Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.04 KB, 41 trang )

Lời mở đầu
Trước xu hướng hội nhập kinh tế thế hiện nay, đòi hỏi nền kinh tế trong
nước phải đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực hiện
được yêu cầu đó, cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng
kinh tế phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó
khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra
rất thích hợp trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu
tư phát triển.
Thông qua chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã hỗ trợ nguồn vốn để
các doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
hàng hoá, giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh…Là công cụ điều tiết
vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế, hoạt động tín dụng đã quản lý và sử
dụng nguồn vốn ưu đãi hiệu quả hơn, phù hợp với các ưu tiên phát triển của đất
nước trong từng thời kỳ, góp phần phát triển cân đối nền kinh tế. Bên cạnh những
đóng góp mà hoạt động tín dụng ĐTPT thì vẫn còn tồn tại hạn chế nhất định.
Xuất phát từ những lý do đó việc nghiên cứu đề tài: “Tín dụng đầu tư phát
triển Nhà nước. Thực trạng và giải pháp” là cần thiết để có những giải pháp
tăng cường hoạt động tín dụng ĐTPT, phát huy hơn nữa vai trò của hoạt động này
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Em xin chân thành cảm ơn cô Phan Thị Thu Hiền đã hướng dẫn em hoàn
thành đề tài này!


Đề tài: Tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
Thực trạng và giải pháp
Chương I: Những lý luận chung về tín dụng đầu tư phát triển
nhà Nước
I/ Khái niệm về tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước:
Đầu tư phát triển là hình thưc đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất hiện
có và tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là tiền đề để thực hiện quá trình tái sản
xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và chất


lượng sản phẩm. Đầu tư phát triển thúc đẩy kinh tế song song với thay đổi kinh
tế-xã hội.
Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển, các quốc gia phải có nguồn vốn
đầu tư phát triển thông qua tích lũy vốn trong và ngoài nước. Vốn đầu tư phát
triển là nguồn vốn không thể thiếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn này hình thành
bởi vốn đầu tư phát triển của tất cả các thành phần kinh tế xã hội, bao gồm: vốn
đầu tư phát triển của Nhà nước, của doanh nghiệp, vốn nhàn rỗi của các tổ chức
dân cư trong nước và vốn đầu tư của các cá nhân tổ chức nước ngoài
Tín dụng đầu tư phát triển là một hình thức nhằm thực hiện chính sách đầu
tư phát triển của Nhà nước, thể hiện mối quan hệ vay – trả giữa Nhà nước ( hiện
nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam đại diện cho nhà nước) với các pháp nhân
và thể nhân hoạt động trong nền kinh tế được Nhà nước hỗ trợ với chính sách ưu
đãi cho từng đối tượng cụ thể nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ nhất định theo định hướng của Nhà nước.

II/ Đặc điểm và hình thức hoạt động của tín dụng ĐTPT Nhà nước:
1. Đặc điểm của tín dụng ĐTPT Nhà nước:
- Thực hiện theo nguyên tắc không cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại
đảm bảo sự phối hợp bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, phù hợp với
nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế.
- Là hình thức tín dụng trung và dài hạn, đầu tư nhằm mục đích hướng đến
việc xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng cho nền kinh tế.


- Chủ thể trong hoạt động tín dụng đầu tư luôn là nhà nước(hay Ngân hàng
phát triển Việt Nam)
- Tín dụng đầu tư phát triển có chức năng phân phối và phân bổ các nguồn lực
tài chính cho sự phát triển kinh tê – xã hội của đất nước.
- Tính chất ưu đãi của tín dụng ĐTPT thể hiện ở một số điểm như: lãi suất
thấp, quy mô cho vay lớn, thời gian cho vay dài, điều kiện đảm bảo nợ vay

ưu đãi hơn…
- Tín dụng đầu tư phát triển có tính lịch sử. Khi nền kinh tế phát triển thì phạm
vi của tín dụng đầu tư phát triển thu hẹp lại và chuyển đổi sang các hình
thức tín dụng khác.

2. Các hình thức hoạt động của tín dụng ĐTPT Nhà nước:
- Trực tiếp: chính phủ trực tiếp đầu tư hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi đối
với các dự án thuộc lĩnh vực ưu tiên. Hoặc chính phủ có thể bảo lãnh cho
các doanh nghiệp vay vốn của các tổ chức tín dụng.
- Gián tiếp: Chính phủ cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp, cá nhân như
các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, nghiên cứu thị trường theo
yêu cầu của doanh nghiệp.

III/ Các tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT Nhà nước:
Các tổ chức tài chính phát triển được coi là công cụ đặc biệt quan trọng của
Chính phủ để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế phù hợp.
Nhiệm vụ của các tổ chức này nhằm cung cấp tín dụng cho các lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, lĩnh vực xuất nhập khẩu và lĩnh vực phát triển nông thôn.
Với đặc điểm quan trọng là công cụ nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển
KT-XH của Nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước được giao cho một tổ chức
cụ thể để triển khai nhằm đảm bảo sự quản lý, giám sát và thực thi một cách có
hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra. Đa số các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam, đều thành lập một tổ chức trung gian tài chính để thực hiện nhiệm vụ này
với tên gọi phổ biến là “Ngân hàng phát triển”. Và mô hình NHPT đã chứng tỏ
được tính ưu việt của nó trong hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước.

IV/ Nguồn vốn hoạt động cho tín dụng đầu tư:
- Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước:



+Vốn điều lệ của Ngân hàng phát triển Việt Nam
+ Vốn ngân sách nhà nước cho các dự án theo kế hoạch hàng năm
+ Vốn ODA được chính phủ giao
- Nguồn vốn huy động:
+ Phát hành trái phiếu chính phủ, các chứng chỉ tiền gửi theo quy định của
pháp luật.
+ Nguồn vốn vay của các quỹ tín dụng, các tổ chức tài chính trong và ngoài
nước
- Nhận tiền gửi ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước:
- Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh
tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức
trong và ngoài nước.

