Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đồ án tốt nghiệp các cách giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.72 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến nay, các quan hệ
thương mại quốc tế giữa thương nhân trong nước và thương nhân nước ngoài được thiết lập
ngày càng nhiều và tỷ lệ thuận với nó là số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tăng lên
nhanh chóng. Tuy nhiên, một thực tế là còn khá nhiều thương nhân trong nước tỏ ra lúng túng
khi tham gia đàm phán, ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, điều này xuất phát từ
việc chưa nắm và hiểu rõ các vấn đề liên quan đến luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Chính vì vậy, “Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” sẽ là một
trong những vấn đề mà doanh nhân phải tìm hiểu.Trong quá trình đàm phán ký hết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, các chủ thể có quyền tự do lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh các
quan hệ trong hợp đồng.Việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc chọn luật
để điều chỉnh phù hợp với ý chí của mình khi có tranh chấp xảy ra
Từ thực tế đó, em xin chọn đề tài “Các cách giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế”. Đề tài gồm những đặc điểm chính sau:
>Đối tượng nghiên cứu: các cáchgiải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế
>Mục tiêu: điều chỉnh các bất đồng xung đột dựa trên những căn cứ và bằng những
phương thức khác nhau do các bên lựa chọn
Những nội dung chính được đề cập đến trong đề tài gồm:
Phần I.Cơ sở lý luận
Phần II.Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
Phần III.Các cách giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Em thực hiện xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Hợp Toàn đã tận tình hướng
dẫn em thực hiện đề tài này.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thu Trang A– Lớp Luật 48

NguyÔn Thu Trang A



1.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Khái niệm:
-Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại
quốc tế, chính vì vậy nó bị sự điều chỉnh bởi nguồn luật thương mại quốc tế, bao gồm các điều
ước về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại, tiền lệ pháp và pháp
luật quốc gia.
-Điều ước quốc tế về thương mại là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia và các
chủ thể của luật quốc tế, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thương mại quốc tế. Căn cứ vào chủ thể,
điều ước quốc tế được phân thành hai loại là điều ước quốc tế song phương và điều ước quốc
tế đa phương.
1.1.1. Một số điều ước sau được áp dụng cho việc mua bán hàng hóa quốc tế:
-Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế (còn gọi là Công ước CISG - United
Nations Convention on Contracts for the International Sales of Goods) được ký ngày
11/4/1980 tại Viên, cho đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa tham gia công ước Viên 1980, nên về nguyên tắc Công ước
không có hiệu lực ràng buộc đối với các chủ thể là thương nhân Việt Nam trong quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
-Công ước Lahay ngày 15/6/1955 về luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Theo Công ước này, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải tuân thủ theo luật mà các
bên lựa chọn. Nếu không có sự thỏa thuận thống nhất của các bên về luật áp dụng thì luật của
nước nơi người bán thường trú sẽ được áp dụng trừ một số trường hợp ngoại lệ
-Công ước Rome ngày 19/6/1980 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng. Công ước này được ký kết bởi 9 nước thành viên châu Âu, sau đó có sự tham gia của 6
nước châu Âu khác.
-Các quy định của Công ước được áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng liên
quan đến trường hợp lựa chọn luật của các nước khác nhau
-Các hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam với các nước mà điển hình là:

+hiệp định về quan hệ thương mại với Hoa Kỳ (ngày 16/10/2001)
+hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU
+và gần 100 hiệp định thương mại song phương mà Việt Nam đã ký với các nước
khác.

NguyÔn Thu Trang A


-Tập quán thương mại (lex mercatoria) là các thói quen thương mại được hình thành từ lâu
đời, có nội dung rõ ràng, được áp dụng liên tục trong thương mại quốc tế, được chấp nhận có
giá trị pháp lý bắt buộc.
Thông thường, tập quán, tập quán thương mại quốc tế trở thành luật áp dụng chung đối
với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi các bên lựa chọn.
Một trong những tập quán thông dụng trong thương mại quốc tế hiện nay là các điều kiện
thương mại quốc tế - Incoterms (International Commercial Terms) do Phòng thương mại quốc
tế - ICC ban hành năm 1936, được sửa đổi bổ sung năm 1953, 1967, 1980, 1990 và gần đây
nhất là năm 2000; Quy tắc chung về tập quán và thực hành tín dụng chứng từ (UCP 500); Bộ
nguyên tắc của UNIDROIT; Luật mẫu của trọng tài UNCITRAL ban hành năm 1985; Công
ước New York năm 1958…
-Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại là các quy tắc pháp luật hình thành từ thực tiễn xét xử
của Tòa án được gọi là tiền lệ pháp và chủ yếu được áp dụng tại các nước theo hệ thống luật
Anh - Mỹ (Anglo Saxon), tại đây các Tòa án thường sử dụng một hoặc một số phán quyết của
Tòa án đã được công bố để làm khuôn mẫu áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp tương tự.
Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa của
quốc gia đó. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
trong các trường hợp sau:
+Khi các bên ký kết hợp đồng thỏa thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp đồng
về việc chọn luật của một bên hoặc bên thứ ba để điều chỉnh hợp đồng
+Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy
định trong các điều ước quốc tế liên quan, luật quốc gia đương nhiên trở thành luật áp dụng

+Khi có quy định của pháp luật quốc gia.
Theo pháp luật Việt Nam thì tư cách pháp lý của mỗi bên tham gia hợp đồng và hình thức
của hợp đồng được quy định tại Bộ luật dân sự 2005 (BLDS) và Luật thương mại 2005
(LTM).
Trong quá trình đàm phán ký hết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các chủ thể có
quyền tự do lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng (lex voluntaties).
Việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc chọn luật để điều chỉnh phù hợp với
ý chí của mình khi có tranh chấp xảy ra. Đây là nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng được luật
quốc tế và luật của nhiều quốc gia thừa nhận.
Trong pháp luật Việt Nam, nguyên tắc tự do xác định luật được áp dụng tại Điều 759
BLDS 2005 và Khoản 2 Điều 5 LTM 2005. Bên cạnh đó, nguyên tắc xác định luật áp dụng
trên cơ sở mối quan hệ gắn bó cũng được sử dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo đó, nguyên tắc này được áp dụng khi các bên không có sự thỏa thuận chọn luật áp dụng
khi ký kết hợp đồng (trong hợp đồng không có điều khoản hay nội dung nào về việc chọn luật
áp dụng).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế được quy định tại BLDS; LTM; Bộ luật hàng hải năm 2005 (BLHH); Luật
hàng không dân dụng Việt Nam 1992 (LHKDD), được sửa đổi, bổ sung năm 1995; Pháp lệnh
trọng tài Thương mại 2003 (PLTTTM).
Theo đó, Điều 758 BLDS quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự
có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt

NguyÔn Thu Trang A


Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ
chức Việt Nam, nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Điều 4 và Điều 5 LTM quy định về các loại nguồn pháp luật có thể áp dụng cho hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.

Điều 3 BLHH quy định về pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng hàng hải trong thương
mại.
Điều 4 LHKDD quy định tổ chức, cá nhân Việt Nam có thể thỏa thuận với tổ chức, cá nhân
nước ngoài về việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi ký kết hợp đồng vận chuyển, dịch vụ
hàng không với điều kiện không vi phạm điều cấm của pháp luật và phong tục tập quán Việt
Nam.
Điều 5 quy định về việc xác định pháp luật áp dụng khi có xung đột pháp luật.
Điều 7 PLTTTM quy định các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại có quyền tự do thỏa
thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng và cơ quan trọng tài sẽ áp dụng pháp
luật do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Tuy nhiên, quyền tự
do lựa chọn luật của các bên bị hạn chế.
Ngoài ra, khoản 5 Điều 49 của PLTTTM còn quy định ngoài quyền tự do lựa chọn và áp
dụng pháp luật nước ngoài, các bên còn có quyền thỏa thuận chọn tập quán thương mại quốc
tế để điều chỉnh quan hệ tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài.
2.KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
2.1.Khái niệm:
-Hợp đồng mua bán quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán
ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu(Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một
bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; bên mua có
nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
-Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân có trụ
sở kinh doanh đặt ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ
giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho một bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận
thanh toán; và Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
-Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng song vụ: mỗi bên ký kết hợp đồng đều
có nghĩa vụ đối với nhau. Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng cho Bên nhập khẩu còn Bên
nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu
-Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng có đền bù: bên có nghĩa vụ thì cũng có

quyền lợi và ngược lại. Bên nhập khẩu được hưởng quyền lợi nhận hàng và đổi lại phải có
nghĩa vụ trả tiền cân xứng với giá trị đã được giao. Ngược lại, Bên xuất khẩu nhận được tiền
phải có nghĩa vụ giao hàng.

