Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phát triển thị trường tiêu thụ nước giải khát tại các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.15 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngành nước giải khát ở Việt Nam đã trải qua một quá trình hình thành và
phát triển khá lâu, từ cuối thế kỷ XIX đến nay. Đây là một ngành sản xuất thực
phẩm đồ uống quan trọng, gắn liền với nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Ngành nước giải khát có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt
từ năm 2000 đến nay, ngành luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, trung
bình trên 14%/năm, sản phẩm của ngành đã chiếm được một vị trí nhất định ở
thị trường trong nước và từng bước vươn ra thị trường bên ngoài. Đóng góp của
ngành nước giải khát về giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm cũng không ngừng
tăng lên. Bên cạnh đó, ngành còn đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách
Nhà nước và giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển, ngành nước giải khát ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế như chất
lượng sản phẩm nhìn chung còn thấp, năng lực cạnh tranh kém, quy hoạch phát
triển ngành còn nhiều bất cập...
Trong thời kỳ mở cửa hội nhập, những áp lực mà ngành nước giải khát phải
chịu là rất lớn. Theo cam kết khi gia nhập WTO, những hỗ trợ cho ngành từ Nhà
nước sẽ giảm xuống. Chính sách bảo hộ bằng hạn ngạch bị bãi bỏ, thuế nhập
khẩu sẽ giảm theo lộ trình làm cho các sản phẩm nước giải khát từ bên ngoài
xuất hiện nhiều hơn ở thị trường trong nước và cạnh tranh gay gắt với sản phẩm
do ngành nước giải khát ở nước ta sản xuất. Đây thực sự là một thách thức lớn
bởi thị trường nội địa là thị trường tiêu thụ sản phẩm chính của ngành nước giải
khát Việt Nam. Không chỉ gặp khó khăn trên “sân nhà”, sản phẩm của ngành khi
xuất sang thị trường các nước cũng sẽ gặp nhiều trở ngại bởi các rào cản thương
mại như quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm...Càng ngày yêu cầu về chất lượng sản phẩm càng cao, trong khi chất
lượng sản phẩm do ngành nước giải khát nước ta sản xuất còn thấp, gây khó
khăn cho việc tiêu thụ. Có thể nói rằng, hội nhập mở ra cho ngành một thị
trường rộng lớn trước mắt nhưng để thâm nhập được vào những thị trường này
thì không hề đơn giản, nhất là ở các thị trường cao cấp.
1



Với nhận thức đó, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Phát triển thị
trường tiêu thụ nước giải khát tại các doanh nghiệp Việt Nam”.
Với nội dung như trên, ngoài lời mở đầu và kết luận, đề án được kết cấu
thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển thị trường
Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường nước giải khát Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ nước giải
khát ở VN

2


CHƯƠNG 1
Cơ sở lý luận về phát triển thị trường
1.1, Khái niệm :
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thừa
nhận sản xuất hàng hóa không thể phủ định sự tồn tại khách quan của thị trường.
Sản xuất hàng hóa, lưu thông hàng hóa và thị trường đã được khẳng định về lý
luận và tồn tại ở VN, song vấn đề đặt ra là phát triển thị trường như thế nào ? Sự
đồng bộ các loại thị trường có phải là tất yếu không ? Bản chất và nội dung phát
triển thị trường là gì?
Kinh tế hàng hóa, đối lập với kinh tế tự nhiên, sản phẩm trước khi đi vào
tiêu dùng phải qua khâu phân phối lưu thông. Thị trường vừa là kết quả của sản
xuất hàng hóa vừa là điều kiện của sản xuất hàng hóa. Sự tách biệt giữa sản xuất
và tiêu dùng, giữa hàng và tiền đã dẫn tới sự không khớp nhau về khối lượng,
tiến độ, thời gian sản xuất và tiêu dùng hàng hóa. Khi sản xuất xã hội càng phát
triển thì đa số nhu cầu của con người được thỏa mãn thông qua thị trường. Bản
thân sự tiêu dùng (tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất) luôn đòi hỏi
sự đồng bộ cao, nếu không tiêu dùng không thực hiện được.

Trên thị trường có hai nhóm người hoạt động. Nhóm thứ nhất là những
người mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ, nhóm thứ hai là những người bán hoặc
cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng. Sự phân nhóm này chỉ là tương đối
và với mỗi người khi này thì thuộc nhóm người mua nhưng khi khác lại thuộc
nhóm người bán. Thị trường là giao điểm gặp gỡ, tác động của hai nhóm người
này. Cùng thông qua thị trường để giải quyết mâu thuẫn giữa người mua và
người bán, bảo đảm thực hiện cân đối giữa cung và cầu. Mâu thuẫn trên thị
trường phản ánh mâu thuẫn kinh tế, chính trị, xã hội. Khi mâu thuẫn được giải
quyết thì người mua, người bán, người sản xuất, người tiêu dùng đều thực hiện
được mục tiêu của mình. Những ách tắc trên thị trường có nguy cơ dẫn tới
khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn gây mất ổn định xã hội.

3


Như vậy, phát triển thị trường là điều kiện để phát triển sản xuất hàng
hóa, suy rộng ra là điều kiện của sự phồn thịnh kinh tế xã hội.
1.2,Nội dung của phát triển thị trường :
Trong môi trường quốc tế hóa, sự phát triển thị trường không chỉ đáp ứng
yêu cầu trong nước mà còn nhằm vươn tới thị trường ngoài nước, tranh thủ cơ
hội quốc tế để phát triển và mở rộng thị phần. Như vậy, cả điều kiện chủ quan
và khách quan, điều kiện trong nước và ngoài nước, trước mắt và lâu dài đòi hỏi
phải phát triển đồng bộ thị trường. Đồng bộ là có sự ăn khớp giữa tất cả các bộ
phận hoặc các khâu, tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của chỉnh thể. Để có
thể ăn khớp với nhau, các khâu, các bộ phận của một chỉnh thể phải được sắp
xếp và hoạt động theo một tương quan tỷ lệ nhất định gọi là tỷ lệ đồng bộ. Vậy,
sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp giữa các thị trường về
loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng
của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân.
Sự phát triển của thị trường trước hết là hệ thống thị trường với đầy đủ

các loại hình: thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị
trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ... Các thị trường này vừa độc lập với
nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường. Mỗi loại thị trường đều có
cung - cầu, giá cả, người mua - người bán đặc thù ; có quy luật vận hành đặc
trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Sự quan hệ lệ thuộc, tác động biện
chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi hoạt động và phối hợp cung ứng
hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của các thị trường luôn có
xu hướng phá vỡ sự cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và liên hệ giữa các thị
trường đòi hỏi sự cân bằng mới và ăn khớp với nhau. Vấn đề ở đây là, để cân
bằng tự phát hay chủ động điều tiết để có sự ăn khớp hợp lý. Vai trò tạo điều
kiện và chủ động điều tiết của Nhà nước để tạo sự đồng bộ, ăn khớp và hợp lực
để phát triển các hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng.
Vấn đề thứ hai của sự đồng bộ các loại thị trường là vấn đề ăn khớp về
cấp độ hay mức độ phát triển thị trường. Về phương diện lịch sử thị trường, có
4