V/ Đối tượng của hoạt động tín dụng đầu tư:
Đối tượng của tín dụng ĐTPT mang tính đặc trưng về không gian và thời
gian. Nó phụ thuộc vào các chính sách phát triển cũng như chiên lược công
nghiệp hóa của mỗi quốc gia. Ví dụ như các quốc gia đang phát triển ở Đông Á là
công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, vì vậy đối tượng của tín dụng ĐTPT chủ
yếu là các dự án thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, ngành công nghệ cao,
các dự án phát triển vùng nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu…
Đối tượng của tín dụng ĐTPT chỉ mang tính tương đối, nó sẽ thay đổi khi
chiến lược, kế hoạch, hoàn cảnh kinh tế đất nước thay đổi. Bên cạnh đó đối tượng
tín dụng ĐTPT phải xuất phát từ mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Do
đó, đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT không chỉ tập trung vào các khu vực có khả
năng phát triển mà còn có các khu vực có điều kiện kinh tế khó khăn.
Đối tượng vay vốn có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành nghề, lĩnh vực khác
phát triển. Việc lựa chọn đối tượng vay vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử
dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nên cần được tiến hành một



cách khoa học, điều này tạo sự ổn định trong hoạt động đầu tư, nâng cao hiệu quả
trong sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT Nhà nước.


Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển tại Việt Nam
I/ Tổng quam về tín dụng ĐTPT Nhà nước:
1. Vài nét về tín dụng đầu tư của một số nước trên thế giới:
1.1. Ngân hàng phát triển Đức( KFW) :
KFW là một tổ chức công được thành lập vào tháng 11 năm 1948 theo luật
KFW về khuyến khích tái thiết nền kinh tế của Tây Đức sau chiến tranh.
Phần lớn nguồn vốn của KFW là tự huy động thông qua phát hành trái
phiếu và các khoản vay trên hối phiếu nhận nợ, hoặc các khoản vay của các
quỹ xã hội. Nguồn vốn chính dành cho tài trợ đầu tư là từ vốn tự có của KFW.
Đối với các chương trình ổn định ngân hàng duy trì lãi suất thấp bằng cách
phối hợp các nguồn vốn từ các quỹ công cộng. Ngoài ra để có đủ nguồn vốn
cần thiết, KFW dùng vốn vay với lãi suất thấp từ quỹ đặc biệt chương trình
khôi phục Châu Âu hoặc phát hành trái phiếu huy động vốn trực tiếp từ thị
trường vốn và cũng nhận vốn ủy thác từ Chính phủ liên bang.
KFW rất chú trọng trong công tác quản lý rủi ro tín dụng. Để phòng ngừa
rủi ro phát sinh do thay đổi lãi suất và tỷ giá, KFW tham gia vào một số các
giao dịch có kỳ hạn tương lai. KFW đã tiến hành một số bước để cải thiện khả
năng cải thiện tài sản nợ của mình, và những bước này đã góp phần tăng khả
năng sinh lời và ổn định tài chính của ngân hàng.
Về lãi suất cho vay: Thời gian đầu thực hiện KFW cấp tín dụng với lãi suất
thấp hơn lãi suất thị trường nhưng sau đó lãi suất sẽ được điều chỉnh sát với lãi
suất thị trường để giảm sự bao cấp của Nhà nước. Bên cạnh việc giảm ưu đãi
về lãi suất là mở rộng thời hạn cho vay, chất lượng dịch vụ, điều kiện vay
vốn…



Hệ thống kế toán kiểm toán của KFW được quy định tại Luật KFW, trong
đó quy định rằng báo cáo kế toán hàng năm do hội đồng quản trị soạn thảo, có
sự tham gia ý kiến của cơ quan kiểm toán Chính phủ. Các báo cáo tài chính
của KFW phải được lập phù hợp với các quy định của kế toán ngân hàng.

1.2. Ngân hàng phát triển Trung Quốc( CDB):
CDB được thành lập vào tháng 3 năm 1994. Là tổ chức chịu sự điều hành
trực tiếp từ Quốc vụ viện, CDB phải trình báo các hoạt động lên Quốc vụ viện
theo quy định. Hội đồng quản lý được thành lập như một đơn vị điều hành nội
bộ; bao gồm các thành viên đại diện cho: Ủy ban kế hoạch Nhà nước, Ủy ban
thương mại và kinh tế Nhà nước, Bộ ngoại thương và hợp tác kinh tế, Kiểm
toán.
Mỗi năm CDB được kiểm tra tổng thể một lần xem các chính sách hoạt
động của CDB có phù hợp với chính sách quốc gia hay không, không hề có
việc kiểm tra nhỏ lẻ ở tầm vi mô và Hội đồng quản lý không được phép can
thiệp tùy tiện vào các hoạt động hàng ngày của CDB.
Nguồn vốn của CDB phần lớn từ phát hành trái phiếu. Trái phiếu của
CDB phát hành trong nước được Chính phủ bảo lãnh. Phần lớn các trái phiếu
5 năm được các ngân hàng thương mại và trái phiếu 8 năm do tiết kiệm bưu
điện mua. Lãi suất do ngân hàng nhân dân quyết định và có cân nhắc tới lãi
suất của các công cụ tài chính khác có cùng thời hạn. Từ năm 1998, CDB đưa
ra một phần hệ thống đấu thầu thông qua việc kết hợp một nhóm các ngân
hàng thương mại để quyết định lãi suất của trái phiếu, do vậy mà huy động
được vốn với lãi suất thấp.
Các hình thức hỗ trợ của CDB ngày càng được đa dạng hơn. Đặc biệt là
việc mở rộng hình thức tư vấn đầu tư cho các dự án. Đây là hình thức mới


nhưng lại mang lại hiệu quả cao đối với các dự án đầu tư. Hiện nay CDB đã tư

vấn cho các dự án mới của Nhà nước trước khi nó được trình lên nội các.

2. Vai trò của tín dụng ĐTPT nhà nước đối với phát triển kinh tế:
Tín dụng ĐTPT Nhà nước ra đời nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu
ĐTPT ngày càng lớn của nền kinh tế và sự giới hạn của nguồn lực tài chính công,
nhất là của NSNN. Tuy nhiên cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế thị
trường thì tín dụng ĐTPT Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng.
Thứ nhất, chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hỗ trợ tích cực cho
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Tín
dụng đầu tư là công cụ để Nhà nước tham gia quản lý và điều tiết nền kinh tế.
Thứ hai, chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước động viên thúc đẩy
các doanh nghiệp Việt Nam tích cực tìm kiếm thị trường, đổi mới công nghệ,
nâng cao năng lực sản xuất để thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng kim ngạch xuất
khẩu hàng năm của Việt Nam, góp phần cải thiện cán cân thương mại quốc tế,
giảm bớt nhập siêu như hiện nay.
Thứ ba, cung cấp một lượng vốn cho việc đầu tư phát triển các dự án ở các khu
vực, vùng, ngành khó khăn nhằm khai thác tài nguyên tại chỗ, giải quyết việc làm
cho người lao động, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội
Thứ tư, thông qua hệ thống tín dụng ĐTPT của Nhà nước tạo thêm một kênh huy
động vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Thứ năm, góp phần nâng cao vị thế của quốc gia, tạo điều kiện mở rộng và phát
triển hoạt động kinh tế đối ngoại.

