Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Ngồn vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.67 KB, 29 trang )

Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

LỜI MỞ ĐẦU
Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh, vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài chính được
đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhu cầu về vốn là một trong những bức xúc
của doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các doanh nghiệp
đều mong muốn đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hoá dịch vụ nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Doanh nghiệp có nhiều hình thức để huy
động vốn như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng, tín dụng từ
nhà cung cấp, thuê tài chính, v.v. Mỗi cách thức huy động vốn đều có những
ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, do trình độ phát triển của hệ thống tài chính
chưa cao, cũng như một số hạn chế mang tính chủ quan khác, thực trạng huy
động vốn của các doanh nghiệp trong nước hiện còn tồn tại nhiều bất cập
cần sớm được giải quyết. Điển hình là tình trạng doanh nghiệp quá phụ
thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng – một nguồn vốn không dễ tiếp cận,
trong khi đó lại bỏ qua hoặc ít để ý tới các nguồn huy động nhiều tiềm năng
khác.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tìm hiểu về tình hình hoạt động
tài chính của các doanh nghiệp hiện nay, em nhận thấy việc làm thế nào để
huy động vốn cho doanh nghiệp và huy động vốn bằng cách nào đang là
một bài toán khó. Nhất là những doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát triển
mạnh mẽ và có các yêu cầu cấp thiết về việc mở rộng huy động vốn để phục
vụ cho sự mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, em đă
lựa chọn đề tài cho Tiểu luận Lý thuyết tài chính tiền tệ của mình là: “
Ngồn vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay.”

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bố cục đề tài gồm 3 chương:
Đào Vũ Minh Hường



Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

 Chương I: Cơ sở lý luận về vốn
 Chương II: Thực trạng về vốn và các phương thức huy động vốn
tại doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
 Chương III: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Để tìm hiểu kỹ lưỡng và sâu sắc về tính huy động vốn của các doanh
nghiệp Việt Nam thì đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn. Do trình độ còn hạn
chế và thời gian nghiên cứu không nhiều nên em chỉ tập trung vào những vấn đề
cơ bản nhất về vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. Tiểu
luận chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót, em rất mong nhận được những
đóng góp của thầy cô, bạn bè và những người quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy Nguyễn Hữu
Tài - Giảng viên khoa Tài chính- Ngân hàng, Đại học Kinh Tế Quốc Dân, đã
giúp em hoàn thành tốt đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.!
Hà Nội ngày 20 tháng 08 năm 2012
Sinh viên

Đào Vũ Minh Hường

Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28



Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN.
1.1 Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập 1 doanh nghiệp và
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp,
vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là 1 loại hàng hóa. Nó giống
các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm là người
sở hữu có thể bản quyền sử dụng trong 1 thời gian nhất định. Chi phí cho việc sử
dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng nên vốn có thể luân chuyển trong đầu tư kinh doanh để sinh lời.
Dưới góc độ doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ
bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khách làm đầu vào cho quá tŕnh sản
xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá tŕnh sản xuất
vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá tŕnh sản xuất và tái sản xuất liên tục
trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá
tŕnh sản xuất.
Như vậy, một cách thông dụng nhất, vốn có thể hiểu là các nguồn tiền tài
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tiền này được
hình thành dưới nhiều cách thức khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Giá
trị nguồn vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh
doanh. Tùy từng loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh
nghiệp có các phương thực tạo vốn và huy động vốn khác nhau.
1.2 Phân loại vốn của doanh nghiệp
Trong quá tŕnh sản xuất kinh doanh để quản lý và sử dụng vốn một cách
có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tùy vào mục đích và

loại hình của từng doanh nghiệp mà vốn được phân loại theo các tiêu thức khác
nhau.
1.2.1 Phân loại vốn theo nguồn hình thành:
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

- Vốn chủ sở hữu
+ Vốn pháp định :
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do
pháp luật quy định đối với từng ngành nghề.
+ Vốn tự bổ sung:
Vốn tự bổ sung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp lấy một phần từ lợi
nhuận, từ quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính.
- Vốn huy động của doanh nghiệp .
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ
sở hữu có vai trò quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng
cường huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết,
phát hành trái phiếu...
+ Vốn vay :
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các cá nhân,
đơn vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
* Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng: rất quan trọng đối với
các doanh nghiệp.
* Vốn vay trên thị trường chứng khoán: doanh nghiệp có thể phát
hành trái phiếu để thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội, đây là một công

cụ tài chính quan trọng và dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu
cầu vốn sản xuất kinh doanh.
+ Vốn liên doanh liên kết :
Các doanh nghiệp có thể liên doanh, hợp tác với nhau để huy động thực
hiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Vốn tín dụng thương mại :
Tín dụng thương mại là các khoản mục chịu từ người cung cấp hoặc ứng
trước của khánh hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tuy các khoản tín
dụng thương mại thường có thời gian ngắn hạn nhưng nếu doanh nghiệp biết
quản lý một cách có khoa học có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để
doanh nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp theo loại hình sở hữu, ngành nghề
kinh doanh, quy mô, quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược
đầu tư.
1.2.2 Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

- Vốn cố định của doanh nghiệp
Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng, lắp đặt tài sản cố định
hữu hình hay vô hình gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Quy mô của vốn cố
định nhiều hay ít sẽ tác động đến quy mô của tài sản cố định, ngược lại những
đặc điểm vận động của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trính sản xuất kinh
doanh:

+ Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh , Vốn cố định
chu chuyển giá trị dần dần từng phần và được thu hồi giá trị từng phần sau mỗi
chu kỳ kinh doanh.
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh mới hoàn
thành 1 vòng chu chuyển.
+ Vốn cố định chỉ hoàn thành 1 vòng chu chuyển khi tái sản xuất
được tài sản cố định về mặt giá trị - tức là khi thu hồi đủ tiền khấu hao tài sản cố
định
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là bộ phận quan trọng chiếm tỷ
trọng tương đối lớn. Việc quản lý vốn cố định đòi hỏi phải gắn liền với việc
quản lý tài sản cố định vì điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng
vốn sản xuất của doanh nghiệp.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh
doanh ứng trước về tài sản lưu động, là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động.
Vốn lưu động của doan nghiệp thường xuyên vận động chuyển hóa lần
lượt qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, vốn lưu
động từ hình thái ban đầu là tiền được chuyển hóa sang hình thái vật tư dự trữ,
sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa, khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở
về hình thái ban đầu là tiền. Đối với doanh nghiệp thương mại, sự vận động của
vốn lưu động nhanh hơn, từ hình thái vốn bằng tiền chuyển hóa sang hình thái
hàng hóa cuối cùng lại trở về hình thái là tiền. Quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp diễn ra liên tục không ngừng, nên sự tuần hoàn của vốn cũng
diễn ra liên tục lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn
lưu động.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28



Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

1.3.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp.
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Vốn là điều kiện
không thể thiếu được để thành lập 1 doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Trong quản lý tài chính, các doanh nghiệp cần chú ý việc
huy động và sự luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái
khác nhau của tài sản và hiệu quả và tài chính.
Vai trò của vốn được thể hiện qua các khía cạnh sau:

1.3.1 Vốn là điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập 1 doanh nghiệp. Về mặt
pháp lý, mỗi doanh nghiệp khi thành lập đều phải có 1 lượng vốn nhất định và
phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định do Nhà nước quy định đối với lĩnh
vực kinh doanh đó. Như vậy, vốn lúc này có vai trò đảm bảo sự hình thành và
tồn tại của doanh nghiệp trước Pháp luật.

Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

1.3.2 Vốn là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi thành lập , doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh. Do đó, đòi hỏi phải có tiền để chi tiêu, mua sắm nguyên vật liệu, máy
móc, trả lương… Số tiền này không thể lấy đâu khác ngoài nguồn vốn của
doanh nghiệp. Khi nguồn vốn tạm thời không đủ đáp ứng nhu cầu của hoạt động
kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn về ngân quỹ. Các

hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp sẽ bị đình trệ, suy giảm. Nếu tình trạng
này không được khắc phục kịp thời thì doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng khó
khăn tài chính triền miên, hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn từ đó có
thể khiến công ty đi đến kết cục cuối cùng là phá sản, giải thể…
1.3.3. Vốn là cơ sở cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình phát triển của mình, doanh nghiệp luôn mong muốn
mở rộng sản xuất kinh doanh, giữ vững và vươn lên trong thị trường. Để làm
được điều đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, đầu tư, tái
đầu tư, cải tiến máy móc, thiết bị, công nghệ, hệ thống phân phối
sản phẩm... Để làm được tất cả những công việc đó doanh nghiệp
không thể không cần đến nguồn vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.Vốn
còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng caokhả
năng cạnh tranh trên thị trường. Vốn không những là cơ sở để doanh
nghiệp có thể nâng cao khả năng sản xuất, tăng cường mạng lưới phân phối mà
còn có thể giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay
hơn nữa là loại bỏ họ bằng các chính sách marketing hiệu quả (tăng
cường quảng cáo, giảm giá, khuyến mãi…) .
Như vậy, vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải nhận thức vấn đề này một cách
rõ ràng, từ đó phải có một chính sách huy động vốn nhanh chóng, hiệu quả để có
thể tồn tại và không ngừng phát triển trên thương trường.

1.4 Các phương thức huy động vốn.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ


1.4.1 Huy động vốn chủ sở hữu
1.4.1.1 Vốn góp ban đầu.
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ đầu tư cũng phải bỏ ra 1
lượng vốn nhất định để đầu tư. Đối với doanh nghiệp Nhà nước ( thuộc sở hữu
Nhà nước ) nguồn vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của Ngân sách Nhà
nước.
Trong công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần
thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có theo quy định của Pháp luật để thành lập doanh nghiệp.
Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là 1 chủ sở hữu của công ty và
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên,
không phải công ty cổ phần nào cũng giống nhau cho nên cách thức huy động
vốn cổ phần cũng khác nhau ( sẽ được trình bày chi tiết hơn về cổ phiếu và vấn
đề huy động vốn cổ phần ở phần sau ).
Trong thực tế, vốn tự có của chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so
với vốn pháp định, nhất là sau 1 thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh.
1.4.1.2 Phát hành cổ phiếu.
Phát hành cổ phiếu là 1 kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hạn cho
công ty một cách rộng rãi thong qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán. Để
hiểu rõ những khía cạnh của việc phát hành cổ phiếu thì ta cần hiểu rõ đặc điểm
của các loại cổ phiếu khác nhau.
 Cổ phiếu thường.
Cổ phiếu thường (hay còn gọi là cổ phiếu thông thường ) là loại cổ phiếu
thông dụng nhất vì các ưu điểm của nó đáp ứng được các yêu cầu của các người
đầu tư và công ty phát hành. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được cơ quan
quản lý Nhà nước cho phép phát hành gọi là vốn cổ phần được phép phát hành.
Muốn tăng vốn cổ phần cần phải được đại hội cổ đông cho phép.
Đào Vũ Minh Hường


Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Phần lớn những cổ phiếu đã phát hành nằm trong tay nhà đầu tư – cổ
đông được coi là đang lưu hành trên thị trường. Công ty có thể mua lại số cổ
phiếu đó với những mục đích khác nhau và việc mua lại đó phụ thuộc vào các
yếu tố như: tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư, tình hình trên thị trường
chứng khoán…
Mệnh giá và thị giá cổ phiếu.
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên thị
trường được gọi là thị giá. Trị giá của cổ phiếu ghi trong sổ sách kế toán của
công ty được gọi là giá trị ghi sổ của cổ phiếu. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có ý
nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi phát
hành.
Quyền hạn của cổ đông.
Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công
ty, do đó họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu
nhập của công ty. Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và theo dõi quản lý các
công việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và biểu quyết.
 Cổ phiếu ưu đãi.
Thông thường, cổ phiếu ưu đãi chiếm 1 tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu được công ty phát hành. Cổ phiếu ữu đãi có đặc điểm là thường có mức cổ
tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này thường được nhận tiền lãi trước các cổ
đông thường khác. Nếu số lãi chỉ để đủ trả cổ tức cho cổ đông ưu tiên thì các cổ
đông thông thường sẽ không được nhận cổ tức cho kỳ đó. Một vấn đề rất quan
trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu này là thuế. Khác với chi phí lãi vay
được giảm trừ khi tính thuế thu nhập của công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận
sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Tuy nhiên, cổ phiếu ưu đãi vẫn có

những ưu điểm đối với cả công ty phát hành và đối với cả nhà đầu tư.
 Chứng khoán có thể chuyển đổi.
Giấy bảo đảm: Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua 1 số lượng cổ
phiếu thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Trái phiếu chuyển đổi: cho phép chuyển đổi thành 1 số lượng nhất định
các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu
có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
1.4.1.3 Nguồn vốn nội bộ
Về lợi nhuận không chia: Rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu
tư từ lợi nhuận để lại. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần, việc để lại lợi
nhuận có liên quan đến 1 số các yếu tố nhạy cảm. Khi công ty để lại lợi nhuận
để tái đầu tư thì các cổ đông không được nhận cổ tức nhưng bù lại học ó quyền
sở hữu vốn cổ phần tăng lên của công ty. Từ đó làm cho trị giá ghi sổ của các cổ
phiếu cũng tăng lên. Điều này khuyến khích cổ đông nắm giữ cố phiếu lâu dài,
nhưng cũng làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt, do cổ
đông chỉ nhận được 1 phần cổ tức nhỏ hơn.
Về khấu hao tài sản cố định : Xét về mặt tài chính, khấu hao tài sản cố
định là 1 cách thu hồi vốn đầu tư ứng trước. Cho nên, trong thực tế, các doanh
nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số tiền trích khấu hao sao có hiệu quả và
hoàn trả đúng hạn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng tài sản cố
định khi có nhu cầu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể huy động thêm vốn nhờ vào các quỹ
như : quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính….

1.4.2 Huy động vốn vay.
1.4.2.1 Tín dụng ngân hàng.
Có thể nói rằng, nguồn vốn vay ngân hàng là 1 trong những nguồn vốn rất
quan trọng không chỉ đối với bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với cả nền
kinh tế. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo
có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn, vốn vay có thể chia thành : vay dài hạn ( lớn hơn 5 năm),
vay trung hạn ( từ 1 đến 5 năm ) và vay ngắn hạn ( nhỏ hơn 1 năm ). Hoặc theo
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

tính chất và mục đích sử dụng thì chia thành : vay đầu tư tài sản cố định, đầu tư
vốn lưu động và vay để phục vụ dự án.
Nguồn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng
có những hạn chế nhất định. Đó là những hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm
soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn ( lãi suất ).
Về điều kiện tín dụng : Các ngân hàng khi cho vay vốn luôn luôn phải
đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông qua 1 hệ thống các biện
pháp bảo đảm tín dụng. Cho nên, khi đi vay, các doanh nghiệp phải cung cấp
những báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết khác theo yêu cầu của ngân
hàng.
Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi đi vay, các ngân hàng thường yêu
cầu doanh nghiệp phải có các bảo đảm tín dụng, phổ biến nhất là các tài sản thế
chấp. Trong nhiều trường hợp, bên đi vay không thể đáp ứng được hết các điều
kiện về giấy tờ, thủ tuc pháp lý… do đó, doanh nghiệp cần phải tính đến các yếu

tố này khi tiếp cần nguồn vốn vay ngân hàng.
Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn
ngân hàng thì cúng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng cho vay về mục đích
và tính hình sử dụng vốn vay.
Lãi suất vay vốn: Phản ánh chi phi sử dụng vốn. Lãi suất hụ thuộc vào
tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì
là cho doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn quá lớn và làm giảm thu
nhập của doanh nghiệp.

1.4.2.2 Tín dụng thương mại.
Nguồn vốn tín dụng thương phải là 1 phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và
linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ
hợp tác kinh doanh 1 cách lâu bền. Các doanh nghiệp cũng thường hay khai thác
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

nguồn vốn tín dụng thương mại. Nguồn vốn này được hình thành 1 cách tự
nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Các điều kiện
ràng buộc được ấn định khi 2 bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh
doanh nói chung. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn
đối với không chỉ các doanh nghiệp mà còn đối với cả toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Trong 1 số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản
phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chỉ có thể chiếm tới 40%
tổng nguồn vốn. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng
thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn.
1.4.2.3 Phát hành trái phiếu.

