Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Chất lượng tín dụng và đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến công tác cấp tín dụng tại BIDV – chi nhánh phú nhuận giai đoạn 2012 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.4 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng coi
mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được. Nhưng để đạt được mục
tiêu quan trọng đó đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách, chiến lược phù hợp và
hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước mình, đồng thời phải kế
thừa và phát triển những tinh hoa của thế giới. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường
tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng, sự lớn mạnh của thị trường tài chính ảnh hưởng
rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia và của cả thế giới. Chủ thể quan trọng của thị
trường tài chính là ngân hàng, nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế thị trường. Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi hệ thống
ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu không hệ thống này sẽ phá vỡ sự ổn
định trong các mối quna hệ kinh tế từ đó dẫn đến suy giảm nền kinh tế.
Tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại đó là, nhận tiền
gửi, hoạt động tín dụng, trung gian thanh toán. Trong đó, hoạt động tín dụng là nguồn
sinh ra lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng thương mại vì thế mà muốn hệ thống ngân
hàng ổn định và phát triển thì đòi hỏi chất lượng hoạt động tín dụng cũng phải ổn định và
hiệu quả. Hơn nữa, hoạt động tín dụng trong ngân hàng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
như: lãi suất, chăm sóc khách hàng, cơ sở vật chất,… Để có được cái nhìn tổng quan về
hoạt động tín dụng, ta cũng cần phải phân tích đánh giá các yếu tố này. Xuất phát từ quan
điểm đó mà, em quyết định chọn đề tài: “ Chất lượng tín dụng và đánh giá những nhân tố
ảnh hưởng đến công tác cấp tín dụng tại BIDV – chi nhánh Phú Nhuận giai đoạn 2012 –
2014” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích chung
Phân tích rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Phú
Nhuận trong 3 năm 2012, 2013, 2014 từ đó đề xuất giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi

1



ro tín dụng cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Phú Nhuận trong
thời gian tới.

2.2. Mục đích cụ thể
Bên cạnh những mục đích chung như trên, việc nghiên cứu còn có những mục đích cụ thể
như sau: (i) Phân tích hoạt động tín dụng và đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng của BIDV chi nhánh Phú Nhuận; (ii) Phân tích thực trạng rủi ro tín dụng
của BIDV chi nhánh Phú Nhuận, những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại BIDV
chi nhánh Phú Nhuận; (iii) Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng cho BIDV chi nhánh Phú Nhuận.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Phạm vi về không gian
Đề tài được thực hiện tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Phú
Nhuận.
3.2. Phạm vi về thời gian
Đề tài được thực hiện từ ngày 10/06/2015 đến 31/08/2015. Các số liệu phân tích trong đề
tài là số liệu của chi nhánh từ năm 2012 đến năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp định tính
Nghiên cứu định tính là một phương pháp điều tra được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhau, không chỉ trong các ngành khoa học truyền thống mà còn
trong nghiên cứu thị trường và các bối cảnh khác. Nghiên cứu định tính nhằm mục đích
thu thập một sự hiểu biết sâu sắc về hành vi con người và lí do ảnh hưởng đến hành vi
này. Các phương pháp định tính điều tra lý do tại sao và làm thế nào trong việc ra quyết
định, không chỉ trả lời các câu hỏi cái gì, ở đâu, khi nào. Do đó, các mẫu nhỏ tập trung
thường được sử dụng nhiều hơn hàng loạt mẫu lớn. Đây là phương pháp chính được sử
dụng để phân tích, đánh giá mức ảnh hưởng của các nhân tố đến công tác cấp tín dụng.
Nghiên cứu định tính là đặt câu hỏi rộng và thu thập dữ liệu từ hiện tượng hoặc người
tham gia. Các nhà nghiên cứu tìm kiếm các chủ đề và mô tả các thông tin trong các chủ
đề và các xu hướng đặc thù của tập hợp các thành viên tham gia.

2


4.2. Phương pháp định lượng
Phương pháp nghiên cứu định lượng là điều tra thực nghiệm có hệ thống về các hiện
tượng quan sát được qua số liệu thống kê, toán học hoặc số hoặc kỹ thuật vi tính. Mục
tiêu của nghiên cứu định lượng là phát triển và sử dụng mô hình toán học, lý thuyết hoặc
các giả thuyết liên quan tới các hiện tượng. Trong khuôn khổ của bài khóa luận, điều này
có nghĩa là nghiên cứu định lượng yêu cầu một câu hỏi cụ thể và thu thập một mẫu dữ
liệu số từ hiện tượng quan sát hay từ nghiên cứu người tham gia trả lời các câu hỏi từ các
phiếu khỏa sát. Việc phân tích các dữ liệu với sự giúp đỡ của các số liệu thống kê thông
qua mô hình SPSS (Statistical Package for the Social Sciences). Phương pháp nghiên cứu
định tính sản xuất thông tin chỉ trong những trường hợp được nghiên cứu đặc biệt, và các
kết luận tổng quát hơn là giả thuyết. Phương pháp nghiên cứu định lượng có thể được sử
dụng để xác minh các giả thuyết đó là đúng sự thật.
4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Các số liệu sơ cấp được thu thập từ việc khảo sát những khách hàng tham gia vào hoạt
động tín dụng của chi nhánh từ đó tìm ra xu hướng chung của hoạt động tín dụng.
Các số liệu thứ cấp được thu thập trực tiếp từ Phòng Kế hoạch – Tổng hợp của BIDV chi
nhánh Phú Nhuận qua 3 năm 2012 – 2014, đây là các số liệu chi tiết về hoạt động tín
dụng của Ngân hàng.
4.2.2. Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp phân tích tổng quát: Đưa ra nhận xét chung về vấn đề phân tích để đánh giá
một cách tổng quát vấn đề. Phương pháp phân tích chi tiết: Đánh giá cụ thể từng phần
riêng biệt trong tổng thể để đưa ra nguyên nhân và giải pháp cho từng phần. Phương pháp
so sánh tỷ trọng từng khoản mục: Phương pháp này xác định phần trăm của từng yếu tố
chiếm được trong tổng thể các yếu tố đang xem xét, phân tích.
Phương pháp so sánh số tuyệt đối, số tương đối giữa các năm 2008, 2009, 2010.Phương
pháp so sánh bằng số tuyệt đối:
y = y1 - y0

Trong đó:
Y0: chỉ tiêu năm trước
Y1: chỉ tiêu năm sau
y: phần chênh lệch tăng, giảm của các chỉ tiêu kinh tế.
3