ba cấp độ phát triển thị trường như sau :
- Cấp độ thị trường cổ điển : Đây là dạng thức của thị trường mà ở cùng
một không gian, thời gian, địa điểm ba yếu tố người mua, người bán và hàng
hóa xuất hiện đồng thời với nhau. Với dạng thức thị trường này, người ta có thể
nhận biết về quy mô, động thái mua bán trên thị trường.
- Cấp độ thị trường phát triển : Ở dạng thức thị trường này, hàng hóa
không nhất thiết phải xuất hiện đồng thời với người mua, người bán. Người ta
có thể mua bán ngay cả trước khi hàng hóa được sản xuất ra. Đó là mua bán theo
hợp đồng ký trước. Với dạng thức thị trường này, tính "hiện hữu" của thị trường
không nhìn thấy được. Thị trường trải rộng cả không gian và thời gian.
- Cấp độ thị trường hiện đại : Trên thị trường lúc này chỉ xuất hiện hoặc
người mua, hoặc người bán. Khi đó, người trung gian xuất hiện làm các công
việc giao dịch và dịch vụ thương mại. Việc ra đời của các sở giao dịch chứng

khoán, sở giao dịch thương mại... đáp ứng yêu cầu dịch vụ mua bán trên thị
trường. Đặc trưng của thị trường hiện đại là các hình thức dịch vụ phong phú và
phát triển rất cao.
Về lịch sử, thị trường lần lượt trải qua ba cấp độ phát triển. Song mỗi
quốc gia, khu vực không phải tuần tự diễn ra như vậy. Khi một cấp độ thị trường
mới xuất hiện thì ở các nước thực hiện kinh tế thị trường đều có thể xuất hiện
dạng thức thị trường đó bất luận trình độ phát triển kinh tế như thế nào. Tuy
nhiên, mức độ phát triển, phạm vi và ảnh hưởng của mỗi dạng thức không giống
nhau. Hiện nay, với các nước phát triển thì cấp độ thị trường hiện đại chiếm ưu
thế phổ biến, thị trường phát triển còn chi phối ở phạm vi rất rộng, thị trường cổ
điển là tàn dư. Ở VN, có thể nói cấp độ thị trường cổ điển là phổ biến, chừng
mực nào đó cấp độ thị trường phát triển đã có sức chi phối lớn trên thị trường,
còn cấp độ thị trường hiện đại đang ở giai đoạn khởi phát.
Vấn đề thứ ba của phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp, nhịp
nhàng, cân đối và tạo hợp lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương quan giữa
các thị trường trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hợp lý thì hoạt động mới có hiệu
quả. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường trong nền kinh tế quốc dân
5


là một chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Sự ăn khớp
nhịp

nhàng, cân đối giữa các loại thị trường theo yêu cầu của sản xuất và đời

sống. Tính nhịp nhàng, cân đối về mặt lượng là tương quan tỷ lệ hợp lý giữa hàng
và tiền, cung và cầu ở tầm vĩ mô. Sự nhịp nhàng cân đối còn thể hiện ở sự khớp
nhau về tiến độ, thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành và phát triển thị
trường "đầu vào", "đầu ra" xuyên suốt quá trình sản xuất.
Sự ra đời của các loại thị trường và khả năng đồng bộ và phát triển của

chúng do trình độ và yêu cầu sản xuất xã hội quyết định. Nói một cách khác là
nó mang tính khách quan. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát triển
sản xuất hàng hóa và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết, điều
chỉnh thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Không thể chủ quan "nặn ra"
thị trường và khuôn ranh giới cho thị trường. Mọi sự tác động duy ý chí sẽ tạo ra
thị trường ngầm, Nhà nước không quản lý được..
1.3,Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường:
1.3.1, Môi trường kinh tế :

1.3.1.1. Tăng trưởng kinh tế :
Nền kinh tế có phát triển, tăng trưởng, đời sống người dân giàu mạnh nhu
cầu tiêu dùng của người dân tăng cao, động lực tốt để xâm nhập và phát triển thị
trường. Ngược lại, nền kinh tế ở tình trạng suy thoái dẫn tới nhu cầu giảm mạnh,
sản phẩm không tiêu thụ được, không phát triển được thị trường mà còn dẫn tới
nguy cơ phá sản.
Mức tăng trưởng của VN vài năm trở lại đây :

Mức tăng
trưởng (%)

2005

2006

2007

2008

2009


8.4

8.2

8.4

6

5.32

6


Năm 2010 tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là 6,8%. Mức tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam trong các năm từ 2005 – 2007 tương đối cao, nhưng từ năm
2008 – 2009 thì mức tăng trưởng này giảm khá nhiều do chính sách kiềm chế
tăng trưởng kinh tế để giảm lạm phát của Nhà nước. Theo dự đoán mới nhất vào
năm 2010 mức tăng trưởng kinh tế VN sẽ hồi phục ở mức 7%.
→ Kinh tế tăng trưởng dẫn đến chi tiêu của khách hàng nhiều hơn, công
ty có thể mở rộng hoạt động và thu được lợi nhuận cao.
1.3.1.2,Mức lãi suất:
Mức lãi suất cũng tác động đến thị trường: khả năng tiếp cận để vay vốn
phát triển doanh nghiệp. Ví dụ như ở VN: lãi suất cơ bản vào năm 2008 dao
động mạnh từ 14% - 8.5%, năm 2009 là 7% và lãi suất cơ bản hiện nay là 8%.
Với lãi suất cơ bản hiện nay là 12% thì lãi suất trần là 15%, điều này gây khó
khăn cho các Doanh nghiệp trong việc vay vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, …
1.3.1.3,Lạm phát :
Lạm phát cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp hay thị
trường. Lạm phát tăng cao, giá cả các mặt hàng sẽ gia tăng, người tiêu dùng cố
gắng cắt giảm những chi tiêu không cần thiết, tiêu dùng giảm. Hơn nữa, nền

kinh tế bất ổn sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các công ty.
1.3.1.4,Chính sách của chính phủ :
Các chính sách của chính phủ cũng tác động đến thị trường. Các chính
sách về giá cả, thị phần, thuế, chính sách bảo hộ, đầu tư tập trung phát triển
ngành…Hiện nay chính phủ VN đang đề ra mục tiêu quy hoạch phát triển ngành
rượu bia nước giải khát với 75 ngàn tỷ đồng. Theo đó, nguồn vốn đầu tư cho
ngành giai đoạn 2008-2010 đã hơn 12,5 ngàn tỷ đồng, giai đoạn 2011-2015 sẽ là
22,7 ngàn tỷ đồng và giai đoạn 2016-2025 sẽ trên 39 ngàn tỷ đồng. Nguồn vốn
đầu tư được huy động từ mọi thành phần xã hội, vốn vay của các ngân hàng
trong và ngoài nước, vốn huy động từ nguồn phát hành cổ phiếu, trái phiếu
Doanh nghiệp… Nhà nước cũng khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản

