Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng và giải pháp nang cao năng suất lao động ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168 KB, 15 trang )

Chủ đề: Năng suất lao động
I/ Khái niệm và ý nghĩa của năng suất lao động.
1.Khái niệm
1.1 Theo khái niệm cổ điển

Năng suất có nghĩa là năng suất lao động hoặc hiệu suất sử dụng các nguồn lực. Vì
khái niệm năng suất xuất hiện trong một bối cảnh kinh tế cụ thể, nên trong giai
đoạn đầu sản xuất công nghiệp, yếu tố lao động là yếu tố được coi trọng nhất. Ở
giai đoạn này, người ta thường hiểu năng suất đồng nghĩa với năng suất lao động.
Qua một thời kỳ phát triển, các nguồn lực khác như vốn, năng lượng và nguyên vật
liệu cũng được xét đến trong khái niệm năng suất để phản ánh tầm quan trọng và
đóng góp của nó trong doanh nghiệp. Quan điểm này đã thúc đẩy việc phát triển
các kỹ thuật nhằm giảm bớt lãng phí và nâng cao hiệu quả sản xuất. Năng suất ở
giai đoạn này có nghĩa là sản xuất “nhiều hơn” với “chi phí thấp hơn”. Đây là thời
điểm Adam Smith và Frederick Taylor tập trung vào việc phân chia lao động, xác
định và tiêu chuẩn hoá các phương pháp làm việc tốt nhất để đạt được hiệu suất
làm việc cao hơn. Tuy nhiên, quan điểm năng suất như vậy mới chỉ dừng lại ở năng
suất nguồn lực và đó chỉ là một khía cạnh của năng suất.
1.2 Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO)

Là việc sử dụng có hiệu quả những nguồn lực: vốn, đất đai, nguyên vật liệu, năng
lượng, thông tin và thời gian chứ không chỉ bó hẹp trong yếu tố lao động.
1


1.3 Theo cách tiếp cận mới

Là mối quan hệ (tỷ số) giữa đầu ra và đầu vào được sử dụng để hình thành đầu ra
đó. Theo cách định nghĩa này thì nguyên tắc cơ bản của tăng năng suất là thực hiện
phương thức để tối đa hoá đầu ra và giảm thiểu đầu vào. Thuật ngữ đầu vào, đầu ra
được diễn giải khác nhau theo sự thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội. Đầu ra


thường được gọi với những cụm từ như tập hợp các kết quả. Đối với các doanh
nghiệp, đầu ra được tính bằng tổng giá trị sản xuất - kinh doanh, giá trị gia tăng
hoặc khối lượng hàng hoá tính bằng đơn vị hiện vật. Ở cấp vĩ mô thường sử dụng
Tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) là đầu ra để tính năng suất. Đầu vào trong
khái niệm này được tính theo các yếu tố tham gia để sản xuất ra đầu ra như lao
động, nguyên vật liệu, vốn, thiết bị máy móc, năng lượng, kỹ năng quản lý.
1.4 Theo quan điểm chung

Là hiệu quả hoạt động có ích của con người trong một đơn vị thời gian.
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm.
2. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động

- Nó là con đường tăng tổng sản phẩm xã hội không có giới hạn, con đường làm
giàu của mỗi quốc gia và mỗi thành viên trong xã hội. (quan trọng nhất)
-Tạo cơ hội giảm bớt thời gian hao phí lao động vào quá trình sản xuất vật chất,
làm tăng khả năng thỏa mãn nhu cầu về tinh thần, tạo cơ hội cho con người phát
triển toàn diện.
-Là cơ sở vật chất cho tiến bộ xã hội.
-Nâng cao năng lực cạnh tranh
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cạnh tranh và toàn cầu hoá, các doanh
nghiệp đều phải đối mặt với rủi ro, sự thâm hụt, hoặc tình trạng lỗ lãi thất thường
cho dù các doanh nghiệp luôn có mục tiêu và kế hoạch cụ thể. Một tổ chức hoạt
2


