Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tổng quan về chính phủ điện tử việt nam và so sánh với dịch vụ công của một số nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.23 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
…..o0o…..

BÀI THẢO LUẬN
Môn: Thương Mại Điện Tử
Đề tài: Tổng quan về Chính Phủ Điện Tử Việt Nam
và so sánh với dịch vụ công của một số nước trên thế giới

Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Lớp học phần: Thương mại điện tử(111)_1

Hà Nội, tháng 09/2011


DANH SÁCH NHÓM 3
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ(111)_1
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

HỌ VÀ TÊN


Nguyễn Anh Tuấn
Nguyễn Thị Thu Hoài
Nguyễn Thị Thu Hà
Nguyễn Văn Khiêm
Vũ Anh Phương
Vũ Tiến Đạt
Bùi Thị Hà Anh
Đinh Thị Ngọc Thúy
Lê Thị Xuân
Phan Hữu Đức
Trần Thu Phương

MÃ SV
CQ502882
CQ503662
CQ500650
CQ502094
CQ500099
CQ503109

Mục lục

GHI CHÚ
Nhóm trưởng


I.

Khái niệm,vai trò, chức năng, phân loại Chính Phủ
Điện Tử

1) Khái niệm về CPĐT
2) Vai trò của CPĐT trong nền kinh tế quốc dân
3) Chức năng của CPĐT
4) Phân loại CPĐT

II.

Các tiêu chí khi đề cập đến CPĐT

III.

Những thành tự và hạn chế của CPĐT Việt Nam

IV.

Mục tiêu của CPĐT Việt Nam
1) Năm mục tiêu của CPĐT
2) Mục tiêu của CPĐT Việt Nam đến năm 2020

V.

Dịch vụ công của một số nước trên thế giới

I.

Khái niệm, vai trò, chức năng, phân loại chính phủ
điện tử Việt Nam

1) Khái niệm Chính phủ điện tử



Cũng như thương mại điện tử, có nhiều cách định nghĩa về Chính phủ điện tử
(CPĐT), tuỳ vào từng góc nhìn của người định nghĩa:
- CPĐT là khái niệm về việc các cơ quan chính phủ sử dụng công nghệ
thông tin (CNTT) như : Mạng diện rộng, Internet, các phương tiện di
động để quan hệ với công dân, giới doanh nghiệp và bản thân các cơ
quan của chính phủ.
- Chính phủ Điện tử (CPĐT) là tên gọi của một chính phủ mà mọi hoạt
động của nhà nước được "điện tử hóa", "mạng hóa". Tuy nhiên, chính
phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng Internet; mà là sự đổi
mới toàn diện các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công
dân), các nguồn lực, các quy trình, phương thức hoạt động và bản thân
nội dung các hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương, và
ngay cả các quan niệm về các hoạt động đó.
- Chính phủ Điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
(ICT) để các cơ quan của Chính quyền từ trung ương và địa phương đổi
mới, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông
tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; và tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham
gia quản lý Nhà nước.
2) Vai trò của chính phủ điện tử trong nền kinh tế quốc dân
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, song có thể hiểu một cách đơn
giản: CPĐT là sự ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông để các cơ quan
chính phủ đổi mới, làm việc hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn, cung cấp
thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ của
mình trong việc tham gia quản lý nhà nước. Nói cách ngắn gọn, CPĐT là chính


phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ tốt hơn trên cơ sở ứng

dụng công nghệ thông tin – truyền thông.
CPĐT với các vai trò:
- Thứ nhất, CPĐT đã đưa chính phủ tới gần dân và đưa dân tới gần chính
phủ.
- Thứ hai, CPĐT làm minh bạch hóa hoạt động của chính phủ, chống
tham nhũng, quan liêu, độc quyền
- Thứ ba, CPĐT giúp chính phủ hoạt động có hiệu quả trong quản lý và
phục vụ dân
3) Chức năng của Chính phủ điện tử
Ba chức năng của chính phủ điện tử
Phân loại

Chức năng

Hiệu quả kỳ vọng

- Trao đổi điện tử các văn
Công việc nội
bộ chính phủ

bản hành chính
- Ký duyệt điện tử
- Đưa vào hệ thống hội
nghị viễn thông
- Sử dụng chung thông tin