7


xuất nước giải khát với thiết bị, công nghệ hiện đại, đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Thuế đánh vào nhập khẩu nước giải khát cũng tăng nhanh với 34%,
nhằm bảo hộ cho các Doanh nghiệp sản xuất trong nước trước thị trường bên
ngoài. Thuế xuất khẩu chỉ là 7%, tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp xuất khẩu
mở rộng thị trường.
1.3.2, Môi trường công nghệ :
Công nghệ ngày càng phát triển và được ứng dụng rộng rãi, quyết định sự
thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường.
Các ứng dụng công nghệ hiện nay trong ngành giải khát tập trung vào quy trình
sản xuất và cải tiến bao bì sản phẩm, nỗ lực trong việc giảm lượng nước và năng
lượng sử dụng trong sản xuất cũng như tái chế hoặc thu mua lại các chai, can, lọ,

Ý tưởng sản xuất vỏ chai thân thiện với môi trường, dễ tái chế đang được
nghiên cứu và ứng dụng như : Vỏ chai PlantBottle .. Một ý tưởng cho loại chai

tương lai mới đây sẽ đem đến nhiều lựa chọn hơn trong cùng một sản phẩm cho
người tiêu dùng. Trong lĩnh vực đồ uống, các nhà sản xuất thường đưa ra nhiều
loại sản phẩm có hương vị khác nhau . Việc xây dựng và vận hành vài dây
chuyền nhà máy để cung cấp mỗi loại sản phẩm như vậy là rất đắt đỏ. Việc phân
phối chúng cũng gặp nhiều thách thức, chưa kể đến việc phải có những kho chứa
lớn để chứa đủ loại hương vị như vậy. Tuy nhiên, loại vỏ chai được lập trình sẽ
chỉ cần đến 1 dây chuyền sản xuất để tạo ra thứ mùi vị cơ bản, ví dụ cola.
Những hương liệu khác sẽ được đựng trong những nút nhựa hàn kín, gắn xung
quanh rìa cổ chai. vừa giúp giảm giá thành lại tốn ít không gian trên kệ. "Ý
tưởng ở đây là công ty có thể đưa ra nhiều lựa chọn hơn, nhưng lại phân phối ít
sản phẩm hơn",
1.3.3, Môi trường văn hóa- xã hội :

Mỗi 1 nền văn hóa, xã hội đều mang 1 bản sắc riêng, việc nắm bắt được
các đặc điểm này ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển thị trường.

8


- Người tiêu dùng VN trẻ, khỏe và ham vui, họ rất yêu nước, tự hào dân
tộc, yêu thích thể thao đặc biệt là yêu thích bóng đá. Người dân Việt Nam rất
thích thể hiện bản thân và quan tâm nhiều đến thương hiệu. Giới trẻ Việt Nam
rất sáng tạo, muốn thể hiện bản thân và thử nghiệm những điều mới mẻ.
→ Đây là những đặc điểm chính của người tiêu dùng Việt Nam.
- Quan tâm hơn đến vấn đề sức khỏe: ngoài chuyện ăn ngon, người Việt
còn chú ý đến việc ăn uống sao có lợi cho sức khỏe. Một kết quả khảo sát của
Công ty TNS trên 1.200 người, sinh sống ở TP HCM và Hà Nội, cho thấy có
đến 85% người được phỏng vấn trả lời rằng sức khỏe đối với họ còn quan trọng
hơn cả sự giàu có.
→ Với thay đổi, công ty trong ngành cần có những chính sách đảm bảo an

toàn chất lượng sản phẩm, quan tâm hơn đến vấn đề sức khỏe người tiêu dùng.
Trong hoạt động Marketing cần nhấn mạnh vấn đề sức khỏe.
- Trong giới trẻ ngày càng nhiều người thích trò chơi điện tử để giải trí
hơn là xem truyền hình. Điều này mang lại cơ hội mới cho các nhà làm quảng
cáo trên thế giới. Ở Mỹ, một số hãng quảng cáo cho McDonald's, Coca Cola,
Pepsi, Nestle hay Volvo đã bắt đầu cuộc đua tìm cách đưa các sản phẩm vào
quảng cáo trong các trò chơi điện tử. → Nắm bắt được yếu tố này, đây sẽ là cơ
hội cho các nhà Marketing thu hút và nhận được sự quan tâm của giới trẻ nhiều
hơn.
1.3.4, Môi trường nhân khẩu học :
Dân số hay các thành phần dân số giúp đánh giá thị phần, đầu tư tập trung vào
các phân đoạn thị trường riêng biệt. Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 86 triệu

người, bình quân mỗi năm tăng 947 nghìn người. Việt Nam là một quốc gia đa
chủng tộc: có 54 nhóm dân tộc, trong đó người Việt là đông đảo nhất. Người
Việt chiếm khoảng 86% dân số cả nước và sinh sống tập trung tại khu vực đồng
bằng trong khi hầu hết những nhóm dân tộc thiểu số khác sống chủ yếu tại khu
vực trung du và miền núi.
Kết quả từ số liệu điều tra mẫu cho thấy hiện nay, Việt Nam đang trong
thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm dân số trong độ tuổi lao động
9


cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc. Tuy nhiên, nước ta cũng
bắt đầu bước vào thời kỳ già hóa dân số.
Ngoài yếu tố là thị trường trẻ, thu nhập của người tiêu dùng ở các đô thị
Việt Nam cũng đã tăng đáng kể trong vài năm gần đây. Trong một chừng mực
nào đó, điều này sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng và lối sống của
người Việt Nam.
→ Dân số đông và tăng lên mỗi năm, dân số tập trung chủ yếu ở đồng

bằng, và các thành phố lớn, vì vậy khu vực này là thị trường chủ yếu. Cơ cấu
dân số vàng sẽ đem lại cơ hội cho các công ty trong ngành có được nguồn lao
động trẻ, có tay nghề.
1.3.5, Môi trường toàn cầu :
Các vấn đề toàn cầu hiện nay gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh
doanh của công ty như:
- Môi trường ô nhiễm: lượng khí và chất thải công nghiệp do các công ty
thải ra môi trường ngoài là vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Các sản phẩm từ
thiên nhiên và thân thiện với môi trường ngày càng phổ biến và được nhiều
người ưa thích, ủng hộ.
- Sự khan hiếm nguồn nguyên liệu: Nguyên liệu ngày càng khan hiếm vì
vậy đối với các sản phẩm giải khát trong ngành thì việc tái chế hiệu quả vỏ lon
nước ngọt là cần thiết.
- Chi phí năng lượng ngày càng gia tăng: vì vậy các công ty trong ngành
cần tìm kiếm nguồn năng lượng mới thay thế, vận hành hiệu quả, tiết kiệm chi
phí sản xuất.
1.3.6, Mồi trường chính trị- pháp luật
Hệ thống pháp luật tác động đến các doanh nghiệp ngày càng gia tăng:
luật chống độc quyền, quyền sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế, … sẽ tạo
ra cơ hội cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty trong ngành.
Với sự phát triển hiện nay của các nhóm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng sẽ
là một đe dọa với các công ty vì điều này sẽ làm tăng vị thế của người tiêu dùng
10


lên, buộc công ty phải có trách nhiệm hơn về an toàn sản phẩm, quảng cáo trung
thực và có văn hóa,…

