Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Phương thức và thực trạng phát hành trái phiếu (chính phủ và doanh nghiệp) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.58 KB, 24 trang )

Đề tài: Phương thức và thực trạng phát hành trái
phiếu (Chính phủ và doanh nghiệp) ở Việt Nam.
Danh sách nhóm:
1. Nguyễn Thành Nam
2. Nguyễn Văn Sơn
3. Đoàn Minh Hiếu
4. Nguyễn Ngọc Phượng
5. Đào Nguyễn Đức Mạnh
6. Nguyễn Văn Thu

1

CQ522381
CQ523101
CQ521256
CQ522898
CQ522280
CQ523497


I. Phương thức phát hành trái phiếu (Chính phủ và doanh nghiệp).
1. Đấu thầu phát hành trái phiếu.
a. Khái niệm: Đấu thầu trái phiếu là việc lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu, đáp
ứng đủ yêu cầu của tổ chức phát hành.
b. Hình thức đấu thầu:
- Đấu thầu cạnh tranh lãi suất: là hình thức đấu thầu mà các thành viên tham gia đưa ra các mức
lãi suất và khối lượng dự thầu để xác định lãi suất và khối lượng trúng thầu của thành viên trong
phiên đấu thầu.
*Trường hợp không có lãi suất trần: Khối lượng tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ
trúng thầu được xét chọn theo thứ tự từ mức lãi suất thấp nhất đến mức lãi suất đạt được khối
lượng tín phiếu, trái phiếu thông báo phát hành.


*Trường hợp có lãi suất trần: Khối lượng tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ trúng
thầu được xét chọn theo thứ tự tăng lên của lãi suất đặt thầu trong phạm vi lãi suất trần
- Đấu thầu không cạnh tranh lãi suất: là hình thức đấu thầu mà các thành viên tham gia chỉ đăng
ký khối lượng, không đưa ra mức lãi suất dự thầu. Khối lượng trúng thầu của thành viên áp dụng
theo lãi suất trúng thầu trong đấu thầu cạnh tranh lãi suất.
- Kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất và đấu thầu không cạnh tranh lãi suất (trong đó khối
lượng trái phiếu đấu thầu không cạnh tranh lãi suất không vượt quá 30% tổng khối lượng trái
phiếu dự kiến phát hành của đợt đấu thầu đó)
c. Nguyên tắc.
-

Bí mật về thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu.
Bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.
Cạnh tranh về lãi suất giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

d. Ưu nhược điểm.
-Ưu điểm: Huy động vốn nhanh.
-Nhược điểm: Khó thực hiện khi cần huy động vốn nhiều.
2. Đại lý phát hành trái phiếu.
a. Khái niệm: Đại lý phát hành trái phiếu là việc tổ chức phát hành ủy thác cho các tổ chức khác
thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Tổ chức nhận làm đại lý phát hành được huởng phí
đại lý phát hành căn cứ theo khối lượng trái phiếu tiêu thụ được, lượng trái phiếu tiêu thụ không
hết của đợt phát hành, đại lý được quyền hòan trả lại cho tổ chức phát hành.
b. Ưu nhược điểm.
-Ưu điểm:
2


+Chi phí thấp
+Nhà phát hành không cần quan tâm tới việc phân phối trái phiếu cho nhà đầu tư như thế

