng tiền như chi phí tiếp khách,
hội nghị.
1.2.1.3. Phân loại chi phí theo cách ứng xử chi phí
Xét theo cách ứng xử, chi phí của doanh nghiệp được chia thành ba loại: chi
phí khả biến, chi phí bất biến, và chi phí hỗn hợp
+ Chi phí khả biến (biến phí): là các chi phí, xét về lý thuyết, có sự thay đổi
tỷ lệ với các mức độ hoạt động. Chi phí khả biến chỉ phát sinh khi có các hoạt động
xảy ra. Tổng chi phí khả biến sẽ tăng hoặc giảm) tương ứng với sự tăng hoặc
giảm) của mức độ hoạt động, nhưng chi phí khả biến tính theo đơn vị của mức độ
hoạt động thì không thay đổi.

Trong DNXL, biến phí bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công. Ngoài ra, chi phí khả biến còn


12
bao gồm các chi phí khác thuộc khoản mục chi phí sản xuất chung như các chi phí
vật liệu phụ, chi phí động lực, chi phí lao động gián tiếp.
+ Chi phí bất biến định phí): chi phí bất biến là nhưng chi phí xét về lý
thuyết không có sự thay đổi theo các mức độ hoạt động đạt được. Vì tổng chi phí
bất biến là không thay đổi nên khi mức độ hoạt động tăng thì chi phí bất biến tính
theo các đơn vị các mức độ hoạt động sẽ giảm và ngược lại
Trong các doanh nghiệp sản xuất, các loại chi phí bất biến thường gặp là chi
phí khấu hao tài sản cố định PP H đường thẳng), chi phí tiền lương nhân viên
quản lý, chi phí quảng cáo,... Chi phí bất biến còn được gọi là chi phí cố định hay
định phí.
- Chi phí hỗn hợp: là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm cả yếu tố
chi phí khả biến và chi phí bất biến. Ở một mức độ hoạt động cụ thể nào đó, chi phí
hỗn hợp mang đặc điểm của chi phí bất biến, và khi mức độ hoạt động tăng lên, chi
phí hỗn hợp sẽ biến đổi như đặc điểm của chi phí khả biến. Hiểu theo một cách
khác, phần bất biến trong chi phí hỗn hợp thường là bộ phận chi phí cơ bản để duy
trì các hoạt động ở mức độ tối thiểu, còn phần khả biến là bộ phận chi phí sẽ phát
sinh tỷ lệ, với mức độ hoạt động tăng thêm. Trong các doanh nghiệp xây lắp, chi phí
hỗn hợp cũng chiếm một tỷ lệ khá cao trong các loại chi phí, chẳng hạn như chi phí
điện thoại, chi phí bảo trì máy móc thiết bị. Nếu hiểu biết rõ phần biến phí và định
phí có trong chi phí hỗn hợp là cơ sở cho việc lập Dự toán chi phí thường là chi phí
sản xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp)
1.2.2. Xây dựng định mức chi phí
1.2.2.1. Định mức chi phí.
Để tiến hành kiểm soát chi phí, người quản lý phải đưa ra định mức tiêu
chuẩn thích hợp. Việc kiểm soát chi phí chỉ có ý nghĩa khi các chi phí định mức

được xây dựng tiên tiến, phù hợp với năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Nguyên
nhân gây ra mức chênh lệch chi phí khi so sánh giữa thực tế với định mức là vấn đề
mà các nhà quản lý cần phải xử lý kịp thời để đạt được mục tiêu hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận cao nhất để doanh nghiệp tồn tại và
phát triển.
Định mức chi phí là khoản chi được định trước bằng cách lập ra nhưng tiêu
chuẩn gắn với từng trường hợp hay từng điều kiện làm việc cụ thể. Định mức chi


13
phí không những chỉ ra được các khoản chi dự kiến mà còn xác định nên chi trong
trường hợp nào. Tuy nhiên, trong thực tế chi phí luôn thay đổi vì vậy các định mức
cần phải được xem xét lại thường xuyên để đảm bảo tính hợp lý của chúng.
Định mức chi phí đầu vào gồm định mức về lượng và giá của các khoản mục
chi phí sản xuất. ượng định mức là lượng tiêu hao cần thiết trong quá trình sản
xuất, giá định mức là giá phải trả.
Chi phí định mức =

