Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Sự phát triển thị trường phái sinh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.45 KB, 29 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH
Phái sinh là một công cụ tài chính mà giá trị của nó bắt nguồn từ giá trị của tài sản cơ sở
(Underlying Assets). Tài sản cơ sở ở đây rất đa dạng; như phái sinh hàng hóa thì tài sản cơ sở là cà
phê, nông sản, cao su, sắt thép…; phái sinh chứng khoán thì tài sản cơ sở là cổ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ; phái sinh tiền tệ thì tài sản cơ sở là tỷ giá, lãi suất, ngoại hối…. Như vậy tùy
thuộc vào tài sản cơ sở giao dịch mà thị trường phái sinh cũng được chia làm 3 loại: thị trường phái
sinh hàng hóa, thị trường phái sinh tiền tệ và thị trường phái sinh chứng khoán.
1. CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH
Có 4 loại công cụ phái sinh cơ bản: hợp đồng kỳ hạn (Forwards), hợp đồng tương lai
(Futures), hợp đồng quyền chọn (Options), hợp đồng hoán đổi (Swaps)
1.1 Hợp đồng kỳ hạn (Forwards)


Khái niệm: Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận trong đó người mua và người bán chấp thuận thực
hiện giao dịch một khối lượng hàng hóa tại một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá
giao dịch được ấn định ở thời điểm hiện tại.



Đặc điểm:
-

Chỉ có 2 chủ thể trong hợp đồng kỳ hạn: bên mua và bên bán.

-

Hai bên mua và bán có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp cả hai bên đồng ý hủy
hợp đồng.


-

Ngày ký kết hợp đồng và ngày thực hiện giao dịch hoàn toàn tách biệt nhau.

-

Giá hàng hoá trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng
lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua
và bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua)
theo giá thị trường.

-

Hợp đồng kỳ hạn được sử dụng để phòng ngừa rủi ro biến động giá nhưng đồng thời cũng hạn
chế lợi nhuận tiềm năng của các bên.



Rủi ro trong hợp đồng kỳ hạn:
-

Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên
kia trong việc thực hiện hợp đồng. Nếu có sự thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay tại thời
điểm giao hàng, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng.
1 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
-


Giá cả được xác định mang tính cá nhân và chủ quan giữa 2 bên, do đó độ chính xác trong
việc định giá không cao.

-

Giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày đáo hạn của hợp đồng, không có
khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên,
bản thân những hợp đồng kỳ hạn ẩn chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh vì
không có điều kiện ràng buộc chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng.

1.2 Hợp đồng tương lai (Futures)


Khái niệm: Hợp đồng tương lai là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa. Về bản chất, hợp đồng tương
lai cũng giống với hợp đồng kỳ hạn nhưng khắc phục được những hạn chế của hợp đồng kỳ hạn.



Đặc điểm:
-

Khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai được giao dịch trên thị trường có tổ chức gọi
là Sở giao dịch. Đặc điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các bên mua
bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.

-

Các chủ thể tham gia vào hợp đồng tương lai phải thực hiện ký quỹ tại một ngân hàng trung
gian, nhằm ràng buộc các bên phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.


-

Chủ thể tham gia hợp đồng tương lai có 2 sự lựa chọn để giải tỏa vị thế mua hay bán. Thứ
nhất là chờ tới hạn thanh toán hợp đồng và thực hiện hợp đồng đúng quy định. Thứ hai là có
thể giải tỏa vị thế trước thời hạn bằng việc mở một vị thế triệt tiêu trong cùng hợp đồng. Đối
với người mua hợp đồng tương lai thì có nghĩa là phải bán cùng một lượng hợp đồng tương
lai tương tự, đối với người bán hợp đồng tương lai thì có nghĩa là phải mua cùng một lượng
hợp đồng tương lai tương tự. Đặc điểm này giúp những người tham gia thị trường có thể tránh
được những thiệt hại kinh tế đáng kể nếu trong thời hạn hợp đồng giá cả của tài sản cơ sở có
sự biến động không có lợi cho mỗi bên.

-

Hợp đồng tương lai được tính hàng ngày theo giá thị trường. Những thay đổi về giá trị của
hợp đồng tương lai được ghi nhận vào tài khoản bảo chứng của các bên.

1.3 Hợp đồng quyền chọn (Options)


Khái niệm: Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được quyền (nhưng
không có nghĩa vụ) mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một
khối lượng hàng hoá cơ sở nhất định tại một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định.
Có 3 loại hợp đồng quyền chọn: quyền chọn mua (call options), quyền chọn bán (put options) và
quyền chọn 2 chiều (call and put options).
2 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM



Đặc điểm:
-

Quyền và nghĩa vụ của người mua và bán quyền chọn không cân xứng nhau. Người mua
quyền chọn có quyền thực hiện hay không thực hiện còn người bán quyền chọn có nghĩa vụ
phải thực hiện khi bên mua yêu cầu.

-

Người mua quyền chọn phải trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn (Option
Premium).

-

Ngày thực hiện quyền do người mua quyền quyết định trong kỳ hạn. Đối với quyền chọn kiểu
Mỹ, có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào trong kỳ hạn, nếu quá kỳ hạn quyền mất
hiệu lực. Đối với quyền chọn kiểu Châu Âu, chỉ được thực hiện quyền vào ngày đáo hạn.

1.4 Hợp đồng hoán đổi (Swaps)


Khái niệm: Hợp đồng hoán đổi là sự kết hợp giữa nghiệp vụ giao ngay và nghiệp vụ kỳ hạn hoặc
giữa nghiệp vụ kỳ hạn và nghiệp vụ kỳ hạn để mua hay bán hàng hóa cơ sở theo 2 hướng đối
ngược nhau.

Ngoài những công cụ phái sinh cơ bản trên, còn có những công cụ phái sinh đặc biệt chỉ có ở thị
trường chứng khoán như: chứng quyền, quyền mua cổ phần.
1.5 Chứng quyền (Warrants)



Khái niệm: Là loại chứng khoán được phát hành kèm theo trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho
phép người nắm giữ chứng khoán đó được quyền mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất
định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định. Quyền này được phát hành khi
tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty có mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua
các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có điều kiện kém thuận lợi.



Đặc điểm:
-

Người sở hữu chứng quyền không có quyền cổ đông trong công ty, không được nhận cổ tức
và không có quyền biểu quyết.

-

Các điều khoản của chứng quyền được khi rõ trên chứng chỉ chứng quyền: số cổ phiếu được
muam giá thực hiện mua cổ phiếu và ngày hết hạn hiệu lực của mỗi chứng quyền.

-

Phần lớn các chứng quyền có thời hạn từ 5 đến 10 năm, tuy nhiên cũng có một vài dạng
chứng quyền có thời hạn vĩnh viễn.

1.6 Quyền mua cổ phần (Rights)

3 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM



Khái niệm: Là loại chứng khoán ghi nhận quyền dành cho các cổ đông hiện tại của công ty cổ
phân được mua trước một số lượng cổ phần trong đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương
ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có trong công ty.



Đặc điểm:
-

Quyền mua cổ phần là một công cụ ngắn hạn (từ 30 – 45 ngày).

-

Mức giá đăng ký trong quyền mua cổ phần thấp hơn mức giá hiện hành của cổ phiếu trên thị
trường. Sự chênh lệch này là do: thứ nhất, rủi ro có thể xảy ra khi giá thị trường giảm trong
thời gian phát hành quyền và dẫn đến đợt phát hành cổ phần không thành công. Thứ hai, mức
chênh lệch này làm tăng tính hấp dẫn của đợt phát hành cổ phần mới.

2. VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH
2.1 Quản trị rủi ro
Các công cụ phái sinh đóng vai trò quan trọng trong việc quản trị rủi ro của các chủ thể tham
gia thị trường. Thông qua việc xác định mức giá trước, công cụ phái sinh góp phần hạn chế rủi ro của
các nhà đầu tư trước những biến động giá trên thị trường. Ngoài ra với những điều khoản ràng buộc
chặt chẽ trên thị trường tập trung, các công cụ phái sinh còn góp phần giảm thiểu rủi ro thanh toán,
rủi ro không thực hiện hợp đồng các nhà đầu tư có thể hoàn toàn an tâm khi tham gia thị trường.
2.2 Hoạt động đầu cơ
Các sản phẩm phái sinh cũng là công cụ hiệu quả cho các hoạt động đầu cơ. Các giao dịch
trên thị trường phái sinh chủ yếu đến từ 2 dạng chủ thể: một bên muốn bảo hiểm rủi ro và một bên

tìm kiếm lợi. Do đó nhu cầu của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu
cơ. Các nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh
lệch lãi suất.
2.3 Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường phái sinh là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả. Đặc biệt, thị trường
tương lai được xem là công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản. Vì có rất nhiều hàng
hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay lại rất rộng lớn và phân tán
nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của hàng hóa. Những thông tin được cung cấp trên thị
trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai
một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể xác định trong giới hạn chấp nhận
của mình.
2.4 Thúc đẩy sự phát triển của các thị trường
4 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Thị trường phái sinh với những ưu thế như chi phí giao dịch thấp, tính thanh khoản cao, điều
này làm cho Ngoài ra, thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo, hạn chế tình
trạng thao túng thị trường của những nhà đầu tư tiêu cực. Do đó, hoạt động hiệu quả của thị trường
phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường giao ngay, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển của thị trường.
II. THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Ngày nay, thị trường phái sinh ngày càng phát triển mạnh và đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống tài chính tiền tệ toàn cầu. Khi nhắc đến thị trường phái sinh, hầu như ai cũng nghĩ ngay đến thị
trường chứng khoán, tuy nhiên thực tế thì công cụ phái sinh được sử dụng cho rất nhiều thị trường
chứ không chỉ riêng về thị trường chứng khoán. Phái sinh là một công cụ tài chính mà giá trị của nó
bắt nguồn từ giá trị của các hàng hóa cơ sở. Hàng hóa cơ sở ở đây rất đa dạng; như phái sinh hàng
hóa thì hàng hóa cơ sở là cà phê, nông sản, cao su, sắt thép…; phái sinh chứng khoán thì hàng hóa cơ
sở là cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; phái sinh tiền tệ thì hàng hóa cơ sở là tỷ giá, lãi
suất, ngoại hối… là hàng hóa cơ sở. Với những ưu điểm nổi bật hơn so với các công cụ tài chính

khác, các công cụ phái sinh góp phần bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư như phòng ngừa, giảm
thiểu rủi ro cũng như thúc đẩy sự phát triển của các thị trường.
1. THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH HÀNG HÓA:

Việt Nam với thế mạnh sản xuất và xuất khẩu nông sản tuy nhiên sản lượng các mặt hàng nông
sản lại không ổn định do phụ thuộc vào mùa vụ, giá cả thường xuyên biến động. Ngoài ra thị trường
hàng hóa trong nước vẫn chưa liên thông với thị trường quốc tế nên nhiều mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam luôn phải bán dưới giá bình quân thế giới. Những bất cập trên đã cho thấy
nhu cầu phát triển thị trường phái sinh hàng hóa là tất yếu nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp quản lý
rủi ro biến động giá hàng hóa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với các
doanh nghiệp nước ngoài.
Trên thế giới mô hình sở giao dịch hàng hóa kết hợp với các công cụ phái sinh hiện đang rất phổ
biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây vẫn còn là một hoạt động khá mới mẻ. Sàn giao dịch hàng hóa ở
Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 2002 với sàn giao dịch điều của Hiệp hội điều Việt Nam ở
TP.HCM. Năm 2004 sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ của Công ty chế biến thủy sản Cholimex được
thành lập. Tuy nhiên 2 sàn giao dịch này chỉ hoạt động trong thời gian ngắn và chủ yếu hoạt động
theo hình thức giao ngay.
5 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Nhằm thúc đẩy thị trường phái sinh hàng hóa phát triển, năm 2005 Bộ công thương đã chính thức
cấp phép thành lập Sở giao dịch hàng hóa. Đây là mô hình đầu tiên ở Việt Nam được phép tổ chức
các giao dịch hàng hóa phái sinh đối với 3 mặt hàng cà phê, cao su và thép. Các sàn giao dịch lớn
nhất hiện nay là Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Mê Thuột BCEC (2006), Sàn giao dịch hàng hóa
Sài Gòn Thương Tín STE (2009), Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam VNX (2010) và Sở Giao dịch
hàng hóa INFO thuộc Ocean Group (2013). Trong đó, sự ra đời của VNX đánh dấu một bước ngoặt
mới trong việc hình thành và phát triển thị trường phái sinh hàng hóa tại Việt Nam. Ngoài ra thị
trường phái sinh hàng hóa còn có sự tham gia của các ngân hàng thương mại đóng vai trò môi giới
như Techcombank, BIDV, VCB, PGBank… cung cấp các sản phẩm giao dịch hàng hóa phái sinh

trên các sàn giao dịch hàng hóa quốc tế.
2. THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH TIỀN TỆ

Thị trường phái sinh tiền tệ hình thành sớm nhất và được đánh giá là thị trường phái sinh phát
triển nhất hiện nay. Các công cụ phái sinh được sử dụng đa dạng trong các lĩnh vực ngoại hối, lãi suất
và tỷ giá. Tuy nhiên mức độ phát triển của các công cụ phái sinh tiền tệ ở Việt Nam vẫn còn rất hạn
chế. Đối tượng tham gia thị trường chủ yếu là các Ngân hàng thương mại. Trong khi đó các doanh
nghiệp vẫn còn khá thờ ơ, điều này làm hạn chế sự phát triển của thị trường. Rào cản lớn nhất khi
doanh nghiệp tham gia vào thị trường phái sinh tiền tệ là giới hạn kiến thức về các sản phẩm phái
sinh. Hầu hết doanh nghiệp chỉ dừng lại ở các giao dịch kỳ hạn, các công cụ phái sinh phức tạp hơn
như quyền chọn, hoán đổi vẫn chưa được sử dụng nhiều.
2.1 Ngoại hối
Thị trường phái sinh ngoại hối chính thức hình thành năm 1998 khi thống đốc NHNN ký quyết
định 17/1998/QĐ_NHNN ngày 10/01/1998 ban hành quy chế giao dịch hối đoái. Quy chế này đã tạo
cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối . Tuy nhiên, với quyết
định này thì giao dịch ngoại hối chỉ mới được thực hiện thông qua các công cụ giao ngay, kỳ hạn và
hoán đổi.
Năm 2003, hoạt động quyền chọn chính thức được giao dịch trên thị trường với công văn số
135/NHNN-QLNH ban hành ngày 12/02/2003 về giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ.
Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong đó, công văn quy định cụ thể
6 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
nhằm triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ ở các ngân hàng như về đối tượng tham gia,
đồng tiền giao dịch, thời hạn giao dịch, giới hạn số dư…
Sau 7 năm đi vào hoạt động, quyết định 17/1998/QĐ-NHNN (quyết định 17) đã cho thấy nhiều
hạn chế. Vì vậy, ngày 10/11/2004, thống đốc NHNN đã ký quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về
giao dịch hối đoái của các TCTD thay thế quyết định 17. Quyết định này có những điểm mới như
chính thức cho phép tất cả các TCTD được phép thực hiện các giao dịch hối đoái đều được quyền

thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ mà không cần phải xin phép NHNN, chấm dứt thời gian thí
điểm nghiệp vụ này. Đồng thời, quy định kỳ hạn của giao dịch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau
do tổ chức tín dụng được phép và khách hàng tự thỏa thuận. Bên cạnh đó, quyết định này cho phép
các cá nhân được phép tham gia vào thị trường phái sinh ngoại hối. Đây là chuyển biến lớn giúp thị
trường phái sinh ngày càng phát triển đa dạng hơn.
Ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN_QLNH cho phép ACB triển khai thí điểm
giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ. Theo công văn này, NHNN đã đưa ra những quy định
cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng
giao dịch… Những quy định này là cơ sở để triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa
ngoại tệ và VNĐ tại các NHTM khác dưới sự cho phép của NHNN.
Ngoài ra để hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong việc mở rộng cung cấp các sản phẩm phái sinh
ngoại hối, ngày 29/8/2006, NHNN đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC, trong đó hướng dẫn
cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ
hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ
phái sinh tiền tệ tại các NHTM.
Có thể thấy đến nay, các văn bản pháp lý liên quan đến chính sách quản lý thị trường phái sinh
ngoại hối được ban hành tương đối nhiều nhưng chỉ mang tính tức thời chứ chưa có một bộ luật
chuẩn quy định thống nhất. Điều này gây khó khăn cho các chủ thể tham gia giao dịch trên thị
trường.
2.2 Lãi suất