II/ Tổng quan về tín dụng đầu tư phát triển nhà nước tại Việt Nam:
1. Giai đoạn trước năm 1990:
Sau khi miền Bắc được giải phóng, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá trong
chiến tranh trong khi nguồn vốn tiết kiệm đầu tư của dân cư quá nhỏ, Nhà nước
đã phải sử dụng nguồn vốn Ngân sách cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước, các
chương trình xây dựng.



Theo nghị định 177 – TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân
hàng kiến thiết Việt Nam được thành lập với chức năng cơ bản: cung cấp vốn
kiến thiết cơ bản theo kế hoạch và dự toán Nhà nước duyệt; quản lý toàn bộ vốn
Ngân sách Nhà nước dùng vào kiến thiết cơ bản. Bên cạnh Ngân hàng kiến thiết
Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng thực hiện cấp vốn đầu tư xây
dựng cơ bản. Điều này tạo ra sự chồng chéo, khó tập trung quản lý hoạt động
ĐTPT của Nhà nước.
Trước yêu cầu giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp phát và cho vay vốn Nhà
nước, ngày 24/6/1981, Hội đồng chính phủ đã ra quyết định 259- CP chuyển
Ngân hàng kiến thiết Việt Nam thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam
trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2. Giai đoạn từ năm 1990-1994:
Trong bối cảnh chung của công cuộc cải cách kinh tế, Chính phủ đã chủ
trương từng bước chuyển dần các công trình được cấp vốn Nhà nước sang vay
vốn để đầu tư phát triển. Theo đó từ năm 1990 Nhà nước cấp vốn cho Ngân hàng
đầu tư và Xây dựng để hình thành nguồn vốn tín dụng đầu tư. Cùng với nguồn
vốn Nhà nước cấp Ngân hàng có trách nhiệm huy động thêm nguồn vốn khác để
thực hiện cho vay đầu tư. Ngân hàng đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên
thành Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, thực hiện thêm chức năng kinh
doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng, chủ yếu trong lĩnh vực ĐTPT.
Hoạt động tín dụng ĐTPT trong giai đoạn này vẫn mang tính chất bao cấp,
ưu đãi quá lớn, được thực hiện chủ yếu dưới hình thức cấp phát, không hoàn lại.
Cơ chế thực hiện mang nặng tính hành chính, bao cấp.

3. Giai đoạn từ năm 1995-1999:(thời kì chuyển tiếp)
Trước nhu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT Nhà nước, thu hút các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho ĐTPT đồng thời tách bạch dần hoạt động
cho vay chính sách ra khỏi vay thương mại. Chính phủ đã thành lập Tổng cục



Đầu tư phát triển, trực thuộc Bộ Tài chính, với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài
chính thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Tài chính ĐTPT, tổ chức việc
thực hiện việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư và vốn tín dụng ưu đãi
của Nhà nước đối với các dự án, mục tiêu, chương trình theo danh mục do Chính
phủ quyết định hàng năm. Cũng trong thời gian này, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
được thành lập ngày 9/12/1995 theo quyết định 808/TTg của Thủ tướng chính
phủ, để huy động vốn và cho vay đối với các dự án đầu tư phát triển các ngành,
nghề, thuộc diện ưu đãi và các vùng kinh tế khó khăn theo quy định của Chính
phủ.
Như vậy trong thời gian từ 1995 – 1999, hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước
được nhiều tổ chức chung tay thực hiện, đó là: Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIDV), Tổng cục đầu tư phát triển, trực thuộc Bộ tài chính, Quỹ hỗ
trợ đầu tư quốc gia thuộc Chính phủ và các Ngân hàng thương mại quốc doanh
khác.

4. Giai đoạn từ năm 2000-2005:(thời kì hoạt động theo cơ chế thị
trường)
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới toàn diện cơ chế quản lý kinh tế và cơ
chế quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện
chủ trương phát huy nội lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế theo tinh thần, nghị quyết TW 4 và
TW 6 lần 1 khóa VIII. Tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
43/1999/NĐ – CP về tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đồng thời thành lập Quỹ hỗ
trợ phát triển (QHTPT) theo Nghị định số 50/1999/NĐ– CP ngày 8/7/1999 để
thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước(Ngoài ra có kèm theo thực hiện
tín dụng xuất khẩu).
Đây là một bước đi quan trọng trong việc đổi mới quản lý tín dụng ĐTPT
Nhà nước, tập trung vào một đầu mối, khắc phục những tồn tại của cơ chế tín

dụng ĐTPT trong 10 năm trước theo hướng giảm bao cấp, tăng cường hiệu quả
vốn đầu tư, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ đầu tư và cơ quan
cho vay, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu
tư xây dựng cơ bản. Tháng 4/2004, chính phủ ban hành nghị định 106/2004/NĐ-


CP ngày 01/04/2004 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thay thế nghị
định 43/1999/NĐ-CP, với một số thay đổi chính về mục đích tín dụng ĐTPT, bổ
sung các hình thức cho vay, đối tượng ngành nghề cũng thu hẹp…
Như vậy trong giai đoạn này đã có nhiều thay đổi đáng kể trong hoạt động
tín dụng ĐTPT, việc kế thừa và tiếp tục cải tiến hoạt động và bộ máy của DAF
một tổ chức mới ra đời mở ra giai đoạn mới cho của hoạt động tín dụng đầu tư
Nhà nước.

5. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay:
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Bank - VDB) được
thành lập trên cơ sở Quỹ Hỗ trợ Phát triển theo quyết định 108/2006/QĐ-TTG
của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19/05/2006. Là một đơn vị cho vay
chính sách phi lợi nhuận, với số vốn điều lệ lên tới 10 nghìn tỷ đồng. Cùng với
Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, VDB có mục tiêu đóng góp vào quá
trình xoá đói giảm nghèo thông qua các khoản vay cho các công trình xây dựng
thuỷ lợi và giao thông nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề, xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho các vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ xuất khẩu.
So với hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Phát triển hiện nay sẽ
được tăng quyền chủ động, tăng tính trách nhiệm trong đánh giá, thẩm định cho
vay các dự án và có quyền từ chối cho vay đối với những dự án kém hiệu quả.
NHPT kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm từ QHTPT, nhưng hoạt động
chuyên nghiệp hơn, có quyền lợi và trách nhiệm cao hơn, thể hiện tốt hơn vai trò
là công cụ chính sách của Chính Phủ trong hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước.


III/ Thực trạng hoạt động ĐTPT nhà nước từ năm 2000 đến nay:
1. Giai đoạn từ năm 2000-2006:
1.1. Tổ chức hoạt động:


Cơ chế chính sách
Trong giai đoạn này Chính phủ đã ban hành nghị định về tín dụng ĐTPT là:
Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 1/4/2004. Nghị định 106 ra đời khắc phục
những tồn tại của Nghị định 43. Theo đó:


trải


Đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi bị cắt giảm để tránh tình trạng đầu tư dàn
Nguồn vốn huy động được mở rộng để giảm sự phụ thuộc vào NSNN.
Lãi suất cho vay được điều chỉnh theo hướng giảm bao cấp
Tổ chức thực hiện

Hoạt động nghiệp vụ của QHTPT là huy động vốn và cho vay vốn trung dài
hạn đối với các dự án ĐTPT kinh tế xã hội nhưng QHTPT không phải là ngân
hàng thương mại, không chịu sự điều chỉnh của các luật tổ chức tín dụng và chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống QHTPT gồm QHTPT TW và 61
chi nhánh quỹ, thực hiện hạch toán tập trung, có thực hiện phân cấp ủy quyền cho
các chi nhánh và điều chỉnh vốn giữa chi nhánh Quỹ và QHTPT TW.
Sang Nghị định 106 đã có những thay đổi trong hoạt động của QHTPT. Theo
quy định mới của Nghị định 106 Bộ kế hoạch đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài
chính lập dự toán NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho
hoạt động tín dụng ĐTPT. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước đối
với hoạt động tín dụng ĐTPT không chỉ nâng cao hơn nữa vai trò của hoạt động

này đối với sự phát triển của nền kinh tế còn thể hiện một sự đổi mới đáng ghi
nhận trong việc ban hành chính sách và quan điểm cải cách nền tài chính công.

1.2. Nguồn vốn hoạt động và đối tượng:
Nguồn vốn đã được mở rộng cả về quy mô và hình thức. Tuy nhiên nguồn
vốn hoạt động vẫn còn phụ thuộc nhiều và NSNN. Nguồn vốn được chia thành
vốn NSNN và vốn QHTPT huy động. Trong đó vốn từ phát hành TPCP được
giao cho QHTPT phát hành thuộc về vốn QHTPT huy động. Năm 2002, QHTPT
đã huy động vốn dưới hình thức phát hành TPCP trên thị trường chứng khoán tạo
ra công cụ đầu tư tài chính dài hạn 10 năm, 15 năm xuất hiện lần đầu tiên trên thị
trường tài chính Việt Nam. Đến năm 2004, nguồn vốn huy động từ phát hành
TPCP của QHTPT chiếm hơn 30% tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ, góp phần
quan trọng nâng tỷ lệ các nguồn vốn huy động từ thị trường từ 7.3% năm 2000
lên 58% cuối năm 2004.
Cơ chế huy động chưa thật sự gắn với thị trường, hạn chế đến khả năng huy
động vốn cho ĐTPT, đặc biệt là huy động qua phát hành TPCP vì tính thanh


khoản của trái phiếu còn thấp do chưa có thị trường thứ cấp và chưa được cầm cố,
chiết khấu tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Phương thức huy động vốn theo quy định chưa đa dạng từ loại tiền, hình
thức đến đối tượng huy động…đã làm hạn chế việc khai thác các nguồn vốn nhàn
rỗi của xã hội cho ĐTPT.
Trong giai đoạn này, đối tượng hưởng ưu đãi là các dự án đầu tư tại các
vùng khó khăn thuộc một số ngành nghề theo quy định. Điều này đã làm hạn chế
khả năng vay vốn cho các dự án bởi để đảm bảo tính hiệu quả thì một số dự án
khó có thể đầu tư tại các vùng khó khăn. Bên cạnh đó các đối tượng hưởng ưu đãi
rất rộng rãi, lên tới gần 40 nhóm đối tượng gây ra tình trạng đầu tư dàn trải, kém
hiệu quả. Để khắc phục được điều này Nghị định 106 đã quy định lại về đối
tượng hưởng ưu đãi trong đó không phân biệt địa bàn đầu tư và thu hẹp đối tượng

hưởng ưu đãi. Từ gần 40 nhóm giảm xuống còn trên 14 nhóm đối tượng. Các đối
tượng vay vốn tín dụng thuộc các ngành công nghiệp nặng bị thắt chặt thì các
ngành chế biến nông lâm- thủy hải sản lại được mở rộng diện ưu đãi. Các đối
tượng tập trung vào các lĩnh vực, sản phẩm quan trọng cần khuyến khích của nền
kinh tế như dự án trồng rừng nguyên liệu giấy, bột giấy, dự án sản xuất giống
gốc…

1.3. Hình thứ hoạt động:
1.3.1. Hình thức cho vay ĐTPT
Để khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, bao cấp tràn lan Nghị định 106 có quy
định mới thu hẹp đối tượng hưởng ưu đãi và đặc biệt là các đối tượng vay vốn.
Với quy định mới về lãi suất đã làm cho lãi suất sát với lãi suất thị trường hơn và
giảm tính bao cấp ở mức lãi suất cũ. Đồng thời với việc tăng lãi suất làm tăng
cường quyền hạn của QHTPT trong việc giám sát, quyết định cho vay nhằm đảm
bảo đầu tư có hiệu quả. Về thời hạn cho vay được xác định dài hơn theo khả năng
trả nợ của chủ đầu tư nhưng tối đa không quá 12 năm. Bên cạnh đó còn có quy
định về bảo đảm tiền vay. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân
tiếp cận dễ hơn với vốn tín dụng ưu đãi và đảm bảo các thành phần kinh tế phát
triển đồng đều hơn.