- Giảm các tổ chức và thủ tục.
- Xử lý công việc nhanh hơn.
- Do đó tính sản xuất được nâng
cao.


chính phủ
- Tiếp nhận và giải quyết

- Xử lý các giấy tờ của dân mà

các giấy tờ của dân qua

không cần đến trực tiếp cơ

mạng công nghệ thông
Giấy tờ của
dân

tin
- Có khả năng xử lý một

lý nhanh hơn.
lần nhiều giấy tờ của dân - Dịch vụ giải quyết giấy tờ của
dân của chính phủ được cải
có liên quan đến nhiều
phòng ban

Sự thông suốt

quan hành chính.
- Các thắc mắc của dân được xử

- Thông tin hai chiều giữa


tiến rõ rệt.
- Một ‘chính phủ mở’ với việc


chính phủ và nhân dân
- Cung cấp một cách
nhanh chóng và tiện lợi
giữa nhân dân

các thông tin về chính

và chính phủ

phủ
- Phản ánh nhanh chóng
quyết định và chính sách

giao lưu tự do và nhanh chóng
giữa chính phủ và nhân dân
được thực hiện.
- Tính minh bạch của chính phủ
được cải thiện đáng kể.

của chính phủ
4) Phân loại
Loại hình chính phủ điện tử có rất nhiều kiểu phân loại: dựa vào mối tương
quan chức năng; nội dung, quy trình; mức độ tương tác vốn có trong các dịch
vụ được cung cấp…. Dựa vào mối tương quan chức năng thì chính phủ điện tử
thì có 4 dạng dịch vụ chính phủ bao gồm:
- Chính phủ với Công dân (G2C): bao gồm phổ biến thông tin

với công chúng, các dịch vụ công dân cơ bản như gia hạn giấy phép, cấp giấy
khai sinh/ khai tử/ đăng ký kết hôn và kê khai các biểu mẫu nộp thuế thu nhập
cũng như hỗ trợ người dân đối với các dịch vụ cơ bản như giáo dục, chăm sóc
y tế, thông tin bệnh viện, thư viện và rất nhiều dịch vụ khác.
- Chính phủ với doanh nghiệp (G2B): bao gồm nhiều dịch vụ
khác nhau được trao đổi giữa chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp bao gồm
các việc phổ biến các chính sách, biên bản ghi nhớ, các quy định và thể chế.
• Truy xuất các thông tin về kinh doanh, tải các mẫu đơn, gia hạn giấy
phép, đăng ký kinh doanh, xin phép và nộp thuế.
• Ở mức cao hơn bao gồm cả việc mua sắm điện tử và trao đổi trực tuyến
giữa chính phủ với các nhà cung cấp để mua sắm hàng hóa và dịch vụ
cho Chính phủ
- Chính phủ với người lao động (G2E): bao gồm cả các dịch


vụ G2C và các dịch vụ chuyên ngành khác dành riêng cho các công chức
Chính phủ như việc cung cấp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực qua đó cải
tiến các chức năng hành chính hằng ngày cũng như cách thức giải quyết công
việc với người dân.
- Chính phủ với Chính phủ (G2G): được triển khai ở 2 cấp độ
• Địa phương/ trong nước: các giao dịch giữa chính phủ trung ương/ quốc
gia và các chính quyền địa phương, giữa các vụ và các công ty cơ quan
có liên quan.
• Quốc tế: là các giao dịch giữa các Chính phủ, có thể đc sử dụng như
một công cụ của các mối quan hệ quốc tế và ngoại giao

II.