7 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Năm 2003, Ngân hàng nhà nước đã bắt đầu triển khai hoạt động phái sinh lãi suất thông qua việc
ban hành quyết định số 1133/QĐ- NHNN về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất. Quyết
định trên cho phép mở rộng danh mục các NHTM, các TCTD, các doanh nghiệp được sử dụng công
cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng
với doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng, giữa các ngân hàng trong nước với nhau và giữa các ngân

hàng thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Hiện nay, nhiều NHTM như ABN, Citibank,
HSBC… đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp đồng thời tìm kiếm
đối tác từ các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác.
Được biết, hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện Dự thảo Thông tư Quy định về cung
ứng và sử dụng sản phẩm phái sinh lãi suất của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo bản
dự thảo, đối tượng được sử dụng các sản phẩm phái sinh lãi suất được mở rộng hơn, tuy nhiên các
điều kiện phòng ngừa rủi ro được quy định chặt chẽ hơn. Khi thông tư chính thức ban hành sẽ tạo
điều kiện cho thị trường phái sinh lãi suất phát triển hơn trong tương lai.
3. THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH CHỨNG KHOÁN

Sau hơn 13 năm đi vào hoạt động và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được
những thành công nhất định. Nhưng đến nay vẫn chưa có một thị trường chứng khoán phái sinh để hỗ
trợ nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro biến động giá. Trên thị trường mới chỉ có các công cụ đầu tư cơ bản
như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ. Do đó, thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá vẫn
còn là một thị trường non trẻ so với khu vực và thế giới, thiếu các công cụ đầu tư đa dạng và còn
nhiều tiềm năng chưa được khai thác.
Trên thực tế, dù thị trường chứng khoán phái sinh chưa xuất hiện chính thức và chưa có quy định
pháp lý hướng dẫn thực hiện, các loại chứng khoán phái sinh phi chính thức vẫn tự phát ra đời. Một
số sản phẩm phái sinh chủ yếu là các Hợp đồng quyền chọn dựa trên cổ phiếu đã được giao dịch trên
thị trường OTC mà Công ty chứng khoán là một bên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Các giao
dịch này không có số liệu thống kê cụ thể, chúng được thực hiện theo các hình thức khác nhau. Trong
đó, có một số trường hợp mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có công văn yêu cầu ngừng triển
khai vì chưa có khung pháp lý như việc công ty Vàng Thế Giới ra mắt một sản phẩm gần giống với
Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, đầu tư vào chỉ số chứng khoán Việt Nam, hoặc việc CTCK
VNDirect cung cấp sản phẩm “Hợp đồng hợp tác đầu tư” với những đặc điểm cơ bản của một Hợp
8 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
đồng quyền chọn cổ phiếu. Như vậy, sự xuất hiện của các sản phẩm phái sinh trên thị trường phi tập

trung đã khẳng định nhu cầu của nhà đầu tư đối với loại công cụ mới này. Tuy nhiên, các sản phẩm
phái sinh còn mang tính tự phát, thiếu sự quản lý của nhà nước và mang tính rủi ro cao. Điều này đặt
ra những yêu cầu cụ thể trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
trong tương lai.
Quyết định số 366/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển
TTCKPS Việt Nam bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 11/3/2014 nhằm hoàn chỉnh cấu trúc thị
trường chứng khoán, hỗ trợ sự phát triển bền vững các thị trường chứng khoán cơ sở, góp phần thúc
đẩy sự phát triển và tăng cường vai trò của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính nói
riêng và nền kinh tế nói chung.
Đề án do Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện trong 03 giai đoạn:
- Giai đoạn từ năm 2013 - 2015: Xây dựng khung pháp lý, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật để vận
hành thị trường chứng khoán phái sinh như hệ thống giao dịch, thanh toán bù trừ chứng khoán phái
sinh, hệ thống giám sát và công bố thông tin tại các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký
chứng khoán và thành viên thị trường...
- Giai đoạn từ năm 2016 - 2020: : Tổ chức vận hành TTCK phái sinh, trước mắt là các sản phẩm phái
sinh dựa trên chỉ số chứng khoán, trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu.
- Giai đoạn sau năm 2020: Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của TTCK phái sinh, từng
bước đa dạng hóa các sản phẩm giao dịch Phát triển một thị trường chứng khoán phái sinh thống nhất
dựa trên các tài sản cơ sở theo thông lệ quốc tế.
Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường, các chứng khoán phái sinh được phép giao dịch tại Sở
Giao dịch chứng khoán là các hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán và trái
phiếu Chính phủ. Hợp đồng tương lai dựa trên cổ phiếu, hợp đồng quyền chọn dựa trên chỉ số thị
trường chứng khoán, trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu sẽ được tổ chức giao dịch khi thị trường phát
triển ổn định. Cũng theo Quyết định này, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam là tổ chức duy
nhất thực hiện chức năng thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh theo mô hình đối tác trung tâm

9 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM

thông qua Trung tâm Thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh là đơn vị trực thuộc Trung tâm Lưu
ký chứng khoán Việt Nam.
4. MỘT SỐ SẢN PHẨM PHÁI SINH TẠI CÁC NGÂN HÀNG HIỆN NAY

4.1 Ngân hàng PG Bank
 Giao dịch hợp đồng tương lai hàng hóa:
• Giao dịch hàng hóa tương lai (hay còn gọi Phái sinh hàng hóa) là giao dịch trong đó
khách hàng thực hiện mua, bán một khối lượng hàng hóa tại mức giá xác định và việc
giao nhận hàng được thực hiện trong tương lai. Các yếu tố của giao dịch như khối lượng,


thời gian đến hạn, tiêu chuẩn hàng hóa, mức giá... được các Sàn giao dịch quy định.
Các giao dịch hàng hóa tương lai được thực hiện trên các sàn giao dịch hàng hóa quốc tế
như LIFFE, LME (London), NYBOT, NYMEX CME (New York), TOCOM (Tokyo)...
PG Bank làm trung gian môi giới để đưa lệnh của khách hàng vào giao dịch tại các sàn
quốc tế.

 Hợp đồng kì hạn và hợp đồng hoán đổi:
• Hợp đồng kì hạn là một thỏa thuận giữa hai bên về việc mua hay bán một tài sản nào đó


ở một thời điểm định trước trong tương lai.
Hợp đồng hoán đổi giá cả hàng hóa là một thỏa thuận giữa hai bên cam kết trao đổi cho
nhau dòng tiền trong tương lai của giá cả hàng hóa, tại các thời điểm đã ấn định trong
một khoảng thời gian cố định. Một bên sẽ thanh toán giá cố định và nhận giá thả nổi, bên

kia sẽ thanh toán và nhận theo chiều ngược lại.
 Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi được giao dịch trên thị trường phi tập trung
(OTC).Mua ngoại tệ: giao ngay, kì hạn: mục đích trả nợ vay ngân hàng; thanh toán nhập khẩu
hàng hóa, dịch vụ, cước vận tải, bảo hiểm.

 Bán ngoại tệ : giao ngay, kì hạn.
 Giao dịch quyền chọn:
• Với khoản chi phí mua quyền hợp lý, các TCKT có nhu cầu có thể mua quyền chọn mua

(quyền chọn bán) mà trong đó TCKT có quyền được mua lượng ngoại tệ nhất định tại tỷ



giá thỏa thuận trong một thời gian được xác định tại thời điểm mua (bán) quyền chọn.
Mục đích:
Cung cấp sản phẩm phòng ngừa rủi ro về dòng tiền cho các cho doanh nghiệp xuất nhập

khẩu trước biến động của tỷ giá trên thị trường.
Cung cấp cơ hội đầu tư sinh lời dựa trên phán đoán về xu hướng tỷ giá.
 Hoán đổi ngoại tệ trên TK TGTT :
• Phục vụ tất cả các TCKT có nhu cầu bán một số tiền nhất định của một loại ngoại tệ theo


hình thức giao ngay hoặc kỳ hạn theo tỷ giá thỏa thuận và đồng thời mua lại số tiền của
10 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
loại ngoại tệ đó vào một ngày xác định trong tương lai theo tỷ giá đã thỏa thuận nhằm
phục vụ cho công việc sản xuất kinh doanh.
4.2 Ngân hàng Techcombank:
4.2.1 Phái sinh hàng hóa :
 Hợp đồng ba chân hàng hóa: là hợp đồng giao dịch hàng hóa phái sinh được cấu trúc dựa trên
sự kết hợp các hợp đồng quyền chọn/ hợp đồng tương lai với mức chi phí thấp:
• Doanh nghiệp dự kiến chốt giá mua / hoặc chốt giá bán trong một khoảng phù hợp với kế



hoạch kinh của mình.
Để bảo hiểm giá tăng, DN được bảo hiểm giá mua tối đa ở mức giá Trần, và giá mua tối
thiểu ở mức giá Sàn, đồng thời chấp thuận phần bù giá lớn nhất là khoản chênh lệch giữa



giá Dừng và giá Trần.
Để bảo hiểm giá giảm, DN được bảo hiểm giá bán tối thiểu ở mức giá Sàn và giá bán tối
đa ở mức giá Trần, đồng thời chấp thuận mức bù giá lớn nhất là khoản chênh lệch giữa



giá Dừng và giá Sàn.
Phù hợp với DN cần cố định đầu vào, hoặc đầu ra trong một khoảng giá và trong thời
gian tương đối dài.