Bảng 1: Kết quả cho vay đầu tư trung và dài hạn của QHTPT giai đoạn 20002004
Chỉ tiêu
1 Cho vay(tỷ đồng)
2 Dư nợ(tỷ đồng)

2000
4850
9271


2001
7831
14771

2002
9376
21837

2003
13511
31963

2004
10648
38392

3 Tỷ lệ nợ quá hạn(%)

2

2.5

3

3.7

3.2
Nguồn QHTPT

Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn được giải ngân mỗi

năm tương đối lớn, đáp ứng nhu cầu vốn cho nhiều dự án, chương trình lớn của
Chính phủ. Từ năm 2000 đến năm 2003 vốn giải ngân tăng từ 4850 tỷ đồng lên
13511 tỷ đồng. Đến năm 2004 do cơ chế cho vay thay đổi theo hướng thu hẹp đối
tượng cho vay nên vốn giải ngân giảm xuống còn 10648 tỷ đồng. Việc giải ngân
vẫn chưa được tiến hành một cách hiệu quả nên tốc độ giải ngân còn chậm. Chất
lượng tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao và ngày càng có xu hướng tăng
thêm. Điều này cho thấy công tác thẩm định dự án, công tác thanh tra kiểm tra và
quản lý nguồn vay còn chưa tốt.


Bảng 2: Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế quốc dân
Số vốn và tỷ trọng phân theo ngành kinh tế
Năm 2001
Năm 2002 Năm 2003
Số
TT( Số
TT( Số
TT(
vốn
%)
vốn
%) vốn
%)

ST
T

Ngành

Năm 2000

Số vốn TT(
%)

1

CN XD

1770

43

3546

45

4604

49

8442

62

7121

64

2

Nông lâm thủy 1154

hải sản
Giao thông VT
948

28

1688

21

1023

11

1720

13

1558

14

23

2407

30

3380


36

2909

22

2114

19

Khác
Tổng cộng

6
100

348
7989

4
100

369
9376

4
100

440
13511


3
100

334
11126

3
100

3
4

275
4147

Năm 2004
Số
TT
vốn
(%)

Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: QHTPT
Cơ cấu cho vay đầu tư của Quỹ thay đổi dần qua từng năm. Cơ cấu cho vay thể
hiện rõ định hướng ĐTPT theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng cho vay các dự án
thuộc ngành công nghiệp xây dựng, giao thông vận tải có xu hướng tăng nhanh.
Từ năm 2000 đến năm 2003 tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước vẫn
chiếm tỷ trọng lớn. Đến năm 2004 cơ chế cho vay có sự thay đổi nên tỷ trọng

ngày càng giảm xuống còn 87% và đến năm 2005 là 85%. Sự thay đổi này cho
thấy xu hướng giảm sự bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước đã có sự chú
trọng đầu tư vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đối với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển phân theo vùng kinh tế


Bảng 3: Cơ cấu cho vay theo vùng kinh tế giai đoạn 2000 – 2005
Đơn vị: tỷ đồng
S
T
T Vùng
1
2
3
4
5
6
7
8

Đông bắc
Tây bắc
Đồng bằng S.Hồng
Bắc Trung Bộ
Miền trung
Tây nguyên
Đông nam bộ
ĐB Sông Cửu Long
Tổng cộng


Các chỉ tiêu theo vùng kinh tế
Số vốn vay theo HĐTD
Dư nợ
Số
Số
Tỷ trọng vốn Tổng Tỷ
dự án vốn
vay(%)
số
trọng(%
vay
)
781
12010 18.18
5945 15.74
99
1194 1.81
684
1.81
766
15636 23.67
9868 26.13
654
5885 8.91
3408 9.02
430
5726 8.67
2756 7.29
207
3023 4.58

1559 4.13
922
14666 22.2
8782 23.25
1029 7918 11.98
4694 12.43
4888 66058 100
37768 100
Nguồn: QHTPT

Cơ cấu cho vay cho thấy sự phát triển tương đối nhanh của vùng kinh tế trọng
điểm Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đông Bắc, Đồng bằng sông Cửu
Long so với các vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.
Ngoài chính sách tín dụng ĐTPT cũng chú trọng đến hình thức tín dụng xuất
khẩu. Tín dụng xuất khẩu là hình thức cho vay ngắn hạn với các dự án sản xuất
hàng xuất khẩu nhằm hỗ trợ các sản phẩm trong nước xuất khẩu sang nước ngoài,
tăng cường mối quan hệ quốc tế, góp phần thực hiện tốt đường lối công nghiệp
hóa của đất nước.
Tính đến 30/6/2005, thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ vốn cho chiến lược xuất khẩu
QHTPT đã đầu tư trên 6580 tỷ đồng vốn trung và dài hạn cho 700 dự án sản xuất
hàng xuất khẩu và trên 23000 tỷ đồng để hỗ trợ gần 2000 doanh nghiệp thực hiện
thành công trên 5500 hợp đồng xuất khẩu hàng thủy sản gạo, dệt may…vào các
thị trường lớn như ASEAN, EU, Mỹ, Nhật…góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước khoảng 17%/năm trong giai đoạn 2000-2005.


Bảng 4: Tỷ trọng cho vay theo mặt hàng vào thị trường giai đoạn 2000-2005(%)

Nguồn:QHTPT
Cơ cấu trên cho thấy tỷ trọng cho vay của mặt hàng thủy sản chiếm tỷ trọng lớn

Tỷ trọng theo mặt hàng
Tỷ trọng theo thị trường
Thủy sản
34.7
Bắc Mỹ
12.7
Gạo
29.7
Asean
14.74
Điều
6.22
Nhật
8.12
Cà phê
11.15
EU
20.32
Rau quả
1.86
Trung Quốc
12.61
Dây cáp điện
2.61
Trung Đông
6.53
nhất là 34.7%, sau đó đến gạo là 29.7%. Các mặt hàng này đều là các mặt hàng
lợi thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tỷ trọng này đã phản ánh phần nào
tác động của hoạt động tín dụng ưu đãi đối với việc phát huy lợi thế so sánh các
sản phẩm trong nước trên thị trường nước ngoài.