Phương pháp này sử dụng để so sánh số liệu năm tính với số liệu năm trước của các chỉ
tiêu xem có biến động không và tìm ra nguyên nhân biến động của các chỉ tiêu kinh tế, từ
đó đề ra biện pháp khắc phục.
Phương pháp so sánh bằng số tương đối:
y =

y1  y 0
* 100%
y0

Trong đó:
Y0: chỉ tiêu năm trước
Y1: chỉ tiêu năm sau
y: biểu hiện tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp này dùng để làm rõ tình hình biến động của các chỉ tiêu kinh tế trong thời
gian nào đó. So sánh tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu giữa các năm và so sánh tốc độ tăng
trưởng giữa các chỉ tiêu. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kết hợp với
biểu bảng và đồ thị để phân tích những số liệu cần thiết làm cơ sở phân tích các chỉ tiêu.
Ngoài ra, trong bài khóa luận còn sử dụng phương pháp thông kê chạy với mô hình
SPSS. Hiện nay phần mềm SPSS đang được sử dụng rộng rãi trong thống kê phân tích số
liệu. Đặc biệt trong các trường đại học, việc sử dụng SPSS làm công cụ nghiên cứu đang
hết sức phổ biến. Một mô hình nghiên cứu gồm gồm 2 thành phần cơ bản là (1) các biến

nghiên cứu và (2) các mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu (được thể hiện qua các giả
thuyết nghiên cứu).
5. Kết cấu đề tài
Phần Mở đầu.
Phần Nội dung:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng và những nhân tố ảnh
hưởng đến công tác cấp tín dụng tại BIDV chi nhánh Phú Nhuận.
Chương 3: Nhận xét, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại BIDV chi
nhánh Phú Nhuận.
Phần Kết luận.
4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Hoạt động tín dụng trong thương mại
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa.Giao
dịch về tài sản dưới dạng hàng hóa hoặc tiền tệ giữa bên đi vay và bên cho vay, trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng một thời hạn nhất định theo thỏa
thuận, đồng thời bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả khiđến hạn bao gồm vốn gốc và lãi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các cá nhân và tổ chức
được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn và cho vay đối với các
đối tượng nói trên. Trong mối quan hệ này thì ngân hàng đóng vai trò trung gian vừađi
vay vừa cho vay.
1.1.1. Bản chất của tín dụng
Qua tìm hiểu về hoạt động tín dụng trong ngân hàng, có thể rút ra được một số bản chất
của tín dụng như sau: (i) Người cho vay chuyển tài sản cho người đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định; (ii) Thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người đi
vay và người cho vay; (iii) Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập

dưới hình thức lợi tức.
1.1.2. Chức năng của tín dụng
1.1.2.1. Chức năng phân phối lại tài nguyên
Tín dụng là sự chuyển nhượng vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác, thông qua sự
chuyển nhượng này chức năng phân phối lại tài nguyên của tín dụng được thể hiện ở các
mặt sau: (i) Người cho vay có một số tài nguyên tạm thời chưa dùng đến, thông qua tín
dụng số tài nguyên đó được phân phối lại cho người đi vay; (ii) Ngược lại người đi vay
cũng nhận được phần tài nguyên phân phối lại thông qua tín dụng.
1.1.2.2. Chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phát triển sản xuất
Tín dụng thể hiện chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hóa và phat triển sản xuất thông
qua các mặt sau: (i) Tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh được thực
hiện bình thường, liên tục và phát triển; (ii) Tạo ra nguồn vốn để đầu tư mở rộng phạm vi
và quy mô sản xuất kinh doanh; (iii) Tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ thanh toán góp phần
thúc đẩy lưu thông hàng hóa bằng việc tạo ra tín tệ và bút tệ.
5


1.1.3. Vai trò của tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, nó quyết định sự tồn
tại và phát triển của một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng
mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho một ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế xã hội, là trung gian chuyển vốn từ người có vốn tạm thời nhàn rỗi sang
người thiếu vốn để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu, hoạt động của ngân hàng thương mại
đã tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu
hụt về vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh
hoặc nhu cầu tiêu dung cá nhân. Trong quá trình phát triển, mặc dù môi trường kinh
doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, sản phẩm mới, công cụ kinh doanh mới
xuất hiện và được ứng dụng vào kinh doanh song hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt
động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động của ngân hàng thương mại.

Hoạt động cho vay thường chiếm đến 70% tổng tài sản có. Lợi nhuận thu được từ hoạt
động tín dụng thường chiếm tỷ lệ cao, ở các nước phát triển chiếm khoảng 60% trên tổng
lợi nhuận của ngân hàng, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% lợi
nhuận. Điều nay thể hiện rõ hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng bậc nhất cuat một
ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được phát
triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan hệ tín
dụng cũng được mở rộng cả vể đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng ngân
hàng càng đa dạng và phức tạp hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp đang hoạt động trong
môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt, ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để
ngân hàng thương mại có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh thị trường gay gắt và
phục vụ nền kinh tế ngày càng tốt hơn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đa dạng
hóa hoạt động kinh doanh của mình, mở rộng phạm vi hoạt dộng, nghiên cứu và đưa ra
nhiều sản phẩm mới vào phục vụ khách hàng, và đặc biệt là nâng cao chất lượng tín dụng
của ngân hàng thích ứng tốt với tình hình mới.
1.1.3.1. Vai trò của tín dụng đối với ngân hàng
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu hàng đầu của ngân hàng. Một tổ chức kinh doanh
tiền tệ cũng không nằm ngoài mục đích đó. Ngân hàng thu được lợi nhuận thong qua các
6


hoạt động dịch vụ, cung cấp cho khách hàng như thanh toán, tư vấn quan trọng nhất là
hoạt động cho vay (hoạt động tín dụng). Thật vậy, ngân hàng với tư cách là một trung
gian tài chính kinh doanh trên nguyên tắc tiền gửi của khách hàng (nghiệp vụ huy động
vốn) dưới hình thức tài khoản vãng lai và tài khoản tiền gửi. Trên cơ sở đó ngân hàng
tiến hành các hoạt động cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy theo yêu cầu vay
của khách hàng. Sự chênh lệch giữa tiền lãi kiếm được thông qua hoạt động và tiền lãi
phải trả cho các khoản huy động là lợi nhuận thu được. Đây chưa là toàn bộ lợi nhuận
của ngân hàng, tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng, nó

chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng hoạt động trong
môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường thì hoạt động tín dụng ngân hàng càng trở
nên đa dạng. Đối với các ngân hàng thương mại để có thể tồn tại và phát triển trong môi
trường cạnh tranh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội. Hệ thống ngân hàng thương mại
luôn phải tìm cách nâng cao chiến lược tín dụng bằng cách mở rộng tín dụng.
1.1.3.2. Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tất cả các thành
phần kinh tế để cho các doanh nghiệp, cá nhân vay, góp phần mở rộng sản xuất kinh
doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là yếu tố hết sức quan trọng trong quá
trình hoạt động của mỗi tổ chức kinh tế . Khi có đủ vốn họ có thể dễ dàng hơn trong việc
thực hiện các kế hoạch đầu tư sản xuất hay xây dựng cơ bản của mình, ngược lại khi
thiếu vốn họ sẽ luôn gặp khó khăn trong các quyết định kinh tế, khi có vốn tạm thời nhàn
rỗi họ cũng mất chỉ phí cơ hội vốn. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp cần vốn phải
tìm kiếm nguồn vốn để bù đắp, những doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi lại muốn cho vay.
Tuy nhiên việc các tổ chức thiếu vốn tìm được chủ thể khác thừa vốn tạm thời trong nền
kinh tế là hết sức khó khăn và tốn kém. Sự có mặt của tín dụng ngân hàng được coi như
là một công cụ để kết nối nhu cầu của người có vốn tạm thời nhàn rỗi và người thiếu vốn.
Lợi tức đi vay và cho vay của ngân hàng luôn là công cụ điều chỉnh các quan hệ cung cầu
vốn tín dụng. Nhờ có ngân hàng mà vốn tiền tệ được vận động một cách liên tục, điều đó
vừa làm tăng khả năng tích lũy tư bản của các ngân hàng vừa thúc đẩy quá trình tăng
trưởng kinh tế nhờ vào nguồn thu từ việc cấp tín dụng của ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Trong nền kinh tế thường tồn tại các
ngành có trạng thái phát triển đối lập nhau, một số ngành do có điều kiện thuận lợi và có
lịch sử lâu dài có thể phát triển tối với nhiều thế mạnh và trở thành ngành kinh tế mũi
7