NguyÔn Thu Trang A


2.1.1.Ðịnh nghĩa trên đây nêu rõ:
-Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết (các bên đương sự).
-Chủ thể của hợp đồng là Bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu). Họ có trụ
sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị nhất định, và để đổi lại, bên
mua phải trả một đối giá (Counter value) cân xứng với giá trị đã được giao (Contract with
consideration).
-Ðối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến thành
hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng đặc tính (Specific goods) và cũng có thể là hàng đồng
loại (Generic goods).
-Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển chủ hàng
hoá). Ðây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn (vì hợp đồng thêu mướn không tạo ra sự
chuyển chủ), so với hợp đồng tặng biếu (vì hợp đồng tặng biếu không có sự cân xứng giữa
nghĩa vụ và quyền lợi).
2.2. Ðiều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán quốc tế .
2.2.1.Theo điều 81 của BLTM 1997 Việt Nam. Hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi
có đủ các điều kiện sau đây:
(a) Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý.
(b) Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định của pháp luật.
(c) Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định.
(d) Hình thức của hợp đồng phải là văn bản.
Dưới đây chúng ta phân tích bốn điều kiện nói trên.
(a) : Chủ thể của hợp đồng mua bán quốc tế.
-Về phía Việt Nam, theo nghị định 57/1998/NÐ - CP ngày 31/7/1998, phải là doanh

nghiệp đã có đăng ký kinh doanh (theo thủ tục thành lập doanh nghiệp) và đã đăng ký mã số
kinh
doanh
XNK
tại
cục
hải
Quan
tỉnh,
thành
phố.
-Doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu.
Ðối với mặt hàng được phép NK, XK có điều kiện, họ phải xin được hạn ngạch (trường hợp
hàng thuộc nhà nước quản lý bằng hạn ngạch) hoặc được giâý phép (trường hợp hàng thuộc
diện
nhà
nước
quản

bằng
giấy
phép
kinh
doanh
XNK).
(b): đối tượng hợp đồng phải là hàng được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật
hiện hành.

NguyÔn Thu Trang A



(c) : nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản, mà theo điều 50 của Luật thương
mại, buộc phải có. Ðó là:
- Tên hàng
- Số lượng;
- Quy cách chất lượng;
- Giá cả;
- Phương thức thanh toán;
- Ðịa điểm và thời gian giao nhận hàng.
Ngoài ra các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản cho hợp đồng.
(d): hình thức hợp đồng phải là hình thức văn bản. Ðó có thể là bản hợp đồng (hoặc bản thoả
thuận ) có chữ ký của hai bên, cũng có thể là những thư từ, điện tín, điện chữ, thư điện tử bao
gồm:
Chào hàng + Chấp nhận chào hàng = Hợp đồng đã giao kết
Hoặc
Ðặt hàng + Xác nhận đặt hàng = Hợp đồng đã giao kết
2.2.2. Về hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của CISG
-Các quy định của CISG được thiết lập trên cơ sở tôn trọng tối đa quyền thoả thuận của
các bên trong hợp đồng và hạn chế tối đa sự can thiệp đến tính hiệu lực của hợp đồng mà các
bên mong muốn được thực hiện. CISG quy định rõ, trừ trường hợp có quy định rõ ràng, Công
ước không liên quan tới tính hiệu lực của hợp đồng hoặc của bất kỳ quy định nào trong hợp
đồng (Điều 4).
Cũng trên cơ sở đó, CISG công nhận hợp đồng dưới mọi hình thức, có thể được chứng minh
bằng mọi cách, kể cả bằng lời khai của nhân chứng (Điều 11). Đây cũng chính là các nguyên
tắc cơ bản nhất về hợp đồng trong thương mại quốc tế, được ghi trong Các nguyên tắc của
Unidroit về Hợp đồng thương mại quốc tế (Điều 1.1 và 1.2). Mặc dù CISG không giới hạn
hình thức giao kết hợp đồng nhưng CISG chỉ quy định hợp đồng đối với giao dịch thông qua
chào hàng và chấp nhận chào hàng mà không có quy định gì về hình thức “các bên có mặt ký
vào hợp đồng” như trong Luật Thương mại 1997 (Điều 55).
-Về điều kiện hiệu lực của chào hàng: CISG quy định một đề nghị phải thoả mãn ba điều

kiện mới trở thành một chào hàng.
+Một là đề nghị đó phải được gửi tới một hoặc nhiều người cụ thể (xác định).
+ Hai là đề nghị đó phải đủ chính xác, tức là phải nêu rõ tên hàng và ấn định rõ ràng
hoặc ngầm định hay quy định phương pháp xác định số lượng và giá cả.
+Ba là phải chỉ rõ ý chí của người đề nghị muốn tự ràng buộc trách nhiệm trong trường
hợp có chấp nhận.
+Trường hợp một đề nghị không thoả mãn điều kiện thứ nhất, nhưng người đề nghị nêu
rõ đó là một chào hàng thì đề nghị đó cũng được coi là một chào hàng.

NguyÔn Thu Trang A


Trong ba điều kiện trên thì điều kiện thứ hai là quan trọng nhất vì nó xác định tính chất của
giao dịch là giao dịch mua bán hàng hoá. Để thể hiện một giao dịch mua bán thì nội dung của
giao dịch phải xác định rõ đối tượng hàng hoá (tên hàng và số lượng) và phải xác định giá cả
để phân biệt với giao dịch khác (tặng, cho…).
Mặc dù vậy, CISG lại quy định nếu hợp đồng được ký kết hợp pháp nhưng trong hợp đồng
không ấn định rõ ràng hoặc ngầm định hay quy định phương pháp xác định giá cả thì giá cả
trong hợp đồng được coi là giá trên thị trường trong những điều kiện tương tự vào thời điểm
ký kết hợp đồng (Điều 55). Điều này khiến người ta hiểu có sự mâu thuẫn là nếu coi điều
khoản giá cả là điều khoản bắt buộc phải có trong chào hàng thì hợp đồng không xác định giá
cả sẽ không được coi là “ký kết hợp pháp” và do đó quy định này trở nên vô nghĩa. Nhưng
trong thực tiễn thương mại quốc tế, một hợp đồng không thể hiện rõ một trong ba nội dung
trên, nhưng dựa vào những thói quen được thiết lập giữa các bên mà có thể xác định được ý
định của các bên về các nội dung đó thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực.
Theo các nguyên tắc giải thích hợp đồng của Unidroit thì một hợp đồng phải được giải thích
theo cách hiểu, ý định thông thường của các bên, sau đó là theo cách hiểu của người bình
thường có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc theo ý định của bên đó nếu bên kia biết hoặc
không thể không biết.
Thực tế, khi các bên đã thiết lập những thói quen với nhau thì những nội dung được các bên

hiểu theo thói quen đó sẽ không được nêu trong hợp đồng và chúng được coi là các bên đã ngụ
ý (ngầm hiểu) với nhau về những nội dung đó. Điều này cho phép các bên trong hợp đồng
không cần thoả thuận đầy đủ các nội dung (cơ bản) của hợp đồng. Đây cũng là cơ sở để giải
thích tại sao những hợp đồng không đầy đủ các nội dung cơ bản mà vẫn thực hiện được.
Cần lưu ý rằng CISG quy định ba điều kiện trên là các điều kiện để một đề nghị trở thành
một chào hàng, song không có quy định nào nói rằng đó là các nội dung bắt buộc của hợp
đồng mua bán hàng hoá (vì có thể thiết lập hợp đồng không qua chào hàng, chấp nhận chào
hàng). Do đó, chỉ nên hiểu đó là các điều kiện bắt buộc của một chào hàng mà không phải là
của hợp đồng.
Từ phân tích trên, có thể lý giải sự khác nhau giữa hai quy định của CISG là do khi chào
hàng được gửi đi thì giữa các bên chưa thiết lập thói quen đối với giao dịch mua bán nêu trong
chào hàng đó. Do vậy, một đề nghị được coi chào hàng thì phải có các nội dung bắt buộc,
nhưng không đồng nghĩa điều kiện đó cho mọi hợp đồng mua bán. Tuy vậy, nếu như những
lập này ủng hộ các quy định về nội dung cơ bản của chào hàng của CISG thì nó lại chỉ ra hạn
chế trong việc CISG chỉ quy định thời điểm hợp đồng có hiệu lực đối với phương thức giao
kết hợp đồng qua chào hàng, chấp nhận chào hàng mà không đề cập đến các phương thức
khác.
-Về thời hạn hiệu lực của chào hàng và chấp nhận chào hàng: Theo Điều 15 CISG thì
chào hàng bắt đầu có hiệu lực kể từ khi nó tới nơi bên được chào hàng (theo thuyết tiếp thu).
Nhưng theo Điều 20 CISG thì thời hạn để chấp nhận chào hàng bằng thư, điện tín lại “bắt đầu
từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc từ ngày ghi trên thư hoặc nếu không có ngày đó thì là
ngày ghi trên bì thư” và thời hạn để chấp nhận chào hàng bằng điện thoại, telex hoặc phương