11



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ NƯỚC GIẢI KHÁT VN

2.1, Tổng quan về thị trường nước giải khát Việt Nam:
Thời tiết giá lạnh đã mang đến không khí ảm đạm tại thị trường nước giải
khát. Tuy nhiên không vì thế mà thị trường xuống dốc. Vị trí độc tôn của nước
giải khát có gas tại thị trường Việt Nam đang bị "lung lay", thay vào đó là sự
phát triển của các loại nước giải khát có nguồn gốc thiên nhiên. , thị trường gần
đây cho thấy một sự chuyển biến rất rõ trong ngành nước uống đóng chai. Trong
khi nước ngọt có gas giảm 5% thị phần thì ngành hàng có nguồn gốc từ thiên
nhiên uống liền tăng 12%. Người tiêu dùng đã và đang nhận thức cao hơn về
các loại thức uống tiện dụng này..Tuy nhiên các Doanh nghiệp sản xuất nước
trái cây đóng chai mới đáp ứng được 18% nhu cầu của thị trường, nhường phần
còn lại cho các loại thức uống bình dân. Với ưu thế giá "bèo", các loại nước
uống này vẫn được người tiêu dùng chấp nhận mặc dù không được bất cứ một
cơ quan nào đảm bảo về chất lượng. Các loại nước vỉa hè như trà đá, nhân
trần,..rất được ưu chuộng hiện nay. Là một trong 5 thị trường nước giải khát
không cồn đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trung bình mỗi người Việt
Nam uống khoảng 3 lít nước giải khát không cồn/năm, trong khi mức bình quân
của người Philippines là 50 lít/năm. Theo nghiên cứu mới đây của phòng nghiên
cứu phát triển Công ty Chương Dương, mỗi năm, người dân Việt Nam tiêu thụ
khoảng trên 500 triệu lít nước ngọt có gas. Trái với sự im lặng tại thị trường
nước ngọt có gas, nhu cầu tiêu thụ nước giải khát không gas, đặc biệt là nước
trái cây tại VN tăng rất mạnh, đạt gần 30%/năm. Kết quả bán hàng năm 20042005 của Công ty Bidrico cho thấy, gần 50% người tiêu dùng thành phố đang
chuyển sang các loại nước uống có chứa vitamin, ít ngọt, mùi vị tự nhiên. 65%
thị phần bỏ ngỏ của thị trường nước giải khát có nguồn gốc thiên nhiên đã
nhường chỗ cho các loại nước uống: sữa đậu nành, nước ép rau má, cà rốt...
được sản xuất theo "công nghệ" thủ công. Với giá thành bình dân như chất
12



lượng, các loại nước uống này thường được bày bán ở vỉa hè, có mặt ở hầu hết
các khu dân cư. Với ưu thế "nguồn gốc thiên nhiên, giá thành rẻ", không ít
người vẫn chấp nhận thưởng thức những món giải khát này ở những chiếc xe
đẩy, quán nước vỉa hè... với giá cực rẻ: 1.000-4.000 đồng/cốc. Mặc dù các loại
nước uống này không biết được sản xuất tại đâu, khi nào nhưng đa số người dân
vẫn chấp nhận sử dụng.
2.2, Tình hình phát triển thị trường nước giải khát Việt Nam
Trong năm 2009, các thương hiệu nước giải khát trong và ngoài nước tại
thị trường Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao. Tổng doanh số của thị trường
nước giải khát Việt Nam đã tăng trưởng đến 93% so với cùng kỳ 2008, đạt 36,1
triệu USD trong nửa đầu năm 2009. Trong đó, nước ngọt có gas đạt doanh số
4,1 triệu USD, nhưng đến tháng 11.2009 đã tăng gần 100% so với nửa đầu năm,
đạt 8 triệu USD (tạp chí media của Hồng Kông.1/2010) .Với tốc độ tăng trưởng
này, ngành công nghiệp nước giải khát đã vươn lên vị trí thứ 4 trong số các
ngành có doanh thu lớn nhất Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2009. Trong khi
đó lượng tiêu thụ nước giải khát của Việt Nam năm 2008 chỉ ở mức 9,5
lít/người. Tuy nhiên, con số này sẽ tiếp tục tăng trưởng vì giá bán trung bình của
các sản phẩm đã tăng gần 20% trong năm ngoái.( theo nghiên cứa của
Euromonitor International-Anh).
Trong năm 2008, tổng doanh số bán của thị trường nước giải khát Việt
Nam đạt 4.400 tỉ đồng, tương đương 255 triệu lít và cả Coca-Cola lẫn PepsiCo
đều gần như thống lĩnh thị trường nước có gas. Tuy nhiên, các công ty nước giải
khát trong nước đang chuyển dịch mạnh sang sản xuất các sản phẩm nước trái
cây thiên nhiên và nước uống bổ dưỡng, giảm tỷ trọng nước uống có gas. Xu
hướng trên bắt nguồn từ nguồn nguyên liệu trái cây dồi dào, phong phú quanh
năm của Việt Nam và thị hiếu đang hình thành của người tiêu dùng. Trong
những năm gần đây có sự cạnh tranh sản phẩm giữa các doanh nghiệp trong
nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chiếm lĩnh thị trường