nhọn, ngược lại một số ngành do nhiều nguyên nhân khác nhau nên kém phát triển.
Trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của quốc gia, nhiều quốc gia đã thực hiện phân
loại những ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế kém phát triển để có kế hoạch

đầu tư nhằm cân đối lại cơ cấu kinh tế công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Muốn thực
hiện kế hoạch đó cần phải có vốn và tín dụng ngân hàng góp phần đáp ứng điều đó. Ngân
hàng cung cấp cho các ngành thực hiện đầu tư theo cả chiểu rộng và chiều sâu, hình
thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và khai thác triệt để
các nguồn lực, điều này thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các dự án, chương trình phát
triển để khuyến khích đẩy nhanh tốc độ dinh chuyển cơ cấu kinh tế.
Tín dụng ngân hàng tác động có hiểu quả tới sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh
tế thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh danh hàng hóa dịch vụ, doanh nghiệp cần
vốn đầu tư máy móc thiết bị và luôn phải đổi mới công nghệ. Tín dụng ngân hàng đáp
ứng được yêu cầu đó với điều kiện phải hoàn trả cả vốn vay và lãi; nến vi phạm hợp đồng
tín dụng, doanh nghiệp phải chịu phạt như chịu lãi suất nợ quá hạn cao, mất quyền sử
dụng tài sản thế chấp… Do vậy, doanh nghiệp luôn phải nâng cao hiệu quả sản xuất, cạnh
tranh trên thị trường để kinh doanh có lãi, thu hồi vốn đầu tư trả nợ cho ngân hàng. Ngoài
ra, tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển các công ty cổ phần. Để thành
lập công ty cổ phần đòi hỏi phải có một số vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp và ngân
hàng có thể là một cổ đông lớn. Trong quá trình hoạt động, việc phát hành cổ phiếu thông
qua ngân hàng là một biện pháp hữu hiệu, tiết kiệm được một phần chi phí và thời gian.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong
điều kiện hiện nay, các nước đều thực hiện nền kinh tế mở, nên nhu cầu giao lưu kinh tế
với các nước khác là rất cần thiết. Tín dụng ngân hàng là một phương tiện nối liền kinh tế
các nước với nhua thông qua hoạt động đầu tư vốn xuyên quốc gia. Thêm vào đó, muốn
thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có vồn và vốn tín dụng ngân hàng sẽ đáp
ứng nhu cầu này kịp thời. Tín dụng ngân hàng có một vai trò rất lớn, không chỉ đối với
ngân hàng mà còn đối với xã hội. Xã hội càng phát triển thì tín dụng ngân hàng càng trở
nên cần thiết. Chúng ta có thể thấy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong hoạt
động xuất khẩu của các doạnh nghiệp Việt Nam. Nói một cách khác tín dụng ngân hàng
đã góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước từng bước tiếp cận thị trường quốc tế, đổi
mới công nghệ và mẫu mã sản phẩm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
8



1.1.4. Phân loại tín dụng
1.1.4.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm ba loại tín dụng ngắn hạn, tín dụng trụng hạn và
tín dụng dài hạn. Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một
năm và được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh
nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân. NHTM là nhà cung ứng phần lớn
các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Các khoản vay này ít rủi ro về khả năng
thanh toán cũng như về lãi suất so với vay trung và dài hạn. Những khoản cho vay ngắn
hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển
và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản xuất.
Bên cạnh hình thức tín dụng ngắn hạn, ngân hàng còn cung cấp hình thức tín dụng trung
hạn và dài hạn. Tín dụng trung hạn là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm. Loại hình
tín dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Tín dụng
dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, dược sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ
bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Nhìn chung, tín dụng trung - dài hạn
được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ cho họ trong việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định.
Do đó, đối tuợng cho vay chủ yếu của ngân hàng thương mại trong hình thức tín dụng
này là vốn thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp. Do gắn liền với tài sản cố định và
vốn cố định của khách hàng, tín dụng trung - dài hạn của NHTM thường gắn liền với các
dự án đầu tư. Tuy nhiên, với tín dụng trung hạn thường đầu tư theo chiều sâu, trong khi
đó tín dụng dài hạn tập trung cho các dự án đầu tư mở rộng. Tín dụng trung - dài hạn của
ngân hàng thương mại có thời gian hoàn vốn chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng
chủ yếu được lấy từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì
thế, khách chỉ có thể hoàn trả khoản vay có quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau – thời
hạn cho vay kéo dài trong nhiều năm. Tín dụng trung - dài hạn thường có thời gian kéo
dài, quy mô tín dụng thường lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh tế quốc gia luôn biến
động. Sự biến động này có thể tích cực hoặc tiêu cực mà chúng ta không thể biết được.
Do đó mà môt khoản vay dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro hơn là một khoản vay ngắn

hạn vì thời gian càng dài thì xác suất xảy ra những biến động này lớn hơn. Mặt khác, lãi
9


suất của cho vay trung - dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn vì độ rủi ro cao
hơn, thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
1.1.4.2.Căn cứ vào đối tượng cho vay.
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm hai loại tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn
cố định. Tín dụng vốn lưu động là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động
của các tổ chức kinh tế như cho vay nhằm dự trữ hàng hóa, mua nguyên vật liệu cho sản
xuất.
Tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được sử dụng để hình thành TSCĐ, loại này được
đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật mở rộng sản xuất, xây dựng các xí
nghiệp và công trình mới. Tín dụng vốn cố định thường được cấp phát phục vụ cho việc
đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng
các xí nghiệp và công trình mới, loại tín dụng này được thực hiện dưới hình thức cho vay
trung và dài hạn.
1.1.4.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn.
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm hai loại tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa
và tín dụng tiêu dùng. Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa là loại tín dụng được cấp
phát cho các nhà doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Tín dụng tiêu dùng là loại cho vay đối với cá nhân để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng như mua sắm tài sản, xây dựng nhà cửa...
1.1.4.4. Căn cứ vào tài sản thế chấp.
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm hai loạ tín dụng có tài sản đảm bảo và tín dụng
không có tài sản đảm bảo. Tín dụng có đảm bảo là loại tín dụng được thực hiện dựa trên
các cơ sở đảm bảo như: thế chấp, cầm cố hay có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng
không có tài sản đảm bảo là loại tín dụng không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay sự
bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
1.1.5. Các nguyên tắc tín dụng.