Các tiêu chí khi đề cập chính phủ điện tử


1. Định hướng công dân và dễ dùng: các dịch vụ trực tuyến 24/7/365, dễ
hiểu, dễ dùng, truy cập thông tin nhanh.
2. Có tinh thần trách nhiệm và định hướng kết quả: kết quả cần nhanh
chóng, chính xác, trọn vẹn, một cửa.
3. Nhiều khả năng truy cập: Có thể truy cập vào các mạng dịch vụ của
chính phủ bằng nhiều cách, tại nhiều địa điểm.
4. Tính cộng tác: Chính phủ diện tử phải được thiết kế, xây dựng và trieebr
khai dựa trên cơ sở hợp tác phối hợp giữa chính phủ và cá nhân các
công dân.
5. Tính đổi mới: Chính phủ điện tử không phải chỉ đơn thuần là ứng dụng
công nghệ, là website và các chuyển giao các dịch vụ trên đó mà còn
phải tính đến việc cải tiến quy trình công tác và tổ chức bộ máy.
6. Chi phí hợp lý: Giảm bớt chi phí cho bộ máy chính phủ.
7. An toàn và riêng tư cá nhân


III. Những thành tự và hạn chế của Chính phủ điện tử Việt Nam
1. Chủ trương và chính sách Nhà nước
- Rất chú trọng phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin và truyền
thông.
- Ban hành nhiều văn bản pháp quy (49/CP, 58, 112...) và tổ chức các
hoạt động, hội thảo liên quan.
- Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ký hiệp định khung ASEAN điện tử
cam kết triển khai Chính phủ điện tử tại Việt Nam theo lộ trình của ASEAN.
2. Thành tựu
Những thành tựu đạt được của chính phủ điện tử trong những năm gần đây.
- Năm 2010 được coi là một mốc quan trọng trong việc triển khai Chính
phủ điện tử (CPĐT) tại Việt Nam. Cùng với việc việc triển khai Quyết
định số 48/2009/QD-TTg về "Ứng dụng CNTT- TT trong các cơ quan
Nhà nước giai đoạn 2009-2010" và tổng kết thực hiện Chỉ thị số 58/CTTW của Bộ Chính trị,. Đây là một phần trong cam kết của Chính phủ

Việt Nam trong kế hoạch đưa Việt Nam thành một quốc gia mạnh về
CNTT.
- Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, năm 2010, Việt Nam đứng thứ 90
trong tổng số 192 nước điều tra về ứng dụng CNTT trong khu vực công,
tăng 1 bậc so với năm 2008, và đứng thứ 6/10 trong khu vực ASEAN.
- Sau gần 4 năm phát triển, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã trở
thành kênh cung cấp thông tin chính thống của Chính phủ trên Internet;
đem lại nhiều tiện ích cho các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp (DN);
hình thành nhịp cầu trực tuyến gắn bó mật thiết Chính phủ với nhân
dân… Việc Chính phủ công bố cơ sở dữ liệu (CDSL) quốc gia về thủ tục
hành chính (TTHC) lên Internet ngày 26/10/2009 đã là sự kiện trong lịch
sử hành chính nước ta.


- Qua công bố của các bộ, ngành, địa phương theo đề án đơn giản hóa
TTHC trên các lĩnh vực QLNN giai đoạn 2007 - 2010 (đề án 30) của
Chính phủ, tổng số TTHC đang được thực hiện lên đến hàng nghìn. “Vô
địch” là Bộ Tài chính tới 840 thủ tục (Thuế 330, Hải quan 239). Để khắc
phục, Bộ Tài chính tăng sử dụng CNTT, cải cách, hiện đại hóa công tác
quản lý thuế; áp dụng nộp hồ sơ khai thuế qua mạng với các DN ở
những địa bàn có điều kiện (đảm bảo khoảng 80% số thu ngân sách nhà
nước (NSNN)); mở rộng triển khai dự án thu NSNN qua ứng dụng và
kết nối thông tin giữa cơ quan thuế, hải quan, kho bạc và tài chính; triển
khai dự án “Nộp thuế qua ngân hàng” trên các địa bàn lớn (qua ATM, tài
khoản…). Vd: Tin học hoá “là phương tiện” vì thông qua các hệ thống
CNTT, bộ máy hành chính nhà nước có thể liên kết với nhau. Tin học
hoá “là áp lực” vì mọi trì trệ, ách tắc của bộ máy sẽ lộ diện qua môi
trường điện tử hóa như “gương phản chiếu”.
- Ngành hải quan mở rộng khai hải quan từ xa qua mạng, nâng tỷ lệ khai
hải quan từ xa trên cả nước lên 80% năm 2009 và trên 90% năm 2010;