Tỷ trọng cho vay theo thị trường tập trung vào các thị trường lớn như EU, Trung
Quốc, ASEAN. Đây là các thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Tuy
nhiên trong giai đoạn hội nhập quốc tế cần phải nâng cao tỷ trọng cho vay các
mặt hàng, xuất khẩu vào các thị trường lớn và tiềm năng như Mỹ và Nhật Bản.
Bên cạnh hoạt động cho vay đầu tư; cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu thì hoạt
động cho vay lại vốn ODA và vốn ủy thác cũng được tăng cường. Nguồn vốn
ODA được bộ Tài chính ủy thác cho QHTPT quản lý và cho vay đối với các dự
án thuộc đối tượng ưu đãi. Tính đến ngày 30/6/2005, quỹ đang quản lý và cho vay
lại 261 dự án vay vốn ODA, với tổng số vốn vay theo hợp đồng tín dụng đã ký
5.88 tỷ USD, đã giải ngân được trên 3 tỷ USD, dư nợ 40003 tỷ đồng. Hoạt động
cho vay lại vốn ODA đã có sự tăng trưởng mạnh về số lượng và chất lượng. Số
dự án tăng 1.5 lần, tổng dư nợ tăng 2.6 lần. Nhờ kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo
đúng nguyên tắc, đúng chế độ về quản lý đầu tư và xây dựng nên ngoài việc quản
lý các dự án ODA cho vay lại theo ủy thác của Bộ tài chính, quỹ đã được một số
tổ chức quốc tế, chính phủ các nước ủy thác quản lý khoảng 323 triệu USD dưới
dạng các quỹ quay vòng.
1.3.2. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư


Đây là hình thức Nhà nước hỗ trợ một phần lãi suất của chủ đầu tư vay vốn của
các tổ chức tín dụng để đầu tư dự án, sau khi dự án đã hoàn thành đưa vào sử
dụng và trả được nợ. Trong giai đoạn này, Số vốn cấp cho hình thức này ngày
càng tăng cao. Từ 0.3 tỷ năm 2000 đã lên đến 111 tỷ năm 2004. Nếu như năm
2000 chỉ có 49 dự án thì năm 2005 đã có gần 1850 dự án được Quỹ cam kết hỗ
trợ lãi suất sau đầu tư với tổng số vốn đã ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
lên tới 1550 tỷ đồng, đây là nguồn vốn mới nên góp phần thu hút hàng chục ngàn
tỷ đồng từ các nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng cho ĐTPT. Kết quả này cho
thấy hình thức hỗ trợ sau đầu tư ngày càng được đẩy mạnh khuyến khích chủ đầu
tư dự án bằng nguồn vốn vay thương mại.
1.3.3. Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư

Đây là hình thức QHTPT cam kết với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ
đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Trong trường hợp bên đi vay không trả được nợ
hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn thì Quỹ sẽ trả nợ thay cho bên đi vay. Đây là
một hình thức tín dụng có tính chất bền vững không mang tính trợ cấp như cho
vay đầu tư phát triển hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Tuy nhiên trong giai đoạn này
quỹ mới chỉ ký hợp đồng bảo lãnh tín dụng đầu tư cho một vài dự án với tổng số
vốn chỉ khoảng 5-6 tỷ đồng. Sở dĩ hình thức này chưa được mở rộng vì theo quy
định dự án đầu tư phải được quỹ thẩm định phương án tài chính và phương án trả
nợ. Như vậy dự án đầu tư phải trải qua hai lần thẩm định, gây ra thủ tục phiền hà,
tốn thời gian cho chủ đầu tư. Hơn nữa nếu dự án đủ khả năng vay vốn thì tổ chức
tín dụng không đòi hỏi sự bảo lãnh của QHTPT. Chỉ trong trường hợp dự án chứa
đựng nhiều rủi ro, tổ chức tín dụng không sẵn sàng cho vay thì mới cần đến sự
bảo lãnh của Quỹ. Vì thế cần có cơ chế san se rủi ro hợp lý giữa các tổ chức tín
dụng và Quỹ HTPT đồng thời chủ đầu tư cần có sự lựa chọn hợp lý đảm bảo đủ
khả năng trả nợ và hiệu quả trong đầu tư để tránh tổn thất, cho Quỹ khi nhận bảo
lãnh.

2. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay:
2.1. Tổ chức hoạt động:


Cơ chế chính sách


Chính phủ đã ban hành Nghị định 151 về tín dụng ĐTPT để thay thế cho
nghị định 106 khắc phục những hạn chế của cơ chế chính sách cũ. Nghị định 151
đã khắc phục được những hạn chế ở mặt sau:
Nguồn vốn huy động ngày càng được đa dạng trong đó chú trọng nâng cao
tính tự chủ của NHPT trong việc huy động vốn.
Đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi được điều chỉnh phù hợp hơn với thông lệ

quốc tế khi gia nhập WTO.
Lãi suất cho vay điều chỉnh sát với thị trường hơn
Mở rộng thêm các hình thức tín dụng ĐTPT như: bảo lãnh tín dụng xuất
khẩu, bão lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
 Tổ chức thực hiện
NHPT Việt Nam kế thừa mọi quyển lợi trách nhiệm từ QHTPT. Hoạt động
của Ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận, được chính phủ đảm bảo khả năng
thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp NSNN, từng bước tiến tới cân
đối về tài chính.
Trong giai đoạn hội nhập hiện nay ngoài chức năng nhiệm vụ như đã được
quy định đối với QHTPT thì NHPT còn có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ thanh
toán cho khách hàng, tham gia hệ thống thanh toán trong nước, quốc tế và thực
hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu.
Trách nhiệm quyền hạn của các cơ quan Nhà nước đối với NHPT ngày càng
được tăng cường để quản lý và phối hợp với NHPT thực hiện tốt hơn công tác
đầu tư phát triển. Trong đó ngân hàng Nhà nước Việt Nam giám sát NHPT trong
việc thực hiện các nghiệp vụ theo quy định của pháp luật: bộ thương mại thực
hiện các nhiệm vụ theo chức năng và thẩm quyền liên quan đến danh mục tín
dụng xuất khẩu của Nhà nước, Bộ nội vụ: hướng dẫn NHPT thực hiện đúng các
chế độ chính sách quản lý và đào tạo cán bộ viên chức.