NguyÔn Thu Trang A


tiện thông tin tức thời khác thì “bắt đầu từ thời điểm chào hàng tới nơi người được chào hàng”.
Như vậy, người được chào hàng có thể gửi thông báo chấp nhận chào hàng trước khi chào
hàng có hiệu lực đối với chào hàng bằng thư, điện tín (vì một lý do nào đó người được chào
biết thông tin trước khi chào hàng tới nơi người đó). Phải chăng hai quy định này của CISG là

mâu thuẫn nhau?
Rõ ràng một thông báo chấp nhận tới nơi người chào hàng trước khi chào hàng có hiệu lực
thì chưa thể coi là một chấp nhận (chào hàng). Nhưng một chấp nhận như vậy sẽ trở nên có
hiệu lực khi chào hàng bắt đầu có hiệu lực, vì nó đảm bảo trong thời hạn hiệu lực của chào
hàng thì chấp nhận đó đã tới nơi người chào hàng. Tuy vậy, trong trường hợp này thì chấp
nhận chào hàng cũng không phải và không thể có hiệu lực kể từ khi nó tới nơi người chào
hàng.
Chính vì vậy, Điều 18 CISG quy định “chấp nhận chào hàng có hiệu lực kể từ khi nó tới nơi
người chào hàng” – mà nếu chỉ dừng ở đây thì rõ ràng mâu thuẫn với Điều 20 – nhưng cũng
điều này còn quy định thêm rằng: “chấp nhận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu nó
không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn quy định trong chào hàng hoặc, nếu không
có thời hạn đó, thì trong khoảng thời gian hợp lý”. Như vậy thời điểm chấp nhận chào hàng
bắt đầu có hiệu lực không hoàn toàn là thời điểm nó tới nơi người chào hàng mà là thời điểm
khi cả hai điều kiện được đáp ứng: một là nó đã tới nơi người chào hàng và hai là thời hạn
hiệu lực của chào hàng vẫn còn.
Nếu như quy định chào hàng có hiệu lực kể từ khi nó được gửi đi thì chưa hẳn có lợi cho bên
được chào hàng vì thời điểm chào hàng bắt đầu có hiệu lực sớm hơn so với thời điểm chào
hàng tới nơi người được chào sẽ rút ngắn hạn chấp nhận chào hàng. Nhưng ngược lại sẽ bất lợi
cho người chào hàng trong trường hợp vì lý do nào đó chào hàng tới nơi người được chào
hàng rất muộn (người chào hàng sẽ không kiểm soát được thời hạn chấp nhận nếu không ấn
định ngày hết hiệu lực). Có lẽ vì lý do này mà thời hạn chấp nhận chào hàng theo CISG (Điều
20) được chia thành hai trường hợp theo phương thức truyền tin như đã đề cập. Thêm nữa một
thời hạn hợp lý được xác định là thời hạn hiệu lực của chào hàng được xác định trên cơ sở căn
cứ vào nhiều tình tiết, trong đó có tốc độ truyền tin của phương tiện truyền tin.Điều đó đảm
bảo được quyền lợi của cả hai bên một cách hợp lý.
-Thời hạn hiệu lực của chào hàng theo Công ước Vienna là khoảng thời gian do người
chào hàng quy định. Trường hợp không có quy định về thời hạn đó thì thời hạn hiệu lực của
chào hàng là một khoảng thời gian hợp lý. Đối với chấp nhận chào hàng thì chỉ cần quy định
về thời điểm bắt đầu có hiệu lực là đủ vì đó chính là thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Thời hạn
hiệu lực của hợp đồng sẽ phụ thuộc vào các điều khoản cụ thể của hợp đồng và việc thực hiện

nghĩa vụ của các bên.
Luật Thương mại 1997 quy định về “thời hạn trách nhiệm” của bên chào hàng và bên chấp
nhận chào hàng (Điều 53 – thời hạn này được tính từ khi chào hàng, chấp nhận chào hàng
được gửi đi). Nhưng thời hạn trách nhiệm của các bên và thời hạn hiệu lực là không đồng
nhất. Bởi vì một chấp nhận chào hàng được gửi đi sẽ ràng buộc trách nhiệm của bên chấp
nhận từ khi nó được gửi đi nhưng không thể có hiệu lực nếu không tới nơi bên chào hàng. Hơn
nữa, dựa vào quy định về thời điểm ký kết hợp đồng (“hợp đồng mua bán hàng hoá được coi

NguyÔn Thu Trang A


là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều
kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng” – Điều 55 LTM
1997) thì có thể suy luận rằng chấp nhận chào hàng có hiệu lực kể từ khi bên chào hàng nhận
được thông báo chấp nhận chứ không phải từ khi nó được gửi đi.
Tóm lại, theo Công ước Vienna thì
+chào hàng có hiệu lực kể từ khi nó tới nơi người được chào hàng
+thời hạn để chấp nhận chào hàng được bắt đầu từ khi chào hàng được gửi đi đối với
thư, điện tín và từ khi chào hàng tới nơi người được chào đối với các phương tiện truyền thông
tức thời;
+thời hạn hiệu lực của chào hàng được người chào ấn định hoặc là một khoảng thời gian
hợp lý
+chấp nhận chào hàng có hiệu lực kể từ khi nó tới nơi người chào hàng trong thời hạn
hiệu lực của chào hàng.
Theo Luật Thương mại thì chào hàng sẽ có hiệu lực kể từ khi nó được gửi đi (thuyết tống
phát) mà không phân biệt hình thức truyền tin và có hiệu lực trong vòng 30 ngày nếu không có
quy định khác, chấp nhận chào hàng có hiệu lực kể từ khi bên chào hàng nhận được thông báo
chấp nhận trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng (thuyết tiếp thu). Với quy định như
vậy, CISG cho phép các bên có thể thu hồi chào hàng/chấp nhận chào hàng nếu thông báo thu
hồi đến trước hoặc cùng lúc với chào hàng/chấp nhận chào hàng (tức là khi chúng chưa có

hiệu lực). Luật Thương mại thì không và không thể quy định như vậy khi đã quy định thời hạn
trách nhiệm của các bên là từ khi chào hàng/chấp nhận chào hàng được gửi đi.
-Về những nội dung cơ bản của chào hàng: Công ước Vienna quy định một thông báo trả
lời tỏ ý chấp nhận chào hàng nhưng có những sửa đổi, bổ sung vẫn được coi là một chấp nhận
chào hàng nếu những sửa đổi, bổ sung đó không làm thay đổi tính chất những điều kiện của
chào hàng (trừ trường hợp người chào hàng ngay lập tức thông báo không đồng ý về những
sửa đổi đó). Những sửa đổi, bổ sung liên quan đến các nội dung (nhưng không giới hạn ở) giá
cả, thanh toán, chất lượng, số lượng của hàng hoá, địa điểm và thời hạn giao hàng, phạm vi
trách nhiệm của một bên đối với bên kia hay việc giải quyết tranh chấp được coi là những sửa
đổi, bổ sung làm thay đổi tính chất các điều khoản của chào hàng.
Với quy định như vậy, tám nội dung trên thường được xem là những nội dung cơ bản (chủ
yếu) của chào hàng hay của hợp đồng. Đó là những nội dung quan trọng liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Nhưng đó không phải là những nội dung bắt buộc
của chào hàng hay hợp đồng, khác với ba nội dung bắt buộc để một đề nghị (thoả mãn hai điều
kiện còn lại) được coi là một chào hàng.
-Về thời điểm ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá: Công ước Vienna quy định hợp đồng
được coi là ký kết từ thời điểm chấp nhận chào hàng tới nơi người chào hàng nhưng không đề
cập đến các hình thức giao kết khác.
Ngoài quy định như Công ước Vienna, Luật Thương mại còn quy định hợp đồng có hiệu lực
kể từ khi các bên có mặt ký vào bản hợp đồng đối với hình thức giao kết này. Theo các
Nguyên tắc của Unidroit về Hợp đồng thương mại quốc tế thì hợp đồng có thể được ký kết

NguyÔn Thu Trang A


bằng cách chấp nhận chào hàng hoặc bằng cách khác của các bên miễn là nó thể hiện sự thoả
thuận giữa các bên.
2.2.3.Kết luận:
Một trong những bất cập lớn của các chế định về hợp đồng trong Luật Thương mại hiện hành
là gây ra nhiều hợp đồng vô hiệu trong thực tế, không đáp ứng được mong muốn của các chủ

thể tham gia hoạt động thương mại và gây nhiều tốn kém. Từ những phân tích trên cần tham
khảo, cân nhắc các quy định của Công ước Vienna để sửa đổi các điều khoản quy định về hợp
đồng trong Luật Thương mại cho phù hợp.
2.3. Nội dung chủ yếu của một hợp đồng mua bán quốc tế
Một hợp đồng mua bán quốc tế thường gồm có hai phần: Những điều trình bày
(representations) và các điều khoản và điều kiện (terms and conditions)
2.3.1.Trong phần những điều trình bày, người ta ghi rõ:
a. Số hợp đồng (contract No.).
b. Ðịa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng. Ðiều này có thể được ghi ngay trên cùng
Ví dụ :”Hà Nội June 20th 2003” hoặc “The present contract was made and entered into at
Hanoi on this June 20th 2003 by and between”.
Cũng có nhiều trường hợp, người ta lại ghi địa điểm và ngày tháng ký kết ở phần cuối hợp
đồng.
Ví dụ: “The present contract was made at Hanoi on June 20th 2003 in quadruplicate of
equal force, two of which are kept by each party”.
c. Tên và địa chỉ của các đương sự.
d. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng. Những định nghĩa này có thể rất nhiều
Ví dụ hàng hoá có nghĩa là thiết kế có nghĩa là. chí ít cũng đưa ra định nghĩa sau đây:
“ABC company, address…, Tel … represented by Mr. … herein-after referred to as the Seller
(or the Buyer)”
e. Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng. Ðây có thể là hiệp định chính phủ ký kết ngày tháng ,
cũng có thể là Nghị định thư ký kết giữa Bộ nước với Bộ.. nước. Ít nhất cũng nêu ra sự tự
nguyện của hai bên khi ký kết hợp đồng.
Ví dụ: “It has been mutually agreed that the Seller commits to sell and the Buyer
commits to buy the undermentioned goods on the following terms and conditions”.