ượng định mức x

Giá định mức

1.2.2.2. Các phương pháp xác định chi phí định mức:
- Phương pháp kỹ thuật: phương pháp này đòi hỏi sự kết hợp của các chuyên
gia kỹ thuật để nghiên cứu thời gian thao tác công việc nhằm mục đích xác định
lượng hao phí cần thiết để sản xuất sản phẩm trong điều kiện về công nghệ, khả
năng quản lý và nguồn nhân lực hiện có tại doanh nghiệp.
- Phương pháp phân tích số liệu lịch sử: trên cơ sở thống kê, phân tích số liệu
về chi phí và giá thành đạt được ở những kỳ trước để đưa ra định mức chi phí. Tuy
nhiên phải xem kỳ này có gì thay đổi và phải xem xét những chi phí phát sinh các

kỳ trước đã phù hợp hay chưa, nếu không hợp lý, hợp lệ thì bỏ hay xây dựng lại.
- Phương pháp điều chỉnh: điều chỉnh chi phí định mức cho phù hợp với điều
kiện hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp.
1.2.2.3. Định mức dự toán trong doanh nghiệp xây lắp.
Trong các DNX , Định mức dự toán xây dựng cơ bản là định mức kinh tếkỹ thuật xác định hao phí cần thiết về vật liệu, lao động máy thi công để hoàn thành
một đơn vị khối lượng công tác xây lắp tương đối hoàn chỉnh như 1m3 tường gạch,
1m3 bê tông, 1m3 lát nền, 1m3 trát tường… từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc công
tác xây lắp.
Định mức dự toán xây dựng cơ bản do Bộ Xây Dựng nghiên cứu và ban
hành áp dụng thống nhất trong cả nước.
Định mức dự toán bao gồm:
 Mức hao phí vật liệu: là mức quy định về sử dụng khối lượng vật liệu cần
thiết cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng công tác xây lắp (không kể vật
liệu phụ cần dùng cho máy móc, phương tiện vận chuyển và những vật liệu chi
trong khoản chi phí chung).


14
Số lượng vật liệu trong các bảng quy định mức bao gồm vật liệu chính, vật
liệu phụ và có tính đến tỷ lệ hao hụt qua các khâu thi công và luân chuyển theo quy
định của Nhà nước. Định mức vật liệu chính và vật liệu phụ được xác định bằng
khối lượng hao phí, định mức vật liệu khác được xác định bằng tỷ lệ phần trăm so
với vật liệu phụ. Trong thực tế tùy theo điều kiện thi công cụ thể có thể thay thế một
số vật liệu tương tự, số lượng vật liệu thay thế căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật, tính
chất vật liệu mà quy đổi tương đương.
Đối với một số công tác xây lắp trong bảng định mức không ghi “Vật liệu
chính” thì được tính cụ thể theo thiết kế (nếu có hao hụt thì tính theo tỷ lệ được quy
định hiện hành của Nhà nước)
 Mức hao phí lao động: là ngày công lao động tương ứng với cấp bậc công
việc quy định để hoàn thành khối lượng công tác xây lắp, trong mức đã bao gồm

công của lao động trực tiếp thực hiện công tác xây lắp và công của lao động phục
vụ xây lắp (vận chuyển bốc dỡ vật liệu, bán thành phẩm, lắp đặt, cài đặt, đã thử
trong phạm vi mặt bằng xây lắp)
Mức hao phí lao động trong bảng định mức (tính theo cấp bậc thợ, kỹ sư
bình quân) đã bao gồm cả lao động chính phụ (kể cả công tác chuẩn bị, kết thúc, thu
dọn hiện trường thi công)
 Mức hao phí máy thi công: là mức quy định số ca máy thi công trực tiếp
cần thiết phục vụ xây lắp tùy theo loại công tác xây lắp
1.2.3. Lập dự toán
Lập dự toán là chức năng không thể thiếu được đối với các nhà quản lý hoạt
động trong môi trường cạnh tranh ngày nay. Đặc biệt, trong DNXL thì việc lập Dự
toán có thể nói là quan trọng hàng đầu, bởi vì giá bỏ thầu để xây dựng các công
trình, hạng mục công trình đều phải dựa trên cơ sở dự toán.
Dự toán xây dựng được xác định trên cơ sở khối lượng các loại công tác xây lắp
tính toán từ bản vẽ kỹ thuật hoặc bản vẽ thi công, đơn giá xây dựng cơ bản do Liên
Sở Tài chính - Xây dựng thông báo hoặc đơn giá công trình đối với những công
trình được lập đơn giá riêng, định mức các chi phí tính theo tỷ lệ% do Bộ Xây Dựng
ban hành, và các chế độ chính sách của nhà nước có liên quan. Dự toán chi phí xây
dựng bao gồm chi phí trực tiếp (CPNVLTT, CPNCTT, CPSDMTC và chi phí trực
tiếp khác); chi phí chung; chi phí QLDN; Chi phí bán hàng; thu nhập chịu thuế tính