nước giải khát hiện nay vẫn là hai đại gia Coca-Cola và Pepsi Cola (chiếm hơn
13


60% thị phần cả nước), còn lại thị trường của các đơn vị sản xuất trong nước
như Tân Hiệp Phát, TRIBECO, BIDRICO… Do áp lực cạnh tranh trên thị
trường, khiến các doanh nghiệp không ngừng tung ra các sản phẩm mới và thay
đổi chiến lược sản xuất; trong đó có việc giảm tỷ trọng sản xuất nước giải khát
có gas. Trước sự thay đổi thị hiếu của thị trường, các Doanh nghiệp sản xuất
nước giải khát đã lập tức thay đổi cơ cấu sản xuất. Các đại gia: Vinamilk,
Tribeco, Wonderfarm đã tung ra thị trường nhiều loại nước trái cây: táo, xoài,
nho, mãng cầu... để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Hiện các Doanh nghiệp kinh
doanh nước giải khát đã tăng sản lượng trên mức 20% so với năm ngoái:
Vinamilk tăng 30% sản lượng nước trái cây nhãn hiệu Fresh; Pepsi tăng 30%
sản lượng nước giải khát không gas. Các nhà nhập khẩu cũng làm đa dạng thêm
thị trường bằng những mặt hàng cùng loại có thương hiệu: Ligo, Welch"s,
Regain, Berri, Drwitt... Công ty Delta cũng khẳng định sẽ sản xuất nhiều sản
phẩm nước trái cây, đặc biệt là các loại sử dụng nguyên liệu có tác dụng thanh
nhiệt: atisô, mía lau, sâm, bí đao... Sự đa dạng của thị trường đã khiến các hãng
liên tiếp cạnh tranh trên nhiều mặt: Khuyến mãi, nâng cao chất lượng sản phẩm
và giữ nguyên giá bán dù giá nhân công và giá nguyên liệu đang tăng cao. Điều
này đã khiến người tiêu dùng được trực tiếp hưởng lợi.
Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thức uống tiện dụng và có lợi cho sức khỏe

đang tăng mạnh tại thị trường nước giải khát Việt Nam. Thị trường này cũng
còn nhiều tiềm năng lớn chờ đợi các nhà sản xuất đến khai thác, kinh doanh.Ví
dụ như Tân Hiệp Phát là Công ty nước giải khát lớn, sở hữu nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng,các sản phẳm vô cùng đa dạng như Trà Xanh O độ, trà thảo mộc Dr.
Thanh, nước ép trái cây từ me, mãng cầu, chanh dây, sữa đậu nành Soya, nước
tăng lực Number One... và một số thức uống không đường khác), nhằm đáp ứng

nhu cầu về thức uống cho mọi người, mọi lứa tuổi một cách nhanh nhất, tiện lợi
nhất. Sản phẩm của Tân Hiệp Phát rất đa dạng, với nhiều loại đồ uống thích hợp
cho mọi tầng lớp, giới tính, tuổi tác..như với phái nữ có trà Barley, các loại nước
ép trái cây me, mãng cầu, chanh dây, sản phẩm cho phái nam cũng đa dạng
không kém với Cà phê Sữa VIP, nước tăng lực Number One hoặc trà thảo mộc
14


Dr. Thanh để giải nhiệt khi uống nhiều rượu bia. Hơn nữa, bên cạnh các loại
nước trái cây, sữa đậu nành Soya cũng là lựa chọn dành cho các bé, và các loại
trà xanh, trà thảo mộc... phù hợp với sức khỏe cũng như sở thích của người lớn
tuổi. Tân Hiệp Phát được đánh giá là Công ty tiên phong trong ngành thức uống
có lợi cho sức khỏe, thân thuộc và gần gũi với người Việt.
Không thể đứng ngoài cuộc,2 ông lớn trên thị trường nước giải khát có
gas cũng đã có động thái nhất định để không bị mất thị phần sẵn có. Mới đây,
cocacola công bố khoản đầu tư thêm 200 triệu USD tại đây trong 3 năm. Mục
đích của gói đầu tư này là nâng cao quy mô sản xuất, tăng cường các kênh phân
phối, hoạt động tiếp thị và đào tạo nhân lực .Hiện nay, Coca-Cola có 50 nhà
phân phối lớn, 1.500 nhân viên và hơn 300.000 đại lý tại Việt Nam. Không chịu
thua khoản đầu tư bổ sung 200 triệu USD năm 2009 của Coca-Cola, PepsiCo
cũng vừa quyết định mạnh tay hơn với mức đầu tư 250 triệu USD vào thị trường
Việt Nam. Theo kế hoạch, số vốn đầu tư 250 triệu USD sẽ được PepsiCo tập
trung cho cả 3 miền Bắc, Trung và Nam nhằm gia tăng năng lực sản xuất, gia
tăng trang thiết bị tại điểm bán, củng cố sức mạnh cho các thương hiệu và mở
rộng danh mục sản phẩm của Tập đoàn.
Thị trường xuất khẩu nước giải khát, đặc biệt là các loại nước ép hoa quả,
nước uống bổ dưỡng đã tăng trưởng nhanh chóng trong vài năm trở lại đây. Giá
trị xuất khẩu nước uống bổ dưỡng chiếm trên 60% tổng giá trị xuất khẩu nước
giải khát. Ngành nước giải khát đã chiếm được một thị phần lớn tại các thị
trường cao cấp như: Hà Lan, Nhật Bản,Hoa Kỳ, Anh, Canada, Singapre, Trung

Quốc. Các doanh nghiệp nước giải khát có nhiều sản phẩm xuất khẩu phải kể
đến như: Công ty CP thực phẩm Đồng Giao, Công ty Yến sào Khánh Hòa, Công
ty CP Nước giải khát TRIBECO…
Nhìn chung, các công ty có công suất lớn trong nước hoặc có vốn đầu tư
nước ngoài đều đầu tư dây chuyền sản xuất tiên tiến, tự động hóa như Tân Hiệp
Phát, TRIBECO, Dona Newtower… Tuy nhiên, tại nhiều địa phương vẫn còn

15


nhiều cơ sở nước giải khát quy mô nhỏ, đầu tư chắp vá, thiếu đồng bộ, dẫn đến
không đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Theo các chuyên gia trong ngành nước giải khát: Trên cơ sở chuyển dịch
cơ cấu sản xuất hiện nay, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư với quy mô
lớn, thiết bị công nghệ hiện đại, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, kết hợp với
việc xây dựng nguồn nguyên liệu từ khâu khai thác đến khâu bảo quản. Tìm ra
những phân khúc còn trống và đánh trúng tâm lý của người tiêu dùng sẽ giúp
cho ngành nước giải khát Việt Nam trong những năm tiếp theo không những
tăng nhanh về sản lượng mà còn xuất khẩu nhiều hơn ra thị trường nước ngoài.
Miếng bánh của thị trường nước giải khát VN còn khá nhiều đối với Doanh
nghiệp trong nước. Tuy nhiên, không vì thế mà Doanh Nghiệp VN lơ là việc
nâng cao chất lượng, nhằm đem đến những sản phẩm tốt nhất cho người tiêu
dùng. Sự cạnh tranh trên thị trường đồ uống ngày càng trở nên khốc liệt, đòi hỏi
Doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh nghiên cứu, nhằm đưa ra những sản phẩm
mới có chất lượng cao.
2.3,Đánh giá chung về phát triển thị trường tiêu thụ nước giải khát
VN
Thị trường nước giải khát tuy có những sự bức phá, phát triển ngoạn mục
trong nhiều năm trở lại đây. Các công ty lớn dần khẳng định vị thế, cạnh tranh
mang tính chất khốc liệt giữa các doanh nghiệp để dành thị phần. Nói chung thị