NguyÔn Thu Trang A


2.3.2.Trong phần các điều khoản và điều kiện người ta ghi rõ

+các điều khoản thương phẩm (như tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì);
+các điều khoản tài chính (như giá cả và cơ sở của giá cả, thanh toán, trả tiền hàng,
chứng từ thanh toán);
+các điều khoản vận tải (như: điều kiện giao hàng, thời gian và địa điểm giao hàng);
+các điều khoản pháp lý (như: Luật áp dụng vào hợp đồng, khiếu nại, trường hợp bất
khả kháng, trọng tài)
2.3.3.Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế
Việc soạn thảo hợp đồng thương mại yêu cầu khá nhiều kĩ năng. Người soạn thảo phải dự
tính được những rủi ro sẽ xảy ra trong tương lai để có thể điều chỉnh các điều khoản cho phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Vai trò của hợp đồng trong các giao dịch thương mại quốc tế lại
càng quan trọng; phần vì đối tác là những doanh nhân chuyên nghiệp, rất am hiểu luật trong
việc giải quyết tranh chấp; phần vì các hợp đồng quốc tế không được mặc nhiên công nhận là
sẽ được luật Việt Nam điều chỉnh. Từ đó có thể thấy việc làm quen với luật và tập quán quốc
tế là rất cần thiết.
Đã từ lâu, Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế, viết tắt theo Tiếng Pháp là UNIDROIT,
(insitute International pour l`Unification des Droits Privé), một tổ chức quốc tế liên chính phủ
thành lập năm 1929, đặt trụ sở tại Roma, Italia, đã tập trung nghiên cứu tìm kiếm các quy định
chung để điều chỉnh hợp đồng sao cho có thể thích hợp trong nhiều hệ thống pháp luật của
những nước khác nhau. Năm 1994 UNIDROIT đã cho ra đời cuốn sách (Nguyên tắc Hợp
đồng Thương mại Quốc tế), viết tắt theo tiếng Anh là PICC (Principles of International
Commercial Contracts).Cùng với Công Ước Viên 1980 về Buôn bán Hàng hoá Quốc tế
(CISG), PICC là tài liệu tham khảo được nhắc đến nhiều nhất trong luật thương mại quốc tế ở
châu Âu. Nó đã được dịch và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có các nước đang
phát triển.
Trong hoàn cảnh nước ta, PICC có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho bên Việt Nam
xem xét và bổ sung kịp thời những điểm cần thiết trong các bản hợp đồng thương mại quốc tế
do bên nước ngoài soạn thảo. Ngoài ra, PICC còn có thể được dùng làm sách nghiên cứu về tư
pháp quốc tế và luật dân sự, coi như một ví dụ về các điều khoản của luật hợp đồng. Bản dịch
do T.S. Lê Nết, giảng viên trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh thực hiện, sau khi dự lớp tập
huấn hai tháng tại Roma năm 1998 và được sự đồng ý của UNIDROIT.

2.3.4.Hợp đồng mẫu về mua bán hàng hóa

NguyÔn Thu Trang A


Nguồn : />3.CÁC CÁCH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA
-Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm
cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ
có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu qủa đó và
một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh
tương tự.(Theo điều 26 Công ước viên 1980)
-Nếu một bên có quyền yêu cầu bên kia phải thi hành một nghĩa vụ nào đó thì chiếu theo
các quy định của Công ước này, Tòa án không bị bắt buộc phải đưa ra phán quyết buộc bên
kia thực hiện thực sự hợp đồng trừ trường hợp nếu tòa án ra phán quyết đó trên cơ sở luật
nước mình đối với các hợp đồng mua bán tương tự không do Công ước này điều chỉnh.(Theo
điều 28 Công ước Viên 1980)

NguyÔn Thu Trang A


-Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế người mua phải thực hiện những nghĩa vụ sau:
+Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng hoá và chuyển
giao quyền sở hữu về hàng hoá theo đúng quy định của hợp đồng và của Công ước này(DD30
Công ước viên1980)
+ Quyền giao hàng và chuyển giao chứng từ
-Công ước Vienne năm 1980 về hợp đống mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) được soạn
thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế(UNCITRAL) trong một nỗ
lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đống mua bán hàng hóa quốc tế
-Công ước này đã trở thành công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước

quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá quốc tế. Cho đến thời điểm hiện nay, đã có 66 quốc
gia là thành viên Công ước này .Từ khi công ước có hiệu lực (ngày 01/01/1988), đến thời
điểm hiện nay tổng số các bản án, phán quyết đã lên tới hơn 1.600.
-CISG cũng góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển của quan hệ thương mại về
hàng hoá giữa các quốc gia. Việc cùng trở thành thành viên của công ước giúp các quốc gia
xích lại gần nhau hơn trong quan hệ mua bán, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được nhanh chóng và thuận lợi hơn.
+Trong số hàng nghìn án lệ về CISG, đã có một án lệ liên quan đến Việt Nam. Đây là án
lệ về tranh chấp giữa Công ty thương mại Tây Ninh - Tanico (Việt Nam) và DN Ng Nam Bee
(Singapore), được xét xử tại Toà phúc thẩm - TAND Thành phố Hồ Chí Minh, bản án tuyên
ngày 4/5/1996. Khi xét xử vụ việc này, Toà án đã tham chiếu điều 29 và điều 53, điều 64
CISG. Đây là một án lệ về CISG đầu tiên đối với Việt Nam. Án lệ này cho thấy, dù Việt Nam
chưa phải là thành viên công ước, nhưng vẫn có những trường hợp công ước này có thể được
áp dụng ở Việt Nam.
+Câu hỏi được đặt ra là: một khi VN chưa trở thành một quốc gia thành viên của công
ước thì khi nào và trong trường hợp nào, CISG có thể được áp dụng tại VN?
+Vì vậy, để xem xét các trường hợp có thể áp dụng CISG ở Việt Nam, chúng ta cần
nghiên cứu Điều 1 của CISG. Điều 1.1 của CISG quy định: "Công ước này áp dụng cho các
hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau: a.
Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của công ước; b. Khi theo các quy phạm tư
pháp quốc tế thì luật áp dụng là luật của một quốc gia thành viên của công ước."
+Khi Việt Nam chưa là thành viên của CISG thì không thể áp dụng CISG theo điều
1.1.a nói trên cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà một bên là bên Việt Nam
-Tuy vậy,ở trường hợp thứ hai,CISG sẽ có thể được áp dụng cho các hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế được ký kết giữa một bên có trụ sở thương mại tại một quốc gia là thành
viên và một bên có trụ sở thương mại tại một quốc gia chưa phải là thàng viên của công ước
VD:một hợp đồng mua bán sản phẩm viễn thông được ký kết giữa người bán Singapore
(Singapore đã gia nhập CISG vào ngày 16/02/1995 và có hiệu lực từ ngày 1/3/1996) và người
mua Việt Nam (Việt Nam chưa gia nhập hay phê chuẩn Công ước). Hai bên không lựa chọn
luật áp dụng trong hợp đồng. Khi có tranh chấp xảy ra, toà án (trọng tài) sẽ phải dựa vào các

qui phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho hợp đồng. Nếu quy
phạm xung đột dẫn chiếu đến luật nước người bán - tức là luật Singapore, thì luật áp dụng cho
hợp đồng sẽ là luật Singapore. Nhưng vì Singapere là một quốc gia thành viên của CISG nên

NguyÔn Thu Trang A


đối với các tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, toà án (trọng tài) sẽ không áp
dụng luật của Singapore mà sẽ áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp. Nếu tranh chấp được
giải quyết tại Việt Nam và quy phạm xung đột của Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng luật
của một quốc gia thành viên công ước thì chúng ta cũng có kết quả tương tự: đó là CISG sẽ
được áp dụng cho hợp đồng. Đây là điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý nhằm có
được thế chủ động khi CISG được áp dụng vào hợp đồng theo trường hợp thứ hai nêu trên.
-Ngoài trường hợp nói trên, còn có hai trường hợp khác ở đó CISG có thể được áp dụng:
+Khi các bên trong hợp đồng lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng của mình
+Khi trong hợp đồng, các bên không lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh
chấp lựa chọn CISG để giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là toà án
VN, toà án nước ngoài, trọng tài VN hay trọng tài nước ngoài.
-Hợp

đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của hợp đồng
thương mại quốc tế.Tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế xảy ra khi một trong các
bên tham gia ký kết hợp đồng không thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ đã quy định trong hợp
đồng.Ví dụ : giao hàng sai qui cách, giao hàng chậm, nhận hàng không trả tiền.
-Tranh chấp phát sinh thường rất đa dạng và phức tạp, thông thường khi xảy ra tranh chấp,
có các bước giải quyết
+Thứ nhất là khiếu nại ( hay còn gọi là phương pháp thương lượng trực tiếp ) được áp
dụng nhiều hơn cả
+Thứ hai, nếu tranh chấp phát sinh không được giải quyết ở bước khiếu nại thì các bên
tranh chấp có thể áp dụng phương thức trung gian hoà giải.

+Thứ ba, nếu hoà giải bất thành, khi đó các bên bắt buộc phải áp dụng các phương pháp
mang tính chất bắt buộc cao hơn, đó là đi kiện trước trọng tài và các toà án thương mại.
-Hiện nay, chưa có một toà án quốc tế nào lập ra để chuyên xét xử các tranh chấp phát sinh
trong thương mại quốc tế. Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế
mà các bên không quy định rõ thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì nguyên đơn phải
gửi đơn kiện tới các toà án có thẩm quyển tại nước bị đơn, nước nguyên đơn, hoặc nước thứ
ba, tuỳ từng trường hợp cụ thể.
-Thông thường, trong hợp đồng thương mại quốc tế thường dẫn chiếu luật trước vào hợp
đồng nhằm tạo điều kiện thuận lợi giải quyết khi phát sinh tranh chấp.
-Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó, các bên tham gia giao kết hợp đồng không thoả thuận,
không quy định trong hợp đồng sẽ áp dụng luật nào thì khi có tranh chấp xảy ra, không biết
dẫn chiếu luật pháp nước nào ( nước người mua, nước người bán, hay nước thứ ba), tranh chấp
pháp luật có thể xảy ra nếu quốc gia của 2 chủ thế ký kết hợp đồng này chưa tham gia điều
ước quốc tế nào trực tiếp điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế.
-Lúc đó, việc giải quyết tranh chấp pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế, có thể sử
dụng những gợi ý sau:
+Nếu xung đột về hình thức của hợp đồng thì cơ quan có thẩm quyền lựa chọn luật (Toà
án hoặc trọng tài) sẽ áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng.