15
trước; thuế giá trị gia tăng và chi phí nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi
công.
1.2.3.1 Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được lập dựa trên cơ sở dự toán
khối lượng xây lắp, định mức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chênh lệch vật
liệu (nếu có)


Dự toán chi
phí nguyên
vật liệu trực

= ∑

(

J=1

tiếp

Định mức chi

Dự toán khối

m

lượng

công

x

tác xây lắp
thứ j

phí vật liệu của
công tác xây lắp


Chênh
)

+

thứ j

lệch
VL(nếu
có)

1.2.3.2. Dự toán chi phí nhân công trực tiếp
Dự toán chi phí nhân công trực tiếp được xây dựng từ dự toán khối lượng công tác
xây lắp, định mức thời gian xây dựng và định mức theo đơn giá giờ công trực tiếp.

Dự toán chi
phí

nhân

công

trực

tiếp

m
=∑ (
J=1


Định mức thời

Dự toán khối
lượng

công

tác xây lắp

x

thứ j

gian xây dựng
công tác xây
lắp thứ j

Định
x

mức

theo đơn giá
gia công trực

)

tiếp

1.2.3.3. Dự toán chi phí sử dụng máy thi công

Dự toán chi phí máy thi công được lập dựa trên cơ sở dự toán khối lượng công tác
xây lắp, định mức chi phí máy thi công và hệ số điều chỉnh chi phí máy thi công.
Dự toán chi

m

phí máy thi = ∑ (
công

J=1

Dự

khối lượng
công tác xây
lắp thứ j

Định

toán
x

mức

chi

phí máy thi công
của công tác xây
lắp thứ j


Hệ số điều
x chỉnh

phí )

máy thi công

Ngoài 3 khoản mục chi phí trên thì chi phí trực tiếp còn bao gồm chi phí trực
tiếp khác đó là chi phí cho những công tác cần thiết phục vụ trực tiếp việc thi công
xây dựng công trình như di chuyển lực lượng lao động trong nội bộ công trường, an


16
toàn lao động, bảo vệ môi trường cho người lao động, chi phí bơm nước, vét bùn,
thí nghiệm vật liệu,... không xác định được khối lượng từ thiết kế.
Dự toán chi
phí trực tiếp = 0.15% X
khác

(

Dự

toán

chi

phí

nguyên

vật liệu

Dự
+

toán

chi

phí +

nhân công

Dự toán chi
phí máy thi )
công

1.2.3.4. Dự toán chi phí chung
Chi phí chung bao gồm chi phí điều hành sản xuất tại công trường, chi phí
phục vụ công nhân, chi phí phục vụ thi công tại công trường và một số chi phí khác.
Chi phí chung được tính bằng tỷ lệ phần trăm %) trên chi phí trực tiếp hoặc bằng tỷ
lệ phần trăm %) trên chi phí nhân công trong dự toán đối với từng loại công trình.
Đối với hạng mục công trình tương ứng với từng loại công trình thì mỗi hạng mục
công trình đó được coi như một công trình độc lập và được áp dụng định mức tỷ lệ
chi phí chung theo loại hình công trình phù hợp. Trong trường hợp các dự án có
nhiều hạng mục xây lắp thì sau khi xác định chi phí chung cho toàn bộ dự án sẽ
phân bổ chi phí chung của toàn bộ dự án cho từng hạng mục theo tỷ trọng chi phí
trực tiếp của từng hạng mục công trình.
Dự toán chi
phí chung


=

Định mức chi phí chung
(tính theo tỷ lệ %)

x

Chi phí
trực tiếp

( Theo TT01/1999/TT-BXD ngày 16/01/1999 và tỷ lệ hiện nay là: 0,58)
1.2.3.5. Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên
quan đến quản trị kinh doanh và quản trị hành chính trong phạm vi toàn doanh
nghiệp mà không tách được cho bất cứ hoạt động hay phân xưởng, công trình nào.
Chi phí bán hàng là toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản
phẩm, hàng hoá dịch vụ trong kỳ, cụ thể như: chi phí quảng cáo, chi phí lương cho
nhân viên bán hàng (bán chung cư, bán nhà liên kế, cho thuê văn phòng...), chi phí
điện nước, điện thoại...
Khi lập dự toán được tính bằng tỷ lệ phần trăm %) trên chi phí trực tiếp hoặc bằng
tỷ lệ phần trăm %) trên chi phí nhân công trong dự toán đối với từng loại công


