Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đầu tư nước ngoài vào việt nam 35 năm trước và tầm nhìn 35 năm sau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.29 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-----------***------------

BÀI TẬP NHÓM

KINH TẾ QUỐC TẾ
Chủ đề: Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 35
năm trước và tầm nhìn 35 năm sau.

SINH VIÊN THỰC HIỆN

:

NGUYỄN SĨ TIỆP
BÙI VÂN TRANG
PHẠM THỊ HOÀI TRANG


LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng của mọi quốc gia. Đối với Việt
Nam để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần phải có mét khối lượng
vốn rất lớn. Vì thế trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng
tích luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ
xung cho tổng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó phải kể
đến vốn đầu tư nước ngoài . Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan
trọng, nó là nguồn bổ xung vốn cho đầu tư, là một cách để chuyển giao công
nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn
thu cho ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhận thức đúng vị trí và vai trò to lớn của vốn đầu tư nước ngoài, chính
phủ Việt Nam đã ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào


Việt Nam, đồng thời tạo mọi diều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam. Chóng ta thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá hợp tác đầu
tư với nước ngoài hai bên cùng có lợi. Việt Nam coi vấn đề huy động và sử
dụng có hiệu quả của vốn đầu tư nước ngoài trong tổng thể chiến lược tăng
trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ
chiến lược trọng yếu nhất.


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm chung về đầu tư nước ngoài :
Mọi quá trình sản xuất đều cần phải có hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao
động. Thiếu hai yếu tố đó thì sẽ không tồn tại quá trình sản xuất hàng hoá. Để có
được hai yếu tố cơ bản đó vấn đề đặt ra là cần có vốn đầu tư và thực hiện hoạt động
đầu tư. Vốn đầu tư dùng để sản xuất hàng hoá, mua nhà xưởng, mua thiết bị .v.v…
Vốn có khác nhau về quy mô hay cơ cấu song là điều cần thiết đối với mọi quá trình
sản xuất, mọi quốc gia nhất là đối với những cơ sở mới bắt đầu hình thành và với
những quốc gia còn ở trình độ lạc hậu chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hoá
trong đó có Việt Nam.
Vốn đầu tư trong nền sản xuất hàng hoá là vốn tiền tệ được tích luỹ bằng nguồn
vốn của các doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân và nguồn vốn huy động từ các
nguồn khác, được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, trong hoạt
động kinh tế xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế nhất định. Vốn đầu tư có thể được huy
động từ trong nước cũng như có thể được huy động từ nước ngoài.Trong điều kiện
quốc tế hoá đời sống kinh tế được đẩy mạnh như thời đại ngày nay thì vốn nước
ngoài ngày càng phổ biến và có vai trò không nhỏ. Mặc dù đứng về lâu dài thì vốn
trong nước luôn đóng vai trò quyết định. Vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho
một mục đích nhất định căn cứ vào những tiêu thức nhất định người ta có thể phân

chia đầu tư thành nhiều loại trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà cũng có
thể là người nước ngoài. Trong trường hợp vốn và người có vốn là người nước ngoài
thì hoạt động đầu tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài.


Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ nước
ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân hay nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế được nước
chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những lĩnh vực nào đó của một nước
nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều lệ
về đầu tư nước ngoài kèm theo nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lệ này
không nêu định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng trong tư tưởng của
các quy phạm thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giống như khái niệm
được ghi nhận sau này trong luật đầu tư nước ngoài năm 1987: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc tổ chức, nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền nước ngoài hoặc bằng bất kỳ tài sản được Chính Phủ Việt Nam chấp thuận để
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí
nghiệp 100% vn nước ngoài”.
1.1. Đặc điểm của vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có mét số đặc điểm sau:
- Hoạt động vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư
mà còn có cả công nghệ kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, trình độ quản lý …
- Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định
tuỳ theo quy định của luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp
tham gia điều hành, quản lý. Ví dụ luật đầu tư của Việt Nam quy định: “Số vốn góp
tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30%vốn pháp định của dự án .
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc
vào vốn góp, nếu đóng góp 100% thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài
điều hành.

- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi
nhuận của nhà đầu tư. Lời và lỗ được chia theo tỉ lệ góp vốn sau khi đã nép thuế lợi
tức cho nước chủ nhà.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng theo mục đích của chủ thể đầu tư
nước ngoài trong khuôn khổ luất đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận


đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục
đích mong muốn thông qua các công cụ: thuế, giá thuê đất, chính sách để khuyến
khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một ngành nào đó.
- Việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài không gây nên tình trạng nợ nước ngoài
cho nước chủ thể, bởi nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ.
1.2. Ưu điểm của hình thức đầu tư nước ngoài .
* Về giá đầu tư trực tiếp nước ngoài .
- Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định (phụ thuộc vào tỉ lệ
góp vốn) tham đầu tư trực tiếp nước ngoàiự vào điều hành quá trình kinh doanh của
xí nghiệp nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra quyết định có lợi nhất cho
vốn đầu tư mà họ bỏ ra. Nếu môi trường đầu tư ổn định các chủ đầu tư nước ngoài
thích bỏ 100% vốn đầu tư.
- Giúp cho nhà đầu tư nước ngoài dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn
cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch vì thông qua đâù tư trực tiếp mà họ tạo
được các xí nghiệp nằm bên “ trong lòng” các nước thi hành chính sách bảo hộ mậu
dịch.
* Về phía nước tiếp nhận đầu tư.
- Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước
thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng
góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp càng nhiều càng được hưởng các
chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà .

- Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của
các chủ đầu tư nước ngoài.
- Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện
khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về taì nguyên, vị trí, mặt nước…
1.3. Một số hạn chế của đầu tư nước ngoài .


Bên cạnh những ưu điểm thì hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có
những hạn chế nhất định:
- Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì chủ đầu tư dễ
bị mất vốn.
- Nếu nước chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới
sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện
sự kiểm soát gắt gao những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà tư
bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nuức kém
phát triển.
- Mục đích của nhà đầu tư là lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư vào nơi có lợi nhất. Vì
thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm gia tăng thêm sự mất cân đối giữa các
vùng nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này sẽ gây nên sự bất ổn định về chính
trị.
- Nước chủ nhà có nguy cơ trở thành nơI tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu
của nước ngoài.
II. LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế ở
Việt Nam.
Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu của sự
phát triển kinh tế, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ vốn đều
rất hạn chế dẫn tới việc thu hót đầu tư trong nước không đáng kể. Trong khi đó nhu

cầu của nền kinh tế lại cần những khoản vốn lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây
dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. để bù đắp cho sự thiếu hụt
nguồn vốn đầu tư phát triển đất nước thì cần phải thu hót vốn đầu tư nước ngoài nói
chung và FDI nói riêng nhằm tăng dần khả năng đáp ứng vốn cho quá trình phát triển
kinh tế. Do đó việc huy động vốn đầu tư trực tiếp tạo ra những lợi ích quan trọng
trong giai đoạn hiện nay:


Một là: Nó góp phần quan trọng trong việc khắc phục thiếu hụt về vốn ở nước ta.
Đặc diểm của nền kinh tế nước ta ở vào thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung với nhiều nhược điểm.Trong đó tỉ lệ đầu tư và tiết kiệm rất
thấp thậm chí còn âm.Từ sau đổi mới, tỉ lệ này đã được tăng lên đáng kể, tuy nhiên nó
vẫn còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, chúng ta còn phải trả khá nhiều nợ
nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức cao. Vì vậy vốn đầu tư nước
ngoài trở thành một nguồn vốn cần thiết cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà. Trong
suốt thời kỳ 1990-1995 vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 30% vốn đầu tư trong
nước.
Hai là: Thông qua việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật, vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp phần tăng năng suất lao động, khả năng sản xuất, kinh nghiệm
quản lý trong một số ngành.
Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất phát điểm
rất thấp về mặt công nghệ, do đó chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể tạo ra sức
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, mặt khác trình độ công nghệ thấp còn
dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước ngòai, việc đổi mới
công nghệ ở nước ta đã thực hiện so với qui mô và tốc độ nhanh hơn nhiều so với
trưóc đó. Nước ta đã tiếp nhận một số kỹ thuật và công nghệ tiến bộ của nhiều ngành
kinh tế như: Thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp
ráp ô tô, xe máy, hoá chất… Phần lớn thiết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình
thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn những thiết bị hiện có của ta. Một số công nghệ
chuyển giao trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông thuộc loại hiện đại của thế giới. Đây là

sự đóng góp khá quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, góp phần nâng
cao chất lượng sản phẩm đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu, cải
thiện môi trường lao động.
Ba là: Bước đầu tạo ra một số công ăn việc làm, góp phần giải quyết khó khăn về
việc làm cho người lao động. Tính đến năm 1997,các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho hơn 13 vạn lao động và hơn 10 vạn lao động gián
tiếp phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời đã thu hót hơn 4000 cán bộ Việt Nam làm


việc trong các xí nghiệp này. Nhiều cán bộ đã phát huy được năng lực, vươn lên đảm
nhiệm được những công việc quan trong, có uy tín đối với các đối tác bên ngoài. Sự
đóng góp này tuy còn nhỏ bé song lại đáng quý trong điều kiện đang thiếu nhiều việc
làm ở nước ta.
Bốn là: Tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào
thu ngân sách nhà nước. Trong suốt thời kỳ 1988-1996 đã tạo ra hơn 2 tỷ USD giá tri
sản lượng hàng hoá và dịch vụ đóng góp hơn 2tỷ đồng cho ngân sách. Tuy nhiên con
số trên còn nhỏ bởi vì trong giai đoạn này khoảng 30% các dự án đầu tư đang trong
thời gian được miễn thuế.
2.Vai trò và ý nghĩa của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thực hiện hoạt động đầu tư trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy đầu
tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư đặc biệt
là ở những nước đang phát triển.
Ngày nay do vai trò quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài nên các nước đang
phát triển và cả những nước phát triển đều ra sưc cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
Trước hết vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò là nguồn cung cấp vốn lớn, góp
phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư- một căn bệnh kinh niên và phổ biến của
bất kỳ một quốc gia chậm phát triển nào, ở Indonesia sau khi ban hành luật đầu tư
nước ngoài đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là 1.15
tỷ USD/năm.

Những năm gần đây, Philipin đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao và họ
cho rằng nếu sử dụng nguồn vốn nước ngoài hợp lý thì có thể khuyến
khích được tính hiệu quả của nền kinh tế. Ở Trung Quốc, đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD/năm trong 15 năm (19791994).
Ở Việt Nam tính đến hết năm 1995, vốn vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút là
19,353 tỷ USD với mức thực hiện khoảng 30%. Tốc độ thu hút vốn vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam từ 1988 -1995 bình quân 50%/năm.


Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang lại cho
nước tiếp nhận đầu tư công nghệ kỹ thuật tiên tiến góp phần phát triển lực lượng sản
xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho thấy rằng kỹ thuật và công nghệ nước ngoài
đã giúp cho Malaysia từ chỗ là một nước cơ cấu lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán
lực lượng sản xuất kém phát triển, đến giữa năm 1980 đã trở thành nước xuất khẩu
lớn nhất thế giới về găng tay, cao su, thứ hai trên thế giới về chất bán dẫn và tinh thể
sơ đồ tích phân và thứ ba trên thế giới về máy điều hoà nhiệt độ. Rõ ràng chỉ có đầu
tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả năng
thâm nhập thị trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia mới tạo ra được thành
công nói trên.
Một thực tế cần đề cập là các nước phát triển muốn lợi dụng đầu tư trực tiếp
nước ngoài để chuyển giao những thiết bị, kỹ thuật lạc hậu cho các nước chậm phát
triển, biến các nước này thành “bãi rác” của mình như một số báo đã viết, hay như
các nhà kinh tế đã phân tích coi đó là “kết cấu hai tầng” của người Nhật hay thuyết về
“quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi” của Bắc Mĩ và Tây Âu nhằm khai thác và sử
dụng tối đa các tiềm năng công nghệ của mình. Tuy nhiên quan hệ về đầu tư trực tiếp
nước ngoài là “quan hệ tự nguyện” hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên việc chấp
nhận hay không chấp nhận là quyền của nước tiếp nhận đầu tư. ở Việt Nam để hạn
chế tiếp nhận các thiết bị lạc hậu nhà nước đã quy định nhiều biện pháp để kiểm tra
giám sát như định giá đấu thầu chỉ định tiêu chuẩn kỹ thuật. Ở Trung Quốc có luật
quy định về giới hạn khoảng chênh lệch giữa thời gian sản xuất máy móc với thời

gian nhập máy móc đó vào Trung Quốc.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là trong
nhiều trường hợp các nước phát triển cần mang vaò nước chậm phát triển những công
nghệ tiên tiến hơn cả nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng yên tăng giá nên ngày
càng nhiều các công ty Nhật Bản mang nhiều công nghệ tiên tiến ra nước ngoài để
sản xuất hàng hoá rồi nhập khẩu trở lại Nhật Bản nhằm thu lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có vai trò là một hình thức đào tạo giúp các
nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm


quản lý của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ sản xuất kinh
doanh của đất nước, hoà nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần đào tạo một đội ngò công
nhân có trình độ kỹ thuật cao. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất
quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng
cao mức thu nhập cho người lao động.
Ở Việt Nam, sè lao động người Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 65000 năm 1994 lên 90000 vào cuối năm 1995.
Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gián tiếp tạo việc làm và thu nhập cho hàng
chục vạn lao động làm các công ty dịch vụ có liên quan. Về cơ bản, tiền lương được
giải quyết phù hợp với quy định, cao hơn mức lương của các doanh nghiệp cùng loại
thuộc các thành phần kinh tế khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự
phát triển kịnh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Người Malayxia nhận xét rằng:
Trong một chõng mực nhất định đầu tư trực tiếp nước ngoài từ chỗ là “nhân tố bên
ngoài”chuyển thành “ nhân tố bên trong”quyết định phần lớn thị trường kinh tế, cơ
cấu kinh tế. Theo tạp chí kinh tế Viễn Đông thì sau khi có chính sách mở cửa và luật
đầu tư nước ngoài, nền kinh tế của Inđonesia được coi như “người khổng lồ” của
Đông nam á đang ngủ đã tỉnh dậy trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh.

Ở Việt Nam hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần làm
chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá.
Đối với Việt Nam vốn FDI đống vai trò như lực khởi động, như một trong những điều
kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH. Một số dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong
điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế, nó còn
góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới, cũng như nhiều sản phẩm mới.
Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh
doanh nên các nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào


Việt Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất
cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. vốn đầu tư nước ngoài là
một trong những kênh đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tương đối có hiệu
quả. Là khu vực hấp dẫn, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao
động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm
quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là
điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.
Tóm lại hoạt động vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao,
đẩy mạnh xuất khẩu đưa nước ta vào phân công lao động quốc tế, tạo hình ảnh và vị
thế mới uy tín ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là trong xu
thế hội nhập khu vực và toàn cầu, yếu tố quyết định để Việt Nam rút ngắn con đường
hội nhập khu vực và thế giới đó là mở rộng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.


CHƯƠNG II.
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ CNH - HĐH .


I. TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng cường xuất khẩu tăng thu cho
ngân sách.
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu thu hót vốn, cán cân thanh toán có những cải thiện
đáng kể. Điều này phần nào được thể hiện ở lợi Ých tài chính đem lại về doanh thu
của các xí nghiệp có vốn FDI, kể từ ngày 26/3/97 là 4838 tr USD trong đó kim ngạch
xuất khẩu chiếm 1/3. Còn nếu cộng cả dầu khí, tỷ trọng xuất khẩu của FDI khoảng
60-65% điều này có ý nghĩa rất to lớn đến sự phát
triển kinh tế của Việt Nam. FDI còn có tác động tích cực tới đẩy mạnh sản xuất,
tạo ra những năng lực sản xuất mới, đã làm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu nh
hàng may mặc, thực phẩm…
2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động
Thất nghiệp là hiện tượng KT-XH được coi nh mét tệ nạn đáng lo ngại, là mối
quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Từ khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chóng ta đã khắc phục
phần nào tỷ lệ thất nghiệp, bước đầu đã tạo thêm việc làm cho người lao động. Làm
việc trong khu vực có vốn FDI người lao động Việt Nam có mức thu nhập khá cao,
tuy thu nhập đó chưa thật đáng kể so với thu nhập của các nước trong khu vực nhưng
đó là kết quả bước đầu cho chóng ta thấy được tầm quan trọng của FDI đối với việc
giải quyết việc làm trong thời gian qua. Tuy vậy vấn đề giải quyết là vốn trí được giữa
đầu tư xây dựng mới và đầu tư chiều sâu, giữa các ngành có trình độ kỹ thuật cao và
vừa phải kết hợp hài hoà giữa hai lợi Ých. GiảI quyết việc làm cho người lao động và
nâng cao trình độ kỹ thuật trong nước, đem lại hiệu quả KT-XH cao.


3. Tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá.
Cơ cấu kinh tế trước đây xác định là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm nhanh

chóng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH ở nước ta trong thời trước đây có
sự viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau khi thống nhất đất nước chúng ta
không có sự viện trợ mà chủ yếu dùa vào mình để giải quyêt mọi yêu cầu phát triển
kinh tế và cải thiện đời sống đất nước. Từ đó tiến hành điều chỉnh cơ cấu kinh tế hạn
chế bớt sự phát triển của công nghiệp nặng bằng cách thu hẹp để tập trung nhiều hơn
vào phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm giải quyết vấn đề lương thực,
thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Từ đó tạo tiền đề để thực hiện nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần. Ngoài ra cơ cấu lãnh thổ cũng được kết cấu lại theo
hướng ưu tiên đối với các vùng trọng điểm để phát triển mạnh hơn tạo nên những mòi
nhọn về kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ của các vùng khác.
Vốn đầu tư nước ngoài có tác động đáng kể đến chuyển dịch cơ cấu ngành lãnh
thổ theo hướng CNH, đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng
điểm có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn. Qua các
năm đầu tư theo ngành có sự chuyển dịch ngày càng phù hợp với yêu cầu xây dựng
cơ cấu cuả thập kỷ 90.
Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng nhờ có vốn đầu tư nước ngoài mà tổng công
ty bưu chính viễn thông mới có được hệ thống thông tin liên lạc viễn thông qua vệ
tinh thuộc loại hiện đại trên thế giới, các tuyến đường quốc lé, hạ tầng các khu chế
xuất ngày nay hiện đại
4. Tác động đến chuyển giao công nghệ
Một trong những mục tiêu chủ yếu của thu hút vốn đầu tư nước ngoài là thực
hiện việc chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam.
Phải thừa nhận rằng trang thiết bị về khoa học công nghệ của nước ta quá lạc hậu
so với thế giới. Trong công nghiệp đa số máy móc thiết bị thuộc loại cũ của những
năm trước năm 50, 60, nhiều máy móc đã khấu hao xong tới vài lần, trang bị không
đồng bộ nên năng suất thấp. Chính vì vậy việc thực hiện một số chính sách đa dạng


hoá các nguồn tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào, đặc biệt là thông
qua vốn đầu tư nước ngoài tất yếu sẽ có vị trí quan trọng.

Đứng về lâu dài đây chính là lợi Ých căn bản nhất đối với các nước tiếp nhận
đầu tư. Vốn đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật, góp phần tăng
năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành của sản phẩm và xuất khẩu thúc
đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là những nghề đòi hòi hàm lượng công nghệ cao.
Vì thế nó tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tăng trưởng nhanh ở nước ta.
Như vậy, ngoài sự tác động của vốn đầu tư nước ngoài tới các lĩnh vực nêu trên
còn một số lĩnh vực khác như : Giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới, tăng thu
cho ngân sách nhà nước, tạo thế cạnh tranh cho các công ty cạnh tranh trong nước.
Song thực tế để có thể nhanh chóng vực dậy một nền kinh tế chậm phát triển đầu tư
trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng nó có vai trò
to lớn trong công cuốc khôi phục đổi mới. Nhưng bên cạnh đó vấn đề này còn có một
số khó khăn mà chúng ta cần phải khắc phục
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA HOẠT ĐỘNG THU HÓT VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT Nam
1. Những hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Luật đầu nước ngoài hiện hành còn chung chung, chưa cụ thể. LĐTNN về cơ
bản chỉ là đạo luật chung quy định những vấn đề có tính nguyên tắc. Có nhiều đạo
luật chưa hoặc mới chỉ ban hành gần đây. Do nhiều trường hợp chưa có cơ sở pháp lý
để vận dụng nên đã vận dụng xử lý một cách tuỳ tiện thiếu nhất quán. Theo đánh giá
một cách tổng thể thì cơ cấu luật pháp cho ĐTNN vẫn chưa thực sự là môi trường
thuận lợi có khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư. Vấn đề là ở chỗ trong lĩnh vực còn tồn
đọng nhiều trở ngại của cơ chế hành chính quan liêu. Mặc dù các cấp quản lý có thẩm
quyền đã nỗ lực rất nhiều để giảI toả vấn đề này, song đến nay nhiều trở ngại chưa
được loại bỏ. Về đại thể có thể quy cách trở ngại này về một số điểm sau:
- Vấn đề đất đai cho đầu tư nước ngoài: Tình trạng chưa rõ ràng về các quyền sở
hữu và sử dụng đất đai- vấn đề chung về môi trường pháp lý đang còn tồn tại cho tất