 Quyền chọn hàng hóa: Là hợp đồng Quyền chọn hàng hóa giữa Techcombank và khách hàng.

Theo đó, người mua quyền (doanh nghiệp) lựa chọn được quyền nhưng không có nghĩa vụ
Mua/Bán một lượng hàng hóa nhất định tại một mức giá cụ thể trong khoảng thời gian xác
định. Đây là công cụ bảo hiểm biến động giá linh hoạt và đang được ứng dụng rộng rãi.
 Hợp đồng tỷ lệ hàng hóa: là giao dịch hàng hóa phái sinh có kì hạn giữa Techcombank và

khách hàng. Theo đó, khách hàng mua bảo hiểm giá xuống được bán ở giá kỳ hạn (trần) tốt
hơn giá thị trường hiện tại. Doanh nghiệp nhận định giá khó tăng vượt ngưỡng giá trần, hoặc
giảm dưới một mức giá sàn so với mức giá hiện tại. Doanh nghiệp có thể gia tăng lợi nhuận
bằng việc tham gia hợp đồng kỳ hạn giá tốt với giá bán (Trần)/ hoặc giá mua (Sàn) tốt hơn so
với giá thị trường tại thời điểm giao dịch.

 Hợp đồng bảo hiểm chi phí thấp hàng hóa: là hợp đồng giao dịch hàng hóa phái sinh được cấu
trúc với sự kết hợp của quyền chọn / hợp đồng tương lai với mức chi phí thấp:
• DN dự kiến chốt giá mua/ hoặc chốt giá bán trong một khoảng phù hợp với kế hoạch


kinh doanh của mình.
Báo hiểm giá tăng: DN được bảo đảm giá mua tối đa không quá giá Trần, đồng thời
xác định giá mua tối thiểu ở mức giá Sàn xác định trước, với chi phí mua bảo hiểm



thấp.
Với bảo hiểm giá giảm: DN được bảo đảm giá Bán tối thiểu ở mức giá Sàn, đồng thời
xác định giá bán tối đa ở mức Trần xác định trước.

11 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM


Phù hợp với DN cần cố định đầu vào, hoặc đầu ra trong một khoảng giá và trong thời

gian tương đối dài.
 Hợp đồng hoán đổi hàng hóa: là thỏa thuận giữa Techcombank và Khách hàng về việc trao
đổi dòng tiền. Trong hợp đồng hoán đổi hàng hóa, hai bên trao đổi giá Cố định và Thả nổi.
Bên Mua hợp đồng hoán đổi trả mức giá cố định và Bên Bán sẽ phải trả hoặc được nhận
khoản chênh lệch giữa giá cố định và giá thị trường. Được ứng dụng cho những trường hợp
Doanh nghiệp muốn cố định giá mua/hoặc giá bán hàng hóa trong thời gian dài
4.2.2 Phái sinh lãi suất:

 Hợp đồng hoán đổi lãi suất: Hoán đổi lãi suất (IRS) là giao dịch trong đó Techcombank và

khách hàng cam kết định kỳ thanh toán cho bên kia khoản tiền lãi tính theo một loại lãi suất
thả nổi hoặc cố định bằng cùng một đồng tiền trên cùng một khoản tiền gốc danh nghĩa nhất
định. Về bản chất, giao dịch không có trao đổi khoản nợ gốc mà chỉ thành toán phần chênh
lệch lãi suất.
 Hợp đồng hoán đổi tiền tệ chéo: Là giao dịch hoán đổi lãi suất với việc trao đổi các dòng tiền

của hai đồng tiền khác nhau trong tương lai. Trong giao dịch hoán đổi tiền tệ chéo luôn diễn
ra việc trao đổi lãi của một đồng tiền sang lãi của một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao
dịch có thể được hoán đổi vào đầu kỳ (nếu có), và/hoặc giảm dần/tăng dần trong kỳ, và vào
cuối kỳ theo tỷ giá ngoại hối giao ngay được thống nhất tại thời điểm ban đầu khi thực hiện
giao dịch.
4.2.3 Phái sinh ngoại hối:
 Quyền chọn ngoại tệ: Là hợp đồng giữa Techcombank và khách hàng, theo đó người mua

Quyền (doanh nghiệp): có quyền, nhưng không có nghĩa vụ mua hoặc bán một số lượng
ngoại tệ nhất định với một tỷ giá thực hiện đã được ấn định trước tại thời điểm giao dịch
trong một thời hạn cụ thể trong tương lai. Nếu bên mua quyền thực hiện quyền chọn của
mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ trong hợp đồng theo tỉ giá đã
thỏa thuận trước. Có 2 loại quyền chọn:
• Quyền chọn mua: cho phép người mua Quyền (DN) lựa chọn mua hay không mua


ngoại tệ theo tỷ giá đã ấn định trước trong hợp đồng.
Quyền chọn bán: cho phép người mua Quyền (DN) lựa chọn bán hay không bán

ngoại tệ theo tỷ giá đã ấn định trước trong hợp đồng thực hiện.
 Sản phẩm cấu trúc theo yêu cầu:
12 Nhóm 3



SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Các sản phẩm được cấu trúc dựa trên nhu cầu thực tế tình hình kinh doanh của khách hàng về
các giải pháp phòng ngừa rủi ro biến động về tỷ giá, lãi suất, giá cả hàng hóa.
5. NHỮNG THÁCH THỨC CỦA THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM
5.1 Thị trường phái sinh hàng hóa:
Tuy nhiên hiện nay khối lượng giao dịch của thị trường phái sinh hàng hóa vẫn còn rất thấp. Hoạt
động của các sàn giao dịch khá ảm đạm. Đa phần các giao dịch phái sinh mới chỉ dừng ở mức độ
thăm dò, sự tham gia của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nhà đầu tư còn hạn chế. Nguyên nhân
chủ yếu do chưa có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan Nhà nước. Hệ thống văn bản pháp lý còn yếu
kém, dẫn đến sự e ngại của các đối tượng tham gia thị trường. Với thế mạnh về nông sản, thị trường
phái sinh hàng hóa ở Việt Nam được đánh giá là đầy tiềm năng phát triển trong tương lai. Do đó rất
cần sự quan tâm của Nhà nước trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, nhằm thúc đẩy thị trường phái
sinh hàng hóa ngày càng phát triển hơn tại Việt Nam.
5.2 Thị trường phái sinh tiền tệ:
Bên cạnh một số kết quả nhất định và nổi bật thì sau hơn 10 năm quy định và triển khai các công
cụ tài chính phái sinh tiền tệ vẫn còn không ít những trở ngại, bất cập, cản trở sự phát triển các công
cụ này tại Việt Nam. Một số hạn chế về sự phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại
NHTM Việt Nam trong thời gian qua như:
- Các giao dịch mua bán ngoại tệ tại NHTM Việt Nam chủ yếu là giao dịch giao ngay.
- Số lượng NHTM Việt Nam triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ còn quá ít dẫn đến doanh số
thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ chiếm tỷ trọng thấp, chưa đến 10%.
- Các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ đã triển khai tại một số NHTM Việt Nam chưa phong phú,
chưa đa dạng, chưa tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối với khách hàng, vì vậy số lượng khách
hàng tham gia còn khá khiêm tốn.
- Hoạt động mua bán ngoại tệ nói chung và thực hiện công cụ tài chính phái sinh chủ yếu tập trung tại
hội sở chính của từng hệ thống NHTM Việt Nam và một số chi nhánh lớn của NH.