Khách hàng vay vốn Ngân hàng phải tuân thủ hai nguyên tắc sau đây: (i) Tiền vay phải
được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng. Nguyên tắc này nhằm
đảm bảo tính hiệu quả của sử dụng vốn vay tạo điều kiện thực hiện tốt việc hoàn trả nợ
vay của khách hàng. Để thực hiện tốt điều này, mỗi lần vay vốn khách hàng làm giấy đề
nghị vay vốn, trong giấy này khách hàng phải ghi rõ mục đích sử dụng vốn vay của mình
và kèm theo phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Khách hàng vay vốn phải sử
10


dụng vốn vay đúng như mục đích đã cam kết, nếu Ngân hàng phát hiện khách hàng sử
dụng vốn sai mục đích thì Ngân hàng có quyền yêu cầu thu hồi nợ trước hạn.(ii) Tiền vay
phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tín dụng là giao dịch cung cầu về vốn, tín dụng
chỉ là giao dịch quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian
cam kết giao dịch, Ngân hàng và bên vay thoả thuận trong hợp đồng tín dụng rằng Ngân
hàng sẽ chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định cho bên vay. Khi kết thúc
kỳ hạn, bên vay phải hoàn trả quyền này cho Ngân hàng (trả nợ gốc) và một khoản chi
phí (lợi tức) nhất định cho việc sử dụng vốn vay. Nguyên tắc này đảm bảo cho tiền vay
không bị giảm giá, tiền vay phải thu hồi được đầy đủ và có sinh lời.
1.2. Chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng.
Trong bất kì nền kinh tế nào, doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh
thì việc cải thiện là điều tất yếu. Trong ba yếu tố: chất lượng, giá cả, số lượng thì chất
lượng là yếu tố quan trọng nhất, góp phần giữ vững uy tín cho chủ doanh nghiệp và tạo
điều kiện nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường. Chất lượng là tập hợp các đặc tính
của một thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản phẩm là để bán lại
cho người tiêu dùng. Chính vì vậy cần thiết phải nhìn nhận chất lượng của người tiêu
dùng: chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính kỹ thuật
hay tính hữu dụng của nó; chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí, người
tiêu dùng không dễ mua một sản phẩm với bất kì giá nào; chất lượng sản phẩm phải gắn

liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể của từng người, từng địa phương… Từ những phân
tích trên ta có thể đưa ra một định nghĩa chất lượng sản phẩm như sau: Chất lượng sản
phẩm là tổng hợp những chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phảm thể hiện mức thỏa mãn
những nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định.
Với các đề cập như trên, ta có thể hiểu: “ Chất lượng hoạt động tín dụng là tổng hợp
những chỉ tiêu, đặc trưng đáp ứng theo yêu cầu của khách hàng (người vay tiền), phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng”. Chất
lượng tín dụng được đánh giá trên ba góc độ: (i) Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn
tín dụng của khách hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất
lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách
11


hàng với mứa lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi,
thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng; (ii) Đối với
NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp
khả năng thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị
trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi; (iii) Đối với nền kinh tế: đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, chất lượng tín dụng được đánh giá qua mức phục vụ sản xuất
và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công việc , khai thac các khả năng trong nền
kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Có hai nhóm nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng: nhóm nhân tố bên ngoài (khách
quan) và nhóm nhân tố bên trong (chủ quan). Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của từng quốc gia, từng NHTM mà hai nhóm nhân tố này có tác động khác nhau đến chất
lượng hoạt động tín dụng.
1.2.2.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
1.2.2.1.1. Môi trường kinh tế
Bản chất của hoạt động NHTM là đi vay để cho vay và cung cấp các dịch vụ trong lĩnh

vực tài chính tiền tệ. Nói cách khác, NHTM dựa vào các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế để tiến hành cho vay, đáp ứng nhu cầu trở lại cho nền kinh tế. Có thể nói đây là
một lĩnh vực kinh doanh hết sức nhạy cảm. Nó vừa là một nhân tố tác động đến sự phát
triển của nền kinh tế, nhưng đồng thời mọi biến động của môi trường kinh tế cũng đều
ảnh hướng đến hoạt động của các NHTM. Do đó, một nền kinh tế ổn định và phát triển sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, nhất là hoạt động tín dụng.
Một trong các yếu tố kinh tế tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng là chu kỳ kinh tế.
Trong thời kỳ kinh tế đình trệ, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín dụng gặp
khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu tín dụng giảm trong thời kỳ này và nếu có thực
hiện thì vốn tín dụng cũng khó có thể sử dụng hiệu quả và trả nợ đúng hạn. Ngược lại,
trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh nhu cầu vốn tín dụng tăng cao trong khi những rủi ro gặp
phải có thể giảm. Tuy nhiên, cũng không loại trừ trường hợp chạy đua trong sản xuất
kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ làm nhu cầu vốn tín dụng tăng lên quá mức và có quá
12


nhiều khoản tín dụng được thực hiện. Những khoản tín dụng này cũng có thể khó được
hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch nói trên dẫn đến khủng
hoảng kinh tế.
1.2.2.1.2. Môi trường pháp lý
Trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, pháp lý là yếu tố có ý nghĩa định hướng cho
các doanh nghiệp, đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Thực hiện đúng các
qui định về pháp lý sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu được rủi ro có thể làm sụt giảm
chất lượng tín dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Ngược lại, nếu các quy định pháp lý không rõ ràng, chồng chéo hoặc trái ngược lẫn
nhau thì sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói
riêng.
1.2.2.1.3. Ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng đến việc cấp tín dụng
Cơ sở hạ tầng tốt là cầu nối giúp nguồn vốn tín dụng đến được những nơi có nhu cầu.
Đồng thời cũng là điều kiện giúp cho việc kiển tra sau cho vay được thực hiện dễ dàng và

nhanh chóng, giúp các NHTM có được các biện pháp kịp thời nhằm giảm thiểu rủi ro tín
dụng, từ đó cũng đảm bảo được chất lượng của khoản tín dụng.
1.2.2.1.4. Năng lực kinh doanh của khách hàng
Tín dụng là nhịp cầu nối giữa hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng với hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất vật chất và kinh doanh của khách hàng đều có những ảnh
hưởng tương ứng đến hoạt động tín dụng. Khi hoạt động kinh doanh của khách hàng có
lãi, có xu hướng phát triển, thì khách hàng sẽ có khả năng trả nợ ngân hàng, quan hệ tín
dụng với ngân hàng khi đó sẽ diễn ra tốt đẹp, cầu nối giữa vay và cho vay sẽ thông
suốt.Ngược lai, nếu năng lực kinh doanh của khách hàng thấp, trình độ quản lý yếu kém,
công nghệ lạc hậu, chiến lược kinh doanh thiếu tính khả thi, hoặc thậm chí khách hàng cố
tình lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích sẽ dẫn đến hoạt đông kinh doanh khó khăn, tình
hình tài chính mất cân đối, nguy cơ phá sản tăng cao. Khoản tín dụng ngân hàng cấp cho
khách hàng khi đó chắc chắn có chất lượng kém, khả năng dẫn đến nợ khó đòi cao.
1.2.2.2. Nhóm nhân tố bên trong
1.2.2.2.1. Chính sách tín dụng