nào.
-Nhược điểm:
+Nhà phát hành nhận được nguồn vốn chậm.
+Nhà phát hành có thể không nhận được số vốn cần thiết vì khi không bán hết đại lý có
thể trả lại trái phiếu cho nhà phát hành.
3. Bảo lãnh phát hành trái phiếu.
a. Khái niệm
- Là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành
trái phiếu ra thị trường chứng khóan, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái
phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết trong đợt phát hành.
- Bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc tư vấn tài chính và phân phối chứng khoán.
- Tổ chức bảo lãnh được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định dựa trên số
tiền thu được.
b) Phân loại.
-Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng
khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không
Thông thường các tổ chức bảo lãnh mua trái phiếu của tổ chức phát hành với giá chiết khấu và
bán lại các trái phiếu theo giá chào bán ra công chúng và hưởng chênh lệch giá.
-Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: Tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát
hành với cam kết sẽ cố gắng hết sức bán trái phiếu ra thị trường. Nếu không phân phối hết sẽ trả
lại cho tổ chức phát hành và không chịu hình phạt nào.
-Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không: Tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo
lãnh bán một số lượng trái phiếu nhất định, nếu không phân phối hết sẽ hủy toàn bộ đợt phát
hành. Tổ chức bảo lãnh phải trả lại số tiền cho các đầu tư đã mua chứng khoán.
-Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu- tối đa: Tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh
được tự do chào bán trái phiếu đến mức tối đa quy định. Nếu lượng trái phiếu bán được đạt tỷ lệ
thấp hơn mực sàn thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ.
-Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: TCBL cam kết là người mua cuối cùng hoặc chào
bán hộ số cổ phiếu của các quyền mua không thực hiện được.
3



c. Đối tượng.
Đối tượng tham gia bảo lãnh phát hành phát hành trái phiếu là các công ty chứng khoán, các
quỹ đầu tư, công ty tài chính, các ngân hàng và các định chế tài chính khác được Bộ Tài chính
chấp thuận.
d. Ưu nhược điểm
-Ưu điểm:
+Tốc độ huy động vốn nhanh hơn bán lẻ và qua đại lý phát hành.
+Khối lượng trái phiếu được đảm bảo tiêu thụ từ phía nhà bảo lãnh.
-Nhược điểm:
+Thời gian lâu.
+Chi phí bảo lãnh cao.
4. Phát hành trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước: ( Bán lẻ trái phiếu chính phủ)-Chỉ
áp dụng đối với phát hành trái phiếu chính phủ.
a. Khái niệm
- Kho bạc Nhà nước sẽ huy động lực lượng nhân sự tại chỗ của đơn vị tự tổ chức tiêu thụ
trái phiếu thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước và thông qua hệ thống văn phòng đại diện ở
nước ngoài.
b. Ưu nhược điểm.
-Ưu điểm:
+Lượng vốn huy động được chuyển ngay tức thời vào NSNN.
+Kho bạc nhà nước trực tiếp kiểm soát được tiến độ huy động vốn, trực tiếp tiêu thị trái
phiếu mà không phải thông qua TTCK hoặc thị trường tiền tệ.
-Nhược điểm:
+Gây xáo trộn cho hoạt động quản lý quỹ hàng ngày của kho bạc nhà nước.
+Chi phí tiêu thụ cao, tốc độ huy động vốn chậm.
+Trái phiếu chính phủ chỉ được xem là công cụ huy động vốn qua KBNN chứ không phải
là một hàng hóa trên thị trường.


II.Thực trạng phát hành trái phiếu ở Việt nam hiện nay.
II.1. Trái phiếu chính phủ.

4


Ở Việt Nam, trái phiếu chính phủ được phát hành bởi 3 chủ thể chính là kho bạc Nhà
nước( KBNN), ngân hàng phát triển Việt Nam( VDB) và ngân hàng Nhà nước với hình thức đấu
thầu là phổ biến nhất, bảo lãnh phát hành hoặc bán lẻ qua hệ thống Kho bạc nhà nước. Mục tiêu
của trái phiếu là để đầu tư vào các dự án trọng điểm, bù đắp thâm hụt ngân sách và là công cụ để
can thiệp vào thị trường tiền tệ. Phương thức đấu thầu trái phiếu được áp dụng chủ yếu do thời
gian huy động vốn nhanh, lãi suất thấp, hợp với nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.