trường nước giải khát ở VN vẫn là 1 thị trường béo bở để các Doanh nghiệp đầu
tư, phát triển. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại hạn chế trong việc phát triển thị
trường :
2.3.1.Lộn xộn thị trường nước giải khát,chất lượng bỏ ngỏ ?
Trong cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu , mặt hàng nước giải khát hầu
như không bị tác động. Các nhãn hàng nước giải khát vẫn đang có doanh số tăng
trưởng khoảng 800%/năm. Đồ uống cũng là mặt hàng duy nhất đang giữ phong
độ quảng bá thương hiệu trong lúc các ngành hàng khác đều cắt giảm tối đa chi
phí. Tuy nhiên, do thiếu kiểm soát nên thị trường nước giải khát đang đứng
16


trước hiện trạng thực, giả lẫn lộn. Theo thống kê, có tới 50% trong tổng số 400
cơ sở sản xuất nước uống đóng bình, đóng chai không đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm.( thống kê của Trung tâm xúc tiến thương mại và Đầu tư TP.Hồ Chí
Minh). Qua kiểm tra thấy, có nhiều loại nước tăng lực chứa cocain hoặc sử dụng
chất ngọt tổng hợp nằm ngoài danh mục cho phép. Sữa đậu nành có hàm lượng
protein thấp hơn tiêu chuẩn công bố. Khoảng 30 loại trà thảo dược như atiso, trà
đắng, trà giảm cân, thanh nhiệt không được kiểm định dư lượng thuốc trừ sâu.
Thống kê của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, hiện có trên
1.000 cơ sở sản xuất nước giải khát với quy mô từ hai nhãn hàng trở lên. Bên
cạnh đó, còn có lượng không nhỏ các cơ sở sản xuất chui.
Sở dĩ có tình trạng nhiều sản phẩm thật giả lẫn lộn là bởi các quy định
của pháp luật về quản lý mặt hàng này còn nhiều lỏng lẻo. Theo quy định tại
Luật Chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh An toàn vệ sinh thực phẩm, Nghị định 89
về ghi nhãn hàng hóa thì các hoạt động sản xuất kinh doanh nước giải khát là
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Để được sản xuất mặt hàng này, cơ sở sản
xuất phải có giấy phép kinh doanh và giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an
toàn thực phẩm.Tuy nhiên, việc hậu kiểm hết sức lỏng lẻo, chủ yếu trông chờ ở
sự tự giác của các cơ sở sản xuất. Một trong những khâu quan trọng của quá

trình sản xuất nước giải khát là hương liệu thì không có cơ quan nào dám khẳng
định có thể quản lý được nguồn gốc. Trên thị trường, hương liệu không rõ
nguồn gốc vẫn bày bán tràn lan.
2.3.2,Nhập khẩu tràn lan
Thời gian gần đây, Công ty TNHH nước giải khát Coca-Cola nhập khẩu ồ
ạt những mặt hàng mà công ty cũng đang sản xuất ở Việt Nam. Tính từ đầu năm
đến cuối tháng 9-2010, lượng Coca-Cola nhập khẩu qua các cảng ở TP.HCM đã
lên đến 236.640 thùng các loại, kim ngạch gần 894.000 USD. Có những lô hàng
lên đến hàng chục ngàn thùng, chủ yếu loại 1,5 lít/chai. Riêng Công ty TNHH
Nước giải khát VN (chủ thương hiệu Coca-Cola tại thị trường VN) nhập ba lô,

17


trong đó có lô lên tới 34.000 thùng, kim ngạch tương đương 99.528 USD ( Cục
Hải quan TP.HCM).
Một số nhà phân phối cho rằng việc hàng Coca-Cola nhập về tăng nhanh
là do lợi nhuận từ hàng nhập khẩu khá lớn. Hơn nữa cung đã không đáp ứng
được cầu, Coca-Cola VN tiêu thụ nhanh hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu của
một số chủng loại sản phẩm nên không thể cung ứng đủ sản lượng. Hiện tại thì
công ty đang hoàn tất những kế hoạch nhằm tăng sản lượng sản xuất ở thị
trrường nội địa, lắp đặt và nâng cấp bốn dây chuyền sản xuất từ nay đến hết năm
2011. Không chỉ có Coca-Cola, nước tăng lực Redbull cũng có hàng nhập khẩu
từ Thái Lan. Giá bán hiện nay trên thị trường là 185.000-190.000 đồng/thùng.
Redbull là sản phẩm đã được Công ty TNHH Redbull VN sản xuất tại VN. Điều
này cho thấy năng lực sản xuất của các công ty, Doanh nghiệp Việt Nam còn
nhiều yếu kém. Cần phải có chính sách lâu dài về cả dự báo, sản xuất,và kinh
doanh. Sắp tới hàng hóa nước ngoài sẽ tràn ngập nếu các Doanh nghiệp không
có sự thay đổi thì khó đứng được trên thị trường.


18


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NƯỚC GIẢI KHÁT

3.1, Định hướng phát triển thị trường nước giải khát VN:
Nước giải khát Việt Nam được đánh giá là một ngành có tốc độ tăng
trưởng cao.
Nhiều nhãn hiệu nước giải khát có doanh thu tăng tới 800%/năm. Với 2 tỷ
lít nước giải khát đạt được trong năm 2010, bình quân đầu người Việt Nam tiêu
thụ hơn 23 lít. Nếu so với khoảng cách 6 năm thì tốc độ tăng từ 3 lên 23 lít cũng
là đáng kể. Nhưng so với mức 50 lít của Philipin thì thấy rõ thị trường nước giải
khát của Việt Nam vẫn còn rất rộng lớn. Tuy nhiên việc phát triển thị trường ở
Việt Nam còn rất nhiều tồn tại. Các doanh nghiệp sản xuất nước giải khát đang
tung ra rất nhiều sản phẩm đa dạng, mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng đẹp đáp ứng
hầu hết nhu cầu của người dân. Thị trường nước giải khát được mở rộng trên
khắp cả nước với các chiến lược sản xuất, kinh doanh, marketing hợp lí. Hơn
nữa nhà nước lại đang có chính sách rất ưu đãi về thuế, các thủ tục nhằm khuyến
khích tiêu dùng :”người Việt dùng hàng Việt”…Việc phát triển cũng phải luôn
đi kèm sát với nhu cầu thay đổi liên tục của thị trường, đồng thời chất lượng
phải luôn luôn được đảm bảo tuyệt đối, các dịnh vụ bán hàng và sau bán hàng
phải được nâng cao,hoàn thiện..
Tuy nhiên do đã gia nhập WTO, nên chắc chắn tới đây các Doanh nghiệp
nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam. Chắc chắn sức cạnh tranh sẽ gay gắt hơn rất
nhiều. Tuy nhiên vì thế mà sẽ tạo ra 1 cơ hội lớn cho ngành nước giải khát Việt
Nam có thể mở rộng thị trường xâm nhập vào các thị trường nước ngoài. Vì vậy
mà các Doanh nghiệp nước giải khát cần phải đưa ra các giải pháp nhằm đảm
bảo thị phần của mình trong nước đồng thời mở rộng thị trường ra nước ngoài.