cả mọi chủ thể đang hoạt động trong nền kinh tế, những quy định về thủ tục thuê

nhượng mua bán đất và mức giá đất( gồm các khoản thuế) cao.
- Thủ tục phê duyệt dự án rườm rà phải qua nhiều cấp hành chính, nhiều cơ quan
chức năng. Ngoài ra nh đã nói trên việc thiếu chiến lược cơ cấu và quy hoạch đầu tư
tổng thể được luận chứng rõ ràng cũng làm chậm trễ hơn nữa quy trình phê duyệt và
thẩm định tính hiệu quả của dự án đề xuất.
- Các tiêu chuẩn đối xử (ưu đãi hoặc không ưu đãi) cho các đối tắc nước ngoài
trong các quan hệ vơí các nhà kinh doanh bản địa trong nhiều trường hợp có sự phân
biệt đối xử không dùa theo nguyên tác thị trường. Nói chung các đối tác nước ngoài
có nhiều ưu đãi theo luật so với nhà đầu tư trong nước đặc biệt là về thuế. Song bên
cạnh đó họ cũng phải đối đầu với nhiều quy chế mang tính phân biệt (giá các dịch vụ,
lương công nhân) trong khi đó, nguyên tắc cần thiết là không nên có những ưu đãi
đặc biệt cùng sự phân biệt đối xử với các chủ đầu tư.
Nhìn chung lại thể chế pháp lý đối với ĐTNN ở nước ta chưa cấu thành hệ thống
đồng bộ. Nghĩa là môi trường pháp lý chưa thuần nhất và thuận lợi. Nhận thấy của
tình trạng này là cơ cấu pháp luật hành chính của Việt Nam chưa hoàn toàn tương
thích với cơ cấu của nền kinh tế. Vì thế nó gây ra những trở ngại cho tất cả các nhà
đầu tư trong đó có cả nhà đầu tư nước ngoài.
2. Những hạn chế của quá trình thực hiện.
Mặc dù tầm quan trọng thiết yếu của ĐTNN đã được thừa nhận và những chuyển
động mới của ĐTNN ở Việt Nam đã thể hiện đường lối mở rộng nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta, nhưng cũng có nhiều vấn đề nảy sinh làm người ta lo ngại . Những
cái gọi là “ mặt trái” của vốn đầu tư nước ngoài thường bị lên án là sự cạnh tranh
mạnh mẽ của các nhà đầu tư với các nhà sản xuất trong nước.
Những gian lận của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng sản xuất
kinh doanh, nhập khẩu máy móc thiết bị những, căng thẳng trong quan hệ lao động ở
các xí nghiệp có vốn vốn đầu tư nước ngoài … một số nhà đầu tư chưa hết than phiền
về tình trạng yếu kém của cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư kém dần tính cạnh tranh
so với các nước khác trong khu vực. Nó bao gồm những hạn chế về quy mô và tốc độ
thu hút vốn đầu tư nước ngoài; về cơ cấu đầu tư; về đối tác đầu tư; về kỹ thuật công
nghệ và kinh nghiệm quản lý…



CHƯƠNG III.
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP ĐỂ THU HÓT VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY.

I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ CHO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ CNH - HĐH
1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thời kỳ CNH - HĐH.
Hội nghị toàn quốc lần thứ 9 ban hành Trung Ương Đảng khoá VIII đã cho ý
kiến dự thảo phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế 10 năm 2001-2010.
Kế hoạch 10 năm có vị trí rất quan trọng là kế hoạch mở đầu của thế kỷ 21, thế kỷ
phát triển toàn diện và mạnh mẽ của nhiều quốc gia trên toàn cầu là kế hoạch 10 năm
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế 2010-2020 tiếp tục thực hiện đường lối đổi
mới và sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 10 năm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,
ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động theo hướng CNH- HĐH, nâng cao rõ rệt hiệu quả và nâng cao tính cạnh tranh
của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại…
Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm không thấp hơn mức bình
quân hàng năm 1006-2000. ở 1 số vùng thuận lợi và vùng kinh tế trọng điểm, động
lực phấn đấu với mức tăng trưởng bằng 1,4 lần so với mức bình quân của cả nước.
Tổng GDP trong 5 năm tới vào khoảng 2650-2660 nghìn tỷ đồng (tính theo giá
năm 2000), tương đương 190 tỷ USD , tổng quỹ tiêu dùng dự báo tăng khoảng
5,5%/năm, tỷ lệ tích luỹ nội địa sẽ có khả năng nâng lên 27% GDP.
2. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam.
Theo tính toán và dự báo đầu tư khả năng huy động các nguồn vốn cho đầu tư
phát triển trong 5 năm tới vào khoảng 830.000-850.000 tỷ đông ( theo giá năm
2000) tương dương 59-61 tỷ USD tăng khoảng từ 11-12%/năm trong đó nguồn vốn