13


Chính sách tín dụng được xem là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng, quyết định sự
thành bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn, thích hợp với điều kiện
kinh doanh của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo
khả năng kinh lời cho hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và
đường lối chính sách của Nhà nước.
1.2.2.2.2. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là những quy định cụ thể trong công tác tín dụng từ khâu thẩm định
khách hàng, thiết lập hồ sơ tín dụng đến việc giải ngân và thu nợ; đồng thời quyền hạn và
nhiệm vụ của từng người, từ bộ phận nhân viên đến cấp lãnh đạo trong việc giải quyết hồ
sơ tín dụng. Từng bước, từng khâu trong quy trình tín dụng đều cực kỳ quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng. Khâu thẩm định là khâu

quan trọng đầu tiên giúp sàng lọc, lựa chọn ra những khách hàng tốt, những dự án đầu tư
có hiệu quả để ngân hàng đầu tư vốn. Khâu thiết lập hồ sơ tín dụng là khâu quan trọng kế
tiếp, bảo vệ ngân hàng trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán và duy trì
vị thế được bảo đảm của ngân hàng đối với tài sản thế chấp của người vay. Sau đó, để thu
nợ và kết thúc giao dịch về tín dụng, ngân hàng phải kiểm tra sau khi cho vay. Đây cũng
là một khâu hết sức quan trọng giúp ngân hàng theo dõi diễn biến của khoản vay, sự tuân
thủ những thỏa thuận và tình hình hoạt động kinh doanh của bên vay. Việc sớm phat hiện
ra vấn đề của người vay có thể dẫn đến gián đoạn lưu chuyển tiền mặt và mất khả năng
thanh toán có thể cho phép ngân hàng bảo vệ vị thế của mình trước khi tổn thất lớn xảy
ra.
Sự phối hợp nhịp nhàng các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo ra điều kiện cho vốn tín
dụng được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch từ đó góp phàn đảm bảo chất lượng
tín dụng.
1.2.2.2.3. Kiểm soát nội bộ
Đây là biện pháp giúp cho Ban điều hành NHTM biết được tình trạng của hoạt động tín
dụng cũng như của toàn bộ hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhằm phát huy những thế
mạnh và hạn chế những điểm yếu trong hoạt động của toàn bộ ngân hàng. Những biện
pháp kịp thời và hiệu quả đều đem lại những phần thưởng xứng đáng về chất lượng hoạt
động và hiệu quả kinh doanh của hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng
nói chung.
14


1.2.2.2.4. Công tác tổ chức của ngân hàng
Công tác tổ chức của ngân hàng có khoa học, có chặt chẽ thì mới đảm bảo được sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban trong ngân hàng, từ đó tạo ra chất lượng và hiệu quả
trong từng hoạt động kinh doanh ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng.
1.2.2.2.5. Nhân tố con người
Một nhân tố nữa ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng là các chủ thể tham gia
quan hệ tín dụng cán bộ ngân hàng và người vay tiền. Tín dụng là hoạt động được thực

hiện trên cơ sở lòng tin và sự tín nhiệm. Điều đó có nghĩa là quan hệ tín dụng là sự kết
hợp của ba yếu tố: nhu cầu của khách hàng, khả năng của khách hàng và tín nhiệm lẫn
nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng
càng cao thì càng thuận lợi cho việc vay vốn. Tuy nhiên, khi sự tín nhiệm này bị lợi
dụng, ngân hàng quá tin tưởng vào khách hàng mà không có sự thẩm định kỹ lưỡng trước
khi cho vay, thì chắc chắn khoản tín dụng cấp ra có chất lượng kém và rủi ro cao.
Một trường hợp nữa liên quan đến yếu tố con người dẫn đến chất lượng tín dụng kém là
bộ phận thẩm định không đủ năng lực để đánh giá một cách chính xác về khách hàng và
khoản vay. Vì vậy, lúc này phải xem xét thêm về công tác đào tạo và chiến lược phát
triển con người của ngân hàng. Ngoài ra, còn có vấn đề lừa đảo trong hoạt động tín dụng,
bộ phận thẩm định cấu kết với khách hàng tranh thủ kẻ hở để rút vốn của ngân hàng. Lúc
này khoản tín dụng có chất lượng kém và hầu như không thể thu hồi, nếu có cũng tốn
nhiều chi phí và thời gian của ngân hàng.
1.2.2.2.6. Công nghệ
Bên cạnh các yếu tố đã được nêu ở trên, công nghệ cũng là một yếu tố không kém phần
quan trọng tạo nên chất lượng trong hoạt động tín dụng. Công nghệ hiện đại, một mặt
giúp đáp ứng kịp thời và nhanh chóng nhu cầu của khách hàng trong mọi mặt dịch vụ,
mặt khác giúp các cấp quản lý NHTM nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động tín dụng
nhằm điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm thỏa mãn ngày càng
cao nhu cầu của khách hàng.
Nói tóm lại, tín dụng là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu lớn và quan trọng
đối với NHTM. Tuy nhiên, nói đến tín dụng là nói đến rủi ro, các NHTM không thể lọa
trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể kiểm soát để giảm thiểu chúng. Do đó, việc tổ
15


chức quản lý và kiểm soát tín dụng một cách bài bản và có hệ thống sẽ giúp các NHTM
quản trị được rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và tối đa hóa kết quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Những vấn đè trong nội bộ ngân hàng như việc hoạch
định chính sách tín dụng, thiết lập quy trình tín dụng, tổ chức kiểm tra kiểm soát nội bộ,