Quy mô của trái phiếu nói chung và trái phiếu chính phủ nói riêng hiện chiếm tỉ lệ rất thấp trong
tổng tài sản tài chính cả nước với chỉ bằng 17% so với GDP(quá thấp so với Nhật Bản, Hàn quốc
trên 100%). con số này khoảng 5 tỷ USD rất nhỏ bé nếu so với mức đủ để đạt tính thanh khoản
100-200 tỷ USD. Khối lượng phát hành mỗi đợt tương đối nhỏ chỉ khoảng 20 - 30 triệu USD/đợt
khó thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư có tổ chức và vì vậy cũng làm giảm sức hấp dẫn của trái
phiếu chính phủ. Huy động vốn thông qua loại hình trái phiếu hiện chưa phải là kênh phổ biến
mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng với tổng tài sản chiếm đến 80% cơ cấu tài sản tài
chính. Điều này tạo sự bất cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân
hàng, thiếu một kênh huy động vốn dài hạn để phục vụ cho các mục tiêu phát triển lâu dài. Cả
hai yếu tố này đều góp phần làm tăng chi phí vốn cho nền kinh tế.
Trái phiếu CP ở Việt nam gồm có: trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu
kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc.

5


Theo luật định nhà nước quy định:

+ Tín phiếu kho bạc: Phát hành đấu thầu qua sở giao dịch chứng khoán nhà nước
+Trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ: Đấu thầu qua SDGCK nhà nước, bảo lãnh phát
hành, đại lý phát hành và bán lẻ qua hệ thống kho bạc nhà nước.
+Công trái xây dựng Tổ quốc: bản lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước.
Lượng trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ hiện chủ yếu được giao dịch hoặc nắm giữ bởi các
ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính tương đương cũng làm cản trở sự phát triển của thị trường
trái phiếu. Điều này tạo sự đơn điệu trong danh mục đầu tư, dẫn đến giá trái phiếu có mức biến
động đáng kể khi các nhà đầu tư này thực hiện bán ra hoặc mua vào.
Cụ thể, chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng tình hình phát hành Trái phiếu chính phủ trong giai đoạn
2009-2013 để nắm rõ vấn đề hơn:

Năm 2005:
Trái phiếu quốc tế phát hành lần đầu tiên của Việt Nam (loại trái phiếu Chính phủ có thời
hạn 10 năm với tổng trị giá phát hành là 750 triệu USD) đã được Tạp chí Tài chính quốc tế và
các nhà đầu tư khu vực châu Á đánh giá là trái phiếu phát hành thành công nhất của năm 2005.
Đây là một đợt phát hành trái phiếu quốc tế tạo bước ngoặt đặc biệt và tạo nền tảng quan trọng
cho các đợt phát hành sau vì sự thành công của đợt phát hành này đã có ý nghĩa tác động đến các
nhà đầu tư quốc tế để họ xây dựng các hạn mức tín dụng đầu tư vào ViệtNamtrongtươnglai.

6


Lượng phát hành trái phiếu ban đầu dự định là 500 triệu USD sau tăng lên 750 triệu USD. Lượng
đặt mua đạt tới 1 tỷ USD trước khi công bố định hướng về giá trái phiếu, lượng đặt mua cuối
cùng lên đến 4,5 tỷ USD.Lãi suất là 7,125% nằm dưới mức định hướng 7,25% lúc đầu.
Năm 2009
Tháng 9/2009: Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức được Sở
GDCK Hà Nội (HNX) đưa vào vận hành và ra mắt vào ngày 24/09/2009 tới với mục tiêu phát
huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy động vốn này đối với nền kinh tế.Mục tiêu xây dựng và
phát triển Thị trường TPCP là mở rộng thị trường, tăng cường tính thanh khoản trên thị trường

TPCP, liên kết thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và tăng cường công tác giám sát thị
trường.
Theo Bộ Tài chính, trong năm 2009, nhu cầu huy động vốn bằng trái phiếu chính phủ cho
ngân sách vào khoảng 200.000 tỉ đồng. Song, tổng khối lượng trái phiếu chính phủ đã phát hành
trong năm chỉ được khoảng 20.000 tỉ đồng, đạt 14% kế hoạch đề ra.Phần lớn số tiền phát hành
(2.000 tỷ đồng) được tập trung ở kỳ hạn ngắn 2 năm (kỳ hạn ngắn nhất) thông qua Ngân hàng
Chính sách Xã hội, phát hành trong tháng 6 với lãi suất bình quân là 8,93%/năm.
-