động với năng suất cao có thể có nhiều khả năng thu hồi vốn đầu tư hơn. Những tổ
chức như vậy cũng có sức đề kháng cao hơn với mọi trạng thái của nền kinh tế.
Mặt khác, một tổ chức hoạt động với năng suất thấp cũng có thể đạt được thặng dư

tương đối do các điều kiện cạnh tranh khác trong kinh doanh mang lại, nhưng bên
cạnh đó rất dễ bị tổn thương và lâm vào tình trạng khủng hoảng trong một số điều
kiện nhất định.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh là giành ưu thế nhằm mở rộng thị
phần, bán được nhiều hàng hoá dịch vụ hơn và thu được lợi nhuận nhiều hơn. Cạnh
tranh luôn được nhìn nhận trong trạng thái động và sự ràng buộc của các mối quan
hệ tương đối. Trong xu thế hội nhập và trào lưu tự do thương mại hoá, cạnh tranh
diễn ra đồng thời ở các cấp độ từ từng doanh nghiệp tới cả nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh được quan tâm trước hết ở cấp doanh nghiệp thể hiện trên hàng hoá
dịch vụ. Ở tầm quốc gia, khả năng cạnh tranh chủ yếu được tích tụ từ sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp kết hợp với một số yếu tố khác như chiến lược, chính
sách và những vấn đề quản lý vĩ mô. Diễn đàn kinh tế thế giới (1999) đã đưa ra 08
nhóm nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của các quốc gia với các trọng số khác
nhau: Chính phủ, tài chính, độ mở cửa, lao động, công nghệ, cơ sở hạ tầng, thể chế,
quản lý. Hiện có 02 nhóm chỉ tiêu đánh giá: Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng (GCI),
đánh giá các nhân tố đóng góp vào sự tăng trưởng trong tương lai của một nền kinh
tế đo bằng tỷ lệ thay đổi của GDP/người. Chỉ số cạnh tranh hiện tại (CCI), xác
định các nhân tố nền móng tạo ra năng suất hiện tại được đo bằng GDP/người
(năng suất xã hội). Với các doanh nghiệp, yếu tố cạnh tranh thường liên quan tới
cơ sở hạ tầng, công nghệ, lao động, vốn, thị trường, quản lý. Mức độ ưu thế của
từng yếu tố và ưu thế tích hợp của các yếu tố ấy là cơ sở (tiềm lực) để có thể tạo
nên sức cạnh tranh cao hay thấp. Các chỉ tiêu được quan tâm xem xét là: Năng suất
(năng suất lao động, năng suất vốn, năng suất các nhân tố tổng hợp - TFP); Công
nghệ (mức độ trang bị công nghệ hiện đại); Hiệu quả sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
dịch vụ (mức chất lượng, hàm lượng công nghệ, giá trị thương hiệu, sản phẩm mới,
…); Giá (giá và độ linh hoạt về giá,…); Hệ thống phân phối; Sự ổn định các nguồn
cung ứng đầu vào.
3



Như vậy, năng suất một trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trong việc tạo ra những hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao với
giá thành rẻ đảm bảo sự tăng trưởng và lợi nhuận.

II Thực trạng năng suất lao động của nước ta giai đoạn 2005-2010
1.Năng suất lao động Việt Nam qua các con số

1.1 Năng suất lao động kinh tế Việt Nam

Bảng 1: năng suất lao động theo giá thực tế của VN
( đơn vị: Triệu đồng/ người )
Năm

NỀN
KINH TẾ

2005
2006
2007
2008
2009
2010

19.62
22.15
25.30
31.96
34.74
40.39


Tốc
độ Nông
tăng
nghiệp
trưởng
NSLĐ
5,41
7.47
5,26
8.16
5,5
9.72
3,44
13.57
2,49
14.09
3,94
17.06

Công nghiệp Khu vực dịch
và xây dựng
vụ
45.75
47.78
55.39
65.84
69.79
76.58

27.29

33.19
34.36
42.78
47.67
52.28

Ghi chú: Các số liệu tính toán từ nguồn niêm giám thống kê 2010, Tổng cục thống

Năng suất lao động của nước ta không ngừng tăng cao trong các năm qua. Giai
đoạn 2005-2010, NSLĐ đã tăng gấp đôi ( từ 19.26 lên 40.39) Song khi so sánh
NSLĐ của nước ta với các nước khác thì NSLĐ của nước ta vẫn còn ở mức thấp.
Biểu đồ mức tăng trưởng NSLĐ của các một số nước châu á
4


NSLĐ
($/ng)
Tốc độ
tăng (
%)