Trái phiếu là các giấy tờ có vay nợ dài hạn và trung hạn bao gồm trái
phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Thời hạn thông thường là 1 năm, 3 năm, 5
năm…Trái phiếu còn được gọi là trái khoán.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến
chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái
phiếu. Trước khi quyết định cần phải hiểu rõ đặc điểm của từng loại trái phiếu.
Hiện nay, trên thị trường nhiều nước đang có những loại trái phiếu đang lưu
hành sau:
 Trái phiếu có lãi suất cố định.
Loại trái phiếu này thường được sử dụng phổ biến. Lãi suất được ghi ngay
trên mặt trên của trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy
cả người đi vay và người cho vay đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong
suốt kỳ hạn của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng được quy định rõ.
Trái phiếu cũng có thể phát hành kèm theo phiếu nhỏ để lĩnh tiền lãi gọi là phiếu
Coupon và do vậy loại này có tên là trái phiếu coupon.
Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ
hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào mấy yếu tố sau:
Thứ nhất: Lãi suất của trái phiếu.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Đương nhiên, nhà đầu tư muốn hưởng mức lãi suất cao. Nhưng công ty
phát hành phải cân nhắc kỹ sao cho mức lãi suất phải phù hợp. Lãi suất trái
phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường
vốn, đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác.
Ngoài ra, có thể đưa thêm các yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể

không cần nâng cao mức lãi suất
Thứ hai: Kỳ hạn của trái phiếu:
Đây cũng là yếu tố quan trọng khi cân nhắc phát hành trái phiếu của các
doanh nghiệp.
Thứ ba: Uy tín của công ty và mức độ rủi ro.
Mức độ thuận lợi và tính hấp dẫn của trái phiếu công ty luôn luôn phụ
thuộc vào uy tín của công ty, nhất là dộ tin cậy về tài chính.
Trong việc phát hành trái phiếu, cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có
liên quan đến sức mua của dân chúng. Khi phát hành, phải xác định 1 mức giá
vừa phải để nhiều người có thể mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái
phiếu trên thị trường.
 Trái phiếu có lãi suất thay đổi.
Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng loại này có lãi suất phụ thuộc vào 1 số
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường quốc tế. Trong điều
kiện lạm phát cao, lãi suất thị trường không ổn định thì các nhà đầu tư mong
muốn được hưởng 1 mức lãi suất thỏa đáng khi so sánh với tình hình thị trường.
Vì vậy, 1 số người ưa thích lãi suất trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên, lãi suất này có
1 số nhược điểm sau:
Thứ nhất: Công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái
phiếu, gây khó khăn cho phần việc lập kế hoạch tài chính.
Thứ hai: Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải
theo dõi và thông báo các lần điều chỉnh lãi suất cho người mua ttrais phiếu.
 Trái phiếu có thể thu hồi.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ


Một số công ty lựa chọn việc phát hành trái phiếu có thể thu hồi, tức là
công ty có thể mua lại trong 1 thời gian nào đó. Loại trái phiếu này được quy
định rõ khi phát hành, quy định cả về thời hạn và giá cả khi công ty chuộc lại
trái phiếu.
Loại trái phiếu này có ưu điểm là :
Thứ nhất: Có thể được sử dụng như 1 cách điều chỉnh lượng vốn sử
dụng. Khi không cần thiết công ty có thể mua lại, tức là điều chỉnh giảm vốn vay
Thứ hai : Công ty có thể tay trái phiếu loại này bằng 1 nguồn tài chính
khác bằng cách mua laị các trái phiếu đó.
Tuy nhiên, nếu không có những hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không
được ưa thích.

\

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ VỐN VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG
VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.

2.1 Thực trạng vốn chủ.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Theo thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên 500.000 doanh nghiệp đăng
ký hoạt động, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97%, đóng góp 47%
GDP, 40% ngân sách nhà nước và tạo ra gần một triệu việc làm mỗi năm. Tuy
nhiên, quy mô vốn tự có của khối này thấp hơn rất nhiều so với khối doanh

nghiệp nhà nước . Phần lớn vốn tự có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được tạo
ra từ vốn riêng của chủ doanh nghiệp, vốn góp của bạn bè, cổ đông, họ hàng.
Trên cả nước, số doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn tự có dưới 1 tỷ đồng hiện
chiếm 41,80%, số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm 37,03%, số
doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 8,15%. Tính trung bình, một
doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay có khoảng 3,6 tỷ đồng vốn chủ sở hữu, đáp
ứng khoảng 5% đến 10% vốn luân chuyển trung bình của khối này. Để đưa ra
các đánh giá nhanh về chất lượng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam sau 10 năm thực thi Luật doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu độc lập
Economica (UNDP) đã phân tích số liệu tổng điều tra doanh nghiệp từ năm
2001 đến năm 2009, kết quả cho thấy:
Khu vực doanh nghiệp tư nhân có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tăng
từ 4,4% năm 2000 lên 7,1% năm 2008, trong khi con số này của doanh nghiệp
Nhà nước là từ 7,9% lên 12,4% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là từ
19,8% lên 23,9%.
Mức cải thiện tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản có của khu vực doanh
nghiệp tư nhân cũng thấp hơn 2 khu vực doanh nghiệp còn lại. Cụ thể, tỷ lệ lợi
nhuận trên tổng tài sản của khu vực doanh nghiệp tư nhân tăng từ 1,63% trong
năm 2000 lên 1,76% vào năm 2008, so với mức từ 2,35% lên 3,38% của doanh
nghiệp Nhà nước và từ 8,97% lên 9,55% của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
Kết quả trên cho thấy quy mô vốn nhỏ, năng lực kém cùng với tốc độ tăng
trưởng chậm, lợi nhuận để lại cho tái đầu tư không nhiều đã dẫn đến những khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc chuyển sang kinh doanh quy mô lớn. Hơn
nữa, đây cũng được xem là một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28



Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

nghiệp tư nhân (ngoại trừ một số ít phát triển vượt bậc) ngày càng trở nên nhỏ
bé hơn về quy mô vốn khi so sánh tương đối với các doanh nghiệp Nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Còn đối với các doanh nghiệp Nhà nước, cụ thể như các Tập đoàn, Tổng
công ty Nhà nước thì quy mô vốn chủ sở hữu không ngừng tăng thêm, đến cuối
năm 2008 485.644 tỉ đồng. Tốc độ tăng vốn chủ đạt mức cao là 46,5%. Nguồn
vốn bổ sung chủ yếu là lợi nhuận sau thuế và thặng dư vốn cổ phần..Đã có 47
tập đoàn, tổng Công ty tham gia đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng chứng khoán,
bảo hiểm, góp vốn quỹ đầu tư với tổng số vốn đầu tư vào cuối năm 2006 là
6.434 tỉ đồng, cuối năm 2007 là 16.190 tỉ đồng, đến cuối năm 2008 là 21.164 tỉ
đồng. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, dù được hưởng khá
nhiều đặc quyền đặc lợi và nắm một lượng vốn rất lớn nhưng việc sử dụng các
dòng vốn này hiệu quả thật sự chưa cao.
2.2 Thực trạng từ việc huy động vốn vay.
2.21 Thực trạng về tín dụng ngân hàng.
 Đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Năm 2008, tổng nợ tổ chức tín dụng của 7 tập đoàn có vốn chủ sở hữu
trên 10.000 tỉ đồng cũng rất cao bằng 128.786 tỉ đồng, tăng 20,54% so với cuối
năm 2007 . Số nợ này chiếm gần 10% so với tổng nợ tổ chức tín dụng đối với
nền kinh tế tại cùng thời điểm. Một số đơn vị có số nợ quá lớn như Tập đoàn
Điện lực Việt Nam nợ 66.764 tỉ đồng, chiếm 51,84% trong tổng nợ tổ chức tín
dụng của 7 tập đoàn. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam nợ 21.477 tỉ đồng,
chiếm 16,67%; Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam nợ 19.885 tỉ đồng,
chiếm 15,44%. Nợ quá hạn của nhóm tổng công ty này lên tới 1.208 tỉ đồng,
chiếm 10,5% tổng số nợ tại tổ chức tín dụng. Tổng công ty Công trình giao
thông 1 nợ quá hạn là 190 tỉ, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 8 nợ
quá hạn là 113 tỉ, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 6 nợ quá hạn là
50 tỉ...Các Tổng công ty Mía đường II, Tổng công ty Rau quả, nông sản, Tổng

công ty Dâu tằm tơ Việt Nam, Tổng công ty Thủy sản Việt Nam... thực hiện bảo
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

lãnh vay vốn đối với các dự án vay vốn thuộc các doanh nghiệp thành viên
không đúng với các quy định của pháp luật. Việc này dẫn đến khi doanh nghiệp
thành viên lâm vào tình trạng phá sản, kinh doanh thua lỗ thì các Tổng công ty
phải dùng vốn nhà nước trả nợ thay, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất
kinh doanh chung.
 Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với quy mô vốn nhỏ lẻ nêu trên, để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh
doanh, ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được
trông đợi từ kênh tín dụng ngân hàng. Thế nhưng, trên thực tế, nhu cầu này được
đáp ứng rất hạn chế. Theo điều tra về thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Cục phát triển doanh nghiệp tình đến hết năm 2010, có đến 75% doanh nghiệp
vừa và nhỏ muốn tìm vốn bằng hình thức vay ngân hàng nhưng chỉ có 32,38%
doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn này, 35,24% khó tiếp cận và
32,38% không thể tiếp cận được. Điều này được lý giải một phần do:
Thứ nhất, chính sách tín dụng của các ngân hàng thương mại lớn chưa
thực sự quan tâm đến khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dù trong thời gian qua
một số ngân hàng thương mại đã chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong việc lập dự án sản xuất kinh doanh đủ tiêu chuẩn vay vốn ngân hàng
nhưng thực tế cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ thường được vay vốn từ các
ngân hàng thương mại cổ phần nhiều hơn là từ ngân hàng thương mại quốc
doanh. Nguồn lực cho vay của các ngân hàng thương mại cổ phần thường hạn
chế hơn so với ngân hàng thương mại quốc doanh do quy mô vốn nhỏ. Hơn nữa,

thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng thương mại hiện nay buộc
phải giới hạn cho vay phí sản xuất không quá 20% tổng dư nợ vào thời điểm
31/12/2011 và đi kèm với việc nâng mức trích lập dự phòng rủi ro đối với bất
động sản và cho vay thế chấp vàng lên 250%, đồng thời kiên quyết chỉ tái cấp
vốn cho các nhu cầu cụ thể là sản xuất vật chất (hàng xuất khẩu, nông sản, nông
nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ...) theo định hướng ưu tiên của Chính phủ.

Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Điều này dẫn đến việc tiếp cận vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã khó lại càng khó hơn.
Thứ hai, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng hiện đang phải đi vay với lãi suất quá cao. Thời gian qua, ngân hàng nhà
nước đã có khống chế mức lãi suất huy động không vượt quá 14% nhưng lại
không khống chế lãi suất cho vay làm cho lãi suất tiền vay quá cao, phổ biến từ
22 đến 24%, cá biệt lên đến 28%/năm. Với mức lãi suất vay này và lạm phát
hơn 18% như trong năm 2011, doanh nghiệp phải đạt tỷ lệ sinh lời trên 33% mới
đủ khả năng bảo toàn vốn. Tuy nhiên, điều này nằm ngoài khả năng của rất
nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thống kê trong 6
tháng đầu năm 2011 cho thấy trên 50% doanh nghiệp đã phải chịu lãi suất cho
vay trên 18%/năm, trong khi chỉ khoảng 20% có thể chịu được mức lãi suất này.
Có khoảng 5% số doanh nghiệp đang đi vay với lãi suất trên 21% trong khi đó
100% doanh nghiệp khẳng định lãi suất hợp lý ở thời điểm hiện tại là dưới 1718%.
2.2.2 Thực trạng về tín dụng thương mại.
Trong kinh doanh luôn tồn tại nhu cầu về vốn. Doanh nghiệp nào tìm