-

-

Đấu thầu trái phiếu chính phủ bằng nội tệ đạt kết quả thấp. 2009, Sở giao dịch chứng
khoán đã tổ chức 51 đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ bằng nội tệ, nhưng chỉ huy động
được 2578 tỷ/ 62700 tỷ đồng theo kế hoạch. Tỷ lệ thành công là 4% tập trung ở các hàng
hóa trái phiếu kì hạn ngắn.
Trái phiếu quốc tế do Việt Nam phát hành bằng ngoại tệ phát hành trong những đợt gần
đây, đặc biệt trong năm 2009 đều không thu được kết quả như mong muốn cơ bản cũng
liên quan đến vấn đề lãi suất.(Tổng khối lượng trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đã
phát hành khoảng 2.700 tỉ đồng-1 con số khá khiêm tốn nếu so với con số 750 triệu USD
năm 2005 )
Trái phiếu Kho bạc chiếm tỷ trọng lớn nhất trong danh mục trái phiếu nhưng tỷ lệ bán
được cũng chỉ ở mức 15%, còn đa số các loại trái phiếu chỉ bán được dưới 7% so với kế
hoạch. Đặc biệt trái phiếu chính quyền địa phương hoàn toàn không thu hút được sự quan
tâm của nhà đầu tư. Sở dĩ có tình trạng này là do sự chênh lệch quá lớn về lãi suất giữa
hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, trung bình từ 100-200 điểm. Chính phủ không phải chịu
áp lực huy động vốn, các dự án sử dụng vốn trái phiếu có tình hình giải ngân chậm.

Nguyên nhân trực tiếp là lãi suất không hấp dẫn. Trong hầu hết các đợt phát hành, lãi suất trần

mà tổ chức phát hành đưa ra đều thấp hơn lãi suất thấp nhất mà các nhà thầu đăng ký. Tính trung
bình qua các đợt phát hành, mức chênh lệnh này là 0,88%/năm. Trong khi đáng nhẽ lãi suất trái
phiếu chính phủ < lãi suất huy động trên thị trường, lãi suất chuẩn để các công cụ nợ tham chiếu
Còn theo một nguồn tin khác, báo cáo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, cho biết khối lượng
trái phiếu chính phủ phát hành thành công trong năm qua là 15.000 tỉ đồng, tính cả giá trị quy đổi
của đợt phát hành bằng ngoại tệ.Cũng theo báo cáo này, năm 2009 có khoảng 15.000 tỉ đồng trái
7


phiếu chính phủ đến hạn, như vậy về cơ bản Chính phủ không huy động thêm được vốn trong
năm qua.
=>> tình hình phát hành TP năm 2009 trên thị trường sơ cấp khá ảm đạm. Báo cáo này cho
biết tính chung trong năm 2009 có khoảng 70 đợt phát hành bao gồm trái phiếu Kho bạc Nhà
nước, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội và trái phiếu TPHCM, tuy nhiên chỉ
có khoảng 5.000 tỉ đồng trái phiếu huy động được trên tổng số 71.400 tỉ đồng đưa ra gọi thầu.
Năm 2010
Theo kho bạc nhà nước Việt Nam, 10 tháng đầu năm 2010 đã có 54 đợt tổ chức đấu thầu,
bảo lãnh phát hành trái phiếu với số lượng thành viên tham gia khá lớn. Theo báo cáo của Chính
phủ, phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước năm 2010 được 68.292 tỉ đồng. Nhà nước chủ
trương phát hành trái phiếu theo lô lớn, nhưng chỉ có từ 5-7 tổ chức lớn tham gia đấu thầu với số
lượng huy động vốn thấp hơn nhiều so với kế hoạch.
Năm 2011
Năm 2011 có thể coi là năm thành công nhất từ trước đến nay trong huy động vốn cho
ngân sách nhà nước thông qua đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HNX. Lượng vốn huy động được
lớn nhất và tỷ lệ huy động thành công/kế hoạch huy động cao nhất. Qua 130 phiên đấu thầu đã
huy động được 81.715,8 tỷ đồng (gấp gần 3 lần khối lượng trúng thầu năm 2010), trong đó huy
động trái phiếu kho bạc đạt 62.153,8 tỷ đồng, đạt khoảng 80% kế hoạch huy động. Lãi suất phát
hành tuy ở một mặt bằng mới cao hơn năm trước, song vẫn thấp hơn khoảng 2% so với lãi suất
huy động của hệ thống ngân hàng.
Toàn bộ trái phiếu Chính phủ phát hành qua kênh đấu thầu và bảo lãnh đều được thực