trong đó nguồn vốn trong nó chiếm khoảng 2/3. tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm
khoảng 31-32% đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. đầu tư từ ngân sách
nhà nước chiếm 20-21%, đầu tư bằng tín dụng nhà nước chiếm 17-18%. Khu vực
doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiếm 19-20%, khu vực dân cư, doanh nghiệp tư nhân
đầu tư chiếm 24-25%, FDI theo tính toán và dự báo dự kiến đưa vào thực hiện chiếm
16-17%.
Toàn bộ nguồn vốn bên ngoài có thể thu hút cho đầu tư là18-20 tỷ USD trong đó:
- Dù báo về ODA: TRong 5 năm tới, khả năng thực hiện nguồn vốn ODA
khoảng 10-11 tỷ USD, bao gồm cả các dự án có vốn ODA được hợp thức hoá bằng
việc các hiệp định vay vốn nhưng chưa giaỉ ngân và các khoản có thể cam kết trong
thời gian tới.
- Dù báo về FDI: Dự kiến vốn FDI được thực hiện trong 5 năm tới khoảng 9-10
tỷ USD, bao gồm vốn các dự án đã được cấp phép chưa được thực hiện của các năm
trước; vốn thực hiện các dự án cấp phép mới và vốn bổ xung các dự án đã thực hiện.
Ngoài ra còn có khả năng thu hót vốn đầu tư nước ngoài khác khoảng 1-2 tỷ
USD thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài, mở thị trường chứng
khoán và tìm thêm các nguồn vay khác để đầu tư trung và dài hạn.
II. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
Để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài đã nêu ở trên chúng ta phải tăng
cường khai thác nguồn vốn này theo các phương hướng sau:
1. Mở rộng quan hệ với các đối tác đầu tư nước ngoài.
Hiện nay vốn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu từ các nước NIC s và
Đông Á, các nước ASEAN và Nhật Bản. Các nước này cung cấp khoảng 3/4 tổng số
vốn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các nước Châu Âu đặc biệt là Mỹ còn có
luồng vốn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá nhỏ bé. Vì vậy trong thời gian tới
cần tiếp tục duy trì quan hệ với các nước truyền thống, đồng thời mở rộng quan hệ
với các đối tác mới ở Châu Âu và Mỹ, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế



lớn trên thế giới để thu hót nhiều hơn nữa vốn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Có làm như vậy chúng ta mới có thể tranh thủ được công nghệ “gốc” của các nước
phát triển, tiếp cận cách quản lý hiện đại, tạo điều kiện cho VIệt Nam hoà nhập vào
thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh quan hệ với các công ty lớn, chúng ta vẫn phảI chú trọng
thu hót các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước ngoài vì đó là những doanh nghiệp
năng động, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường, phù hợp với các đối tác
Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực để thu hót công nghệ, kinh nghiệm quản lý
và tạo nhiều việc làm.
2. Nhà nước cần hướng vốn đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực sản xuất
hàng hoá dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao.
Còn những ngành Ýt vốn công nghệ thấp thì huy động chủ yếu từ nguồn vốn
trong nước. Nếu có liên doanh thì phía Việt Nam phải là đối tác chính. Muốn vậy nhà
nước phải là đối tác chính. Muốn vậy nhà nước phải có quy hoạch cụ thể các lĩnh vực
thu hót vốn đầu tư nước ngoài từ nay tới năm 2005.
3. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoàI bỏ vốn vào các khu vực, địa
bàn còn gặp khó khăn về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
Muốn vậy nhà nước phải phân loại các vùng khó khăn và nêu rõ mức độ ưu đãI
vào các vùng nào càng khó khăn thì mức độ ưu đãi càng cao. Khi cần thiết, Nhà nước
phải huy động thêm cả vốn trong nước, chấp nhận thu hồi vốn chậm, lãI suất thấp để
xây dựng một số điểm kinh tế cho các vùng khó khăn, làm cơ sở thu hót vốn đầu tư
nước ngoài.
Ngoài ra còn có một số định hướng để mở rộng thu hót vốn vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trong thời gian trước mắt nh:
- Mở rộng nguồn vốn đối ứng với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tranh thủ và
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Đẩy mạnh huy động nguồn vốn trong
dân.
- Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh ngiệp nhà nước. Cổ phần hoá sẽ
cho phép các doanh nghiệp mở rộng nguồn tài chính để góp phần liên doanh với các



công ty nước ngoài thay vì chủ yếu dùa vào giá trị quyền sử dụng đất nh hiện nay. Cổ
phần hoá cũng tạo điều kiện nâng cao trình độ của đội ngò quản lý giúp họ sẵn sàng
tham gia vào bộ máy quản lý của xí nghiệp liên doanh.
- Nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp. Cần chú trọng công tác qyu
hoạch, đặt các khu công nghiệp ở những nơi có cơ sở hạ tầng và môi trường kinh
doanh thuận lợi có khả năng hấp dẫn chủ đầu tư nước ngoài.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THU HÓT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT Nam THỜI KỲ CNH - HĐH.
1. Tiếp tục đổi mới chính sách tăng cường thu hót đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam.
Về chính sách đất đai: Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai,phục vụ cho
dù án có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là tiếp tục ban hành các văn bản dưới luật, cụ
thể hoá ba quyền của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam về đất đai : Quyền chuyển
nhượng, quyền cho thuê và quyền thế chấp. Đây là ba quyền cần thiết cần được tiếp
tục nghiên cứu và thể chế hoá để hoạch định chính sách về đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
Thực hiện chính sách đất đai đối với đầu tư nước ngoài cần chú trọng các giảI
pháp sau :


Phát huy vai trò của các cơ quan hoạch định chính sách nh Quốc hội, Chính phủ

trong việc xây dựng các đạo luật, chính sách quy định về đất đai áp dụng cho các hoạt
động đầu tư nước ngoài .