Nhậ
t
Bả
n
80

30
7
4,

12

Singapo
re

5455
6
11,7
8


n
Quố
c
336

28
4,9
4

Malay
sia

Thái L
an

135
77

485

4

5,7
8

5,9
4

Trun
g
Quố
c
408

7
9,9
7

Philippin
es

Indones
ia

Ấn
Độ

332
4


289
5

28
59

3,99

2,8
1

6,
65

Việ
t
Na
m
20

72
3,
94

Nếu so sánh với các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore thì năng
suất lao động của Nhật cao gấp 39 lần Việt nam, Singapore gấp 26 làn và Hàn quốc
cao gấp 16 lần. Còn nếu so sánh với các nước đang phát triển trong khu vực thì
NSLĐ của MalaySiA cao gấp 6.5 lần Việt Nam, Ngoài ra Thái Lan và Trung Quốc
cao gấp 2 lần Việt nam. Và trong khi năng suất lao động của Việt Nam chỉ đạt
3.94% thì hầu hết các nước láng giếng đều có mwucs tăng trên 5 %. Và nếu như

tình trạng năng suất kém và tốc độ tăng năng suất thấp thì nước ta sẽ khó có thể
cạnh tranh với các thị trường trên thế giới, đặc biệt là trong giai đoạn nước ta đã
gia nhập WTO như hiện nay.
1.2 Năng suất lao động theo ngành kinh tế

Nếu xét về NSLĐ theo các ngành kinh tế, ta có thể thấy năng suất lao động trong
khu vực công nghiệp và dịch vụ luôn ở mức tương đối cao, trong khi đó nông
nghiệp của nước ta lại ở mức thấp. Điển hình năm 2010, năng suất ngành công
nghiệp gấp 6 lần NN và NSLĐ ngành dịch vụ gấp 4 lần ngành NN. Chiếm gần
50% lao động của cả nước song nông nghiệp chỉ đóng ghóp vào 21% GDP của
nước ta. Trong khi đó công nghiệp là ngành luôn dẫn đầu về năng suất lao động
( chiếm 22% lao động song tạo ra 41% GDP) và sau đó là dịch vụ ( chiếm 29% lao
động và tạo ra 38% GDP)
Năm

Nông
nghiệp

Công nghiệp Khu
vực
và xây dựng
dịch vụ
5


2005
2006
2007
2008
2009

2010

7.47
8.16
9.72
13.57
14.09
17.06

45.75
47.78
55.39
65.84
69.79
76.58

27.29
33.19
34.36
42.78
47.67
52.28

Trong khi đó về tốc độ tăng trưởng NSLĐ, trong giai đoạn 2006-2010 năng suất
lao động trung khu vực nông lâm thủy sản đạt 3.09%, công nghiệp xây dựng
0.73% và tốc độ của khu vực dịch vụ cao nhất đạt 3.16%. Ta có thể năng suất lao
động của ngành nông nghiệp có mức tăng trưởng tương đối cao và đều trong các
năm qua song NSLĐ của NN vẫn còn đang ở mức thấp . Nguyên nhân chủ yếu của
việc này là do nước ta vẫn còn thói quen canh tác lạc hậu, và vấn đề công nghệ
trong nông nghiệp là một đặc thù để phát triển kinh tế thì vẫn còn kém và lạc hậu.

1.3 / NSLĐ theo các thành phần kinh tế

Bảng năng suất lao động theo giá trị thực tế của các thành phần kinh tế
Năm

NSLĐ
nền
kinh tế

NSLĐ
TPKT
nhà
nước

NSLĐ
TPKT
ngoài
nhà

6

NSLĐ
TPKT
có vốn
ĐT NN


2005
2006
2007

2008
2009
2010

19,62
22,15
25,30
31,96
34,73
40,39

64,86
74,08
82,37
104,30
115,82
133,18

10,43
11,78
13,64
17,22
18,77
22,20

120,59
118,38
131,48
161,53
188,62

218,05

Đánh giá: Khu vực kinh tế ngoài nhà nước là khu vực kinh tế có năng suất lao
động bình quân thấp nhất. Chiếm 86% tổng lao động nhưng chỉ đóng ghóp 47%
GDP. Song ta chưa thể đánh giá được mức hiệu quả hoạt động của bộ phận này do
bộ phận này bao gồm nhiều thành phần đông lao động trí thức, công nhân và nông
dân, do vậy tỷ lệ trung bình năng suất của ngành này thấp.
Tóm lại, phân tích trên đây cho thấy, năng suất lao động bình quân chung toàn nền
kinh tế quốc dân của nước ta đạt được còn ở mức thấp so với các nước trên thế
giới. Trong đó, đặc biệt khu vực kinh tế ngoài nhà nước (xét theo hình thức sở hữu)
và ngành nông - lâm nghiệp (xét theo ngành kinh tế) có mức năng suất lao động rất
7


thấp, nhưng lại có lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó đã làm ảnh hưởng rất
nhiều đến mức năng suất lao động bình quân chung toàn nền kinh tế quốc dân, làm
giảm sức cạnh tranh của các ngành kinh tế trong nước so với nước ngoài cũng như
làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.