hiện niêm yết trên thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt theo quy định.
Năm 2012
Nhìn chung, trong quý 1/2012, hoạt động đấu thầu trên thị trường sơ cấp đã diễn ra rất thành
công. Điều đó cho thấy mức độ quan tâm của nhà đầu tư tăng mạnh so với quý trước. Trong quý
I Kho bạc Nhà nước đã phát hành thành công 29,2 nghìn tỷ đồng trái phiếu, vượt mục tiêu đề ra
là 25 nghìn tỷ đồng.Dự báo, nguồn cung hạn chế, trong khi lãi suất vẫn theo xu hướng giảm dần
sẽ là nhân tố quan trọng giúp duy trì lượng cầu ổn định cho thị trường trái phiếu Chính phủ trong
năm 2012.
Tính đến ngày 17/12/2012, tổng mệnh giá khối lượng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh huy động được là 189.315,15 tỷ đồng, bằng 95,13% tổng kế hoạch huy động
cả năm 2012. So với 12 tháng cùng kỳ của năm 2010 và 2011, khối lượng trái phiếu huy động
trong năm 2012 đã lớn hơn rất nhiều, đặc biệt là khối lượng huy động trái phiếu Chính phủ (bằng
173,6% cùng kỳ 2011 và bằng 206,7% cùng kỳ 2010). Việc huy động được một khối lượng lớn
trái phiếu Chính phủ trong năm 2012 chủ yếu do tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng là
khá thấp (11 tháng tăng 4,62% so với cùng kỳ năm 2011), trong khi đó, NHNN tiếp tục duy trì
chính sách tiền tệ hợp lý để đảm bảo thanh khoản của hệ thống NHTM.
8


Kết quả năm 2012: là năm “được mùa” của trái phiếu chính phủ khi huy động thành công gần
160.000 tỉ đồng, gần gấp đôi so với năm 2011, trong đó KBNN đã huy động được 141.340 tỷ
đồng, bằng 101% kế hoạch được giao và là năm có kết quả huy động vốn đạt cao nhất kể từ khi
triển khai nghiệp vụ phát hành TPCP, gấp 2 lần năm 2011. Trong bối cảnh thu ngân sách nhà
nước gặp khó khăn nguồn vốn huy động từ trái phiếu đã góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu
chi của ngân sách nhà nước.
Năm 2013 Kho bạc Nhà nước sẽ thí điểm phát hành trái phiếu kỳ hạn 15 năm để đáp ứng nhu
cầu đầu tư của các công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư có vốn dài hạn... để đáp ứng mực tiêu tăng tỷ
trọng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do khối các công ty bảo hiểm,
quỹ hưu trí, công ty quản lý quỹ nắm giữtừ 12% (2011) lên mức 20%.
Bà Trần Minh Hằng - Phó Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước (KBNN) cho biếtKBNN sẽ huy

động vốn thông qua phát hành TPCP năm 2013 là 150.000 tỷ đồng, bao gồm: bù đắp bội chi
ngân sách là 90.000 tỷ đồng, đầu tư các dự án, công trình giao thông thủy lợi… là 60.000 tỷ
đồng.Cụ thể, kỳ hạn dưới 1 năm là 30.000 tỷ đồng, kỳ hạn 2 năm là 30.000 tỷ đồng, kỳ hạn 3
năm là 40.000 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm 40.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 và 15 năm là 10.000 tỷ
đồng.“Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, tùy theo tình hình thị trường, KBNN có thể
sẽ điều chỉnh khối lượng phát hành giữa các kỳ hạn để đảm bảo khả năng huy động vốn”, bà
Hằng tiết lộ.