NguyÔn Thu Trang A


+Nếu xung đột về nội dung hợp đồng - Luật nước người bán, Luật nơi thực hiện nghĩa
vụ, Luật lựa chọn...
+Nếu xung đột về địa vị pháp lý của các bên ký hợp đồng - Luật quốc tịch, Luật nơi cư
trú.
-Mỗi phương thức khi được sử dụng độc lập đều có những ưu và nhược điểm riêng nhưng
khi kết hợp với những phương thức khác theo 1 trình tự hợp lý thì sẽ phát huy được tối đa các
ưu điểm và hạn chế các nhược điểm
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ về từng phương thức

3.1.Thương lượng trực tiếp giữa các bên tranh chấp
3.1.1..Thương lượng sau khi tranh chấp phát sinh
-Khi bắt đầu phát sinh tranh chấp,trong đại đa số các trường hợp thì các bên đều tự nguyện
và nhanh chóng liên hệ,gặp gỡ nhau để nhanh chóng thương lượng,tìm cách tháo gỡ bất đồng
với mục đích chung mà giữ gìn mối kinh doanh tốt đẹp và lâu dài giữa họ
-Có thể coi đây vừa là hình thức thương lượng lại để đạt được sự thỏa thuận chung về bất
đồng phát sinh vừa là một hình thức giải quyết tranh chấp
-Luật thương mại của một số nước,nhất là các nước Châu Á như Trung Quốc,Việt Nam
đều có quy định yêu cầu các bên trước hết phải giải quyết tranh chấp thương mại thông qua
thương lượng giữa các bên sau đó mới sử dụng các phương thức khác (khoản 1 Điều 239 Luật
thương mại do Quốc Hội Việt Nam thông qua ngày 10/5/1997)
-Trường hợp này có những đeiểm giống và khác với thương lượng,đàm phán ban đầu khi kí
kết hợp đồng:
+Các nguyên tắc và trình tự thương lượng để giải quyết tranh chấp về cơ bản cũng
giống như khi thương lượng ban đầu.Điều kiện cần có để các bên tiến hành thương lượng là
giữa họ có những lợi ích xung đột nhưng lại tương hợp ràng buộc với nhau.Do đó một số nhà
nghiên cứu và thực hành trong lĩnh vực thương mại đã đưa ra một số chỉ dẫn để thương lượng
thành công như sau:
>khi thương lượng phải tập trung vào vấn đề cần thương lượng chứ không phải là
các cá nhân người thương lượng,vào các lợi ích chứ không phải vào các quan điểm
>tạo ra những sự lựa chọn mà cả 2 bên cùng có lợi
>kiên trì các mục tiêu đặt ra với phương châm “cách lựa chọn tốt nhất là đạt được
thỏa thuận”
+Tiến trình thương lượng cũng đã được khái quất thành 4 giai đoạn:
>định hướng và hình thành các quan điểm thương lượng
>tranh luận,thuyết phục
>tìm ra lối thoát hoặc khủng hoảng
>thỏa thuận hoặc thất bại
-Tâm lý và chiến thuật thương lượng để giải quyết tranh chấp có những khác biệt nhất định
so với thương lượng khi kí kết hợp đồng .Nếu thương lượng ban đầu chủ yếu theo chiến thuật

mềm dẻo để thiết lập được hợp đồng thì thương lượng giải quyết tranh chấp nhiều khi theo
chiến thuật cứng,có tính chất được-thua nhiều hơn.Nếu thương lượng ban đầu thất bại thì hai
bên sẽ chia tay nhau,không có quan hệ hợp đồng tiếp theo như mong muốn nhưng thương

NguyÔn Thu Trang A


lượng lại mà không thành công mà các bên tranh chấp sẽ tiếp tục gặp nhau với tư cách của
nguyên đơn và bị đơn trong các quá trình tố tụng có tính chất chính thức-pháp lý hơn như nếu
xét xử tại trọng tài hoặc Tòa án.Do đó,thương lượng giả quyết tranh chấp thường được gọi là
“thương lượng dưới cái bóng của Tóa án”
3.1.2..Hiệu lực pháp lý của thương lượng
-Thương lượng có thể được tiến hành độc lập hoặc tiến hành cùng với quá trình tố tụng tại
tòa án hoặc trọng tài
+đối với thương lượng độc lập:nghĩa vụ của các bên phải tiến hành thương lượng được
quy định trong điều khoản về giải quyết tranh chấp,do đó cũng phải được thực hiện nghiêm
chỉnh như mọi điều khoản khác của hợp đồng.Kết quả thương lượng được coi như một thỏa
thuận mới về vấn đề tranh chấp,các bên phải thi hành tự nguyện thỏa thuận đó theo quy định
của luật áp dụng về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng
+nếu thương lượng được tiến hàng trong khuôn khổ tố tụng trọng tài hay tố tụng tư
pháp,pháp luật của nhiều nước quy định trọng tài viên,thẩm phán,theo yêu cầu của các bên,có
thể ra văn bản công nhaanjkeets quả thương lượng.Văn bản này có giá trị như một quyết định
của trọng tài hay tòa án (điều 43 Quy tắc tố tụng của Tóa án trọng tài thương mại quốc tế
Công hòa liên bang Nga,điều 49 Luật trọng tài của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,điều 18
Luật Trọng tài quốc tế của Singapore,Điều 30 Luật mẫu UNCITRAL…)
3.1.3..Đặc điểm của thương lượng
-Hoạt động thương lượng bên cạnh những đặc điểm chung như thương lượng các loại hợp
đồng thông thường khác thì cũng có những đặc điểm riêng biệt, đó là:
+Các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường chịu sự điều chỉnh của một
hoặc một số điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương, hoặc quy định của hệ thống pháp

luật một quốc gia nhất định với tư cách là khuôn khổ pháp lý.
+Thương lượng trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
luôn chịu sự chi phối, tác động của các quy luật kinh tế. Bên cạnh đó, nó còn bị chi phối, ảnh
hưởng bởi phương pháp và thủ thuật kinh doanh, đặc biệt là phương pháp marketing quốc tế
và cạnh tranh.
+Thường chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của nền kinh tế và thị trường quốc tế có tính
chất thường xuyên, liên tục.
+Thường chịu ảnh hưởng của các yếu tố chính trị và ngoại giao do có yếu tố quốc tế và
thường liên quan tới ít nhất hai quốc gia khác nhau.
3.1.4..Các yếu tố cơ bản của phương thức thương lượng
-Bối cảnh thương lượng là tổng hợp các yếu tố khách quan có liên quan trực tiếp và gián
tiếp tới hoạt động thương lượng và thường bao gồm các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị…
Trong đó thời gian, địa điểm và ngôn ngữ thương lượng là một trong những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến việc thương lượng.
-Năng lực thương lượng là yếu tố thuộc về cá nhân người thương lượng nhưng có ảnh
hưởng rất lớn và có tính chất quyết định tới tiến trình và kết quả thương lượng

NguyÔn Thu Trang A


-Đối tượng của thương lượng là các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, hoạt
động đầu tư, chuyển giao công nghệ và các hoạt động liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ… có
tính chất quốc tế.
-Nội dung thương lượng là việc tiến hành các hoạt động bàn bạc, thỏa thuận để đi đến
thống nhất giữa các bên về các vấn đề chủ yếu của hợp đồng như đối tượng hợp đồng, số
lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, điều kiện giao - nhận hàng hóa, dịch vụ,
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên.
-Mục đích thương lượng là những vấn đề liên quan đến lợi ích mà các bên hướng tới.
3.1.5.Các phương thức thương lượng
-Thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy có rất nhiều phương thức thương lượng khác nhau

các phương thức sau đây thường xuyên được các bên áp dụng:
+Thương lượng qua thư tín là phương thức thương lượng được sử dụng phổ biến trong
hoạt động kinh doanh hiện đại vì những ưu điểm của nó như tiết kiệm chi phí, thời gian…
+Thương lượng qua điện thoại là một trong những phương thức thương lượng phổ biến
hiện nay, nhất là trong thời đại phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật và công nghệ.
+Thương lượng trực tiếp thường được áp dụng khi liên quan đến các hợp đồng lớn, phức
tạp, nhiều chủ thể tham gia, phạm vi đa dạng.