8


III. Các nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động việt nam chưa cao.
Có thể tổng kết năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp là do một số nguyên
nhân chính như sau:
-Về công nghệ: Muốn tăng năng suất, thì phải có công nghệ mới. Muốn có công
nghệ mới, phải có tiền, mà điều này đối với một đất nước đang phát triển như VIệt
Nam là điều rất khó khăn, đấy là chưa nói đến chuyện có những công nghệ muốn
mua cũng không được.Hiện nay công nghệ sản xuất của nước ta còn yếu kém, lạc
hậu. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hầu hết các doanh nghiệp đang sử

dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ. Có
đến 76% máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam
là công nghệ thuộc thế hệ những năm 1950-1960; 75% số thiết bị đã hết khấu hao
và 50% là được tân trang lại. Tính chung cho các doanh nghiệp tỷ trọng thiết bị
hiện đại chỉ có khoảng 10%, lạc hậu chiếm trung bình 38% và rất lạc hậu tới 52%.
Đặc biệt là công tác hiện đại hóa ngành nông nghiệp của nước ta chưa được chú
trọng xứng đáng.
Trong khi công nghệ sản xuất của nước ta còn yếu thì việc đổi mới công nghệ vẫn
chưa được các doanh nghiệp coi trọng đúng mức. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ
thì tốc độ đổi mới công nghệ còn rất thấp, bình quân khoảng 10%/năm. Các doanh
nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoảng 0,2-0,3% doanh thu cho việc đầu tư đổi
mới công nghệ, thấp hơn nhiều so với mức 10% ở Hàn Quốc hay 5% ở ấn Độ.
-Về giáo dục: Chất lượng nguồn nhân lực hiện còn rất thấp. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo còn thấp( chỉ có 26% năm 2010) trong khi các nước công nghiệp mới
(NIC, NIE) có tỷ lệ rất cao, thường gấp 2,5 - 3 lần Việt Nam (60 - 70%). Như vậy,
tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam ( 26%) chưa đạt chỉ tiêu của một nước công
nghiệp ở trình độ thấp.
Ngoài ra, hiện nay việt nam vẫn đang thiếu trầm trọng nhưng người lao động
có trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng như: Nghiên cứu hoạch định
chính sách, tư vấn luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế), chuyên gia cao cấp về
9


quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, thương mại quốc tế và lao động kỹ thuật
trình độ cao. Việt Nam cũng chưa sở hữu hay làm chủ được bất kỳ công nghệ
nguồn, công nghệ cốt lõi nào thuộc lĩnh vực công nghệ cao (CNC). CNC hầu như
còn vắng bóng ở hầu hết các ngành kinh tế.
Bên cạnh đào tạo kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nước ta cũng cần có những tổ
chức đào tạo kĩ năng cho người lao động. Kỹ năng bao gồm cả kĩ năng cứng lẫn kỹ
năng mềm. Kỹ năng cứng là thành thạo một nghề nào đó. Kỹ năng mềm là kỹ