13 Nhóm 3



SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
- Phần lớn các NHTM chưa thật sự quan tâm và đầu tư đúng mức để triển khai có hiệu quả các công
cụ tài chính phái sinh tiền tệ.
- Phần lớn các NHTM chưa chuẩn bị nguồn lực, hệ thống công nghệ để triển khai công cụ tài chính
phái sinh tiền tệ.
- Một số NHTM triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ thiếu sự kiểm soát dẫn đến tổn thất lớn
cho NH. Điển hình là sự kiện kinh doanh ngoại tệ tại một NHTM Việt Nam theo kết quả của Thanh
tra NHNN, đến ngày 31/12/2004 kinh doanh ngoại tệ lỗ của NH này lên tới 499,8 tỷ đồng, riêng quý
IV/2004 chiếm 98,9% số lỗ nói trên (447,6 tỷ đồng). Trong số này, hoạt động kinh doanh đồng EUR
và USD lỗ tới 28,3 triệu USD. Đặc biệt, liên tiếp trong những ngày cuối năm 2004, có 10 giao dịch
mua ngoại tệ lên tới 30 triệu EUR/giao dịch. Rủi ro chủ yếu từ rủi ro hoạt động, trong đó lỗ chủ yếu
xuất phát từ các giao dịch không phải do cán bộ phòng kinh doanh ngoại tệ thực hiện mà do lãnh đạo
không trực tiếp kinh doanh hoặc chỉ đạo cho nhân viên giao dịch thực hiện, giao dịch vượt quá hạn
mức quy định. Các báo cáo trạng thái ngoại tệ của NH này gửi về NHNN cũng không phản ánh chính
xác thực tế trạng thái của NH.
- Các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và công cụ tài chính phái sinh chậm thay
đổi, chưa tương thích với thay đổi của thị trường. Chẳng hạn như Quyết định số 1820/NHNN-QLNH
ban hành ngày 18/3/2009 trong đó quyền chọn chỉ được thực hiện giữa ngoại tệ và ngoại tệ, không
được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và VND, chưa có quy định rõ ràng về kế toán đối với DN về
phí quyền chọn sẽ được ghi nhận như một khoản chi phí hợp lý khi xác định thuế thu nhập DN, quy
định về tỷ giá của NHNN vẫn còn tạo sự chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá trên thị trường.
5.3 Thị trường chứng khoán phái sinh:
 Khung pháp lý cho vận hành TTCKPS là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Hiện

nay, Luật Chứng khoán và Luật Chứng khoán sửa đổi là văn bản pháp luật cao nhất trong lĩnh
vực chứng khoán và TTCK, đã đề cập đến chứng khoán phái sinh trong phần giải thích khái
niệm. Hệ thống khung pháp lý hiện hành nghiêng hẳn về TTCK cơ sở mà chưa có thêm bất kỳ
một quy định nào về chứng khoán phái sinh. Điều này dẫn đến một thực tế là nhiều giao dịch

phái sinh trên TTCK thời gian qua dù xuất hiện phi chính thức đã nhanh chóng bị cấm thực
hiện. Ví dụ như vụ Công ty Vàng Thế giới, giới thiệu sản phẩm VTG-Index gần giống với
14 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu; hay Công ty VNDirect giới thiệu sản phẩm hợp đồng hợp
tác đầu tư gần giống với hợp đồng quyền chọn.
 TTCKPS chỉ phát triển bền vững, ổn định trên nền tảng một TTCK cơ sở tương đối tốt với
các tài sản cơ sở có chất lượng, hệ thống giám sát thị trường đủ mạnh, các tổ chức tài chính
trung gian lớn mạnh về năng lực tài chính và chuyên môn. Vai trò, hiểu biết và nhận thức của
NĐT ở bất kỳ thị trường nào cũng góp phần vào sự thành công của thị trường. NĐT cần phải
thông thái, có khả năng ra quyết định, lựa chọn đầu tư và rủi ro. Điều này là một thách thức
không nhỏ khi phát triển TTCKPS vì đa phần các NĐT hiện nay còn hiểu biết rất hạn chế về
phái sinh. Vì vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đào tạo cũng được coi là một giải
pháp quan trọng.
 Việc giao dịch các chứng khoán phái sinh đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại,
nhất là hệ thống công nghệ thông tin, do việc giao dịch chứng khoán phái sinh phải được
khớp lệnh liên tục, với tốc độ cao. Vì vậy, việc yêu cầu hệ thống công nghệ thông tin hiện đại
là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, việc xây dựng và quản lý vận hành thị trường phức tạp
như TTCK phái sinh, nhất thiết phải xây dựng cơ quan thanh toán bù trừ đối tác trung tâm
(CCP).
 TTCK phái sinh là kiến trúc phát triển cao nhất của TTCK và vận hành dựa trên nền tảng các
công cụ phòng vệ mang tính đòn bẩy. Trên thế giới, khi TTCK cơ sở phát triển ở mức độ khá
cao và hoạt động bán khống, giao dịch ký quỹ, mua bán trong ngày đã được triển khai thì lúc
đó cơ quan quản lý thị trường mới phát triển TTCK phái sinh. Hiện nay, thị trường phái sinh
Việt Nam hình thành trong bối cảnh các sản phẩm cơ bản của thị trường cơ sở chưa đầy đủ,
hoàn thiện. Số lượng chứng khoán tuy nhiều nhưng chất lượng còn thấp, đa số các công ty
niêm yết, đăng ký giao dịch là các công ty vừa và nhỏ, tính công khai, minh bạch trong việc
công bố thông tin còn thấp, các giao dịch bán khống chỉ mới xuất hiện và chưa được

UBCKNN cho phép lưu hành.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH VIỆT NAM
Sự phát triển của thị trường tài chính đến một quy mô nhất định tất yếu phải phát triển thị trường
phái sinh. Điều này cũng không phải là ngoại lệ đối với Việt Nam, khi quá trình hội nhập với thị
trường tài chính thế giới đang diễn ra sâu rộng. Chính phủ đang chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây
dựng hệ thống pháp lý đồng bộ cho sự phát triển của thị trường tài chính phái sinh. Trong đó, tập
trung vào 3 lĩnh vực then chốt .
15 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, định hướng phát triển TTCK phái sinh đã được đề cập tại Quyết định 252/2012 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng khuôn khổ pháp lý cho triển
khai các sản phẩm phái sinh dựa trên cơ sở là thị trường tiền tệ.
Thứ ba, Bộ Công thương chịu trách nhiệm chính trong hoạch định cơ chế pháp lý cho phát triển
các sản phẩm phái sinh dựa trên thị trường hàng hóa, nhằm giúp thị trường tài chính phát triển hiện
đại, có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro, đáp ứng nhu cầu của các định chế tài chính lẫn giới đầu tư.
1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán phái sinh:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa phê duyệt đề án “ Xây dựng và phát triển thị trường chứng
khoán phái sinh Việt Nam “ với quan điểm xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh theo mô hình
tập trung, hoạt động thống nhất dưới sự quản lý của Nhà nước, không để thị trường chứng khoán phái
sinh tự do hình thành và hoạt động tự phát”.
Trên thực tế, dù TTCKPS chưa xuất hiện chính thức và chưa có quy định pháp lý hướng dẫn thực
hiện, các loại chứng khoán phái sinh phi chính thức vẫn tự phát ra đời. Một số sản phẩm phái sinh
chủ yếu là các Hợp đồng quyền chọn dựa trên cổ phiếu đã được giao dịch trên thị trường OTC mà
Công ty chứng khoán (CTCK) là một bên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Các giao dịch này
không có số liệu thống kê cụ thể, chúng được thực hiện theo các hình thức khác nhau.
Trong đó, có một số trường hợp mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước(UBCKNN) đã có công văn
yêu cầu ngừng triển khai vì chưa có khung pháp lý như việc công ty Vàng Thế Giới ra mắt một sản