được biện pháp có thể giải quyết hữu hiệu vấn đề vốn sẽ có thuận lợi
lớn trong hoạt động kinh doanh của mình và dễ dàng chiếm ưu thế
trong cuộc cạnh tranh với đối thủ. Sự đòi hỏi về vốn ngày một tăng
trong nền kinh tế thị trường chính là “cha đẻ” của hình thức bán chịu,
một hoạt động được coi là “phao cứu sinh” giúp các doanh nghiệp vượt qua
những cơn sóng gió tài chính. Đây chính là quan hệ mua bán chịu giữa
các doanh nghiệp với nhau trong quá trình mua bán hàng hóa. Để thanh
toán hoặc đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ
như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ này, nếu
còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại. Lâu nay, các doanh nghiệp và
ngân hàng đều đã sử dụng hối phiếu trong thanh toán xuất nhập khẩu và
vay nợ nước ngoài. Tát cả các giao dịch này đều được thực hiện theo thông lệ
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

quốc tế. Tuy nhiên, trong thanh toán nội đ ị a , c á c do a n h n g h i ệ p c h ư a
s ử d ụ n g t h ư ơ n g p h i ế u n hư l à c ô n g c ụ t h a n h toán phổ biến. T r o n g
kh i đ ó , m ua bá n chịu giữa các doanh nghiệp, bán hàng gối đầu giữa
nhà sản xuất và đại lý, giữa các tiểu thương ở chợ đầu mối là nhu cầu thực tế.
Ở Việt Nam hiện nay theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp h u y
đ ộ n g vố n t ừ cá c n gu ồ n m ua b á n c h ị u , s ử d ụn g vố n c ủa đ ố i t á c .
T u y nhiên, những giao dịch đó chỉ được ghi lại một cách đơn giản trên
sổ nợ của người bán ; ngay cả khi mua bán trả chậm, các bên cũng chỉ lập văn
bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời gian và số tiền trả chậm.
Mặc dù quan hệ tín dụng thương mại mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, tiểu
thương đã tồn tại như một quan hệ thực tế khách quan trong nền kinh tế Việt

Nam, nhưng phải tới ngày 1/7/2006, với việc Luật các công cụ chuyển nhượng
có hiệu lực, quan hệ này mới chính thức được pháp luật thừa nhận. Đây
được xem như một động lực thúc đẩy sự phát triển t h ị t r ư ờ n g m u a
bá n n ợ n ó i r i ê n g và t h ị trường tiền tệ nói chung.
2.2.3 Thực trạng về phát hành trái phiếu.
Nếu như cuối những năm 1990 và đầu năm 2000 ở Việt Nam mới chỉ có
một vài giao dịch phát hành trái phiếu doanh nghiệp với quy mô nhỏ, thì đến
trong năm 2009 đã có 39 giao dịch phát hành với tổng khối lượng vốn huy động
đạt gần 30.000 tỷ đồng; năm 2010 có 45 giao dịch phát hành với tổng lượng vốn
huy động đạt gần 45.500 tỷ đồng. Trái phiếu doanh nghiêp đã có xu hướng
chuyển dịch cơ cấu tỷ lệ phát hành lớn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước sang
khu vực các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong năm 2011 cũng khá
ảm đạm khi môi trường kinh tế cả trong và ngoài nước bất ổn, khiến việc phát
hành trái phiếu doanh nghiệp hết sức khó khăn. Nhiều doanh nghiệp phải hoãn
hoặc hủy kế hoạch phát hành trái phiếu như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hoãn
phát hành 500 triệu USD trái phiếu. Một loạt các doanh nghiệp trên sàn niêm yết
như Địa ốc Hoàng Quân (HQC), NHTMCP Sài Gòn (SCB); Khoáng sản Na Rì
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

(KSS) cũng ở trong tình trạng tương tự. Rủi ro tín dụng tăng cao dẫn tới nhiều
trái phiếu mặc dù được chào với lãi suất rất cao từ 21-23%/năm vẫn không thể
bán được, đặc biệt là trái phiếu bất động sản. Bức tranh thị trường thứ cấp cũng
không sáng sủa hơn, thanh khoản rất ít và chỉ tập trung ở một số trái phiếu của
doanh nghiệp lớn như EVN, Lilama, BIDV, FPT… Theo thống kê của Hiệp hội

Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2011 ước tính có khoảng 27 đợt
phát hành trái phiếu với khối lượng giao dịch khoảng 7.000 tỷ đồng, chỉ bằng
12,5% so với năm 2010.
Ngược lại, thị trường sơ cấp trái phiếu chính phủ lại rất sôi động. Năm
2011 có thể coi là năm thành công nhất từ trước đến nay trong huy động vốn cho
ngân sách nhà nước thông qua đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HNX. Lượng
vốn huy động được lớn nhất và tỷ lệ huy động thành công/kế hoạch huy động
cao nhất. Qua 130 phiên đấu thầu đã huy động được 81.715,8 tỷ đồng (gấp gần 3
lần khối lượng trúng thầu năm 2010), trong đó huy động trái phiếu kho bạc đạt
62.153,8 tỷ đồng, đạt khoảng 80% kế hoạch huy động. Lãi suất phát hành tuy ở
một mặt bằng mới cao hơn năm trước, song vẫn thấp hơn khoảng 2% so với lãi
suất huy động của hệ thống ngân hàng.
2.3 Những thành tựu đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
2.3.1 Những thành tựu đạt được.
Quy mô vốn chủ sở hữu tăng đáng kể : đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
thì quy mô vốn chủ chiếm 40 % ngân sách nhà nước, tạo ra hơn một triệu việc
làm mỗi năm. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì quy mô vốn chủ không ngừng
tăng , tăng tới 46,5% trong năm 2008. Chính phủ đã ban hành những quy định rõ
hơn về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu của doanh nghiệp như Nghị định
52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã mở ra 1 kênh mới để
huy động vốn trên thị trường, phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển của doanh
nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mô vốn tự có. Thông qua phát hành trái phiếu,
doanh nghiệp tránh bị pha loãng cổ phiếu, được hưởng ưu đãi thuế đối với vốn
vay và giảm chi phí sử dụng vốn. Khi phát hành trái phiếu chuyển đổi, doanh
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ


nghiệp chỉ phải trả mức lãi suất rất thấp, thậm chí là không phải trả lãi. Do đó,
cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, trái phiếu sẽ ngày càng trở thành
kênh huy động vốn hiệu quả và quan trọng đối với các doanh nghiệp quy mô lớn
trong những năm tới đây, bởi hiện hệ thống hành lang pháp lý đối với hoạt động
phát hành trái phiếu của doanh nghiệp đã được ban hành và đang dần hoàn
thiện, giúp doanh nghiệp có cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp cận nguồn vốn trên
thị trường chứng khoán.
Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh
nghiệp nước ta. Hoạt động chủ yếu của các tổ chức tín dụng vẫn là cho vay với
các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm 70 – 80% thị phần cũng như tài sản
của toàn hệ thống ngân hàng. Một số ngân hàng cũng đang thay đổi chế độ cho
vay đối với doanh nghiệp và nhỏ, có sự linh hoạt hơn, thích hợp hơn với cơ chế
thị trường. Trong 1 số năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay chiếm bình quân khoảng 40% tổng dư nợ.
2.3.2 Một số hạn chế và nguyên nhân.
Vấn đề vốn bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp .Theo đánh giá từ Trung tâm thông tin tín dụng (Ngân hàng Nhà nước),
với chính sách tiền tệ, tài khóa thận trọng để ứng phó với lạm phát, các doanh
nghiệp Việt Nam ở mọi thành phần kinh tế đang tiến thoái lưỡng nan giữa vốn
và phát triển sản xuất. Trong đó, lãi suất vốn vay dù đã giảm nhưng vẫn ở mức
khá cao so với khoảng trên dưới 10% lợi nhuận bình quân một năm của cả nền
kinh tế. Dù mức lãi suất cao nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể
tiếp cận được vốn, đặc biệt với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cơ hội vay được
vốn trong bối cạnh hiện nay là khó hơn cả.
Mặc dù Chính phủ đã phát đi những thông điệp về chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp, điển hình như giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm lãi
suất… nhưng điều đó chỉ tiếp sức nhữngdoanh nghiệp mạnh khỏe, khách hàng
lâu năm của ngân hàng. Còn với rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ do thiếu vốn


Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

buộc phải co cụm lại, hoạt động cầm chừng chưa thể nghĩ đến mở rộng sản xuất
kinh doanh, đóng thuế thu nhập.
Theo kết quả điều tra gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3
doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, 1/3 khó
tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ cho
rằng, thủ tục các ngân hàng đặt ra là “quá sức” đối với họ. Ngay cả khi có chính
sách ưu đãi của Chính phủ cũng chỉ có 5-10% số doanh nghiệp vừa và nhỏ được
vay. Thêm vào đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng quá cao và việc gia tăng
các loại phí của các ngân hàng cũng đang ảnh hưởng rất lớn đến các doanh
nghiệp thực sự cần vay vốn để sản xuất kinh doanh. Không ít doanh nghiệp đã
thu hẹp hoặc tạm dừng sản xuất vì không vay được vốn.
Có nhiều nguyên nhân khiến cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khó vay vốn
của ngân hàng nhưng nguyên nhân căn bản là do các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chưa đáp ứng đủ điều kiện để các ngân hàng cho vay như: lập kế hoạch kinh
doanh, tài sản đảm bảo, cân đối tài chính của doanh nghiệp… Mới đây, bà
Dương Thu Hương nguyên Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng đã dẫn ra con số:
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên vốn vay của doanh nghiệp Việt Nam hiện ở mức 1/20,
cá biệt còn lên đến 1/30. Điều này cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam hiện lệ
thuộc rất nhiều vào vốn vay bên ngoài, chủ yếu là từ ngân hàng.
Trong khi lạm phát còn chưa giảm xuống mức thấp thì xu hướng vay ngân
hàng sẽ còn khó khăn, không chỉ về vấn đề thủ tục mà lãi suất cao đang là một
rào cản, vì nếu có vay được thì dùng vốn đó sản xuất kinh doanh cũng khó có
lãi. Bên cạnh đó, việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán - một kênh huy