17
trình. Hoặc xây dựng dự toán theo đặc thù từng dự án, như: dự án chung cư, dự án
cao ốc cho thuê, .... thì mức dự toán được áp dụng khác nhau.
1.2.4. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1.2.4.1. Các phương pháp tập hợp chi phí sản phẩm xây lắp
a. Phương pháp xác định chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công

trình: chi phí sản xuất liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì tập hợp
cho công trình, hạng mục công trình đó.
b. Phương pháp xác định chi phí theo đơn đặt hàng: các chi phí sản xuất phát
sinh liên quan đến đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân bổ cho đơn đặt hàng
đó.

hi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng số chi phí phát sinh theo đơn đặt hàng kể từ

khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
c. Phương pháp xác định chi phí theo đơn vị hoặc khu vực thi công: phương
pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán.
Đối tượng xác định chi phí là các bộ phận, đơn vị thi công như tổ đội sản xuất hay
các khu vực thi công. Trong từng đơn vị thi công lại được tập hợp theo từng đối
tượng tập hợp chi phí như hạng mục công trình. Trong các DNXL, mỗi đối tượng
có thể áp dụng một hoặc một số phương pháp xác định chi phí trên. Nhưng trên
thực tế có một số yếu tố chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng, do đó phải
tiến hành phân bổ các khoản chi phí này một cách chính xác và hợp lý cho từng đối
tượng.
1.2.4.2. Xác định giá thành sản phẩm xây lắp
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động
sản xuất, quản lý của doanh nghiệp, kết quả sử dụng các loại vật tư, lao động, tiền
vốn cũng như các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp thực hiện nhằm đạt
mục đích sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí thấp nhất.
Vì vậy việc xác định giá phí sản phẩm, công việc, dịch vụ hoàn thành....có ý
nghĩa rất quan trọng đối với các báo cáo của doanh nghiệp sau một kỳ hoạt động.
Ngoài ra giá phí sản phẩm cũng có ý nghĩa quan trọng đối với các quyết định của
nhà quản trị. Đối với DNXL, thì việc xác định giá phí sản phẩm là cơ sở để nhà
quản trị ra quyết định giá bỏ thầu. Kế toán quản trị chi phí có nhiều phương pháp đo
lường chi phí cho sản phẩm sản xuất: một số phương pháp như sau: phương pháp
chi phí thực tế, phương pháp chi phí thông thường, phương pháp chi phí trực tiếp.



18
a. Phương pháp chi phí thực tế
Chi phí thực tế: là toàn bộ chi phí thực tế mà đơn vị bỏ ra để hoàn thành khối
lượng xây lắp theo số liệu kế toán. Nó không chỉ bao gồm chi phí trong định mức
mà còn có thể bao gồm những chi phí phát sinh không cần thiết như: thiệt hại phá đi
làm lại, thiệt hại ngưng sản xuất, hao hụt vật tư,...do những nguyên nhân chủ quan
của doanh nghiệp. Giá thành thực tế là chỉ tiêu sau khi kết thúc quá trính sản xuất
sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung khi thực
tế phát sinh được phản ánh tương ứng trên các tài khoản này. Cuối kỳ kết chuyển
toàn bộ số phát sinh trên các tài khoản chi phí đó sang T

chi phí sản xuất kinh

doanh dở dang. Đối với CPNVLTT và CPNCTT, CPSDMTC khi phát sinh thì tập
hợp ngay trong kỳ. Tuy nhiên khoản mục chi phí sản xuất chung thường chỉ tập hợp
đầy đủ vào cuối kỳ do chứng từ về các dịch vụ mua ngoài điện, nước, viễn thông...)
chưa về đến doanh nghiệp. Do nhà quản trị cần thông tin về giá phí sản phẩm để
đưa ra quyết định kịp thời như quyết định nhanh về chấp nhận các đơn chào hàng từ
khách hàng hoặc quyết định giá bỏ thầu. Thực tế này đòi hỏi kế toán phải có một
cách thức xử lý chi phí sản xuất chung kịp thời để tính nhanh giá thành sản phẩm.
b. Phương pháp chi phí kế hoạch
Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trên cơ sở giá thành dự toán
gắn với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp như biện pháp thi công, các định mức,
đơn giá áp dụng trong đơn vị, giá thành thực tế kỳ trước. Giá thành kế hoạch được
lập dựa vào định mức chi phí nội bộ của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, định mức
nội bộ này phải tiên tiến hơn định mức dự toán. Vì vậy, giá thành kế hoạch phải nhỏ

hơn hoặc bằng giá thành hợp đồng, nên giá thành kế hoạch là cơ sở để phấn đấu hạ
giá thành trong giai đoạn kế hoạch và đây cũng thường là căn cứ để đấu thầu công
trình. Đây cũng là căn cứ phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp.
Giá thành kế hoạch
công tác xây lắp