II.2. Trái phiếu doanh nghiệp.
1.Tình hình chung.
a. Phát hành trái phiếu trong nước.


Trước năm 2006.

- Năm 1994: chính phủ ban hành Nghị định 120/1994/ NĐ-CP quy định quy chế tạm
thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước chính thứ có hiệu lực từ
1/10/1994. Theo nghị định này, đối tượng được phát hành trái phiếu, cổ phiếu là các doanh
nghiệp nhà nươc, trừ doanh nghiệp là ngân hàng quốc doanh, để làm thử nghiệm. Sau 1 năm thử
nghiệm sẽ bổ sung hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
Có thể nói, trong suốt những năm 1994 đến 2006, Nghị định 120/NĐ-CP đã chi phối rất
nhiều tới tình hình phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Cụ thể phải kể đến 1 số đợt phát hành trái
phiếu doanh nghiệp đầu tiên như:
- Năm 1994, công ty Xi măng Hoàng Thạch phát hành 44.45 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 4
năm, công ty Xi măng Anh Sơn phát hành 7.79 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm, 5năm, lãi suất
15%/ năm
- Năm 1996, Công ty cổ phần cơ điện lạnh REE phát hành 5 triệu USD trái phiếu chuyển
đổi quốc tế, lãi suất 4.5%/năm, được chuyển đổi vào năm 1998
9



- Năm 1998, công ty cổ phần công nghệ thông tin EIS phát hành trái phiếu chuyển đổi kỳ
hạn 3 năm, huy động 10 tỷ đồng, lãi suất 8%/năm vào năm 2004 và được chuyển đổi thành cổ
phiếu vào năm 2004.
- Năm 2003, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phối hợp cùng Bộ Tài chính phát hành 300
tỷ trái phiếu doanh nghiệp,có thời hạn 5 năm, sau khi mua được 2 năm người nắm giữ có quyền
thanh toán trước thời hạn với lãi suất tính đến từng tháng lẻ. Lãi suất năm đầu tiên là 8.7%/năm,
lãi suất các năm tiếp theo bằng lãi suất tiết kiệm bình quân của 4 ngân hàng thương mại quốc
doanh lớn nhất cộng 0.5%/năm. Số vốn huy động này được dung cho nhà máy lọc dầu Dung
Quất, nhà máy đạm Phú Mỹ, dự án khí – điện – đạm Cà Mau.
- Cũng trong năm 2003, Tổng công ty Xi măng phát hành 200 tỷ đồng trái phiếu, EVN
300 tỷ đồng.
Có thể thấy, dưới tác động của Nghị định 120, từ năm 1994 đến 2006, hoạt động phát
hành trái phiếu doanh nghiệp mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín
dụng với 1 số lượng rất khiêm tốn và quy mô phát hành nhỏ.


Giai đoạn 2006 – 2009

Năm 2006 được coi là một năm bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam. Không
chỉ có cổ phiếu được mùa mà trái phiếu nói chung và trái phiếu doanh nghiệp nói riêng đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng. Ngày 15/9/2006, Nghị định 52/2006/NĐ- CP được ban hành với
nhiều quy định “ thông thoáng”. Theo Nghi định 52, chủ thể phát hành không giới hạn là các
doanh nghiệp nhà nước như trước mà còn có thêm các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng trong Nghị định này, nếu doanh nghiệp muốn phát hành
TPDN là các tổ chức tín dụng thì phải thực hiện phát hành trái phiếu theo Luật Các tổ chức tín
dụng; doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng ( từ 100) nhà đầu tư trở lên thì phát hành
theo quy định của Luật Chứng khoán; Doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo hình thức riêng lẻ
thì phải phát hành theo quy định của Nghị định 52.