xây dựng quy trình quản lý, giám sát hải quan cảng biển quốc tế, hàng
hóa chuyển phát nhanh quốc tế, quy định về địa điểm kiểm tra hàng hóa
tập trung, đầu tư phương tiện hiện đại hóa giám sát kiểm tra hải quan;
thực hiện đề án nâng cấp, đổi mới hệ thống quản lý rủi ro, đến cuối năm
2009 giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế xuống dưới 20%, trong đó 70% các lô
hàng kiểm tra thực tế hàng hóa được dựa trên tiêu chí quản lý rủi ro…
Tổng cục Hải quan đã đề nghị đưa ra khỏi Bộ TTHC 11 thủ tục, đề nghị
huỷ bỏ 5 TTHC, sửa đổi bổ sung 111 TTHC. Chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật
triển khai thủ tục hải quan điện tử, ngành đang nâng cấp, bổ sung thiết
bị, đường truyền, cài đặt phần mềm thông quan điện tử, đào tạo vận
hành cho nhân viên, DN.


- Ngành GDĐT đã triển khai kết nối Internet băng rộng tới các đơn vị, cơ
sở giáo dục trên địa bàn, thử nghiệm hệ thống Google email cho học
sinh, đảm bảo mỗi học sinh có 1 email theo tên miền Sở. Năm học 2008
- 2009, nhiều địa phương đẩy mạnh tin học hóa quản lý đến từng trường
phổ thông, cấp mã số thẻ học sinh thống nhất toàn quốc và cung cấp học
bạ điện tử cho học sinh theo chủ trương của Bộ. Phần mềm Quản lý học
bạ ESR (xây dựng trên mô hình Internet với công nghệ tiên tiến nhất
ASP.NET 1.1 của Microsoft) đã cho phép quản lý quá trình học tập của
học sinh một cách toàn diện, là cầu nối liên lạc giữa gia đình và nhà
trường…
- Tại Việt Nam, mật độ người dùng điện thoại là 88,7%, Internet 24,2%,
băng rộng 2,33%.
- Từ năm 2008, trên 80% công chức ở hầu hết bộ, ngành Việt Nam đã
dùng email (Chỉ số sẵn sàng CNTT -TT Việt Nam tháng 12/2008). Các
địa phương cũng vượt mục tiêu này. TP.HCM, Đà Nẵng, Bắc Giang,
Nghệ An có tới 100% công chức dùng email của CQNN trong công
việc. Hầu hết địa phương, bộ ngành hiện có website cung cấp thông tin

và dịch vụ hành chính công, nhiều nơi đạt mức cao (3, 4). Nhiều CQNN
đã họp qua mạng, tiết kiệm nhiều kinh phí. Trên 60% cơ quan nhà nước
cấp tỉnh có mạng LAN, trên 90% có Internet, 80% là băng rộng...
3. Hạn chế
Việc phát triển chính phủ điện tử ở việt nam đang ở giai đoạn đầu, nên việc
phổ biến sâu và rộng là chưa có nên người dân sẽ không nhận được những ưu
đãi từ dịch vụ chính phủ còn thấp, rất khó trong việc thay đổi nhận thức cong
người
ứng dụng của chính phủ điện tử đang ở Quy mô nhỏ, cục bộ và chưa phát huy
hết hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin


Hiện nay việc phát triển nội dung số mới chỉ tập trung vào lĩnh vực giải trí.
Những nội dung phục vụ cho hoạt động quản lý, giáo dục, khoa học vẫn chưa
được quan tâm đúng mức. Vấn đề xây dựng CSDL dùng chung, chia sẻ dữ liệu
giữa các Bộ, ngành cần phải xem xét lại một cách nghiêm túc, đòi hỏi phải có
ràng buộc trách nhiệm cụ thể bằng văn bản pháp luật.
Các hệ thống thông tin chuyên ngành, quy mô quốc gia tạo nền tảng cho phát
triển Chính phủ điện tử chưa được triển khai, ứng dụng CNTT phục vụ người
dân và doanh nghiệp còn hạn chế, các trang thông tin điện tử chủ yếu mới chỉ
cung cấp thông tin, còn ít trường hợp người dân có thể nộp hồ sơ xin cấp phép,
đăng ký qua mạng.
Ngân hàng Thế giới cảnh báo tác động của mô hình Chính phủ điện tử sẽ bị
hạn chế do việc sử dụng Internet cho mục đích công việc ở Việt Nam còn thấp.