năng hợp tác, xử lý quan hệ…
Thực ra, với những biến động liên tục của thị trường lao động như hiện nay, muốn
có công việc tốt cần có kỹ năng tương đối rộng để có thể làm được một vài công
việc chứ không chỉ một công việc.
Ngoài ra, xã hội bây giờ có khá nhiều người làm nghề tự do. Bạn vừa là người lao
động, vừa là người sử dụng lao động, vừa là giám đốc, vừa là nhân viên. Trong
trường hợp này, nhiều khi bạn chỉ cần học những điều mình thích và làm những
việc mình thích. Không ít người sống khá thoải mái với việc làm nghề tự do. Ví dụ,
một số nhiếp ảnh gia tự do có đẳng cấp, thương hiệu vẫn kiếm ra khá nhiều tiền. Ở
đây, kỹ năng mềm là phải có quan hệ rộng và phải tạo được danh tiếng.
Cơ cấu đào tạo giữa các cấp học mất cân đối tỷ lệ đào tạo ở nước ta hiện nay giữa
đại học, cao đẳng - trung cấp chuyên nghiệp - học nghề .
- Mất cân đối về cơ cấu đào tạo: Năm 1986-1987, số sinh viên (SV) là 127.000 lên
đến 1.540.201 vào năm 2006-2007 (tăng 11 lần) đối với bậc CĐ - ĐH; so với
120.000 học sinh (HS) năm 1986-1987 lên 390.000 HS năm 2006-2007 (tăng 3
lần) đối với hệ dạy nghề.
- Mất cân đối về hệ thống các trường đào tạo: Số trường CĐ - ĐH tăng trên bốn
lần, từ 93 trường năm 1986, lên 322 trường 2006, 347 trường năm 2007, 390
trường năm 2008. Còn số trường dạy nghề từ 366 vào năm 1986 giảm còn 129
trường vào năm 1998; sau tăng lên 262 trường năm 2006, 283 trường năm 2007,
315 trường năm 2008.
- Mất cân đối về ngành nghề: Đào tạo công nhân kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp;
nhân lực được đào tạo các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông-lâm-ngư chiếm tỷ
10


trọng thấp, còn tỷ trọng các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao.
Thiếu nhiều công nhân kỹ thuật lành nghề, trước hết là trong các ngành trọng điểm
(cơ khí, điện tử - kỹ thuật điện, hóa chất...) và ở các khu công nghiệp lớn, các khu
kinh tế mới.Điều này khiến nước ta rơi vào hoàn cảnh thừa thày thiếu thợ.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn ít chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực, mà chủ
yếu tập trung vào khai thác, sử dụng. Nếu có đào tạo thì mỗi doanh nghiệp phải tự
lo việc huấn luyện, đào tạo, bằng cách người cũ hướng dẫn cho người mới một
cách thả nổi không kiểm soát. Việc không được đào tạo bài bản, khoa học và thiếu
phương pháp sư phạm đã dẫn đến thao tác bị hỏng, dẫn đến không cải thiện năng
suất lao động.
_ Các chế độ đãi ngộ của đất nước không tốt, tình trạng chảy máu chất xám là một
mối nguy hiểm lớn cho đát nước khiến nước ta mất đi nguồn lao động co tri thức.
-Tỷ trọng lao động trong các ngành vẫn còn mất cân đối, phần lớn lao động tập
trung trong các ngành có năng suất lao động thấp như nông lâm ngư nghiệp còn
các ngành có năng suất lao động cao thì tỷ trọng nguồn nhân lực vẫn ít, do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động chung của cả nước.
IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động ở Việt Nam
Như vậy, trình độ kỹ thuật, công nghệ còn thấp, cơ sở vật chất còn nghèo, công tác
quản lý còn một số hạn chế, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đặc biệt
là sản xuất nông nghiệp là những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động ở Việt
Nam còn thấp. Dưới đây làm một số kiến nghị nhằm nâng cao năng suất lao động:
Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách để nhằm chuyển dịch cơ cấu lao
động giữa các ngành kinh tế nhằm tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp
dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động trong các nghành nông lâm nghiệp. Cụ thể như đào tạo
nghề cho người lao động trong các ngành nông nghiệp để dần chuyển họ sang các
ngành công nghiệp. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một bước
đột phá chiến lược, yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,

11


công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo lợi thế cạnh
tranh, bảo đảm đưa nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả.
Phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 nhằm nâng cao năng suất lao

động, đưa nhân lực đất nước trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để tạo sự
phát triển bền vững, ổn định xã hội, hội nhập quốc tế. Xây dựng nhân lực chất
lượng cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là
các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có
trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực,
có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp
khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản lý doanh
nghiệp, có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng hệ thống các cơ sở
đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ; xây dựng
sự nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao.
-Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện phát triển
thị trường công nghệ hoạt động phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng và ban hàn
một số văn bản pháp quy về sở hữu trí tuệ như sở hữu công nghiệp, quyền tác giả,
hợp đồng chuyển giao công nghệ…Thúc đẩy cung - cầu đối với sản phẩm công
nghệ, thúc đẩy việc hình thành các tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ
thuộc mọi thành phần kinh tế, xây dựng trung tâm hay ngân hàng công nghệ quốc
gia, hình thành các tổ chức tư vấn công nghệ, định kỳ tổ chức các hội chợ, hội thảo
về công nghệ nhằm phổ biến rộng rãi các thông tin và kiến thức về sở hữu trí tuệ,
thông tin về công nghệ mới...
- Phát triển hơn nữa thị trường cho thuê tài chính vì đây là một hình thức tín
dụng thuê mua trung và dài hạn quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu
mua sắm máy móc thiết bị theo đúng yêu cầu về chủng loại, mẫu mã... trong điều
kiện thiếu vốn chủ sở hữu. Các biện pháp cụ thể là:
+ Các công ty cho thuê tài chính cần mở rộng mạng lưới phục vụ để đáp ứng tốt
nhu cầu của doanh nghiệp trên toàn quốc, đặc biệt là các công ty thuộc các ngân
12