=

Giá thành dự toán
công tác xây lắp

c. Phương pháp chi phí trực tiếp

-

Mức

hạ

thành dự toán

giá


19
Giá thành sản phẩm sản xuất bao gồm CPNVLTT, CPNCTT, chi phí sử dụng
máy thi công và biến phí sản xuất chung. Phương pháp này có ích cho việc đánh giá
hiệu quả hoạt động của nhà quản lý. Và đặc biệt quan trọng trong việc phân tích chi
phí để có quyết định hợp lý cho hoạt động kinh doanh.
1.2.5. Phân tích biến động chi phí và kiểm soát chi chí

Biến động chi phí là chênh lệch giữa chi phí thực tế và chi phí định mức. Chi
phí phát sinh thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với định mức ban đầu, điều
này tạo nên sự biến động chi phí so với định mức. Biến động có thể là bất lợi khi
chi phí thực tế cao hơn chi phí định mức hoặc có lợi khi chi phí thực tế thấp hơn chi
phí định mức.
Mọi sự biến động của các khoản mục chi phí đầu vào được tác động bởi
nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, trong đó có hai nhân tố chi phối phần lớn sự
biến động đó là nhân tố lượng và nhân tố giá. Các nhà quản lý phải tập trung xây
dựng lượng định mức và giá định mức cho mỗi khoản chi phí đầu vào nhằm làm cơ
sở để tính sự biến động của các khoản mục chi phí khi so sánh số thực tế phát sinh
so với định mức.
Công cụ để kiểm soát chi phí là các báo cáo kiểm soát chi phí. Để đánh giá
hiệu quả kinh tế tại các trung tâm chi phí đòi hỏi kỹ thuật phân tích các khoản biến
động chi phí như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi
phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý. Đồng thời xác định các
nguyên nhân chủ quan khách quan tác động đến tình hình thực hiện định mức chi
phí.
1.2.5.1. Kiểm soát biến động chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kiểm soát biến động chi phí NVL trực tiếp (nguyên liệu, vật liệu chính và
vật liệu phụ) gắn liền với các nhân tố giá và lượng liên quan.
+ Biến động giá: Là chênh lệch giữa giá NVT trực tiếp thực tế với giá NVL
trực tiếp Dự toán để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định. Nếu tính trên một đơn vị
sản phẩm thì nó phản ánh giá cả của một đơn vị NV để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm đã thay đổi như thế nào so với Dự toán. Biến động về giá được xác định:


20
Ảnh hưởng về

Đơn


giá

giá đến biến động = (

NVL

NVL trực tiếp

tiếp thực tế

trực -

Đơn giá NV

ượng

NVL

trực tiếp dự ) x

trực tiếp thực

toán

tế sử dụng

+ Biến động về lượng: Là chênh lệch giữa lượng NVL trực tiếp thực tế với
lương NV trực tiếp Dự toán để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định. Biến động
về lượng là phản ánh tiêu hao vật chất thay đổi như thế nào và ảnh hưởng đến tổng

chi phí NVL trực tiếp ra sao. Biến động về lượng được xác định:

Ảnh

hưởng

lượng

đến

về
biến

động NVL trực

ượng NVL
=(

tiếp

trực

tiếp -

thực tế

ượng

NVL


Đơn giá NV

trực tiếp dự ) x

trực tiếp dự

toán sử dụng

toán

Ảnh hưởng biến động về lượng do khâu tổ chức sản xuất, mức độ hiện đại
của công nghệ, trình độ công nhân, chất lượng NVL mua vào, thiên tai, hỏa hoạn,
mất điện.
1.2.5.2 Kiểm soát biến động chi phí lao động trực tiếp:
Kiểm soát biến động chi phí nhân công trực tiếp gồm chi phí lương của công
nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, dịch vụ gắn liền với các nhân tố giá và lượng liên
quan.
+ Nhân tố giá: Là chênh lệch giữa giá giờ công lao động trực tiếp thực tế với
giá Dự toán để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định, nhân tố này phản ánh sự thay
đổi về giá của giờ công lao động để sản xuất sản phẩm ảnh hưởng đến chi phí nhân
công trực tiếp.
Ảnh hưởng về giá