IV. Mục tiêu
1) Năm mục tiêu cơ bản của một Chính phủ điện tử
1. Tạo môi trường kinh doanh tốt hơn.
- là chất xúc tác trong việc nâng cao năng suất lao động và phát triển
kinh tế.

- Cải thiện mối quan hệ tác động qua lại và tương tác giữa Chính phủ và
Doanh nghiệp
- Giảm bớt các khâu rườm rà trong thủ tục và chú trọng đến việc cung
cấp dịch vụ nhanh chóng và hiệu quả
2. Khách hàng trực tuyến, ko phải xếp hàng
- Cung cấp hiệu quả các hàng hóa dịch vụ công cộng cho người dân
thông qua phản hồi nhanh chóng của Chính phủ với sự tham gia tối thiểu của
các nhân viên Chính phủ.


3. Tăng cương sự điều hành có hiệu quả của Chính phủ và sự tham gia rộng rãi
của người dân.
- Nâng cao tính minh bạch và tin cậy của Chính phủ, mở ra cơ hội cho
người dân được chủ động tham gia hoạch định chính sách của Chính phủ.
- Tiên phong trong cuộc đấu tranh chống nạn tham nhũng.
- CPĐT hố trợ cung cấp thông tin một cách đầy đủ và nhanh chóng.
4. Nâng cao năng suất và tính hiệu quả của các cơ quan Chính phủ
- Nâng cao năng suất của nhân viên chính phủ, giảm chi phí hành chính,
nâng cao năng lực quản lý của chính phủ.
- Tiết kiệm chi phí trong trung và dài hạn.
- Đơn giản hóa các hoạt động của Chính phủ.
5. Nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng vùng sâu, vùng xa.
- Chính phủ có thể vương tới các nhóm cộng đồng thiểu số, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân
Mục tiêu cuối cùng của CPĐT là cải tiến mối tác động qua lại giữa 3 chủ thế
chính của xã hội: chính phủ, người dân và doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến
trình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.
2) Mục tiêu của Chính phủ điện tử việt Nam đến năm 2020
Theo Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT-TT” được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1755/QĐ-TTg, hoạt động

ứng dụng CNTT-TT là một trong các mục tiêu, nội dung quan trọng trong việc
sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT-TT.
Theo nội dung Đề án, mục tiêu đến năm 2015 sẽ cung cấp hầu hết các dịch vụ
công cơ bản trực tuyến tới người dân và doanh nghiệp mức độ 2 và 3 (nhận
mẫu hồ sơ trên mạng và trao đổi thông tin, gửi, nhận hồ sơ qua mạng). 80%
doanh nghiệp và tổ chức xã hội ứng dụng CNTT trong quản lý, điều hành, sản
xuất kinh doanh. Phổ cập ứng dụng CNTT trong hệ thống giáo dục, y tế. Đẩy


mạnh ứng dụng CNTT trong quốc phòng, an ninh. Bước đầu ứng dụng CNTT
để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng,
bao gồm: ứng dụng CNTT trong quản lý giao thông đô thị, ứng dụng CNTT
trong công tác vệ sinh, an toàn thực phẩm, ứng dụng CNTT trong công tác dự
báo thời tiết,…
Đến năm 2020, Chính phủ điện tử Việt Nam thuộc loại khá trên thế giới. Việt
Nam nằm trong nhóm 1/3 nước dẫn đầu trong bảng xếp hạng của Liên hiệp
quốc về mức độ sẵn sàng Chính phủ điện tử. Hầu hết các dịch vụ công cơ bản
được cung cấp trên mạng cho người dân và doanh nghiệp ở mức độ 4 (thanh
toán phí dịch vụ, nhận kết quả dịch vụ qua mạng). 100% các ngành công
nghiệp then chốt của đất nước, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội ứng dụng
CNTT trong quản lý, điều hành, sản xuất kinh doanh.
Như vậy, có thể nói hoạt động ứng dụng CNTT-TT là thành tố quan trọng
trong việc đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT-TT. Mặt khác,
đây cũng là nhiệm vụ liên quan mật thiết đến việc triển khai các nhiệm vụ khác
trong Đề án. Cụ thể, để phát triển ứng dụng CNTT-TT cần phát triển hạ tầng
viễn thông, phổ cập thông tin, mặt khác đẩy mạnh ứng dụng CNTT-TT lại tạo
điều kiện, thị trường cho công nghiệp CNTT phát triển.