công tác tổ chức – nhân sự và nền tảng công nghệ phải được thực hiện thật tốt để hạn chế
những yếu kém từ bên trong, từ đó hạn chế những tác động từ bên ngoài một cách hiệu
quả nhất. Trong mỗi thời kỳ nhất định, khi nhu cầu khách hàng thay đổi, môi trường kinh
doanh thay đổi, nếu các NHTM có chính sách quản lý và kiểm soát tín dụng phù hợp thì
chất lượng tín dụng sẽ được đảm bảo, nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như củng cố
được chỗ đứng của NHTM trong thương trường.
1.3. Lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu
Lý thuyết hành vi: Kinh tế học hành vi, còn gọi tài chính học hành vi, là một phân ngành
kinh tế học nghiên cứu xem những hành vi (hành động có nhận thức) của các chủ
thể kinh tế (người tiêu dùng, người phân phối, bán hay người sản xuất) có thể ảnh hưởng
đến việc ra các quyết định kinh tế cũng như giá cả thị trường ra sao. Môn khoa học này
lấy lý luận về dự tính duy lý của chủ thể kinh tế làm trung tâm. Phương pháp nghiên cứu
của nó dựa trên các mô hình kết hợp giữa tâm lý học với các mô hình về dự tính duy lý
của kinh tế học tân cổ điển. Các nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này gồm Daniel
Kahneman và Amos Tversky (1937-1996); hai ông nhận chung giải Nobel kinh tế năm
2002 vì những đóng góp của mình trong lĩnh vực kinh tế học hành vi. Kinh tế học hành vi
được áp dụng nhiều trong phân tích về các quyết định thị trường cũng như trong phân
tích về lựa chọn công cộng.
Lý thuyết này cho ta hiểu, mục tiêu của người tiêu dùng là khi sử dụng ngân sách của
mình để mua sắm hàng hóa và dịch vụ, bất kì người tiêu dùng nào cũng hướng tới ích lợi
thu được và ích lợi thu được càng nhiều càng tốt. Với mỗi hàng hóa tiêu dùng, nếu còn
làm cho ích lợi tăng thêm thì người tiêu dùng còn tăng tiêu dùng và ích lợi tiêu dùng sẽ
hướng tới giá trị lớn nhất. Khi tiêu dùng một hàng hóa nào đó, người tiêu dùng có thể rơi
vào các trạng thái khác nhau: hài lòng hoặc không hài lòng. Hàng hóa nào mang lại sự
hài lòng có nghĩa là mang lại lợi ích và ngược lại.
Việc nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến công tác tín dụng đối với BIDV – chi
nhánh BIDV cho phép ta giải quyết những vấn đề sau. Vấn đề thứ nhất, chất lượng tín
16



dụng của công tác cấp tín dụng tại ngân hàng BIDV – chi nhánh Phú Nhuận có tốt hay
chưa. Vấn đề thứ hai, yếu tố nào là ảnh hưởng nhất đến công tác cấp tín dụng tại BIDV –
chi nhánh Phú Nhuận. Và vấn đề cuối, từ những phân tích về các yếu tố ảnh hưởng thì
biện pháp nào để giúp cho công tác cấp tín dụng nâng cao hiệu quả một cách tối ưu nhất?
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất lượng tín
dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của
NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy
mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể áp dụng
các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.4.1. Chỉ tiêu sử dụng vốn
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ trên vốn huy động =

x100%

Tổng vốn huy động
Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá tính hiệu quả
trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ
ngân hàng đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được.
1.4.2. Chỉ tiêu dư nợ
Dư nợ ngắn hạn ( hoặc trung dài hạn)
Hệ số dư nợ =

x100%
Tổng dư nợ

Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ được
phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến động

của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng càng lớn, mối
quan hệ với khách hàng càng có uy tín.
1.4.3. Chỉ tiêu nợ quá hạn
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn trên tổng dư nợ =

x100%
17


Tổng dư nợ
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng.
Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình
và ngược lại.
Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức <= 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này đôi
khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì bên cạnh
những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các khâu trong qui
trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho
vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định,…
1.4.4. Hệ số nợ xấu
Chỉ tiêu này đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng. Những Ngân hàng
có chỉ số này càng thấp tức là chất lượng tín dụng càng cao.
Công thức:
Nợ xấu
Nợ xấu trên tổng dư nợ =

x100%
Tổng dư nợ


Chỉ tiêu này dùng để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng, nợ xấu là vấn đề
không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt động kinh doanh của bất cứ ngân hàng nào điều
đáng quan tâm là làm thế nào để giữ tỷ lệ này ở mức chấp nhận được và theo đúng quy
định của NHNN thì tỷ lệ này phải ≤ 3%.
1.4.4. Hệ số nợ xấu
Nợ xấu
Nợ xấu trên tổng dư nợ =

x100%
Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mất lần trong
một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng đã luân
chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.

18


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI BIDV - CHI NHÁNH PHÚ NHUẬN GIAI ĐOẠN 2012
– 2014.
2.1. Khái quát tình hình phát triển Ngân hàng BIDV – chi nhánh Phú Nhuận
2.1.1. Tổng quan về ngân hàng BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tiền thân là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam)
được thành lập chính thức vào ngày 26/04/1957 theo quyết định số 177/TTg của Thủ
tướng Chính phủ, cơ quan chủ quản là Bộ Tài chính với mục đích chính khi thành lập là
cấp phát vốn cho sự nghiệp tái thiết và xây dựng lại đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Năm 1983, theo chủ trương chuyển dịch ngân hàng cơ chế sang thương mại, Ngân hàng
Đầu tư chuyển từ Bộ Tài chính sang trực thuộc sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Bắt đầu từ đó Ngân hàng Đầu tư hoạt động như một ngân hàng thương mại với

nhiều nghiệp vụ mới được mở ra như: cho vay, huy động vốn, thanh toán. Đặc biệt từ
năm 1995, khi nhiệm vụ cấp phát vốn được chuyển sang Tổng cục Đầu tư ( thuộc Bộ Tài
chính) thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã hoàn toàn trở thành một ngân hàng thương
mại.
Từ khi thành lập đến nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những tên gọi:
(i) Từ ngày 26/04/1957 đến ngày 25/04/1981: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam; (ii) Từ
ngày 26/04/1981 đến ngày 13/11/1990: Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam; (iii)
Từ ngày 14/11/1990 đến nay: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Hiện nay, BIDV là một trong bốn Ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam, là doanh
nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước mang
tính hệ thống thống nhất bao gồm hơn 110 Chi nhánh cấp 1, hàng nghìn Phòng giao dịch
và Điểm giao dịch, 5 công ty trực thuộc trong toàn quốc, có 5 đơn vị liên doanh với nước
ngoài, góp vốn với 5 tổ chức tín dụng.2.1.2. Quy mô hoạt động kinh doanh của BIDV chi nhánh Phú Nhuận
2.1.2.1. Đặc điểm về BIDV – chi nhánh Phú Nhuận
Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam BIDV – Chi nhánh Phú Nhuận được
thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 11/11/2011 theo quyết định của giám
19


đốc Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam với mục đích phục vụ cho nhu cầu
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của cư dân tại quận Phú Nhuận và các khu vực lân cận.
BIDV – Chi nhánh Phú Nhuận là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân và con
dấu riêng, hạch toán kế toán nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng để theo dõi việc thu
chi và kết quả hoạt động kinh doanh tại chi nhánh. BIDV – Chi nhánh Phú Nhuận có
trách nhiệm báo cáo tổng hợp, chi tiết định kì và đột xuất và các hoạt động của mình theo
yêu cầu của Hội sở. Chi nhánh phải chấp hành đúng các nghĩa vụ với Nhà nước, thực
hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, dịch vụ theo pháp luật, tuân thủ những quy định
của Ngân hàng Nhà nước cũng như các quyết định của Hội sở Ngân hàng TMCP Đầu tư
& Phát triển Việt Nam BIDV. BIDV – Chi nhánh Phú Nhuận trực tiếp giao dịch với
khách hàng, hoạt động theo phạm quy phân cấp ủy quyền của Tổng Giám đốc BIDV.