động vốn quan trọng của nhiều doanh nghiệp, cũng đang ngày một khó khăn
hơn. Đó là chưa kể, việc phát hành cổ phiếu ồ ạt khiến cho thị trường này bị bội
thực nguồn cung không phát huy được hiệu quả huy động vốn trong thời gian
gần đây. Tuy nhiên, nếu thị trường ổn định thì việc huy động vốn bằng việc phát
hành cổ phiếu cũng là một nguồn vốn khá tốt nếu doanh nghiệp biết cách tận
dụng đầu tư hợp lý.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Trên thực tế, doanh nghiệp hiện nay nếu muốn phát hành trái phiếu
thường chọn trái phiếu chuyển đổi, vì tâm lý thị trường vẫn có niềm tin vào cổ
phiếu, do đó trái phiếu chuyển đổi của các công ty lớn vẫn có cơ hội tiêu
thụ.Tuy vậy, doanh nghiệp Việt Nam nói chung hiện không có nhiều “đất” trong
phát hành trái phiếu.
Thực tế, chỉ một số doanh nghiệp có thương hiệu tốt thì mới nghĩ đến việc
huy động vốn qua kênh này. Lý do là trái phiếu hầu hết được mua để nắm giữ
dài hạn, nên nhà đầu tư sẽ không mua trái phiếu của một công ty nhỏ, làm ăn
khó khăn hay tài chính không minh bạch.
Một trong những khó khăn hiện nay khiến cho thị trường trái phiếu khó
phát triển mạnh là năng lực bảo lãnh của giới tài chính và sức tiêu thụ sản phẩm
tài chính nội địa rất yếu. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu chính phủ nhiều
đợt trong năm cũng khiến cho một phần tiền chảy vào loại chứng khoán này, vì
vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của trái phiếu doanh nghiệp.

Đào Vũ Minh Hường


Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.

3.1 Về phía doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có rất nhiều điều kiện để khai thác huy động vốn.
Với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp cần phải
tìm hiểu rõ học cần cái gì. “ Biết người biết ta trăm trận trăm thắng “, chuẩn bị
kỹ những điều kiện mà tổ chức tín dụng đòi hỏi. Trong đó, quan trọng nhất là tài
sản thế chấp. Mặt khác, doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ kế hoạch sản xuất kinh
doanh, các phương án, dự án kinh doanh phải rõ ràng, minh bạch, có tính khả
thi, có hiệu quả. Như vậy mới có hy vọng thuyết phục được các tổ chứ tín dụng.
Đối với tín dụng thương mại, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu, sư
dụng các phương thức, phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại. Tăng
cường năng lực tài chính , đảm bảo cá doanh nghiệp có đủ nguồn vốn, tài sản đi
đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng.
Để nâng cao khả năng huy động vốn bằng trái phiếu, các doanh nghiệp
cần phải nâng cao nhận thức về vấn đề này và cần coi trái phiếu như là một kênh
huy động vốn thường xuyên. Bởi lẽ, hầu hết các doanh nghiệp hiện nay vẫn coi
trái phiếu đồng nghĩa với vay tín dụng, mà không xem đó là một chứng khoán
nợ trên thị trường vốn nên không phát huy được lợi thế. Doanh nghiệp cần phải
đổi mới tư duy về quản lý doanh nghieepj và sử dụng vốn hiệu quả để tạo niềm
tin cho nhà đầu tư; đảm bảo an toàn tài chính; tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán
trong nước và quốc tế; đầu tư đổi mới công nghệ (các số liệu phải được hạch
toán kịp thời, chính xác với thực trạng doanh nghiệp); phải công khai minh bạch

thông tin (tình hình hoạt động, tài chính, kế hoạch và chiến lược cụ thể trong
tương lai của doanh nghiệp…) khi phát hành trái phiếu để thu hút sự quan tâm
và tin tưởng của nhà đầu tư.
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


Tiểu luận Lý thuyết tài chính - tiền tệ

Ngoài ra, doanh nghiệp cần tiến hành định hạng tín nhiệm để phát hành
trái phiếu vì đầu tư vào trái phiếu nhà đầu tư chủ yếu dựa vào căn cứ về uy tín
và chỉ số định hạng tín nhiệm của tổ chức phát hành. Theo thông lệ quốc tế, chỉ
những doanh nghiệp có định hạng tín nhiệm mới có thể phát hành trái phiếu.
Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen định hạng tín
nhiệm cho mình nên bị hạn chế rất nhiều đến khả năng thu hút sự quan tâm của
nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
Không những thế, các doanh nghiệp cần phải xây dựng các chiến lược
kinh doanh, đầu tư sao có hiệu quả để nâng cao năng lực tài chính, góp phần
tăng lợi nhuận cho công ty, giảm hệ số nợ trên vốn chủ, từ đó làm tăng hệ số giá
trên thu nhập cho 1 cổ phiếu, làm tăng giá trị của cổ phiếu khiến cho việc phát
hành cổ phiếu ra thị trường dễ dàng hơn. Các doanh nghiệp nên định hướng cho
mình cá phương thức khấu hao tài sản tốt nhất , phù hợp nhất để có thể linh hoạt
trong việc sử dụng nguồn vốn này cho hiệu quả.
3.2 Về phía Nhà nước.
Một là, cần đổi mới thể chế về vốn. Tái cơ cấu lại các Ngân hàng thương
mại để cung cấp vốn và các dịch vụ ngân hàng hiệu quả hơn cho các doanh
nghiệp . Theo đó đẩy nhanh thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, sửa đổi quy chế
thành lập và hoạt động theo hướng có chọn lọc và khả thi hơn nhằm tạo sự kết
nối trung gian giữa ngân hàng và doanh nghiệp.

Hai là, đổi mới thể chế cho vay của các Ngân hàng thương mại. Nhà nước
nên cho phép các ngân hàng được chủ động và linh hoạt hơn trong việc cung
ứng vốn. Từ đó, tùy theo từng khách hàng, từng trường hợp mà ngân hàng có
thể tăng hay giảm các điều kiện cho vay như tài sản thể chấp, lãi suất ưu đãi, tỷ
lệ vốn tự có của doanh nghiệp tham gia đối ứng trong phương án vay. Như vậy,
doanh nghiệp sẽ có nhiều khả năng huy động được nguồn vốn vay theo nhu cầu
sản xuất kinh doanh của mình.
Ba là, giúp cho các ngân hàng có thêm điều kiện cung ứng vốn cho doanh
nghiệp. Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về lãi suất tái cấp vốn cho các Ngân
Đào Vũ Minh Hường

Lớp : TCDN K22.28


×