VI.
-


Dịch vụ công của một số nuwocs trên thế giới

Chính phủ Hàn Quốc trong giai đoạn tin học hóa và xây dựng CPĐT lần

thứ tư (từ năm 2007 trở đi) đã tập trung thúc đẩy chính phủ ở "mọi nơi, mọi
lúc (ubiquitous)", áp dụng nhiều công nghệ mới, cung cấp dịch vụ công chất
lượng cao và tăng cường chính sách của chính phủ, tăng cường mối quan hệ
dựa vào nhau giữa người dân với chính phủ. Hoạt động tin học hóa quốc gia
và xã hội được bắt đầu từ năm 2002 và tiếp tục được triển khai mạnh mẽ trên


các lĩnh vực giáo dục trên môi trường điện tử, thương mại điện tử và tin học
hóa trong các lĩnh vực công, bao gồm dịch vụ hành chính công trực tuyến, đổi
mới các hoạt động công và nâng cấp CPĐT. Trọng tâm phát triển CPĐT ở
Hàn Quốc trong những năm gần đây đã có sự chuyển dịch mục tiêu từ đảm
bảo thực hiện chức năng quản lý, điều hành nhà nước trong các cơ quan nhà
nước sang phục vụ xã hội. Nghĩa là, cùng với nâng cao năng lực, quản lý điều
hành của các cơ quan nhà nước phục vụ tác nghiệp, mục tiêu phục vụ cộng
đồng xã hội gồm người dân, doanh nghiệp và sự liên kết giữa chính phủ và
chính quyền địa phương cũng được ưu tiên đặt ra.
-

Trong giai đoạn 2003-2005 phát triển CPĐT ở Nhật Bản, chính phủ

Nhật Bản đã đặt ra chiến lược thúc đẩy ứng dụng CNTT trong cung cấp dịch
vụ y tế, thực phẩm, lối sống, tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tri
thức, lao động việc làm và các dịch vụ hành chính công. Trước đó, vào năm
2002 Luật “dùng cho các thủ tục hành chính trực tuyến” cũng đã được đề xuất
và đến năm 2004 đã được ban hành. Ngày 15/1/2004 E-Gov Nhật bản đã chính

thức đi vào hoạt động với một số dịch vụ hành chính trực tuyến như dịch vụ
công chứng, đăng ký đóng nộp thuế và dịch vụ làm hộ chiếu. Thống kê của
chính phủ Nhật Bản cho cho thấy hàng năm có khoảng 20 triệu bản đăng kí
đóng thuế, nộp thuế, ngoài ra có khoảng 49 triệu bản thủ tục liên quan đến việc
bảo hiểm xã hội, 5.8 triệu lượt người đăng kí xin làm hộ chiếu.Tháng 1/2006,
Ban chỉ đạo Chiến lược CNTT xây dựng kế hoạch 05 năm “Chiến lược cải
cách CNTT mới” nhằm mục đích cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người
dân(1). Mục tiêu đến năm 2010 phấn đấu đạt 100% giao dịch về dịch vụ bảo
hiểm y tế được thực hiện trực tuyến. Chính phủ Nhật Bản nhận thức rõ ràng
xây dựng CPĐT phải gắn với cải cách hành chính. Tính hiệu quả và thành
công của các dịch vụ công (đặc biệt là dịch vụ hành chính công) trực tuyến
phải gắn liền với quy trình cải cách thủ tục hành chính một cách đồng bộ.