Đơn giá nhân

đến biến động chi phí = ( công trực tiếp
nhân công trực tiếp

thực tế


Đơn giá nhân
- công trực tiếp ) x
dự toán

Thời gian
lao động
thực tế

Ảnh hưởng của nhân tố giá do các nguyên nhân như chế độ lương, chính
sách nhà nước, thị trường cung cầu lao động. Nếu ảnh hưởng tăng giảm) giá còn
thể hiện sự lãng phí hay tiết kiệm chi phí nhân công trực tiếp, việc kiểm soát chi phí


21

Ảnh hưởng của thời

Thời gian

gian lao động đến biến = ( lao động
chi phí NC trực tiếp

thực tế

-

Thời

gian


Thời gian nhân

lao

động ) x

công trực tiếp

theo dự toán

dự toán

nhân công trực tiếp cho phép ta làm rõ bộ phận chịu trách nhiệm, làm ảnh hưởng
đến công tác quản lý chi phí và giá thành.
+ Nhân tố lượng: Là chênh lệch giữa số giờ công lao động trực tiếp thực tế
với Dự toán để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định, nhân tố này phản ánh sự
thay đổi về giờ công để sản xuất sản phẩm ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực
tiếp hay còn gọi là nhân tố năng suất.

Ảnh hưởng của nhân tố thời gian do các nguyên nhân như trình độ và năng
lực của người lao động, điều kiện trang bị máy móc thiết bị, chính sách lương của
DN. Biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đến chi phí sản xuất có
thể do chính quá trình sản xuất của DN, do biến động của các yếu tố bên ngoài DN.
1.2.5.3 Kiểm soát biến động của chi phí sản xuất chung:
Chi phí SXC biến động là do sự biến động của định phí và biến phí SXC:
Biến động chi phí SXC = Biến động định phí SXC + Biến động biến phí SXC
Kiểm soát biến động biến phí SXC:
Biến phí SXC gồm những chi phí gián tiếp liên quan đến phục vụ và quản lý
hoạt động sản xuất. Chi phí này thường thay đổi theo sự biến thiên của mức độ hoạt
động sản xuất của DN như: chi phí vật tư gián tiếp, tiền lương bộ phận QL trả theo

sản phẩm gián tiếp, chi phí năng lượng thay đổi theo số lượng sản phẩm SX.
Có 2 nhân tố ảnh hưởng đến biến phí SXC: là nhân tố giá và nhân tố lượng.
Ảnh hưởng của yếu tố giá đến biến phí SXC là do sự thay đổi của các mức
chi phí được xem là biến phí SXC. Sự thay đổi này do các nguyên nhân như đơn giá
mua vật tư gián tiếp, chi phí thu mua thay đổi, sự biến động giá cả chung của thị
trường, nhà nước thay đổi mức lương. Ảnh hưởng của nhân tố giá được xác định:


22
Ảnh hưởng của

Đơn

giá

giá đến biến phí = (

biến phí dự

SXC

toán

-

Đơn

giá

biến


phí ) x động biến phí

thực tế

Mức độ hoạt

SXC

Ảnh hưởng của nhân tố lượng do nguyên nhân điều kiện TTB không phù hợp
phải giảm lượng sản xuất hay dẫn đến năng suất máy móc thiết bị giảm, thay đổi
sản xuất theo yêu cầu kinh doanh của DN. Ảnh hưởng của nhân tố lượng:
Ảnh

hưởng

của

lượng đến biến phí = (
SXC thực tế

Mức

hoạt

động dự toán

Mức
-


hoạt

động SXC ) x

Đơn

gía

biến phí

dự toán

- Kiểm soát biến động định phí chi phí sản xuất chung:
Định phí SXC là những khoản chi phí phục vụ và quản lý sản xuất thường
không thay đổi theo sự biến thiên của mức độ hoạt động trong phạm vi phù hợp
gồm tiền lương bộ phận quản lý phân xưởng trả theo thời gian, chi phí bảo hiểm,
tiền thuê mặt bằng, khấu hao TSCĐ. Biến động định phí chung thường liên quan
đến việc thay đổi cấu trúc của DN hoặc do hiệu quả sử dụng năng lực sản xuất của
DN. Kiểm soát định phí SXC nhằm đánh giá việc sử dụng năng lực TSCĐ.
Biến động định phí SXC