Tập hợp ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về chính sách đất đai


cũng như chính sách đất đai áp dụng đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài của các
nước, thông lệ quốc tế để hình thành chính sách đất đai ổn định dành cho các nhà đầu tư
nước ngoài
Thực hiện quy hoạch vùng dành cho hoạt động đầu tư nước ngoài đối với khu
vực dành cho đầu tư nước ngoài, cần thống nhất áp dụng cách thức cấp đất để giải


phóng mặt bằng giống như việc cho thuê đất trong các khu vực công nghiệp và khu
chế xuất.
Tích cực tham khảo kinh nghiệm của các nước thuộc về việc áp dụng chính sách
đất đai đối với đầu tư nước ngoài nh Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia.
Về chính sách thuế và ưu đãi tài chính : Chính sách thuế và ưu đãi tài chính gắn
với hoạt động đầu tư nước ngoàI là một trong những yếu tố chính góp phần tạo ra sự
hấp dẫn cho hoạt động đầu tư . Chính sách thuế và ưu đãI tàI chính sẽ tiếp tục được
hoàn thiện theo xu hướng có hệ thống, ổn định và tương thích với các nước trong khu
vực. Phát huy tác dụng tích cực và loại bỏ những hạn chế của chính sách thuế và ưu
đãI tàI chính . Muốn vậy cần thực hiện những giải pháp sau :


Thực hiện nghiêm chỉnh luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu
nhập doanh nghiệp nhằm bảo đảm hoạt động thu thuế đối với các dự án có vốn đầu tư
nước ngoài dần dần đi



Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài
chính như: giải quyết nhanh vấn đề hoàn thuế cho các nhà đầu tư nước ngoàI, việc
chuyển lợi nhuận về nước được thuận tiện, không hạn chế hoặc quy định bắt buộc
phảI góp vốn bằng tiền mặt…




Hỗ trợ các dự án FDI được hưởng ưu đãi về thuế lợi tức, về
giá thuê đất, miễn giảm thuế VAT đối với các doanh nghiệp thực sự thua lỗ.



Cho phép chuyển một số có lùa chọn các liên doanh thô lỗ nặng mà phía Việt Nam
không có khả năng cùng gánh chịu thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài



Ban hành chính sách thu phí thống nhất để tránh tình trạng thu phí bất hợp lý và
không quản lý được như hiện nay
Về chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm : Vấn đề định hướng thị trường và
tiêu thụ sản phẩm cho các dự án FDI có vai trò cực kỳ quan trọng. Thị trường cho các
dự án này cần nhìn nhận cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Đối với thị
trường đầu vào cần chú trọng đảm bảo các loại máy móc thiết bị, công nghệ đưa vào
dự án thuộc thế hệ mới hiện đại không gây ô nhiễm môI trường. Đối với thị trường


đầu ra, cần chú trọng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm cả thị trường trong nước lẫn
thị trường nước ngoài. Mở rộng thị trường cho các dự án đầu tư thông qua khuyến
khích thúc đẩy xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Các giảI pháp cần thực hiện là:


Khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế
biến sâu, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao mang thương hiệu Việt Nam.




Định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình
trạng cạnh tranh về giá cả, dẫn tới tình trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra
thị trường. Cần nhanh chóng xây dựng và thông qua luật cạnh tranh, luật chống đầu
cơ,…



Bảo hộ có chọn lọc thị trường trong nước để khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam thông qua:
+ Định hướng các ngành nghề , lĩnh vực ưu tiên nhất là các ngành nghề tạo ra
tiềm lực công nghệ cho đất nước. Giảm bớt nhập khẩu những hàng hoá có thể sản
xuất trong nước hoặc sản xuất trong nước.
+ Sử dụng có chọn lọc thị trường trong nước bằng hàng rào thuế quan và phi
thuế quan.
+ Đảm bảo đối xử công bằng thoả đáng và bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong
nước và các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Tiếp tục đổi mới về tổ chức và thủ tục hành chính để tăng cường thu hót
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Mở rộng hình thức và phương thức thu hót vốn vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài
những hình thức như hiện nay để tăng cường thu hót vốn vốn đầu tư nước ngoài đề
nghị những hình thức sau:
- Công ty cổ phần trong nước có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là loại hình công ty
phổ biến trên thế giới áp dụng thành công ở nhiều nước Đông Nam Ă. So với công ty
trách nhiệm hữu hạn, loại hình công ty này có lợi thế về huy động vốn và rủi ro. Đề
nghị nhà nước có văn bản pháp qui qui định về loại hình thu hót vốn đầu tư nước
ngoài này.


- Cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo ý kiến của

nhiều nhà đầu tư, luật đầu tư qui định doanh nghiệp liên doanh không được huy động
vốn bằng cách phát cổ phiếu, chứng khoán là quá cứng nhắc và gây bất lợi cho tổ Việt
Nam. Vì vậy đề nghị nhà nước có quy định cụ thể về loại hình này nhằm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp Việt Nam mua cổ phần nâng cao tỉ lệ góp vốn của phía Việt
Nam.
- Nhà đầu tư tự do lùa chọn hình thức dầu tư phù hợp với yêu cầu của mình.
- Cải chế qui chế dầu tư vào các doanh nghiệp và khu chế xuất để thu hót mạnh
hơn nữa các dự án vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp và khu chế
xuất.Cụ thể Nhà nước nên giảm thuế đất trong các khu công nghiệp và khu chế xuất,
Nhà nước càn đầu tư đồng bộ xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công
nghiệp và khu chế xuất, qui hoạch các khu này phải đảm bảo phát triển lâu dài của
doanh nghiệp.Nhà đầu tư được tự do lùa chọn dịa điểm bố trí các dự án trong khu
công nghiệp và khu chế xuất.
Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan dến vốn FDI . Đi sâu vào các thủ tục
hành chính có thể thấy:
- Cải tiến các thủ tục cấp giấy phép đầu tư : cần đơn giản hoá các thủ tục hành
chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”, các cơ quan phụ trách hợp tác về
đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng
thời thay mặt nhà đầu tư để liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho nhà đầu
tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng kí .
Về hồ sơ và đăng ký giấy phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo
công khai các loại giấy tờ cần thiết. Nhà đầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ Kế
Hoạch và Đầu tư .
Cơ quan cấp giấy phép đăng kí phải có quyết định trong thời hạn nhanh nhất từ
16 đến 60 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ. Để thực hiện được điều đó, Bộ Khoa
học công nghệ và Môi trường cần sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung theo hướng
giảm bớt các danh mục phải báo cáo đánh giá tác động môitrường. Với các phải lập
báo cáo này, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương và đảm bảo chính xác để