-

Ở Ai Cập, trong chương trình hành động xã hội thông tin từ năm 2003,

chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2008, Ai Cập có thể đưa vào sử dụng các dịch
vụ công có chất lượng cao cho cộng đồng. Một trong những nguyên tắc cơ bản
trong chương trình này đó là: dịch vụ cần phải lấy người dân làm trọng tâm với
khẩu hiệu "government now delivers" và định hướng xây dựng các dịch vụ
hành chính công thông qua cơ chế một cửa. Văn hóa quản lý quan hệ khách
hàng cho chính phủ được coi trọng, trong đó người dân được xem là khách
hàng và các cơ quan chính phủ phải có nhiệm vụ thỏa mãn các yêu cầu của
người dân. Chính phủ Ai Cập nhận thức sự cần thiết phải xây dựng một cổng
thông tin chính phủ tích hợp thông tin và dịch vụ công để có thể phục vụ người
dân được tốt hơn trên cơ sở các hệ thống một cửa. Bắt đầu được xây dựng từ
năm 2004, đến năm 2007 khoảng 700 dịch vụ đã được tích hợp trên cổng thông
tin chính phủ (1).

-

Năm 2000, chính phủ Singapore đã đề ra kế hoạch hành động CPĐT lần

1, mục đích nhằm định hướng cho hoạt động và đầu tư về CNTT đối với các
dịch vụ công. Mục tiêu của kế hoạch này là đưa toàn bộ dịch vụ công trở thành
dịch vụ công trực tuyến. Kế hoạch này được đầu tư khoảng 01 tỷ USD, tập
trung phục vụ tương tác giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B), chính phủ với
công dân (G2C) và chính phủ với người lao động (G2E). Kết quả là đến năm
2007, đã có khoảng 1.600 dịch vụ công trực tuyến được xây dựng. Người dân
Singapore có thể truy cập những dịch vụ này thông qua một cổng duy nhất, sử
dụng một mật khẩu và một mã nhận dạng chung cho tất cả các dịch vụ. Để
đảm bảo người dân có thể truy cập dịch vụ công trực tuyến của chính phủ,
Singapore đã xây dựng một mạng lưới các ki-ốt cung cập truy cập Internet
miễn phí cho người dân. Đồng thời nhiều kế hoạch giúp đỡ những người dân
có thu nhập thấp nâng cao trình độ cũng như nhận thức về ứng dụng CNTT.
Một số dịch vụ công trực tuyến đã được triển khai như đăng ký giấy phép lái


xe, khai thuế thu nhập, đặt chỗ, đăng ký thương hiệu. Các dịch vụ này luôn sẵn
sàng ở chế độ 24/7 tại các ki-ốt và có sự trợ giúp của chuyên gia nếu cần. Một
số quỹ phục vụ nghiên cứu được thành lập, cung cấp kinh phí cho các cơ quan
chính phủ thử nghiệm công nghệ mới, công bố thành công và chia sẻ kinh
nghiệm với tất cả tổ chức khác. Song song với đó, chính phủ Singapore cũng
thực hiện chương trình các dịch vụ Web với mục đích xây dựng và triển khai
các dịch vụ trên nền Web trong lĩnh vực hành chính công, khuyến khích các cơ
quan chính phủ đưa thông tin và dịch vụ lên môi trường Internet (1). Chương
trình được đầu tư để cải cách cách thức cung cấp và thực hiện dịch vụ trong
lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả chia sẻ thông tin và dịch vụ giữa
các cơ quan trong chính phủ nhằm đem lại chất lượng dịch vụ tốt hơn. Chương

trình dịch vụ cung cấp giấy phép kinh doanh trực tuyến nhằm khuyến khích
việc đầu tư vào Singapore thông qua cơ chế đăng ký một cửa thông thoáng,
gọn nhẹ.
-