= Định phí SXC thực tế - Định phí SXC Dự toán

Khi phân tích định phí SXC người ta xem xét định phí tùy ý, định phí bắt
buộc, định phí kiểm soát và không kiểm soát được để biết rõ nguyên nhân.
* Biến động chi phí sản xuất được gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ví dụ, biến động hiệu suất lao động trực tiếp có thể do công nhân thiếu kinh
nghiệm, công nhân làm việc kém hiệu quả, chất lượng nguyên liệu không tốt, máy
móc thiết bị bảo trì kém, công nhân lơ đễnh trong quá trình sản xuất, hoặc nhiều
nguyên nhân khác. Ngoài những nguyên nhân chủ quan kể trên, biến động chi phí

có thể do những nguyên nhân ngẫu nhiên. Ví dụ biến động hiệu suất lao động có thể
do tinh thần của công nhân không được tốt, công nhân bị mệt mỏi, hoặc bị ảnh
hưởng bởi sự thay đổi thời tiết,… Các nhà quản lý không có nhiều thời gian để
kiểm tra và xác định nguyên nhân của tất cả các biến động. Phương pháp quản lý


23
theo ngoại lệ sẽ giúp nhà quản lý tập trung thời gian và nổ lực vào việc kiểm soát
các biến động có ý nghĩa. Để xác định một biến động khi nào cần được kiểm soát,
khi nào thì bỏ qua nhà quản lý sẽ xem xét:
* Độ lớn của biến động: Nhà quản lý thường quan tâm đến những biến
động có giá trị lớn về cả số tuyệt đối lẫn số tương đối. Số tương đối của biến động
cung cấp thông tin tốt hơn cho nhà quản lý trong việc kiểm soát.
* Tần suất xuất hiện biến động: Những biến động lặp đi lặp lại liên tục cần
được kiểm soát chặt chẽ hơn những biến động thỉnh thoảng mới phát sinh.
* Xu hướng của biến động: Những biến động có xu hướng tăng dần theo
thời gian là những biến động cần xác định nguyên nhân và kiểm soát.
* Khả năng kiểm soát được biến động: Những biến động mà những người
bên trong tổ chức có khả năng kiểm soát được thì cần tiến hành kiểm soát hơn
những biến động mà tổ chức không có khả năng kiểm soát. Ví dụ, khi mức giá
nguyên liệu tăng do sự biến động giá của thị trường thì nằm ngoài khả năng kiểm
soát của nhà quản lý.
1.2.5.4. Kiểm soát biến động của chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán
hàng:
Chi phí QLDN, chi phí bán hàng có những khoản mục rất đa dạng và khó
kiểm soát hết và đôi khi không có chứng từ gốc để xác minh. Vì vậy cần có những
qui chế cụ thể cho từng loại chi phí để tiến hành so sánh, đánh giá từng loại chi phí
ở từng thời kỳ để tìm ra biến động bất thường nếu có.
Chi phí QLDN là chi phí hỗn hợp mà hầu hết là định phí. Trong đó có định
phí bắt buộc và định phí tùy ý.

Định phí bắt buộc như lương và các khoản trích theo lương của bộ phận gián
tiếp... mà ở nhân tố này cũng có biến động, nhưng không thường xuyên và không
đáng kể như việc tăng giảm nhân sự theo nhu cầu sự phát triển của xã hội, của
Doanh nghiệp và yếu tố con người.
Định phí tùy ý như vật liệu quản lý, đồ dùng văn phòng, dịch vụ mua ngoài
bằng tiền khác.., ở nhân tố này ảnh hưởng nhiều hơn so với nhân tố định phí bắt
buộc là vì nó có ẩn chứa sự biến động về lượng và giá.
Biến động định phí Q DN = Định phí QLDN thực tế - Định phí QLDN Dự
toán


24
Từ sự đa dạng của chi phí QLDN nên biến động định phí Q DN cũng rất
nhiều nguyên nhân kể cả chủ quan và khách quan, tăng hay giảm mà Nhà quản lý
cần phát huy hay chấn chỉnh để đem lại hiệu quả cho DN. Sự biến động ở khoản
mục chi phí QLDN này nhà quản lý xem xét kiểm soát những biến động có ý nghĩa,
khi nào cần kiểm soát, khi nào thì bỏ qua.
Chi phí bán hàng cũng tương tự như chi phí quản lý doanh nghiệp, nhưng
biến phí thường cao hơn như: chi phí hoa hồng, chi phí điện thoại phát sinh.. và các
loại chi phí quảng cáo. Vì vậy các nhà quản trị phải thường xuyên xem xét kiểm
soát biến động.
1.3. Tổ chức kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp
1.3.1. Tổ chức hệ thống thông tin đầu vào( chứng từ)
Các chứng từ kế toán ban đầu sử dụng phải thích hợp với từng loại nghiệp vụ
kinh tế tài chính phát sinh ở doanh nghiệp để có thể ghi nhận được đầy đủ thông tin
nội dung nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Các doanh nghiệp đều phải sử dụng
hệ thống chứng từ kế toán bắt buộc để phục vụ TTC, đồng thời có thể thiết kế các
chứng từ chi tiết phù hợp, phản ánh đầy đủ các yếu tố, nội dung để phục vụ cho việc
thu nhận, xử lý, hệ thống hoá thông tin và lập được báo cáo KTQT chi phí, giá
thành theo yêu cầu quản lý nội bộ doanh nghiệp.