Theo đó, trong năm 2006, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã huy động được trên
7.000 tỷ đồng, trong đó EVN huy động được 5.000 tỷ đồng, Vinashin 800 tỷ đồng, Tổng công ty
Sông Đà huy động được 300 tỷ . Cuối năm 2006, tập hợp các ngân hàng thương mại trong và
ngoài nước, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các công ty bảo hiểm đã thành lập
Diễn đàn thị trường trái phiếu Việt Nam (VNBF) – tiền thân của VBMA với mục đích thúc đẩy
các hoạt động giao dịch trái phiếu thông qua việc phổ biến, chia sẻ thông tin thị trường, tiêu
chuẩn hóa các hoạt động thương mại đối với thị trường trái phiếu VN. Sau năm 2006, thị trường
trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam dường như được khoác một chiếc áo mới: hoạt động phát
hành trái phiếu diễn ra trên một phạm vi rộng hơn, quy mô và giá trị trái phiếu phát hành lớn
hơn, các chủ thể tham gia tích cực với tính chuyên nghiệp cao hơn.

10


Tính đến tháng 7 năm 2007, xu hướng phát hành trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục gia
tăng, tổng giá trị phát hành lên đến 7000 tỷ đồng, trong đó Vinashin tiếp tục phát hành 3000 tỷ
đồng, Lilama 1.500 tỷ, Vinaconex 1000 tỷ, Tổng công ty thép 400 tỷ đồng và Vilemix 5 tỷ. Tuy
phát triển nhanh nhưng đến thời điểm này, trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn khá nhỏ so với tổng
giá trị 16000 tỷ, khoảng 1.5% GDP.

Giá trị phát hành trái phiếu giai đoạn 2001- 2006

Có thể thấy qua biểu đồ trên, khối lượng giao dịch trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn chiếm 1 tỷ lệ
rất nhỏ: TPCP khoảng 81%, TPĐP 10%, TPDN 9%. Cho tới năm 2007, mới chỉ có 10 doanh
nghiệp phát hành trái phiếu, gồm: Petro Vietnam, Tổng công ty cao su, Vinashin, EVN, Lilama,
Tổng công ty thép, Vilexim, Tổng công ty xây dựng điện Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và
Vinaconex. Tất cả các công ty này đều là những công ty đầu ngành hoặc doanh nghiệp nhà nước
đã cổ phần hóa.Kỳ hạn của trái phiếu này đều là trung và dài hạn (2 đến 10 năm), lãi suất danh
nghĩa vẫn còn thấp hơn lãi suất ngân hàng.Những điều này một phần giải thích tại sao các nhà
đầu tư vẫn còn khá thờ ơ với việc đầu tư vào trái phiếu, độ thanh khoản của trái phiếu cũng

không cao.
- Từ cuối năm 2007 đến cuối 2008:
Bước sang năm 2008, đặc biệt từ khoảng giữa năm hoạt động phát hành trái phiếu bị khựng lại
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Bên cạnh đó, sự leo thang của lãi suất sau
11


lạm phát cũng là một trở ngại khi tính toán chi phí nếu huy động vốn qua kênh này. Hầu hết các
đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp không được thực hiện ngoại trừ Tổng công ty Đường cao
tốc Việt Nam (VEC) phát hành một đợt trái phiếu 500 tỷ đồng ngày 28/8/2008 với lãi suất trúng
thầu 16% được chính phủ bảo lãnh và một số tổ chức tín dụng phát hành thành công. Năm 2008,
tỷ trọng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành so với tổng số vốn huy động qua thị trường
chứng khoán chỉ chiếm 4.07% và tỷ trọng TPDN phát hành so với tổng giá trị trái phiếu phát
hành thậm chí chỉ chiếm 5.28%
- Năm 2009:
Năm 2009 chứng kiến nhiều đợt phát hành trái phiếu thành công trong đó chủ yếu là hình thức
phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi. Tổng giá trị phát hành đạt hơn 26.000 tỷ đồng, trong đó
khoảng 18.000 tỷ đồng giá trị trái phiếu có lãi suất thả nổi (chiếm 77%).
Một số doanh nghiệp: CTCP Vincom (VIC) phát hành 100 triệu USD TP chuyển đổi
quốc tế niêm yết tại sàn giao dịch Singapore, CTCP phát triển đô thị Kinh Bắc (KBC) 1200 tỷ
đồng, FPT 1800 tỷ đồng, HAGL 1450 tỷ đồng. Nếu năm 2006 và 2007, thị trường trái phiếu gần
như được chiếm lĩnh hoàn toàn bởi các doanh nghiệp nhà nước thì năm 2009 này, khối tư nhân
đã chứng minh được sức hút của họ với những đợt phát hành “cháy hàng”. Các doanh nghiệp đã
rất linh hoạt trong đợt trái phiếu của năm này, điển hình:
- Công ty cổ phần Kinh Bắc phát hành thành công ba đợt trái phiếu với tổng giá
trị 1.200 tỷ đồng. Lãi suất của trái phiếu được xác định theo nguyên tắc lấy lãi suất trái phiếu
Chính phủ (9%/năm) cộng thêm 3.5%, đây là điểm căn bản hấp dẫn hơn TPCP, bên cạnh đó,
KCB còn khẳng định tính thanh khoản của trái phiếu thông qua việc mời Vietinbank làm tổ chức
nhận thanh toán cho trái phiếu Kinh Bắc. Vì thế, nhà đầu tư sở hữu trái phiếu hoàn toàn có thể
cầm cố, bán lại cho Vietinbank trước ngày đáo hạn hoặc trong trường hợp KBC mất khả năng