Một trong những mục tiêu chính của chương trình tạo ra một chính phủ

khác biệt (Different Government) ở Đan Mạch đó là cung cấp dịch vụ công có
chất lượng cao, đẩy mạnh việc hợp tác mang tính liên ngành trong các cơ quan
chính phủ. Từ nửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, các cơ quan, tổ chức nhà
nước đã phải đối mặt với yêu cầu phải tạo ra những trang thông tin điện tử
riêng của mình để cung cấp thông tin cho người dân. Vì vậy, trong chương
trình này đến năm 2007, sẽ có khoảng 65% các dịch vụ công quan trọng nhất
sẽ được đưa lên mạng Internet. Các thông tin về người dân, doanh nghiệp, đất
đai,… sẽ được tập trung lưu trữ và chia sẻ, tránh tình trạng người dân phải
cung cấp cùng một thông tin nhiều lần. Người dân và doanh nghiệp sẽ được
cấp mã số nhận dạng điện tử duy nhất, được sử dụng trong giao dịch điện tử.
Chính phủ Đan Mạch cũng cho rằng mỗi người dân nên có một trang thông tin
cá nhân trên mạng Internet dùng để lưu trữ thông tin cá nhân cũng như quản lý


các giao dịch giữa người dân và chính phủ. Chính phủ có thể tận dụng những
trang thông tin này để nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, rà soát nội
dung để chính xác phản ánh nhu cầu kinh tế xã hội của cộng đồng.
-

Năm 2000, Liên minh châu Âu bắt đầu đưa ra các sáng kiến về một châu

Âu điện tử với một số mục tiêu chính: đưa thông tin về người dân, trường học
và doanh nghiệp cùng với dịch vụ hành chính công lên mạng; tạo ra một môi

trường điện tử ở châu Âu và bảo đảm quá trình này phù hợp với đặc điểm văn
hóa, dựa trên nền tảng tin cậy và hợp tác giữa các nền văn hóa trong Liên
minh. Đến năm 2005, tại Liên minh châu Âu, 20 dịch vụ công trực tuyến cơ
bản, gồm 8 dịch vụ công đối với doanh nghiệp và 12 dịch vụ công, đã được
triển khai rộng rãi trong đó có các dịch vụ hành chính công, dịch vụ về y tế và
dịch vụ về giáo dục.
-

Tại Hoa Kỳ, Quốc hội và Tổng thống cùng thống nhất rằng chính phủ

điện tử chính là sự lựa chọn cho của tương lai (6). Các luật gồm Luật đổi mới
quản lý công nghệ thông tin năm 1996 (1996 Information Technology
Management Reform Act – ITMRA-luật Clinger-Cohen), luật tối giảm giấy tờ
trong công tác chính phủ (Government Paperwork Elimination Act – GPEA,
44 USC 3504) và Luật về sử dụng chữ ký điện tử trong thương mại quốc gia và
toàn cầu (Electronic Signatutres in Global and National Commerce Act) đã
được thông qua nhằm tháo gỡ khó khăn trong giao dịch điện tử. Vài tháng 12
năm 1999, Tổng thống Mỹ đã ký văn bản ghi nhớ yêu cầu các cơ quan chính
phủ liên bang phải cung cấp các mẫu biểu trước tháng 1/2001 và cung cất tất
cả các dịch vụ trước năm 2003. Quốc hội đã có ý kiến thành lập chức danh
lãnh đạo thông tin liên bang (Federal Chief Information Officer) bên trong Văn
phòng về quản lý và ngân sách (Office of Management and Budget) nhằm hỗ
trợ việc quản lý và thúc đẩy các dịch vụ chính phủ điện tử và thiết lập các thủ


tục trên nền Web để khuyến khích người dân truy cập vào dịch vụ và thông tin
chính phủ.
Xếp hạng
1
2

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

Quốc gia
Hàn Quốc
Hoa Kỳ
Canada
Vương quốc Anh
Hà Lan
Na Uy
Đan Mạch
Úc
Tây Ban Nha
Pháp

Singapore
Thụy Điển
Bahrain
New Zealand
Đức
Bỉ
Nhật Bản
Thụy Sỹ
Phần Lan
Estonia

Chỉ số phát triển chính phủ điện tử
0.8785
0.8510
0.8448
0.8147
0.8097
0.8020
0.7872
0.7863
0.7516
0.7510
0.7476
0.7474
0.7363
0.7311
0.7309
0.7225
0.7152
0.7136

0.6967
0.6965



×