19


3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ nước giải
khát:
3.2.1,Sức khỏe đặt lên hàng đầu:
Xã hội phát triển, mức sống của con người được nâng cao, theo đó người
tiêu dùng VN ngày càng quan tâm đến vấn đề sức khỏe. Thay vì “ăn no”, ngày
nay người tiêu dùng hướng đến “ăn ngon, có lợi cho sức khỏe”, đặt tiêu chí sức
khỏe lên hàng đầu trong việc lựa chọn thực phẩm. Thấu hiểu tâm khách hàng lo
ngại dùng phải sản phẩm kém chất lượng, sản phẩm nhái, mỗi dòng sản phẩm
mới ra đời, nhưng phải luôn đảm bảo ở mức cao nhất về chất lượng và vệ sinh
an toàn thực phẩm. Vì thế với tình hình lộn xộn ,không đảm bảo chất lượng hiện
nay, nên có những giải pháp gì ?
Theo quy định tại Luật Chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh An toàn vệ sinh
thực phẩm, Nghị định 89 về ghi nhãn hàng hóa thì các hoạt động sản xuất kinh
doanh nước giải khát là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Để được sản xuất
mặt hàng này, cơ sở sản xuất phải có giấy phép kinh doanh và giấy chứng nhận
đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Bởi xuất phát từ công nghệ sản xuất
nước giải khát hiện nay là công nghệ pha chế hương liệu. Cho dù có là trà, cam,
táo, nho hay thảo mộc chăng nữa, nếu thiếu chất tạo màu, tạo mùi thì không thể
giữ hương vị để cả năm, phơi mưa phơi nắng trên quầy kệ bán ngoài đường mà
không bị hư hỏng. Các công đoạn pha chế cũng ngày càng đơn giản, khi các
hương liệu tạo màu, tạo mùi, dịch quả, luôn có sẵn đủ các hương vị theo trái cây
tự nhiên. Sản phẩm cao cấp thì dùng thêm đường trái cây vào cùng với đường
kính để nước có hương vị thơm ngon hơn. Nếu để các Doanh nghiệp tự công bố,
cơ quan quản lý nhà nước hậu kiểm thì rõ ràng chúng ta không có đủ lực lượng
để làm việc này. Với thực trạng hiện nay, cần phải thay đổi nội dung và phương
thức quản lý. Theo đó, đối với thực phẩm có nguy cơ cao như nước giải khát thì
thay vì để cho nhà sản xuất tự công bố chất lượng, chúng ta cần tiến hành chứng

nhận hợp quy, để các tổ chức chuyên môn đánh giá xem có đủ điều kiện không,
trên cơ sở đó, cơ quan quản lý nhà nước sẽ cấp giấy phép để sản xuất. Định kỳ
20


tiến hành thanh tra giám sát. Ngoài ra, thay vì quản lý bằng tiêu chuẩn, bằng văn
bản pháp luật thì ngành chức năng phải xây dựng các tiêu chuẩn an toàn quốc
gia, quy định các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản
phẩm nước giải khát. Sản phẩm nào có chứng nhận hợp quy định mới được phép
lưu thông. Sức khỏe của người tiêu dùng là phải được đặt lên hàng đầu vì thế mà
chính phủ nên có những giải pháp cụ thể đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm
nhạy cảm này.
3.2.2 Đa dạng hóa thêm sản phẩm:
Nhu cầu xã hội ngày càng tăng,việc gia tăng thêm những sản phẩm mới là
rất cần thiết. Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy, vào mỗi thời điểm trong
ngày, cơ thể con người sẽ cần và chỉ có thể dung nạp tốt nhất một loại thức
uống. Do đó, nếu được bổ sung đúng lúc, loại thức uống phù hợp sẽ mang lại
hiệu quả cao nhất. Ví dụ, trà xanh sẽ phát huy tối đa lợi ích khi được uống vào
mỗi sáng vì giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể, tăng cường sinh lực và
phòng chống bệnh tật,hay các loại nước trái cây, sữa đậu nành Soya cũng là lựa
chọn dành cho các bé, và các loại trà xanh, trà thảo mộc... phù hợp với sức khỏe
cũng như sở thích của người lớn tuổi. Mới đây công ty acecook đã cho ra mắt
sản phẩm Latte dành cho thế hệ trẻ năng động và luôn muốn khẳng định mình.
Trên thị trường hiện nay chỉ có nước giải khát hoặc sữa có chứa hương vị,
nhưng chưa có loại thức uống thiên nhiên pha thêm với sữa. Đối với những loại
sản phẩm có chứa sữa và được đóng chai PET như Latte thì chỉ có thể được sản
xuất trong môi trưởng Aseptic, tức là môi trường chiết rót vô trùng, công nghệ
này được xem là hiện đại nhất hiện nay . Đó chắc chắn sẽ là 1 đối thủ đáng gờm
của trà xanh…
Từ nghiên cứu này, các Doanh nghiệp phải làm được là dù ở bất kỳ đâu,

bất cứ lúc nào, người tiêu dùng vẫn dễ dàng được đáp ứng nhu cầu.
3.2.3.Tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới
Hiện nay các doanh nghiệp nên tham gia vào các lĩnh vực khác nhau
không chỉ đơn thuần là chỉ sản xuất nước giải khát: như tài chính,bất động
21


sản...Việc này sẽ đánh bóng được tên tuổi của doanh nghiệp, tạo vị thế chiếm
lĩnh thị trường.
Một cuộc chạy đua điên cuồng đang diễn ra trên mạng Internet giữa các
tập đoàn công nghệ thông tin và kinh doanh thế giới, nhằm giành giật lấy một
mẩu nhỏ trong miếng bánh hấp dẫn của thị trường download nhạc hợp pháp đầy
tiềm năng lợi nhuận. Coca-Cola là hãng mới nhất tham gia vào cuộc tranh giành
này bằng việc tung ra dịch vụ âm nhạc trực tuyến có nhãn hiệu của mình với
hơn 250.000 bài hát trực tuyến được bán qua mạng với giá 80 cent/bài. Các bản
nhạc trực tuyến có thể ở nhiều định dạng khác nhau, như MP3, WMA, Real...,
được người sử dụng mua và download về máy tính của mình qua Internet. Các
file nhạc này sau đó có thể nghe trên máy tính hoặc đưa vào máy nghe nhạc số
cầm tay với chất lượng âm thanh không khác gì đĩa CD. Và có vẻ từ các nhãn
hiệu nước giải khát nổi tiếng đến các công ty mới thành lập đều đang cố gắng
lao như thiêu thân theo thành công của Coca Cola với mục đích bắt kịp và chiếm
lĩnh thị trường. Với những người trong lĩnh vực kinh doanh nước giải khát, cuộc
chạy đua này đã phản ánh một chuyển biến trong cách ngành công nghiệp này
nhìn nhận về kinh doanh
3.2.4. Nâng Cao vị thế ngành:
Các Công ty có công suất lớn trong nước hoặc có vốn đầu tư nước ngoài
đang đều đầu tư dây chuyền sản xuất tiên tiến, tự động hóa như Tân Hiệp Phát,
Tribeco, Dona Newtower… Tuy nhiên, tại nhiều địa phương vẫn còn nhiều cơ
sở nước giải khát quy mô nhỏ, đầu tư chắp vá, thiếu đồng bộ, dẫn đến không
đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu

sản xuất hiện nay, các Doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư với quy mô lớn,
thiết bị công nghệ hiện đại, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, kết hợp với việc
xây dựng nguồn nguyên liệu từ khâu khai thác đến khâu bảo quản. Bên cạnh đó,
tìm ra những phân khúc còn trống và đánh trúng tâm lý của người tiêu dùng sẽ
giúp cho ngành nước giải khát VN trong những năm tiếp theo không những tăng
nhanh về sản lượng mà còn xuất khẩu nhiều hơn ra thị trường nước ngoài.
Sau nhiều hội chợ quốc tế về thực phẩm- thức uống được tổ chức liên tục
tại Việt Nam vài năm gần đây, trên thị trường trong nước xuất hiện ngày càng
22


nhiều các loại nước giải khát ngoại nhập. Tuy đánh giá thị trường nước giải khát
ở Việt Nam còn nhiều tiềm năng để khai thác, nhưng các doanh nghiệp trong
nước cũng nhận định phải nhanh tay chiếm giữ thị phần trước cuộc cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Trong tương lai sẽ còn nhiều nhãn hiệu nước uống, nước giải
khát nước ngoài vào Việt Nam, vì thế Doanh nghiệp có sản phẩm tốt thôi chưa
đủ mà phải có những đột phá mới về sản phẩm và quảng bá để mở rộng thị
phần. Vì vậy, đã đến lúc, các Doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nước giải
khát phải chú trọng đến mẫu mã sản phẩm, cụ thể là bao bì, và tăng cường
quảng bá hình ảnh thương hiệu. Về bao bì, khi đưa ra một sản phẩm mới nào,
nhà sản xuất cần phải xác định từng nhóm đối tượng khách hàng khác nhau để
có những phân loại bao bì phù hợp cho nhu cầu sử dụng. Chẳng hạn, với nước
ép trái cây, sử dụng hộp giấy hay bao giấy thay cho chai thuỷ tinh là đã tạo sự
tiện dụng, nhưng cần xem từng thể tích hộp nước cho trẻ em khác với cho người
lớn, cá nhân sử dụng hộp nhỏ trong khi nhà hàng thích loại đóng hộp cỡ lớn 1-2
lít; hoặc có thêm sản phẩm hộp giấy để giảm giá thành so với nước đóng lon,
nhắm tới nhóm khách hàng có thu nhập trung bình. Phân khúc thị trường bắt đầu
từ bao bì như thế sẽ giúp Doanh nghiệp có được nhiều khách hàng hơn. Hiện
nay sản phẩm nước giải khát từ các nước ASEAN hay các quốc gia khác đã
thâm nhập thị trường Việt Nam, các Doanh nghiệp Việt Nam ít nhiều có gặp

khó khăn, tuy nhiên vẫn có những phân khúc thị trường còn bỏ ngỏ để phát
triển, như: nước giải khát cho trẻ em, cho phụ nữ, cho giới văn phòng, nước mát
đóng hộp...Đi kèm với việc xây dựng thương hiệu phải mở rộng việc bán hàng
thông qua việc phát triển các sản phẩm mới và các dịch vụ chăm sóc nhóm
khách hàng khác nhau, củng cố hệ thống phân phối để nâng cao hiệu quả hoạt
động và đáp ứng tốt hơn cho những người bán lẻ nước giải khát. Hơn nữa, việc
mở rộng mạng lưới phân phối còn tạo ra một lợi thế cạnh tranh trong việc đưa
sản phẩm mới nhanh chóng ra thị trường. Nếu nhanh tay và biết khai thác hợp
lý, cộng với uy tín thương hiệu đang có (trong khi các thương hiệu hàng ngoại
nhập phải mất thời gian để tạo niềm tin), tin rằng, các Doanh nghiệp Việt Nam
sẽ tiếp tục thu hoạch lớn trên thị trường nước giải khát trong nước,cũng như thị
trường nước ngoài sắp tới đây..

23


KẾT LUẬN

Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, cùng với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của các thành
phần kinh tế là đường lối chiến lược then chốt. Trong giai đoạn đầu của công
nghiệp hoá, chúng ta phải nhấn mạnh vào những lợi thế vốn có của mình đó là
nguồn tài nguyên, nhân công và điều kiện thời tiết, địa lý. Cho nên,phát triển thị
trường trong nước cũng như xuất khẩu các sản phẩm dựa trên cơ sở khai thác
nguồn lực của đất nước có lợi thế so sánh được xem là chiến lược tăng trưởng
cơ bản và đúng đắn nhất. Thị trường nước giải khát đang trong thời kì bão hòa
nhưng không vì thế mà chúng ta chủ quan dừng lại,cần thay đổi một cách có tổ
chức,hợp lí,linh động với thị trường luôn biến đổi. Vì vậy, qua sự kết hợp lý
luận và thực tế em xin đưa ra một số giải pháp đối với sự phát triển của thị
trường nước giải khát, một số kiến nghị đối với nhà nước để ngành ngày một

phát triển hơn nữa và kiên định con đường phát triển của mình trong môi trường
cạnh tranh quốc tế vô cùng khốc liệt, khai thác được các thuận lợi, vượt qua
được thách thức khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới (tham gia vào
AFTA, gia nhập WTO,…). Hy vọng rằng, những giải pháp trên phần nào sẽ có
ích cho việc phát triển thị trường nước giải khát của Việt Nam.
Kết thúc bài viết này, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Ngô Việt
Nga đã chỉ bảo cho em cả về lý thuyết và thực hành để em có thể hoàn thành tốt
đề án này. Cũng do trình độ và thời gian còn hạn chế, bài đề án của em không
thể tránh khỏi những sai sót. Em xin kính mong sự góp ý chân thành của thầy cô
và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 11 năm 2011
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Thành
24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

TẠP CHÍ VÀ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TY,TỔ CHỨC
1, Tạp chí media của Hồng Kông
2, Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor International (Anh)
3, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
4, Công ty TNS
5, Trung tâm xúc tiến thương mại và Đầu tư TP.Hồ Chí Minh
6, Cục Hải quan TP.HCM
7, Thời báo kinh tế Việt Nam
CÁC THÔNG TIN VÀ SỐ LIỆU TRÊN MẠNG INTERNET

1,

2,
3,
4,


×