3.1.6..Các bước của quá trình thương lượng
-Thực tiễn cho thấy quy trình thương lượng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường
diễn ra theo những bước sau:
+Xác định tình huống thương lượng là tìm hiểu và kiểm tra bối cảnh thương lượng và
những vấn đề có liên quan, chú ý những khía cạnh chủ chốt tác động đến mối quan hệ thương
lượng, thiết lập các mục tiêu chung cho quá trình thương lượng, đó là lợi ích cụ thể mà các
bên đều hướng tới.
+Lập kế hoạch thương lượng là công việc chuẩn bị trực tiếp cho việc thương lượng như
tổ chức thu thập và xử lý thông tin, xây dựng kế hoạch, chương trình thương lượng, luyện tập
việc thực hiện các chiến thuật thương lượng cụ thể…
+Tổ chức thương lượng là cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều bên để bàn bạc và tiến tới
thống nhất một số hoặc tất cả các vấn đề được nêu ra mà trước đó các bên chưa thống nhất
được.
3.1.7.Ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
-Sau khi đã thống nhất các vấn đề cơ bản ở giai đoạn thương lượng, các bên tiến hành ký
kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khi ký kết, các bên cần tuân thủ các nguyên tắc ký
kết, đó là bình đẳng, tự nguyện, thỏa thuận song phương, tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc
tế.

NguyÔn Thu Trang A



-Trong giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có thể áp dụng nhiều phương thức ký
kết hợp đồng khác nhau như ký trực tiếp, ký gián tiếp, ký bằng văn bản hoặc qua thư điện tử.
+ Ký trực tiếp là việc các bên trực tiếp gặp gỡ, bàn bạc, thương lượng các nội dung
(điều khoản) của hợp đồng và cùng nhau ký vào bản hợp đồng.
+ Ký gián tiếp là việc các bên ký kết hợp đồng thông qua các phương tiện thông tin như
thư từ giao dịch, điện báo, telex, fax, điện tín, email…
-Trình tự thương lượng và ký kết hợp đồng theo phương thức gián tiếp gồm hai giai đoạn
là chào hàng và chấp nhận chào hàng
+Chào hàng gồm các loại như chào hàng chủ động, chào hàng thụ động, chào hàng tự
do,chào hàng xác định;
+Chấp nhận chào hàng phải đáp ứng các điều kiện do người được chào hàng gửi tớimang tính vô điều kiện và được gửi trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng.
-Tùy từng điều kiện cụ thể, việc ký hợp đồng có thể được tiến hành bằng một trong các
hình thức sau:
+Hai bên ký vào hợp đồng mua - bán (văn bản thường được soạn thảo theo mẫu chung
thống nhất);
+ Người mua xác nhận bằng văn bản là người mua đã đồng ý với các điều khoản của
thư chào hàng tự do;
+Người bán xác nhận bằng văn bản chấp nhận đơn đặt hàng của người mua, hai bên trao
đổi bằng thư xác nhận về việc đã đạt được những điều khoản thỏa thuận trong đơn đặt hàng
(trong đó nêu rõ những điều đã được thỏa thuận).
-Thời điểm ký kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng bởi thời điểm này quan hệ hợp đồng
giữa các bên tham gia được xác lập và nếu hợp đồng mang tính chất ưng thuận thì sẽ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc các bên với nhau.
-Địa điểm ký kết khi các bên ở các nước khác nhau có ý nghĩa rất quan trọng,bởi đây là
tiêu chí xác định luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Theo
điều 18, 23 của Công ước Viên 1980, địa điểm ký kết hợp đồng là nơi được chấp nhận chào
hàng.

NguyÔn Thu Trang A



3.2.Hòa giải các tranh chấp thương mại quốc tế
3.2.1..Khái niệm
-Trong các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế thì hòa giải là một phương pháp lựa
chọn đã được các nhà kinh doanh và các luật gia của nhiều nước(nhất là các nước Châu Á và
Vành đai Thái Bình Dương) quan tâm nghiên cứu và sử dụng trong thực tiễn của thương
trường quốc tế đặc biệt là trong hơn hai thập kỉ cuối
-Theo từ điển luật học Anh-Mĩ của Black: “hòa giải là 1 quá trình giải quyết tranh chấp
mang tính chất riêng tư,trong đó hòa giải viên là người thứ ba trung gian giúp các bên tranh
chấp đạt được thỏa thuận”
3.2.2..Các mục tiêu cơ bản cần đạt được qua hòa giải
-Mục tiêu thứ nhất: bằng hòa giải để giải quyết tranh chấp một cách thân thiện nhằm tiếp
tục giữ gìn và phát triển các quan hệ kinh doanh trong thời gian dài vì lợi ích chung của cả hai
bên
+Khái niệm giải quyết thân thiện thể hiện mong muốn về tâm lý của các bên là dàn xếp
vụ việc sao cho không có bên nào bị coi là thua cuộc,không dẫn đến tâm trạng đối đầu,thắng
thua như kết cục thường diễn ra sau các quá trình kiện tụng tại tòa án
-Mục tiêu thứ hai: bằng hòa giải có thể tập trung sự chú ý và quan tâm của các bên vào các
vấn đề chính,cơ bản của nội dung tranh chấp,hạn chế tối đa sự hao phí thời gian và tiền của
vào các vấn đề mang tính chất hình thức tố tụng,tăng cường sự tham gia trực tiếp và khả năng
kiểm soát của các nhà kinh doanh đối với quá trình giả quyết cũng như đối với kết quả giả
quyết tranh chấp
+Trên thực tế,nhiều tranh chấp kinh doanh thương mại mang tính chất kĩ thuật(xây
dựn,tài chính,ngân hàng..) đồi hỏi những người tham gia giả quyết phải có đủ hiểu biết trong
những lĩnh vực kinh doanh,thương mại liên quan.Trong khi đó,nếu đưa vụ kiện ra tòa thì do
yêu cầu tuân thủ các quy tắc,thủ tục tố tụng tư pháp rất phức tạp và thường là xa lạ với những
người không chuyên luật nên các bên tranh chấp buộc phải giao phó hoàn toàn vụ kiện cho các
chuyên gia luật( thẩm phá,luật sư..),những người ít hiểu biết sâu sắc về kinh daonh.Điều đó
dẫn đến hậu quả là nhiều điểm tranh luận tài tòa trở nên nặng nề về hình thức làm cho các

thẩm phán xét xử khó tiếp cận được với những nguyên nhân,bản chất của tranh chấp,đồng thời
khiến các bên tranh chấp có cảm giác là sự việc đã tuột khỏi tay mình,họ bị mất quyền kiểm
soát đối với quá trình giải quyết tranh chấp.
+Phần lớn các tranh chấp kinh doanh không chứa đựng các yếu tố có tính nguyên tắc mà
bản chất là vấn đề tiền bồi thường thiệt hại,điều mà các nhà kinh doanh hoàn toàn có quyền và
có khả năng kiểm soát,quyết định nếu có người thứ ba giúp họ tiếp cận và thương lượng được
với nhau.
+Một điều quan trọng khác mà các nhà king doanh rất quan tâm là khả năng của họ kiểm
soát được việc sử dụng các tài liệu chứng cứ có liên quan để giải quyết tranh chấp nhưng vẫn
trong phạm vi bảo vệ bí mật kinh doanh,một yếu tố nhạy cảm đối với họ.Điều này sẽ không
thực hiện được khi tiến hành tố tụng tại tòa theo quy tắc công khai,tranh tụng và theo các quy
tắc về thu nhập chứng cứ trong tố tụng tư pháp.
3.2.3..Một số nguyên tắc hòa giải tranh chấp kinh tế
-Hòa giải phải dựa trên tự do ý chí của các bên tranh chấp
+Sự tự do ý chí đó là yếu tố quyết định mọi giai đoạn của hòa giải:

NguyÔn Thu Trang A


>các bên phải tự nguyện đưa tranh chấp ra hòa giải;
>tự do thỏa thuận về phương pháp,quy trình hòa giải,lựa chọn hòa giải viên
>tự do ý chí trong thảo luận,đề xuất giải pháp hay thỏa thuận chấp nhận ý kiến giải
quyết do hòa giải viên đưa ra cũng như khi quyết định chấm dứt hòa giải để chuyển sang sử
dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp khác
-Hòa giải chủ yếu theo nguyên tắc”khách quan,công bằng,hợp lý”,tôn trọng tập quán
thương mại trong nước và quốc tế
+Hòa giải viên là người tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp đối thoại tự do,là
người chuyển giao thông tin giữa các bên,giúp họ nhìn nhận được những điểm yếu/sai và điểm
mạnh/đúng của mình cũng như của phái cùng đối thoại:giúp họ hiểu và phân biệt được giữa
cái họ muốn và cái họ cần,xác định rõ những lợi ích ưu tiên số một mà mỗi bên cần đạt được