2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức
BAN GIÁM ĐỐC

Khối quan hệ
khách

Phòng quản lí
khách
hàng

Khối quản
lý rủi ro

Phòng quản

Khối

Khối quản lý

tác

nội bộ

nghiệp

Phòng quản

trị tín

lý rủi ro


Khối trực

Phòng giao
dịch

thuộc

Phòng TC -

KT

chức –

PGD cá
Phòng Kế
hoạch –

Phòng quản

Tổng hợp

lý và
dịch vụ

Tổ điện toán

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức BIDV – chi nhánh Phú Nhuận.
20


Nghè

Phòng Tổ

Hành

nhân

PGD Thị

PGD Lê
Văn Sỹ


2.1.2.2.1. Ban Giám đốc
Ban giám đốc của chi nhánh gồm có Giám đốc và 2 Phó Giám đốc. Trong đó, Giám đốc
chi nhánh là người điều hành chung và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về toàn bộ hoạt động, kết quả kinh doanh của Chi
nhánh. Công việc chính của Giám đốc gồm: (i) Trực tiếp điều hành hoạt động của đơn vị
theo chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của đơn vị; (ii) Phân công nhiệm vụ cụ thể
cho từng bộ phận và nhận thông tin phản hồi từ các phòng ban; (iii) Có quyền quyết định
chính thức cho một khoản vay. (iv) Có quyền quyết định tổ chức, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
khen thưởng, kỷ luật hay nâng lương cán bộ công nhân viên trong đơn vị, ngoại trừ kế
toán trưởng và kiểm soát trưởng.
Phó Giám đốc được chia làm hai bộ phận: Phó giám đốc chuyên về kế toán và phó giám
đốc chuyên về tín dụng làm nhiệm vụ hổ trợ giám đốc trong việc tổ chức điều hành mọi
hoạt động chung của toàn chi nhánh, các nhiệm vụ cụ thể trong việc tổ chức hành chính,
thẩm định vốn, công tác vốn, công tác tổ chức tín dụng.
2.1.2.2.2. Khối quan hệ khách hàng
Công tác tiếp thị và phát triển quan hệ khách hàng: tham mưu, đề xuất chính sách, kế

hoạch phát triển quan hệ khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, khách hàng mục tiêu,
tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tư vấn cho khách hàng lựa chọn sử dụng những sản
phẩm tín dụng, dịch vụ khách hàng, phổ biến hướng dẫn và giải đáp thắc mắc cho khách
hàng về quy định, qui trình tín dụng, dịch vụ khách hàng; thu thập, cập nhật hồ sơ, thông
tin khách hàng.
Công tác tín dụng: trực tiếp thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo phạm vi được phân công
theo đúng pháp quy và quy trình tín dụng. Theo dõi quản lý tình hình hoạt động của
khách hàng, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo nợ vay. Đôn
đốc khách hàng trả nợ gốc, lãi, xử lý khi khách hàng không đáp ứng được các điều kiện
tín dụng. Quản lý hồ sơ tín dụng theo quy định; tổng hợp, phân tích quản lý thông tin tín
dụng.
2.1.2.2.3. Khối quản lý rủi ro

21


Nhiệm vụ chính của khối quản lý rủi ro bao gồm: (i) Quản lý giám sát, phân tích, đánh
giá rủi ro tiềm ẩn đối với danh mục tín dụng của chi nhánh; (ii) Thực hiện việc xử lý nợ
xấu: đề xuất các phương án xử lý và trực tiếp xử lý các khoản nợ xấu, xem xét trình lãnh
đạo về việc giảm lãi suất, miễn lãi, quản lý, lưu trữ hồ sơ các khoản nợ xấu đã được xử
lý; (iii) Thực hiện công tác quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp, công tác kiểm tra nội
bộ, phòng chống rửa tiền, quản lý hệ thống chất lượng ISO.
2.1.2.2.4. Khối tác nghiệp
Phòng quản trị tín dụng: (i) Trực tiếp thực hiện tác nghiệp và quản trị cho vay, bảo lãnh,
kiểm tra rà soát đảm bảo tính đầy đủ, chính xác của hồ sơ tín dụng; (ii) Quản lý kế hoạch
giải ngân, theo dõi thu nợ và thông báo các khoản nợ đến hạn chuyển giao cho phòng
quan hệ khách hàng xử lý. Giám sát khách hàng thực hiện đúng các khoản hợp đồng tín
dụng, bảo lãnh và đảm bảo nợ vay, theo dõi diễn biến các khoản tín dụng.
Phòng giao dịch KHDN và Phòng giao dịch cá nhân: Trực tiếp bán sản phẩm/ dịch vụ tại
quầy, giao dịch với khách hàng, quản lý tài khoản, mở tài khoản tiền gửi, xử lý giao dịch

tài khoản theo yêu cầu của khách hàng, nhận tiền gửi, rút tiền, thanh toán, chuyển tiền
trong nước và quốc tế, thu đổi mua bán ngoại tệ. Giải ngân vốn, trực tiếp thực hiện các
giao dịch về thẻ; chi trả kiều hối đối với khách hàng; tiếp nhận các ý kiến phản hồi của
khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, thủ tục, phong cách giao dịch... để phản ánh với lãnh
đạo.
Phòng quản lý và dịch vụ kho quỹ: (i) Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ về quản lý kho và
xuất- nhập quỹ. Quản lý kho tiền và quỹ nghiệp vụ (tiền mặt, hồ sơ tài sản thế chấp, cầm
cố, chứng từ có giá, vàng, bạc, đá quý...) của ngân hàng và khách hàng; (ii) Trực tiếp
thực hiện các giao dịch thu – chi tiền mặt phục vụ cho khách hàng theo quy định; (iii)
Chịu trách nhiệm hoàn toàn về bảo đảm an toàn kho quỹ và an ninh tiền tệ, đảm bảo an
toàn tài sản của chi nhánh và của khách hàng.
2.1.2.2.5. Khối quản lý nội bộ
Phòng Tổ chức – Hành chính: Hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ chính sách pháp
luật về trách nhiệm và quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động phối hợp
xây dựng kế hoạch phát triển mạng lưới, thành lập, giải thể các đơn vị trực thuộc chi
nhánh, lập kế hoạch và tuyển dụng nhân sự, quản lý thực hiện các chế độ lương đảm bảo
22


ngày công lao động, nội quy cơ quan. Thực hiện công tác hậu cần, bảo vệ an toàn cho
người lao động.
Phòng Tài chính – Kế toán: (i)Thu thập số liệu để lập bảng cân đối hàng ngày, báo cáo
tiền tệ hàng tháng, hàng quý, báo cáo quyết toán cuối năm.Thực hiện nghĩa vụ với ngân
sách; (ii) Thực hiện công tác hậu kiểm đối với hoạt động của tài chính kế toán của chi
nhánh, theo dõi quản lý tài sản, vốn và các quỹ của chi nhánh; (iii) Định kỳ phân tích,
đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của từng
phòng, khả năng sinh lời của từng sản phẩm và hoạt động kinh doanh của toàn chi nhánh
để phục vụ quản trị điều hành.
Phòng Kế hoạch – Tổng hợp: (i) Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, đánh giá về tình
hình kinh tế, chính trị xã hội của địa phương, về đối tác, đối thủ cạnh tranh của chi