phẩm gần giống với Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, đầu tư vào chỉ số chứng khoán Việt Nam,
hoặc việc CTCK VNDirect cung cấp sản phẩm “Hợp đồng hợp tác đầu tư” với những đặc điểm cơ
bản của một Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu.
Như vậy, sự xuất hiện của các sản phẩm phái sinh trên thị trường phi tập trung đã khẳng định nhu
cầu của nhà đầu tư đối với loại công cụ mới này. Tuy nhiên, các sản phẩm phái sinh còn mang tính tự
phát, thiếu sự quản lý của nhà nước và mang tính rủi ro cao. Điều này đặt ra những yêu cầu cụ thể
trong quá trình xây dựng và phát triển TTCKPS trong tương lai:
16 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
(1) Hành lang pháp lý hoàn thiện cho việc tạo lập và giao dịch
Nếu như hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán tại đa số các nước đều chỉ được xây dựng
sau khi TTCK đã ra đời một cách tự phát thì với những thị trường phái sinh thành công, hầu hết các
quốc gia đều lựa chọn phương án xây dựng một khuôn khổ luật pháp hoàn chỉnh về giao dịch chứng
khoán phái sinh rồi mới thiết lập thị trường này. Như có thể thấy trong trường hợp của Đài Loan và
Hàn Quốc, cơ quan quản lý thị trường tài chính đều có những bước chuẩn bị trong gần 10 năm, xây
dựng các luật về giao dịch chứng khoán phái sinh, thậm chí dự kiến trước những hành vi vi phạm
tiềm ẩn để có thể luật hóa các vấn đề về giám sát và xử lý những hành vi vi phạm trên thị trường
trước khi thiết lập thị trường.
Khuôn khổ pháp lý về chứng khoán phái sinh phải bao gồm những quy định về thể chế, cấu trúc
thị trường, tổ chức vận hành thị trường, thành viên tham gia thị trường, các sản phẩm được giao dịch
trên thị trường, việc thanh toán và bù trừ, các thẩm quyền của cơ quan quản lý trong việc duy trì một
thị trường trật tự, công bằng và minh bạch.
Khuôn khổ pháp lý này, cần quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện liên quan tới giao dịch
chứng khoán phái sinh và cần có các ưu đãi nhất định ban đầu đối với những thành viên tham gia thị
trường. Ví dụ, đối với các nhà tạo lập thị trường, khuôn khổ pháp lý cần đưa ra các ưu đãi về thuế và
không giới hạn về vị thế giao dịch trên thị trường.
Ở Việt Nam, hiện nay UBCKNN đang xây dựng một Nghị định hướng dẫn riêng về tổ chức và
giao dịch khoán phái sinh để trình Chính phủ ban hành. Nghị định là một văn bản dưới Luật và

hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trên cơ sở Nghị định, SGDCK Việt Nam (theo mô hình định hướng)
và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán sẽ xây dựng các quy chế hướng dẫn về giao dịch và thanh toán và
bù trừ cho các khoán phái sinh gắn với các hoạt động nghiệp vụ của mình. UBCKNN cũng sẽ trình
Bộ Tài chính để bổ sung các quy định về tổ chức, hoạt động của các đối tượng tham gia hành nghề
kinh doanh chứng khoán phái sinh, quy định về thuế, phí trên TTCKPS, quy định về công bố thông
tin, quy định về cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán phái sinh, quy định về thuế, phí
trên TTCKPS… để bảo đảm một hành làng pháp lý tương đối đầy đủ giúp cho thị trường vận hành
hiệu quả, ổn định.

17 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
(2) Cấu trúc thị trường phù hợp và cơ sở hạ tầng hiện đại nhằm đáp ứng tính phức tạp và thanh
khoản của giao dịch phái sinh
Cấu trúc thị trường là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của thị trường phái sinh.
Mọi TTCK đều có thể thành công cho dù các định chế hay nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ chi phối trên
thị trường. Tuy nhiên, thị trường phái sinh dường như là sân chơi của các nhà đầu tư chuyên nghiệp
và các nhà tạo lập thị trường. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy các nhà tạo thị trường là một bộ
phận không thể thiếu trong cấu trúc của một thị trường phái sinh. Thị trường Mỹ, Anh, Úc đều có
những ưu đãi đặc biệt cho các tổ chức và cá nhân đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường để đảm bảo
tính lưu hoạt của TTCKPS.
Thị trường Singapore chỉ biết đến sự thành công sau 20 năm, khi đã đưa hệ thống giao dịch trực
tuyến vào hoạt động và có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường. Thị trường Đài Loan, Hong
Kong, Hàn Quốc đều chú trọng và dành một số ưu đãi về thuế và điều kiện giao dịch cho những định
chế đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường để đảm bảo thị trường vận hành liên tục với tính thanh
khoản cao. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng thị trường, đặc biệt là công nghệ thông tin hiện đại trong giao dịch
và thanh toán bù trừ các giao dịch phái sinh là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự thành công
của thị trường vì giao dịch công cụ phái sinh đòi hỏi các giao dịch phải được khớp liên tục, với tốc độ
cao.

Tuy nhiên, thực trạng ở Việt Nam hiện nay cho thấy vai trò của nhà tạo lập thị trường còn khá mờ
nhạt, ngay cả đối với thị trường cổ phiếu. Các giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí
Minh - HOSE gần như vắng bóng các nhà tạo lập thị trường. Mặc dù trong thời gian qua, các CTCK
đã có sự phát triển nhanh về số lượng, hiện có khoảng 105 công ty tăng gấp 7,5 lần so với cuối năm
2005, nhưng hầu hết trong số này vẫn đang phải đối mặt với tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, đội
ngũ nhân sự thiếu về số lượng, chưa đảm bảo về chất lượng, hoạt động môi giới và tự doanh chưa
thực sự phát triển. Do vậy, các CTCK chưa thể đáp ứng được vai trò tạo lập thị trường. Thị trường
OTC về cơ chế vận hành là một thị trường có sự tham gia của nhà tạo lập thị trường nhưng vai trò
này gần như không thấy trên thị trường OTC Việt Nam.
Do vậy, để có thể phát triển TTCKPS Việt Nam trong tương lai, cần phải có các biện pháp
khuyến khích và ưu đãi cho các CTCK trở thành nhà tạo lập thị trường như ưu đãi về thuế, phí, lệ
18 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
phí; đặc quyền tham gia thị trường sơ cấp; hỗ trợ tư vấn, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ
về hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật giao dịch và hệ thống thông tin. Bên cạnh đó, UBCKNN cần có
chính sách khuyến khích các CTCK nước ngoài hợp tác với khối các CTCK trong nước cùng tham
gia cung cấp dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam. Điều này có thể làm thay đổi diện mạo các dịch vụ
chứng khoán hiện nay, khi mà nhiều dịch vụ quan trọng như tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành … có
chất lượng thấp.
(3) Các công cụ cơ sở trên TTCK
Về mặt lý thuyết, có rất nhiều loại tài sản khác nhau ở Việt Nam có thể cho phép thực hiện giao
dịch phái sinh. Với dân số khoảng 90 triệu người và 1 nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hóa thì các lựa
chọn là rất rộng. Nhưng thực tế cho thấy, các tài sản cơ sở khác nhau được quản lý bởi các cơ quan
chủ quản khác nhau. Phái sinh hàng hóa đặt dưới sự quản lý của Bộ Công Thương và đã được điều
chỉnh bởi Luật Thương mại 2005; Các giao dịch phái sinh tiền tệ được quy được bởi một văn bản
riêng của NHNN, chưa có văn bản quy định thống nhất. Trong khi đó, lĩnh vực chứng khoán do Bộ
Tài chính quản lý trực tiếp là UBCKNN.
Chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán… là cơ sở ban đầu cho hoạt động giao

dịch. Các chứng khoán cơ sở phải đáp ứng được một số tiêu chí về tính thanh khoản, chất lượng của
dòng thông tin về giao dịch tài sản cơ sở và các liên kết về công nghệ thông tin, thẩm quyền quản lý
đối với tài sản cơ sở… Mặt khác, việc lựa chọn các sản phẩm phái sinh ban đầu đưa vào hoạt động
cần được chuẩn hóa ngay từ đầu và đi từ mức độ thấp đến cao, phù hợp với năng lực quản lý, giám
sát và mức độ chấp nhận rủi ro của thị trường. Theo kinh nghiệm của các thị trường phái sinh trong
khu vực, các sản phẩm phái sinh dựa trên chỉ số (index duture; index option), phái sinh dựa trên trái
phiếu (bond future) là sản phẩm giao dịch đầu tiên, sau đó phát triển lên các sinh dựa trên cổ phiếu
(stock option, stock future) và về lâu dài cần thống nhất xây dựng một thị trường phái sinh cho tất cả
các công cụ gốc là chứng khoán, vàng, lãi suất, hối đoái và hàng hóa.
Hiện nay, TTCK Việt Nam đã có hơn 700mã cổ phiếu, 4 mãchứng chỉ quỹ và 507 mãtrái phiếu.
Đây chính là những công cụ cơ sở tiềm năng cho các hợp đồng phái sinh cổ phiếu và trái phiếu. Mặc
dù vậy, chất lượng cũng như thanh khoản của các phần lớn các cổ phiếu, trái phiếu chưa cao. Ngoài
ra, TTCK cũng đã có hai chỉ số chứng khoán là VN-Index và HNX-Index. Các chỉ số này được xây
19 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
dựng trên cơ sở tính bình quân gia quyền với trọng số là tỷ trọng niêm yết của mỗi cổ phiếu trong
danh mục. Tuy nhiên, để hai chỉ số này có thể phản ánh trung thực diễn biến của giá cổ phiếu trên thị
trường, cần có sự điều chỉnh trong cách tính chỉ số.
Hiện nay, tỷ trọng niêm yết của mỗi cổ phiếu được tính trên cơ sở toàn bộ số lượng cổ phiếu được
đưa vào niêm yết mà chưa loại trừ lượng cổ phiếu đưa vào niêm yết nhưng không được giao dịch do
những quy định về hạn chế chuyển nhượng trong vòng 03 năm đối với thành viên HĐQT. Vì thế, các
chỉ số này không hoàn toàn phản ánh diễn biến trung thực của TTCK vì nó bao gồm một khối lượng
nhất định cổ phiếu không được giao dịch (trường hợp cổ phiếu SQC của Công ty cổ phần Khoáng sản
Sài Gòn - Quy Nhơn gần đây là một ví dụ).
(4) Thành viên trung gian của TTCKPS
Thành viên tham gia thị trường phái sinh là ai? Tất cả các CTCK là thành viên của Sở Giao dịch
Chứng khoán (SGDCK) hiện nay, hay một phần trong tổng số các thành viên đó? Yêu cầu gì đối với
các thành viên khi tham gia thị trường phái sinh khi số lượng thành viên bị hạn chế (vốn, công nghệ,