qua giải quyết tranh chấp,từ đó tự điều chỉnh lại quan điểm,lập trường thương lượng cho thích
hợp
+Hòa giải viên có thể đề xuất nhưng không được ép buộc với các bên những phương án
lựa chọn để giải quyết tranh chấp một cách hợp lý,công bằng nhằm đáp ứng các nhu cầu ưu
tiên của họ
-Hòa giải sẽ lập tức chấm dứt nếu hai bên không đạt được thỏa thuận hoặc nếu một trong
hai bên không muốn tiếp tục được hòa giải
+Do tính chất tự nguyện của hòa giải nên khi một trong hai bên đơn phương chấm dứt
hòa giải(không cần nêu lý do)thì quá trình hòa giải sẽ đương nhiên chấm dứt và sẽ được
chuyển sang giải quyết bằng phương pháp khác
-Bảo toàn bí mật những tài liệu,chứng cứ,ý kiến của các bên và của hòa giải viên trong quá
trình hòa giải.
+Do tính chất riêng tư,tự nguyện của hòa giải,luật hay quy tắc hòa giải của nhiều nước
và Trung tâm trọng tài/hòa giải quốc tế đều có quy định đảm bảo rằng các chứng cứ,tài liệu và
ý kiến của các bên trong quá trình hòa giải sẽ không bị sử dụng như chứng cứ bất lợi cho họ
trong bất cứ quá trình tố tụng nào tiếp theo nếu hòa giải không thành.Một số nước và Trung
tâm trọng tài quốc tế còn quy định người đã làm hòa giải viên thì sẽ không được chọn làm
trọng tài viên cho cũng vụ việc để đảm bảo bí mật của hòa giải và sự khách quan của trọng tài
viên.
3.2.4.Một số quy trình hòa giải mẫu của các Trung tâm trọng tài quốc gia và quốc tế
-Theo nguyên tắc,quy trình hòa giải là do các bên có tranh chấp thỏa thuận lựa chọn sao
cho phù hợp,thuận lợi cho các bên đồng thời phải ngắn gọn,đơn giản linh hoạt nhằm đáp ứng
được tốt nhất các mục tiêu như đã trình bày ở trên
-Nhằm giúp các bên có điều kiện tham khảo,lựa chọn các quy trình hòa giải hữu hiệu và
tăng cường sử dụng các dịch vụ hòa giải,các Trung tâm trọng tài,Trung tâm hòa giải ở nhiều
nước và quốc tế đã ban hành các quy tắc hòa giải hay các bản hướng dẫn quy trình hòa giải
mẫu
-Trung tâm hòa giải Bắc Kinh(thành lập năm 1987) để hòa giải các tranh chấp thương mại
và hàng hải quốc tế đã ban hành một quy trình ngắn gọn,linh hoạt:
+các bên có thể cùng chỉ định một hòa giải viên(HGV) trong danh sách HGV của Trung

tâm hoặc mỗi bên tự chọn một HGV hoặc ủy quyền cho Trung tâm chỉ định
+HGV sau khi xem xét các tài liệu do hai bên cung cấp có thể bằng con đường thư tín
hoặc gặp mặt trực tiếp tại địa điểm do các bên thỏa thuận để hòa giải.HGV giúp đỡ các bên đạt

NguyÔn Thu Trang A


được sự thỏa thuận hợp lý,hiểu biết lẫn nhau.Sau khi các bên đạt được thỏa thuận giải
quyết,HGV viết Biên bản hòa giải để kết thúc sự việc
-Phòng Thương mại quốc tế(ICC) tại London ban hành :”qui tắc hòa giải không bắt
buộc”(sửa đổi bổ sung từ 1/1/1988) gồm 11 điều quy định một qui trình giản đơn,mang tính
định khung để HGV chủ động tiến hành “theo cách thức mà mình cho là thích hợp và theo
nguyên tắc công bằng,không thiên vị” (điều 5)
+bên yêu cầu hòa giải gửi đơn đến ban thử kí của Tóa án trọng tài quốc tế.Trong vòng
15 ngày sau khi được ban thư kí thông báo,phía bên kia sẽ phải báo lại về việc đồng ý hay từ
chối tham gia hòa giải (điều 2,điều 3)
+nếu 2 bên đã đồng ý hòa giải thì Tổng thư kí của Tòa án trọng tài quốc tế sẽ chỉ định 1
HGV (điều 4)
+HGV thông báo cho các bên về thời hạn để họ trình bày các lý lẽ,tài liệu cần thiết sau
đó tiến hành hòa giải theo cách thức,tại địa điểm theo sự thỏa thuận của các bên (điều 5)
+hòa giải kết thúc khi các bên kí một thỏa thuận giải quyết hay khi một trong hai bên
thông báo về việc không tiếp tục tham gia hòa giải nữa (điều 7).Thỏa thuận giải quyết và báo
cáo của HGV phải gửi cho ban thư kí của Tóa án trọng tài quốc tế.
-Quy tắc hòa giải của UNICITRAL ban hành năm 1980 gồm 20 điều đã được nhiều nước
tham khảo hoặc thông qua thành quy tắc hòa giải của các tổ chức hòa giải trong nước.Có thể
tóm tắt quy trình đó thành năm bước như sau:
+Bước 1: Một bên bắt đầu quá trình hòa giải bằn việc gửi cho bên kia bản mô tả tranh
chấp và đê nghị hòa giải theo QUy tắc của UNICITRAL.Nếu bên kia phản đối thì coi như
không có hòa giải (điều 2)
+Bước 2: Các bên có thể thỏa thuận chọn một HGV hoặc 1 Hội đồng hòa giải gồm 3

người ( hai người do hai bên chỉ định,sau đó hai người này sẽ chọn lấy người thứ ba).(điều 4)
+Bước 3: HGV đề nghị các bên bằng văn bản yêu cầu của mình về tất cả các vấn đề cần
giải quyết.Văn bản này được cho vào hòa giải viên và bên kia (điều 5)
+Bước 4: Sau khi các tài liệu trên đã được trao đổi,xem xét,HGV sẽ tổ chức phiên tòa
hòa giải với cách thức phù hợp theo các nguyên tắc khách quan,công bằng,hợp lý,cân nhắc kĩ
lợi ích,quyền và nghĩa vụ của cả 2 bên,các tập quán thương mại,hoàn cảnh cụ thể và mối quan
hệ làm ăn trước đó của các bên tranh chấp (điều 7)
+Bước 5:Quá trình hòa giải kết thúc hoặc bằng việc ký kết 1 thỏa thuận giữa các bên
hoặc bằng việc một hay cả 2 bên tuyên bố rằng họ không tham gia tiếp tục hòa giải nữa (điều
15)
3.2.5.Hiệu lực của kết quả hòa giải
-Tính chất tự nguyện của hòa giải dẫn đến những hạn chế về hiệu lực của thỏa thuận hòa
giải( ban đầu) và hiệu lực của thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải
-Thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc như thỏa thuận trọng tài,do đó,trên thực
tế,không có tòa án nước nào lại ra lệnh đình chỉ vụ kiện chủ vì lý do một bên không thực hiện
thỏa thuận hòa giải
-Thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải không được bắt buộc thi hành như phán quyết của
trọng tài hay của tòa á.Hiệu lực cao nhất của thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải giống như
một điều khoản hợp đồng ràng buộc các bên.Thậm chí một số nhà nghiên cứu cho rằng ngay

NguyÔn Thu Trang A


quy định về “hiệu lực hợp đồng” của thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải như trong Qui tắc
hòa giải của ICC vafUNCITRAL cũng đã làm giảm “tính tự nguyện” của hòa giải và đó chính
là một nguyên nhân làm giảm số đơn yêu cầu hòa giải theo qui tắc của hai tổ chức quốc tế có
uy tín này
-Để phát huy các ưu điểm của hòa giải và tăng cường các cơ hội lựa chọn sử dụng hòa giải
đồng thời nâng cao hiệu lực của hòa giải,các luật gia cùng với các nhà kinh doanh đã nỗ lực
theo hai hướng chính:

+một mặt:tìm kiếm các mô hình giải quyết thân thiện mới mang bản chất của hòa giải
nhưng có khả năng thành công cao hơn,tăng cường được khả năng giám sát,phòng ngừa các vi
phạm về pháp lý trong hòa giải có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung
+mặt khác:tạo cơ sở pháp lý và khai thác các khả năng sử dụng kết hợp hòa giải với các
phương pháp giải quyết tranh chấp khác.
-Hòa giải kết hợp với các phương pháp lựa chọn khác: theo quan điểm của nhiều chuyên
gia thì phương thức tốt nhất để phát huy ưu điểm tổng hợp của các phương pháp lựa chọn là
kết hợp thương lượng và hòa giải (hai phương pháp lựa chọn không bắt buộc) với trọng tài
-Hòa giải kết hợp với tố tụng tư pháp: thông thường,tòa án các nước không nhận đơn và
xem xét vụ việc nếu các bên chỉ yêu cầu hòa giải nhưng mỗi nước lại có cách thức khác nhau
để kết hợp hòa giải với xét xử
-Thời phong kiến Trung quốc,hòa giải và kiện tụng là hai kĩnh vực riêng biệt theo quan
niệm của đạo Nho:người tốt,cao quí thì hòa giải với nhau,ng xấu hèn hạ thì mới đem nhau ra
kiện tại tòa.
-Ngày nay,người ta đã thấy rõ vai trò hỗ trợ lẫn nhau của hòa giải và xét xử,trong đó,hòa
giải là biện pháp được ưu tiên,kiện tụng là phương pháp cuối cùng để đảm bảo công lý.Luật tố
tụng dân sự của Trung quốc quy định:”Trong khi tiến hành tố tụng dân sự,Tòa án phải chú
trọng hòa giải.Nếu vụ kiện dân sự có thể hòa giải thì tòa à,trên cơ sở xác định dữ liệu và phân
biệt đúng-sai sẽ tiến hành hòa giải với sự thỏa thuận rõ ràng giữa các bên,giúp các bên đạt
được sự hiểu biết và thỏa hiệp với nhau” (điều 97).
-Thỏa thuận giải quyết do các bên cùng kí sẽ được viết lại dưới dạnh biên bản hòa giải
được thẩm phán kí,xác nhận,đóng dấu của tòa án.Sau khi biên bản được chuyển đến các bên
thì nó sẽ có hiệu lực pháp lý giống như bản án của toà án và có thể bị kháng cáo.
-BLTTDS do Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 quy định tại điều 160 về nghĩa vụ của
Tòa án phải tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa.Nếu các đương sự thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án thì tòa án lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận,quyết định này có hiệu lực pháp luật.Ngược lại,Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải
không thành và quyết định đưa vụ án ra xét xử
-Theo BLTTDS 2004,trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án,Tòa án tiến hành hòa
giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án,trừ những trường hợp vụ án

không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định trong BLTTDS.Việc hòa
giải được tiến hành theo nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương
sự,không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực,bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận
không phù hợp với ý chí của mình,nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được trái
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội ( điều 180)
-Sự kết hợp giữa kiện tụng với hòa giải này là một đặc trưng quang trọng của tố tụng tư
pháp tại các nước Châu Á.Ưu điểm nổi bật của sự kết hợp này là nâng cao được hiệu lực thi
hành của thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải

NguyÔn Thu Trang A


3.3.Giải quyết bằng trọng tài
Trong thực tiễn tố tụng kinh doanh - thương mại cho thấy ngày càng nhiều vụ việc tranh chấp
giữa các bên được giải quyết bằng Trọng tài thay vì bằng Tòa án theo truyền thống. Dưới đây
sẽ đề cập đến một số vấn đề về giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
3.3.1.Các văn bản pháp lý
-Ngày 5/9/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/NĐ-CP, quy định về tổ chức và
hoạt động của trọng tài kinh tế phi chính phủ.
-Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, những quy định của Nghị định 116 không còn phù
hợp với tình hình mới, vì vậy Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
Pháp lệnh quy định mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại đều có thể đưa ra
giải quyết tại Trọng tài và các phán quyết của Trọng tài được đảm bảo cưỡng chế thi hành theo
quy định của pháp luật.
+Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh quy định: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự,
thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định”.
3.3.2.Điều kiện để Trọng tài giải quyết tranh chấp
-Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án. Chính vì
vậy, việc Trọng tài giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại là do các bên thỏa thuận lựa

chọn và thường được ghi nhận trong hợp đồng.
+Khoản 1, Điều 3 Pháp lệnh quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, theo đó: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp các bên có thỏa thuận trọng tài”.
-Tại bản Quy tắc tố tụng Trọng tài có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2004 của Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có
khuyến nghị các doanh nghiệp đưa điều khoản trọng tài mẫu của VIAC vào các hợp đồng
thương mại như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được
giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này”.
-Ngoài ra, các bên có thể bổ sung các nội dung sau đây:
a) Số lượng trọng tài viên là (1 hoặc 3)
b) Địa điểm tiến hành trọng tài...
-Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có thể bổ sung:
a) Luật áp dụng cho hợp đồng này
b) Ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài.

NguyÔn Thu Trang A


3.3.3Đặc điểm của trọng tài thương mại
-Theo từ điển luật học Black’s trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự
nguyện lựa chọn,trong đó bên thứ ba trung lập (trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày
sẽ ra một quyết định có tính bắt buộc đối với các bên tranh chấp.Như vậy,trọng tài thương mại
có ba đặc điểm cơ bản:
+Phải có sự thỏa thuận của các bên về việc đưa tranh chấp ra xét xử bằng trọng tài.Thỏa
thuận đó có thể là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng thương mại hoặc là một thỏa thuận
trongjt ài riêng biệt dduwwjc lập ra sau khi tranh chấp phát sinh.Toàn bộ quá trình trọng tài
được coi như sự thể hiện ý chí của các bên dựa trên quyền tự chủ của họ.Một khi thỏa thuận
trọng tài đã có hiệu lực thì không bên nào được đơn phương rút lui ý kiến.Điều khoản trongjt

ài được coi là độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng chính nên ngay cả khi hợp đồng
chính đã kết thúc hoặc bị vô hiệu thì cũng không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu một
cách tương ứng (điều 11 PLTTTM của Việt Nam 2003,Điều 16 Luật mẫu UNCITRAL,Điều 1
quy tắc tố tụng của Tòa án trongjt ài thương mại quốc tế của CHLB Nga..).Nếu một bên không
thực hiện thỏa thuận trọng tài và cố ý đưa tranh chấp ra kiện tại Tóa án thì,theo pháp luật của
nhiều nước,Tòa án phải trả lại đơn kiện hoặc đình chỉ vụ kiện.trả các bên về trọng tài đã được
chọn trong thỏa thuận trọng tài( điều 32 PL thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế của Việt
Nam,Điều 10 Luật trọng tài Thái Lan,Điều 6 Luật trọng tài Malaysia,Điều 26 Luật trọng tài
Trung Quốc…).Công ước NewYork 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài
nước ngoài (điều II(3)).Luật mẫu về trọng tài của UNCITRAL (điều 8) đều quy định tương tự
như vậy:Tòa án của các nước thành viên Công ước khi nhận được đơn kiện về tranh chấp đã
được các bên thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài,theo yêu cầu của một trong các bên sẽ
chuyển đến các bên trọng tài có thẩm quyền,trừ khi thấy rằng thỏa thuận trọng tài vô hiueej
hoặc không có khả năng thi hành
+Trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài sẽ ra một quyết định(phán quyết)sau khi cân
nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên
>Các bên tranh chấp thỏa thuận giao cho trọng tài viên quyền và nghĩa vụ phải ra
được các phán quyết,quyết định có giá trị bắt buộc đối với các bên.Quyền này có ý nghĩa rất
quan trọng,tạo nên ưu thế đặc biệt của trọng tài so với các phương thức giải quyết tranh chấp
cũng dựa trên sự tự nguyện,thỏa thuận khác như thương lượng và hòa giải
>Để ra được quyết đinh,phán quyết,trọng tài viên phải tuân theo các qui trình,thủ
tục tố tụng nhất định do các bên lựa chọn(từ việc chọn các trọng tài viên đến việc chuẩn bị hồ
sơ và xét xử).Nếu quy trình tố tụng này không được tuân thủ,hoặc các bên không có được cơ
hội công bằng để trình bày trường hợp của mình trước trọng tài viên thì quyết định của trọng
tài có thể sẽ không được công nhận và không được cho thi hành.Dưới góc độ này,trọng tài gần
với tòa án nhưng so với giải quyết tranh chấp theo tố tụng tư pháp thì tố tố tungjt rọng tài có
một số ưu điểm cơ bản là:đỡ tốn kém thời giản,bảo toàn được bí mật kinh doanh(trọng tài xét
xử kín);tính phù hợp về chuyên môn và nghiệp vụ kinh doanh của các quyết định trọng tài(do
các trọng tài viên thường là các chuyên gia trong các lĩnh vực kỹ thuật,các thương nhân có uy
tín,kinh nghiệm…);tính khách quan,trung lập của trọng tài viên quốc tế và của quá trình trọng

tài được đảm bảo hơn so với việc xét xử tại tòa án của một nước sở tại
+Các quyết định và phán quyết của trongjt ài có thể được Tòa án công nhận và cho thi
hành thông qua một thủ tục tư pháp
+Mặc dù phán quyết trọng tài là kết quả của sự thỏa thuận có tính chất riêng tư giữa
các bên tranh chấp và do một đội đồng trọng tài ban hành(mà bản thân hội đồng đó đã chấm
dứt nhiệm vụ và không còn tồn tại sau khi phán quyết)nhưng giá trị bắt buộc của phán quyết

NguyÔn Thu Trang A


trọng tài đối với các bên vẫn được pháp luật quốc gia vè quốc tế công nhận.Nếu phán quyết
không được các bên tự nguyện thi hành thì nó sẽ được cướng chế thi hành theo một trình tự tư
pháp cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài.
+Qui trình,điều kiện để Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài
thương mại quốc tế được qui định tại các điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia.Văn
bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng nhất trong lĩnh vữ này là Công ước New York về công nhận
và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài(1958) với gần 100 thành viên bao gồm cả các
cường quốc thương mại,các nước phát triển và đang phát triển,các nước trước đây vốn có
truyền thống không thừa nhận trọng tài thương mại…Cùng với Công ước New York,Luật mẫu
UNCITRAL,các hiệp định khu vực và pháp luật của các quốc gia đã tạo nên một hệ thống quy
phạm pháp luật khá hoàn chỉnh để điều chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
thương mại quốc tế.Các điều ước quốc tế là công cụ điều chỉnh của pháp luật quốc tế nhưng
việc áp dụng chúng vào từng phán quyết trọng tài cụ thể lại là đối tượng điều chỉnh của luật
pháp từng quốc gia
3.3.4.Một số ưu điểm khi giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
-Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng Trọng tài cho
thấy có một số ưu điểm sau:
+Thứ nhất, quyết định của Trọng tài là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối
với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại Trọng tài chỉ diễn ra ở
một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so với xét xử tại Tòa án bởi thông

thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong
là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại.
+Thứ hai, hoạt động của Trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét xử vụ kiện
là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện, do đó các trọng
tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu
thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải
hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa
thuận, điều mà ít khi xảy ra ở Tòa án.
+Thứ ba, trọng tài xét xử bí mật bởi tiến trình giải quyết của Trọng tài có tính riêng biệt.
Hầu hết các quy định pháp luật về Trọng tài của các quốc gia đều thừa nhận nguyên tắc Trọng
tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm quan trọng bởi các
doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra công khai trước Tòa án,
điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình.
+Thứ tư, khi xét xử, Trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của các
chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền chọn Trọng tài viên của các bên. Các bên có thể
chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về
pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt như licensing, leasing, xuất nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chứng khoán…
+Thứ năm, hoạt động xét xử của Trọng tài liên tục do đó tiết kiệm thời gian, chi phí và
tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường rất khó đạt
được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án
tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.

NguyÔn Thu Trang A


×