vừa rút ngắn thời gian thẩm định vừa hạn chế được công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường .
- Để đơn giản hoá thủ tục hải quan : Các quy định, thủ tục hải quan phải được
sửa đổi theo hướng đơn giản hoá và được công bố công khai, khắc phục các hiện
tượng phiền hà, tiêu cực. Muốn vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ
ban,ngành có liên quan.
- Cải tiến thủ tục cấp đất và thủ tục xây dựng cơ bản : Sở địa chính ở các tỉnh,
thành phố chỉ tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một lần và đơn giản hoá mọi thủ
tục khác về đất đai. Đồng thời đề nghị với Tổng cục địa chính và các cơ quan hữu
quan soạn thảo ngay các quy định về giaỉ phóng mặt bằng, đền bù đất đai cho các dự
án có vốn đầu tư nước ngoài, còng nh quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
Thủ tục quản lý xây dựng cơ bản theo thiết kế đã đăng kí cần được tổ chức chặt
chẽ, nhưng không được can thiệp quá sâu. Cơ quan nhà nước quản lý xây dựng cơ
bản cần thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền của mình, đồng thời cảI tiến các thủ
tục theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả.
3. Quy hoạch thu hót vốn .
Bé KH và ĐT cần nhanh chóng xây dựng và thông qua các quy hoạch ngành và
lãnh thổ. Trước hết, cần khẩn trương quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế suất,
quy hoạch sản xuất các sản phẩm quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến,
công nghiệp hoá dầu, công nghiệp luyện kim, công nghiệp thông tin.Trên cơ sở đó,
xác định các dự án trong nước có thể tự đầu tư và các dự án cần thu hót vốn đầu tư
nước ngoài.
Các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước công tác quy hoạch. Ngành cần phối
hợp với các địa phương để xây dựng quy hoạch phát triển ngành trên từng vùng lãnh
thổ. Trừ một số dự án khai thác chế biến gắn liền với các vùng nguyên liệu, tài
nguyên được bố trí tại nơI thuận lợi nhất, các dự án còn lại cần được bố trí vào các
khu công nghiệp, khu chế suất để sử dụng hiệu quả kết cấu hạ tầng, tránh đầu tư phân
tán, dàn trải .
4. Nâng cấp và xây mới kết cấu hạ tầng để thu hót nhiều hơn vốn .



Kết cấu hạ tầng giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện để thu hót vốn đầu tư nước
ngoài, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra sự chuyển biến căn bản về cơ cấu
kinh tế, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Vì vậy trong thời gian tới,
chúng ta phải tập trung vốn cho việc tu bổ và xây dựng cơ sở hạ tầng. Chúng ta phải
đầu tư tập trung vào các vùng trọng điểm quyết định tới tăng trưởng kinh tế .
Chóng ta phải có những quy chế ưu đãi rõ ràng và cụ thể đối với các hình
thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm về phương thức này
nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn đầu tư
cho ngân sách. Bên cạnh đó, cần khuyến khích đầu tư xây dựng cơ bản vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất và đặc biết trong tương lai không xa, phải nghĩ tới viêc
thành lập các đặc khu kinh tế để cải điều kiện kết cấu hạ tầng.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
- Nghiên cứu cho phép thành lập công ty có nhiều mục tiêu hoạt động trên cơ sở
từng dự án cụ thể, cho phép thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoàI và
cổ phần hoá các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Miễn giảm hơn nữa các loại thuế nh thuế doanh thu, thuế lợi tức, tiền thuê đất
đối với những dự án được khuyến khích.
- Tham gia những công ước quốc tế và các nghị quyết của khối ASEAN.
- Nâng cao năng lực quản lý,điều hành các dự án có vốn FDI của các cơ quan
quản lý nhà nước.
- Xét duyệt công khai các chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam khi
buôn bán với các nước và với các nước ASEAN từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam
thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp cho các nhà đầu tư
hoạch định chính sách xuất khẩu sản phẩm của mình trong tương lai.
-Xây dùng một luật đầu tư chung, mét khung giá chung cho các nhà đầu tư nước
ngoài, tạo “sân chơi” bình đẳng cho các nhà đầu tư, đồng thời xây dựng hệ thống luật
thống nhất hoàn chỉnh, sớm ban hành những luật còn thiếu tạo hành lang pháp lý đầy
đủ cho các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Cải tổ nền kinh tế để có điều kiện ra nhập WTO và APEC.



- Đầu tư thoả đáng vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực để duy trì và phát
huy được lợi thế của Việt Nam.

KẾT LUẬN


×