kinh nghiệm, số lượng nhân viên…)? Các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác có được phép
hoạt động như các trung gian trên thị trường phái sinh hay không?
Qua phân tích tình hình thực tiễn của các CTCK cho thấy, số lượng các CTCK hiện có trên
TTCK Việt Nam là khá lớn (trên 100 công ty); trong đó đa phần là các công ty quy mô nhỏ và vừa.
Theo số liệu mà UBCKNN tính toán năm 2012, 12 CTCK chiếm gần 50% thị phần môi giới, mỗi
CTCK trong số 93 CTCK còn lại chỉ có thị phần là 1% hoặc thấp hơn. Do cơ chế thanh toán trên thị
trường phái sinh sẽ là cơ chế sẽ thanh toán/sẽ chuyển giao (quá trình thanh toán/chuyển giao sẽ được
thực hiện trong tương lai) thay vì cơ chế thanh toán trước/chuyển giao trước như hiện nay (quy định
pháp lý hiện hành yêu cầu nhà đầu tư muốn mua chứng khoán phải có đủ tiền và muốn bán chứng
khoán phải có đủ chứng khoán trên tài sản).
Vì vậy, khi tham gia thị trường phái sinh, các CTCK thành viên phải có trách nhiệm cao hơn
trong việc đảm bảo các nghĩa vụ thanh toán, là người đứng sau các giao dịch của khách hàng. Điều
này đòi hỏi phải tăng các yêu cầu về vốn và một số yêu cầu khác (ví dụ: công nghệ, kinh nghiệm…)
so với các yêu cầu vốn trên TTCK cơ sở. Và với yêu cầu tăng vốn, không phải CTCK nào cũng đủ
điều kiện cũng như sẽ lựa chọn tham gia thị trường.
20 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Ở góc độ kinh doanh, chi phí cho việc tham gia vào thị trường phái sinh (ví dụ như làm thành
viên của Đối tác trung tâm (CPP) và khoản tiền đặt cọc theo yêu cầu) có thể lớn hơn lợi nhuận lỳ
vọng do thị phần của các công ty này là thấp. Trên cơ sở đó, chỉ một bộ khác của CTCK mà đáp ứng
được các điều kiện của UBCKNN mới có thể làm tổ chức trung gian trên TTCK phái sinh. Về phía
các ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác, do các sản phẩm phái sinh được nhìn nhận là các loại
“chứng khoán” theo Luật Chứng khoán nên vai trò trung gian trong chứng khoán có thể chỉ được
thực hiện thông qua các CTCK.
(5) Đào tạo và phổ cập kiến thức cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp và cá nhân tham gia TTCKPS
TTCKPS chỉ có thể thành công nếu cơ quan quản lý thị trường tài chính có được sự chuẩn bị đầy
đủ và hiệu quả, nhất là về mặt kiến thức và kinh nghiệm cho các thành viên thị trường. Đài Loan đã
lựa chọn phương thức thiết lập một kênh để cộng đồng đầu tư và kinh doanh trong nước tiếp cận dần

dần với các giao dịch phái sinh nước ngoài 3 năm trước khi thiết lập TTCKPS trong nước. Đây là
một mô hình rất thiết thực bởi không có gì hiệu quả hơn việc để cho cộng đồng kinh doanh tự đào tạo
mình thông qua thực tiễn kinh nghiệm giao dịch tại các thị trường nước ngoài.
Hàn Quốc lại lựa chọn phương án mở các khóa đào tạo bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho các
nhân viên CTCK, quỹ đầu tư và mở các khóa phổ cập kiến thức về chứng khoán phái sinh cho công
chúng đầu tư do SGDCK Hàn Quốc, Ủy ban Giám sát Tài chính (SFC) phối hợp với các CTCK, các
quỹ đầu tư thực hiện. Việc đào tạo này sẽ giúp được đông đảo nhà đầu tư nhỏ lẻ tiếp cận được với
kiến thức về giao dịch phái sinh.
Với định hướng thiết lập được một TTCK phái sinh tập trung, UBCKNN cùng với hai SGDCK
và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán đang triển khai xây dựng Đề án thiết lập TTCKPS; dự thảo Nghị
định hướng dẫn về Tổ chức và hoạt động của TTCKPS. Đây sẽ là những tiền đề cơ bản cho việc xây
dựng các bước cụ thể để có được một thị trường phái sinh trong thực tiễn.
Bên cạnh những nỗ lực từ phía cơ quan quản lý, các thành viên trên thị trường cũng cần phối hợp
tích cực với UBCKNN trong việc chuẩn bị hạ tầng cơ sở cho thị trường như chuẩn bị về hạ tầng cơ
sở tại chính các CTCK thành viên, chuẩn bị nguồn lực có trình độ và am hiểu về chứng khoán phái
sinh, có kế hoạch về xây dựng tài chính đủ mạnh khi tham gia thị trường mới. Đặc biệt là phối hợp
21 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
cùng với UBCKNN để giáo dục, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về chứng khoán phái sinh tới
đông đảo nhà đầu tư hiểu để tham gia.
2. Định hướng phát triển thị trường phái sinh tiền tệ:
Bên cạnh một số kết quả nhất định và nổi bật thì sau hơn 10 năm quy định và triển khai các công
cụ tài chính phái sinh tiền tệ vẫn còn không ít những trở ngại, bất cập, cản trở sự phát triển các công
cụ này tại Việt Nam. Một số hạn chế về sự phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại
NHTM Việt Nam trong thời gian qua như:
- Các giao dịch mua bán ngoại tệ tại NHTM Việt Nam chủ yếu là giao dịch giao ngay.
- Số lượng NHTM Việt Nam triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ còn quá ít dẫn đến doanh số
thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ chiếm tỷ trọng thấp, chưa đến 10%.