nhánh; (ii) Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ với khách hàng, chịu trách
nhiệm quản lý hệ số an toàn trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán,
trạng thái ngoại hối của chi nhánh.
Tổ điện toán: (i) Tổ chức vận hành hệ thống công nghệ thông tin phục vụ hoạt động kinh
doanh, bảo đảm lien tục, thông suốt. Thực hiện bảo trì, xử lý sự cố máy móc thiết bị; (ii)
Thực hiện quản trị mạng, quản trị hệ thống chương trình ứng dụng, quản trị an toàn thông
tin, quản lý kho dữ liệu thuộc phạm vi của chi nhánh.
2.1.2.2.6. Khối trực thuộc
Phòng giao dịch Thị Nghè và Phòng giao dịch Lê Văn Sỹ: Trực thuộc chi nhánh, thực
hiện huy động vốn và cho vay theo ủy quyền mức phán quyết của giám đốc chi nhánh.
Trực tiếp giao dịch với khách hàng, tiếp thị và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ của ngân
hàng.
Với việc phân chia các phòng ban như trên thì trách nhiệm và quyền hạn của mỗi phòng
ban được quy định rõ ràng. Trong nghiệp vụ tín dụng công tác tiếp thị tín dụng, thực hiện
hoàn thiện hồ sơ tín dụng cho khách hàng và quản lý vốn vay đều được thực hiện bởi
phòng quan hệ khách hàng, nhưng đối với BIDV – chi nhánh Phú Nhuận thì việc quản lý
vốn vay được quản lý bởi Phòng quản trị tín dụng và Phòng quản lý rủi ro. Việc phân
định nhiệm vụ của các phòng ban tuy có sự riêng biệt nhưng vẫn hỗ trợ lẫn nhau cùng

23


kiểm tra, giám sát dễ dàng phát hiện những trường hợp vi phạm, xử lý kịp thời, để các
khoản vay có hiệu quả hơn.

2.1.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV – chi nhánh Phú Nhuận giai đoạn 2012
– 2014.
Ngân hàng tồn tại và phát triển dựa trên mục tiêu là lợi nhuận, lợi nhuận là chỉ tiêu tổng
hợp để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Các ngân hàng luôn đặt
ra vấn đề làm thế nào để đạt lợi nhuận cao nhất nhưng mức rủi ro thấp nhất mà vẫn đảm

bảo chấp hành đúng những quy định của NHNN và thực hiện tốt kế hoạch kinh doanh
của ngân hàng mình. Doanh thu của ngân hàng được quyết định dựa trên lãi suất khoản
cho vay, đầu tư và mức lệ phí tiền vay, các khoản thù lao cho các dịch vụ. Bằng những
hoạt động của mình, BIDV – chi nhánh Phú Nhuận đã đem lại kết quả kinh doanh tương
đối tốt trong giai đoạn 2012 – 2014.
Bảng 2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV – chi nhánh Phú Nhuận giai đoạn
2012 – 2014.
Chỉ tiêu

Năm
2012

Số tiền

I. Tổng thu

208.9

Năm
2013

Số tiền

Năm
2014

Số tiền

Chênh lệch


2013/2012

2014/2013

Số tiền

222.7

16.9

1187.7
203.7 196.4
21.2
22.1
26.3
81.91
71.10
48.43
57.20

16
0.9
1.16
-2.33

Tỷ lệ
(%)

Tỷ lệ
(%)

-1.37

8.5
-7.3
4.25
4.2
1.44 -10.81
-4.59
8.77

-3.58
19
-13.19
18.11

IV. Lợi nhuận trước
thuế
48.79
84.24
62.36
35.45
72.66 -21.88
Nguồn: Phòng Kế hoạch – Tổng hợp BIDV – chi nhánh Phú Nhuận

-25.97

24

8.09


Số
tiền
-3.1

Thu từ hoạt động tín dụng và
dịch vụ
Thu từ KDNT và dịch vụ khác
II. Chênh lệch thu chi
80.75
III. Dư quỹ DPRR
50.76

225.8

Chênh lệch


2.1.2.3.1. Doanh thu

Cơ cấu các chỉ tiêu trong doanh thu
250
200
150
100
50
0
2012

Tổng thu


2013

Thu từ tín dụng+ dịch vụ

2014

Thu từ KDNT + dịch vụ khác

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu các chỉ tiêu trong doanh thu của BIDV – Chi nhánh Phú Nhuận giai
đoạn 2012 – 2014.
Tình hình doanh thu qua 3 năm của Ngân nhìn chung là tăng lên, tuy nhiên từ năm 2013
đến năm 2014 có sự giảm nhẹ. Cụ thể năm 2012 đạt 208.9 tỷ đồng, sang năm 2013 là
225.8 tỷ đồng tăng 16.9 tỷ đồng tương ứng tốc độ tăng 8.09% so với năm 2012 và đạt
222.7 tỷ đồng vào năm 2014 tức là giảm 3.1 tỷ đồng tương ứng giảm 1.37% so với năm
2013. Tuy có sự suy giảm nhẹ trong doanh thu nhưng giá trị này là không đáng kể. Trong
năm 2012 tổng doanh thu là 208.9 tỷ đồng, trong đó thu về hoạt động tín dụng là 187.7 tỷ
đồng chiếm tỷ trọng cao ( 89.85% tổng doanh thu), năm 2013 doanh thu từ hoạt động tín
dụng và dịch vụ của Ngân hàng là 203.7 tỷ đồng (chiếm 90.21% tổng doanh thu) tăng 16
tỷ đồng tương ứng tăng 8.5% so với năm 2012 và sang năm 2014 chỉ tiêu này là 196.4 tỷ
đồng, tỷ trọng trong năm 2014 là 88.2% tổng doanh thu, giảm 7.3 tỷ đồng tương ứng
giảm 3.58% so với năm 2013. Doanh thu qua các năm đều tăng trong đó thu từ hoạt động
tín dụng đều chiếm khoảng 80% cho thấy Ngân hàng đã thực hiện tốt hoạt động tín dụng
về số lượng và cả chất lượng cũng như đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của dân cư và các tổ chức kinh tế trên địa bàn.
Bên cạnh đó thu từ kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ khác có sự biến động không mạnh, cụ
thể năm 2012 là 21.2 tỷ đồng, sang năm 2013 đã đạt 22.1 tỷ đồng tăng 0.9 tỷ đồng tương
ứng tăng 4.25% so với năm 2012, năm 2014 khoản mục này là 26.3 tỷ đồng tăng 4.2 tỷ
đồng tương ứng tăng 19% so với năm 2013. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đang là hình
thức kinh doanh khá hấp dẫn đối với ngân hàng. Trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều
25



×