2.2. Nguồn vốn và đối tượng:
Nguồn vốn hoạt động ngày càng được mở rộng thêm từ nhiều nguồn theo
hướng giảm bao cấp về vốn ngân sách và tăng nguồn vốn huy động từ các
nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội. Ngoài hình thức huy động phát hành TPCP,
NHPT được quyền phát hành TP NHPT và Kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi theo
quy định. Ngoài ra, nguồn vốn vay của công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, bảo


hiểm xã hội, các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước và nguồn vốn

ủy thác cũng đóng góp một lượng vốn tương đối lớn dành cho nhu cầu ĐTPT
Bảng 5: Số vốn huy động qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Doanh số huy động mới
Phát hành trái phiếu CP
Tỷ lệ trái phiếu/vốn huy
động

2006
30.929
10.050
33%

2007
36.369
24.095
66,3%

2008
40.382
26.647
66%

2009
29.000
5.866
21%

2010

48.370
35.457
73%

Nguồn: NHPT
Qua bảng trên cho thấy tổng tài sản của NHPT tính đến 31/12/2010 đã tăng
gấp gần 2,5 lần so với thời điểm nhận bàn giao từ Quỹ Hỗ trợ phát triển
(01/7/2006). Trong 5 năm, đã huy động thêm tổng số vốn gần 180 nghìn tỷ
đồng, bằng 9,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng kỳ. Trong đó, vốn phát
hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) với thời hạn 2 năm, 3 năm, 5 năm, 7 năm,
10 năm và 15 năm là nguồn vốn lớn để NHPT đầu tư cho các dự án dài hạn và
có vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị niêm yết trên thị
trường chứng khoán, góp phần đa dạng hóa các công cụ nợ, gia tăng sự tích tụ
tài chính, thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, đặc biệt là vốn dài hạn.
Trên cơ sở bảo toàn và không ngừng phát triển vốn, đến nay, nguồn vốn chủ
sở hữu của NHPT đến 31/12/2010 tăng 90%, tức là bằng 190% so với thời
điểm nhận bàn giao từ Quỹ HTPT.

Bảng 6: Nguồn vốn tín dụng ĐTPT giai đoạn 2006-2007
Đơn vị: tỷ đồng


STT
1
2
3
4
5

Khoản mục

Tiền gửi kho bạc Nhà nước, TCTD,
TCTC
Tiền gửi của khách hàng
Vay ngân sách nhà nước, TCTD,
TCTC
Vốn ủy thác đầu tư
Phát hành giấy tờ có giá

2006
1428

2007
271

5594
23193

4233
17316

49266
25753

53178
49588

Nguồn: QHTPT
Qua bảng trên cho thấy qua hai năm thực hiện từ khi chuyển đổi sang mô hình
NHPT thì nguồn vốn huy động tăng mạnh đặc biệt là hình thức phát hành giấy
tờ có giá từ 25,753 tỷ năm 2006 lên 49,588 tỷ năm 2007. Điều này phản ánh

sự tăng cường hơn nữa của NHPT trong việc chủ động về nguồn vốn dành cho
ĐTPT, giảm sự phụ thuộc vào NSNN.
Những bước tiến đáng kể trong công tác huy động vốn không chỉ về khối
lượng ngày càng tăng mà còn có sự cải thiện mạnh mẽ cơ cấu nguồn vốn theo
hướng tăng vốn huy động có kỳ hạn dài, giảm vốn huy động có kỳ hạn ngắn.
Cụ thể là nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh trong khi
đó nguồn vốn từ tiền gửi ngắn hạn lại giảm mạnh từ 1428 tỷ xuống 271 tỷ đối
với tiền gửi của kho bạc nhà nước, tổ chức tài chính, TCTD từ 5594 tỷ xuống
4233 tỷ đối với tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên nguồn vốn vay ổn định từ
các nguồn truyển thống lại có xu hướng giảm từ 23193 tỷ năm 2006 giảm
xuống 17316 tỷ năm 2007.
Để thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập WTO, đối tượng hưởng ưu đãi
cũng được quy định lại trong danh mục đối tượng của tín dụng ĐTPT đi kèm với
nghị định 151.
Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn đỏ là: trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp
sản xuất hàng nội địa thay thế nhập khẩu thì cần phải tận dụng thời gian trước khi
bị cấm tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng này.


Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn vàng là: trợ cấp riêng biệt cho từng
doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành vẫn tiếp tục hỗ trợ song phải kiểm soát chặt chẽ để
tránh bị áp dụng các biện pháp đối kháng.
Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn xanh là: đối tượng không bị cấm,
không bị áp dụng biện pháp đối kháng nên cần đẩy mạnh và mở rộng cho các đối
tượng này.
Theo đó danh mục các đối tượng hưởng ưu đãi tín dụng đầu tư được phân
thành năm nhóm vốn với quy định không phân biệt địa bàn đầu tư và không phân
biệt loại hình doanh nghiệp. Cụ thể bao gồm năm nhóm chủ yếu.
Để đẩy mạnh chiến lược xuất khẩu phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH đất
nước và tận dụng thời gian trước khi các mặt hàng xuất khẩu bị cấm hỗ trợ, hoạt

động hỗ trợ cho xuất khẩu cũng được tăng cường. Tuy nhiên, các đối tượng
hưởng ưu đãi xuất khẩu cũng bị thu hẹp để phù hợp với thông lệ quốc tế khi gia
nhập WTO. Các mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu được quy định theo danh mục riêng,
cụ thể gồm bốn nhóm hàng chính: Nhóm hàng nông, lâm, thủy hải sản, nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ, nhóm hàng sản phẩm công nghiệp, máy tính nguyên
chiếc, phụ kiện máy tính và phần mềm tin học.
Như vậy Nghị định 151 đã tỏ ra phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế đất nước
và chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập.