- Các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ đã triển khai tại một số NHTM Việt Nam chưa phong phú,
chưa đa dạng, chưa tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối với khách hàng, vì vậy số lượng khách
hàng tham gia còn khá khiêm tốn.
- Hoạt động mua bán ngoại tệ nói chung và thực hiện công cụ tài chính phái sinh chủ yếu tập trung tại
hội sở chính của từng hệ thống NHTM Việt Nam và một số chi nhánh lớn của NH.
- Phần lớn các NHTM chưa thật sự quan tâm và đầu tư đúng mức để triển khai có hiệu quả các công
cụ tài chính phái sinh tiền tệ.
- Phần lớn các NHTM chưa chuẩn bị nguồn lực, hệ thống công nghệ để triển khai công cụ tài chính
phái sinh tiền tệ.
- Một số NHTM triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ thiếu sự kiểm soát dẫn đến tổn thất lớn
cho NH. Điển hình là sự kiện kinh doanh ngoại tệ tại một NHTM Việt Nam theo kết quả của Thanh
tra NHNN, đến ngày 31/12/2004 kinh doanh ngoại tệ lỗ của NH này lên tới 499,8 tỷ đồng, riêng quý
IV/2004 chiếm 98,9% số lỗ nói trên (447,6 tỷ đồng). Trong số này, hoạt động kinh doanh đồng EUR
và USD lỗ tới 28,3 triệu USD. Đặc biệt, liên tiếp trong những ngày cuối năm 2004, có 10 giao dịch
mua ngoại tệ lên tới 30 triệu EUR/giao dịch. Rủi ro chủ yếu từ rủi ro hoạt động, trong đó lỗ chủ yếu
22 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
xuất phát từ các giao dịch không phải do cán bộ phòng kinh doanh ngoại tệ thực hiện mà do lãnh đạo
không trực tiếp kinh doanh hoặc chỉ đạo cho nhân viên giao dịch thực hiện, giao dịch vượt quá hạn
mức quy định. Các báo cáo trạng thái ngoại tệ của NH này gửi về NHNN cũng không phản ánh chính
xác thực tế trạng thái của NH.
- Các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và công cụ tài chính phái sinh chậm thay
đổi, chưa tương thích với thay đổi của thị trường. Chẳng hạn như Quyết định số 1820/NHNN-QLNH
ban hành ngày 18/3/2009 trong đó quyền chọn chỉ được thực hiện giữa ngoại tệ và ngoại tệ, không
được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và VND, chưa có quy định rõ ràng về kế toán đối với DN về
phí quyền chọn sẽ được ghi nhận như một khoản chi phí hợp lý khi xác định thuế thu nhập DN, quy
định về tỷ giá của NHNN vẫn còn tạo sự chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá trên thị trường.
Những kết quả và hạn chế nêu trên tuy chưa thể phản ánh hết được toàn cảnh “bức tranh” về hoạt

động kinh doanh tiền tệ và sự phát triển của công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại các NHTM Việt
Nam. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi đề xuất một số biện pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển các
công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại Việt Nam.
* Về phía NHTM
- Đối với NHTM đã triển khai thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ cần phát triển hơn nữa về
chiều rộng và chiều sâu các công cụ này bằng cách chuẩn bị các điều kiện để không chỉ hội sở mà các
chi nhánh NH có thể thực hiện các giao dịch này với khách hàng.
- NHTM cần tăng cường hội thảo, tư vấn khách hàng theo chuyên đề về những lợi ích mang lại của
công cụ tài chính phái sinh tiền tệ để mở rộng khách hàng áp dụng. NHTM cần tư vấn cho DN phân
tích, đánh giá nhiều yếu tố để có quyết định về mặt tài chính thông qua các sản phẩm phái sinh vì
việc lựa chọn các sản phẩm phái sinh một mặt mang lại lợi ích cho DN, nhưng DN cần phải hiểu biết
về sản phẩm và có biện pháp bảo hiểm rủi ro đi kèm.
- NHTM cần nghiên cứu các sản phẩm, công cụ tài chính phái sinh tiền tệ của các NH trên thế giới,
của chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam và các NHTM có thế mạnh về hoạt động này (VCB,
Eximbank...) để áp dụng phù hợp đối với NHTM mới triển khai công cụ này.

23 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
- Tăng cường hoạt động phân tích, dự báo, giám sát rủi ro thông qua hệ thống hạn mức để giới hạn
mức lỗ, ghi nhận kế toán, hạn chế tổn thất cho NH do thực hiện các giao dịch phái sinh.
- Đối với NHTM chưa thực hiện công cụ tài chính phái sinh, cần chuẩn bị nguồn lực, cơ cấu tổ chức,
nghiên cứu kinh nghiệm của các NH khác để khi đủ điều kiện có thể triển khai có lộ trình từ thí điểm
đến mở rộng, góp phần đáp ứng nhu cầu khách hàng, đa dạng hóa nghiệp vụ và nâng cao thu nhập
NH.
* Về phía Hiệp hội NH và NHNN, Bộ Tài chính
Hiệp hội NH cần kết hợp với các cơ sở đào tạo (học viện, đại học...) làm cầu nối tổ chức các hội
thảo, đào tạo chuyên đề giữa NH và DN để phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ từ sự
hiểu biết, từ lợi ích mang lại để tạo sự quan tâm áp dụng các công cụ này.

- Hiệp hội NH cần là cầu nối tiếp nhận, tập hợp các ý kiến, kiến nghị từ NHTM và DN liên quan đến
công cụ tài chính phái sinh tiền tệ để tư vấn với các cơ quan quản lý sửa đổi quy định phù hợp, góp
phần tạo điều kiện áp dụng công cụ tài chính phái sinh tiền tệ hiệu quả.
- Tạp chí chuyên ngành nên có phần dành riêng giới thiệu các sản phẩm mới, các sản phẩm phái sinh
tiền tệ đã được triển khai, phát hành giới thiệu đến các NH, DN để thu hút sự quan tâm của các chủ
thế này.
- NHNN cần đánh giá sản phẩm phái sinh trên cả hai mặt tích cực và hạn chế, xem xét mở rộng phạm
vi thực hiện các công cụ phái sinh, đồng thời có giải pháp hạn chế những nhược điểm của sản phẩm
này. NHNN cần nghiên cứu, sửa đổi các quy định liên quan đến kinh doanh tiền tệ, công cụ tài chính
phái sinh tiền tệ theo xu hướng hội nhập quốc tế phù hợp điều kiện môi trường Việt Nam trong từng
thời kỳ.
- NHNN cần tăng cường giám sát rủi ro từ xa qua hệ thống thông tin báo cáo của các NHTM và kiểm
tra tại chỗ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn rủi ro kinh doanh tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống
NHTM Việt Nam.
- Bộ Tài chính cần nghiên cứu ban hành chuẩn mực liên quan đến công cụ tài chính phái sinh và ghi
nhận về kế toán thuế liên quan đến công cụ này đối với DN.
24 Nhóm 3


SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
3. Định hướng phát triển cho thị trường phái sinh hàng hóa:
Việt Nam là một trong số những quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản với danh mục
sản phẩm đa dạng từ cà phê, cao su, đến hạt điều, đậu tương,... Đặc điểm của các mặt hàng nông sản
là sản lượng không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, giá cả biến động nhanh, mạnh. Thực tế
kinh doanh nông sản Việt Nam trong những năm vừa qua đã chứng kiến nhiều địa phương, doanh
nghiệp (DN) do không ổn định đầu ra nên sản xuất còn tự phát, nông dân bị cuốn vào vòng luẩn quẩn
“trồng – chặt – trồng” và “được mùa mất giá, mất mùa được giá” khiến việc lập kế hoạch sản xuất
kinh doanh, định giá rất bị động, thu nhập người sản xuất và kinh doanh nông sản đều bấp bênh.
Ngoài ra, do không có SGD hàng hóa đúng nghĩa và liên thông với thị trường quốc tế nên nhiều
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam luôn phải bán dưới giá bình quân thế giới.

Những bất cập trên đã cho thấy nhu cầu phát triển thị trường PSHH cho các DN để quản lý rủi ro
biến động giá hàng hóa, tạo điều kiện cho các DN và người sản xuất tập trung vào hoạt động kinh
doanh cốt lõi với chiến lược phát triển dài hạn và tạo sự bình đẳng cho các DN Việt Nam khi tham
gia cuộc cạnh tranh gay gắt với các DN nước ngoài trong thị trường hàng hóa liên tục biến động.
Với thực trạng về thị trường phái sinh hàng hóa đã kể trên, chúng ta dễ nhận
thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng
ngừa rủi ro. Qua những trình bày về thực trang kể trên, chúng ta nhận thấy thị trường phái sinh hàng
hóa vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập.
Đầu tiên phải kể đến đó là việc thiếu hàng lang pháp lý về thị trường PSHH. Hiện nay, hệ thống
văn bản pháp luật về thị trường PSHH còn nghèo nàn, thiếu tính rõ ràng và chi tiết để hướng dẫn các
chủ thể tham gia thị trường. Các SGD hàng hóa ở Việt Nam hiện nay đều chưa đạt chuẩn, lỏng lẻo về
cơ sở pháp lý và thể lệ hoạt động nên nguy cơ bất ổn và xảy ra tranh chấp là khó tránh khỏi.
Trong khi thị trường PSHH tại các nước khác đều nhận được sự hỗ trợ phát triển của Chính phủ
thì tại Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý đầy đủ để khuyến khích và hỗ trợ các SGD/ngân
hàng phát triển thị trường cũng như bảo vệ nhà đầu tư thông qua các quy định về ký quỹ, bảo lãnh, hỗ
trợ thanh toán hoặc các biện pháp quả lý rủi ro khác.

25 Nhóm 3


×