Tiếp theo cần quy định việc ghi nhận thông tin của từng loại nghiệp vụ kinh
tế tài chính phản ánh vào chứng từ. Sau đó, phải tổ chức luân chuyển chứng từ khoa
học, hợp lý.
Khi chứng từ được chuyển đến phòng kế toán, việc đầu tiên kế toán cần thực
hiện là kiểm tra tính hợp lệ, hợp lý và hợp thức của chứng từ. Kế toán có thể ghi
đầy đủ thêm các yếu tố liên quan hoặc từ chối không nhận chứng từ bất hợp lý.
Chứng từ hợp lý, hợp lệ là yếu tố quan trọng đầu tiên đảm bảo cho số liệu kế toán
đáng tin cậy.
1.3.2. Tổ chức hệ thống phân loại và xử lý thông tin
Các doanh nghiệp thường đứng trước nhiều phương án khác nhau. Mỗi
phương án gắn liền với mỗi tình huống, với số lượng, chủng loại, các khoản mục
chi phí, thu nhập khác nhau liên quan, đòi hỏi kế toán quản trị cũng phải được tổ
chức để có thể cung cấp các thông tin cụ thể này. Vì vậy quá trình phân tích, phân


25
loại và xử lý thông tin trong doanh nghiệp là rất quan trọng. Đây là quá trình tiến
hành phân tích, phân loại, đánh giá dựa trên các thông tin đã thu nhận được, để đưa
ra các chỉ tiêu phù hợp và cần thiết. Đây là công đoạn quan trọng nhất của một hệ
thống thông tin, nó sẽ quyết định chất lượng đầu ra của một hệ thống. Nếu thông tin
được xử lý tốt và chính xác, thì các thông tin đầu ra sẽ là những thông tin hữu ích
giúp cho doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn. Ngược lại, nếu thông tin
không được xử lý chính xác thì thông tin đầu ra không những không giúp được cho
các nhà quản trị trong công tác ra quyết định mà thậm chí còn khiến các quyết định
được ban hành một cách sai lầm dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Sau khi xử lý và phân tích tổng hợp các thông tin liên quan đến các chỉ tiêu
quản lý, kế toán quản trị phải đảm bảo cung cấp thông tin cho nhà quản lý theo từng
tình huống cụ thể, nhận xét, đánh giá và trình bày ý kiến cho từng phương án. Việc
ra quyết định lựa chọn phương án tốt nhất thuộc về quyền của người lãnh đạo cao
nhất trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, họ phải tham khảo các ý kiến khác nhau đã

được trình bày trong các báo cáo kế toán quản trị. Vì vậy, lựa chọn phương án đúng
hay không phụ thuộc rất nhiều vào quá trình thu thập, xử lý và cung cấp thông tin
của kế toán quản trị.
1.3.3. Tổ chức hệ thống thông tin đầu ra
Báo cáo kế toán quản trị là kết quả đầu ra của công tác kế toán quản trị chi
phí, Báo cáo kế toán quản trị chi phí là loại báo cáo kế toán phản ánh một cách chi
tiết, cụ thể tình hình chi phí của doanh nghiệp theo yêu cầu quản lý của các cấp
quản trị khác nhau trong doanh nghiệp để ra các quyết định quản lý kinh doanh.
Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí của một doanh nghiệp thường bao
gồm các loại báo cáo sau:
- Báo cáo Dự toán phục vụ cho chức năng lập kế hoạch: Báo cáo Dự toán là
rất cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp. Báo cáo Dự toán là một kế hoạch hành
động, nó lượng hoá các mục đích của tổ chức theo các mục tiêu về tài chính và hoạt
động của doanh nghiệp. Cùng với chức năng hệ thống hoá việc lập kế hoạch, các
thông tin trên báo cáo Dự toán cũng đưa ra những tiêu chuẩn cho việc đánh giá kết
quả hoạt động, hoàn thiện sự truyền tải thông tin và sự hợp tác trong nội bộ tổ chức
.


×