2.3. Các hình thức hoạt động:
2.3.1. Hình thức cho vay đầu tư phát triển:


Bảng 7: Kết quả cho vay đầu tư giai đoạn 2006-2007
Đơn vị: tỷ đồng
TT
1
2
3
4

Chỉ tiêu
Cho vay
Thu nợ
Dư nợ
Nợ quá hạn

2006
9887
5667

45438
7.02%

2007
14634
7106
53163
5.8%
Nguồn: NHPT

Doanh số cho vay năm 2006 đạt 9887 tỷ, nhưng mới chỉ đạt 54% kế hoạch
Thủ tướng chính phủ giao, bằng 87% nhu cầu vốn do các chủ đầu tư đăng ký.
Như vậy tiến độ giải ngân năm 2006 là rất chậm. sang năm 2007 con số này tăng
lên đến 14634 tỷ. Tốc độ tăng so với năm 2006 đạt 48%, tăng nhanh so với các
năm trước. Đặc biệt trong năm 2007 đã có 113 dự án vay vốn tín dụng đầu tư đưa
vào sử dụng, 1023 dự án đã thanh lý hợp đồng tín dụng.
Về công tác thu hồi nợ vay năm 2006 đạt 5667 tỷ, trong khi đó dư nợ là
45438 tỷ. Công tác này vẫn chưa đạt kế hoạch được giao và còn thấp hơn nữa so
với số nợ phải trả theo hợp đồng đã ký. Nguyên nhân chủ yếu là do một số dự án
chậm tiến độ nên chưa có nguồn thu từ dự án để trả nợ, một số dự án đã hoàn
thành và đưa vào sử dụng nhưng lại gặp khó khăn tạm thời về sản xuất kinh
doanh trong thời gian đầu đưa vào sử dụng
Năm 2007, công tác thu nợ đạt cao so với kế hoạch điều chỉnh, tuy nhiên so
với kế hoạch đặt ra thì tỷ lệ này chỉ là 78% kế hoạch thu nợ gốc và 80% kế hoạch
thu nợ lãi. Việc thu nợ không đạt kết quả đã làm ảnh hưởng đến cân đối nguồn
vốn và việc thực hiện kế hoạch tài chính của NHPT
Một thực trạng còn tồn tại là chất lượng nợ vẫn chưa tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn
năm 2006 là 7.02%, năm 2007 là 5.8%. Tuy con số này có giảm nhưng vẫn còn
cao, phản ánh chất lượng tín dụng chưa cao.
Như vậy có thể thấy rằng qua hai năm thực hiện tình hình giải ngân cho các

dự án đầu tư cũng có nhiều khởi sắc tuy nhiên vẫn có nhiều biến động, chưa thực


sự ổn định. Nguyên nhân chính cho tình trạng này là do năm 2006 cơ chế chính
sách thay đổi nên tổ chức thực hiện vẫn chưa nắm bắt kịp thời với những thay đổi
này để thực hiện tốt nghiệp vụ. Điều này phản ánh một thực tế vẫn còn tồn tại ở
Việt Nam là chính sách ban hành chưa đi cùng với hướng dẫn thực hiện kịp thời
để chính sách sớm đưa vào thực tiễn.
Bảng 8: Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế giai đoạn 2006-2007
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: NHPT
STT

1
2
3
4

Số vốn và tỷ trọng phân theo ngành kinh tế
Năm 2006
Năm 2007
Số vốn
Tỷ
Số vốn Tỷ trọng(%)
trọng(%)
Công nghiệp xây dựng 8206
83
12731 87
Nông lâm, ngư nghiệp 988
10

1170
8
Giao thông vận tải
395
4
439
3
Khác
298
3
294
2
Tổng cộng
9887
100
14634 100
Ngành

Hoạt động tín dụng ĐTPT trong giai đoạn này vẫn có tác động lớn đến
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Số vốn vay cho các ngành đều tăng, tỷ trọng số vốn vay theo các ngành có
sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vốn vay trong các ngành công nghiệp, xây
dựng, giảm tỷ trọng vốn vay của các ngành nông lâm, ngư nghiệp và giao thông
vận tải. Cơ cấu này phù hợp với chiến lược CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn
này.
Cùng với sự tăng lên của nguồn vốn trong nước dành cho ĐTPT thì nguồn
vốn hỗ trợ chính thức ODA cũng tăng lên đáng kể.


Nguồn: NHPT

Chỉ tiêu
Cho vay
Dư nợ

2006
4.850
44.761

2007
8.729
50.607

2008
7.802
54.622

2009
8.069
55.114

2010
10.021
61.392

Qua bảng cho thấy số vốn ODA cho vay lại về mặt bằng có tăng, năm 2006 là
4850 tỷ đến năm 2010 là 10021 tỷ. Điều này cho thấy số dự án vay vốn ODA
cũng tăng lên, thực tế là NHPT đang quản lý cho vay lại đối với 412 dự án với
tổng số vốn tương đương 9,5 tỷ USD. Tuy nhiên xét về tốc độ thì lại đang có xu
hướng tăng chậm lại, riêng năm 2008 con số cho vay có phần giảm xuống. Số dư
nợ có phần tăng cao. Nguyên nhân là do tình hình kinh tế những năm gần đây có

nhiều bất ổn, lạm phát, nhiều dự án đầu tư dàn trải, chậm tiến độ và cũng có
nguyên nhân khác nữa đó là đối tượng ưu đãi cũng có thu hẹp hơn. Nhưng xét
trên khía cạnh khác điều này chứng tỏ các nguồn vốn nước ngoài đã được quản lý
đúng quy định, đảm bảo an toàn, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam đối với
các nhà tài trợ quốc tế. Nhờ đó, NHPT đã được các tổ chức tài chính quốc tế
(WB, AFD, Chính phủ Phần Lan…) tiếp tục giao quản lý các chương trình cấp
nước từ khâu thẩm định, quyết định cho vay, kiểm soát chi, thu nợ… Chính phủ
Nhật Bản, thông qua tổ chức JICA đã thống nhất với Chính phủ Việt Nam giao
cho NHPT trực tiếp triển khai Chương trình cho vay bảo toàn và tiết kiệm năng
lượng, Ngân hàng Tái thiết Đức (KFW) đang tích cực làm việc với NHPT để triển
khai Chương trình xử lý nước thải khu công nghiệp cũng như Chương trình bảo
vệ môi trường và vùng khí hậu…
2.3.2. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Nghiệp vụ hỗ trợ sau đầu tư cũng là một hình thức hỗ trợ gián tiếp, theo báo
cáo của tổng giám đốc VDB với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì giai đoạn 20062009 đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các chủ
đầu tư tiếp cận được các nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM), góp
phần quan trọng đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.
Thông qua lượng vốn mồi này đã huy động được tổng số vốn gần 37.000 tỷ đồng
để đầu tư 2.859 dự án với tổng số vốn đầu tư lên tới gần 85.000 tỷ đồng. trong năm
2009, báo cáo giải trình trước quốc hội của chính phủ, vốn tín dụng ĐTPT của nhà
nước ước cả năm đạt kế hoạch, khoảng 50 nghìn tỷ đồng tăng 25% so với thực hiện


×