hàng thương mại cần tận dụng mạng lưới chi nhánh ngân hàng sẵn có để phát triển
hoạt động này qua hình thức uỷ thác cho thuê tài chính, điều này cũng làm giảm
thiểu chi phí quản lý tài sản thuê, tạo điều kiện giảm lãi suất cho thuê.
+ Mở rộng các hình thức thuê cho phù hợp với yêu cầu đổi mới tài sản của
doanh nghiệp, đồng thời để giảm thiểu rủi ro của hoạt động này cần phát triển thị
trường cho thuê lại, thị trường mua bán các máy móc đã qua sử dụng, nhanh chóng
phát triển thị trường cho thuê vận hành
+ Nhà nước cần có chính sách ưu đãi hợp lý nhất là ưu đãi về thuế đối với công
ty cho thuê tài chính
Nhà nước và doanh nghiệp cần phải phối hợp trong việc đẩy mạnh công tác đào
tạo và đào tạo lại lao động, nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực đáp ứng
với yêu cầu ngày càng tăng của công việc cũng như sự tiến bộ mạnh mẽ của máy
móc và công nghệ:
+ Tiếp tục huy động vốn thuộc mọi thành phần kinh tế cho đầu tư mở rộng các
hình thức đào tạo, hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, kỹ năng với
những tiêu chuẩn chất lượng được quy định chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo và nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề.
+ Tăng cường ngân sách cho nghiên cứu khoa học thuộc các trường đại học,
trường kỹ thuật để tạo đà cho việc đi ngay vào công nghệ tiên tiến của thế giới.
+ Tiến hành thực hiện tiêu chuẩn hóa đối với các cơ sở dạy nghề theo những quy
định về chỉ tiêu chất lượng, văn bằng chứng chỉ do các cơ sở này cấp phải được cơ
quan quản lý Nhà nước công nhận, tiến tới được công nhận trong phạm vi khu vực
và quốc tế, tăng cường hợp tác, liên doanh, trao đổi với các cơ sở đào tạo của nước
ngoài, nhất là các nước tiên tiến.
+ Đầu tư nâng cấp, đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, khuyến khích
phương thức giảng dạy hiện đại, mở rộng quyền tự chủ trong việc lựa chọn giáo
trình, tuyển sinh và thu chi tài chính...

13



Doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến việc đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại
hoá công nghệ để bắt kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần rà soát lại công tác tổ chức quản lí, tổ chức sản
xuất, thiết bị, công nghệ, lao động, vật tư, nguyên liệu... đánh giá những điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (theo phương pháp SWOT) đối với từng
khâu, từng bộ phận, từng vấn đề quan trọng trong doanh nghiệp và toàn bộ doanh
nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp cũng đến công tác quản lý nguồn nhân lực như sử
dụng nhân lực có hiệu quả, chú trọng từ khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao động,
bảo đảm lao động có trình độ, năng lực phù hợp; đồng thời, tăng cường đào tạo và
đạo tạo lại đến nâng cao trình độ, kỹ năng của người quản lí và lao động; tạo môi
trường làm việc thân mật, cởi mở nhằm làm cho nhân viên gắn bó hơn với doanh
nghiệp, phát huy sáng kiến, tăng khả năng làm việc theo nhóm.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Lê Xuân Bá – Nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - Viện nghiên cứu kinh tế TW
2. Chủ biên: PGS.TS Trần Xuân Cầu- PGS.TS Mai Quốc Chánh- Giáo trình Kinh
tế nguồn nhân lực- 2007- NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân
3. Tạp chí lao động và xã hội tháng 10/2006, tháng 4/2007
4. Các trang web: : Tổng cục thống kê
: thời báo kinh tế
/>
15




×