thanh toán thì Vietinbank sẽ đương đầu với nhà đầu tư để trả những khoản này.
- Trong khi đó, trái phiếu FPT thu hút nhà đầu tư bằng quyền mua cổ phần.
10/2009, 1.800 tỷ trái phiếu FPT được phát hành với lãi suất chỉ 7%/năm cho kỳ hạn 3 năm và
trái phiếu sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu trong một thời gian nhất định với một mức giá nhất
định.
- HAGL cũng không ngoại lệ. 1.450 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn một năm với lãi
suất 0% có kèm quyền mua cổ phiếu đã được 13 nhà đầu tư trong và ngoài nước bao trọn.
Năm 2009, trái phiếu doanh nghiệp đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, chiếm tỷ lệ 26% trên
thị trường trái phiếu, trái phiếu Chính phủ chiếm 58%.
Năm 2009, thị trường trái phiếu doanh nghiệp khá sôi động với nhiều đợt phát hành thành
công. Có 2 xu hướng trong năm này, thứ nhất, các doanh nghiệp chủ yếu phát hành trái phiếu
với lãi suất thả nổi. Trong tình hình biến động lãi suất ở mức cao thì đây chính là một sự lựa
12


chọn khôn ngoan nhằm tăng tính hấp dẫn cho loại hình vay nợ này. Bên cạnh đó, trái phiếu
chuyển đổi cũng là một phương án đem lại hiệu quả cao cho các đợt phát hành này. Đối với thị
trường chứng khoán đang có sự phục hồi rõ rệt thì các doanh nghiệp nên tận dụng những đặc tính
riêng biệt của loại trái phiếu này. Các doanh nghiệp bất động sản (Vincom, Hoàng Anh Gia
Lai,...) và các doanh nghiệp có cổ phiếu thuộc hàng bluechips đã có những đợt phát hành thành
công, huy động được một lượng vốn khá lớn trong năm này.


Giai đoạn 2009 đến nay

Năm 2010
Từ năm 2008, thị trường trái phiếu doanh nghiệp do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính đã có những dấu hiệu đi xuống, tuy nhiên, bước sang năm 2010 này, trái phiếu doanh
nghiệp đã có những tín hiệu khôi phục. Nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn mâu thuẫn với tình
trạnh nghèo vốn trong các ngân hàng đã thúc đẩy doanh nghiệp mạnh dạn tiếp cận loại hình huy

động này.Với 45 giao dịch làm tổng khối lượng phát hành thành công đạt 57.800 tỷ đồng, tăng
76% so với năm 2009, có thể nói thị trường trái phiếu doanh nghiệp bùng nổ trong năm. Trong
đó, trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất, thương mại và bất động sản chiếm tỷ
trọng 55%, các ngân hàng thương mại chiếm khoảng 54%, trái phiếu có lãi suất thả nổi chiếm
khoảng 75%. Một số đợt phát hành tiêu biểu phải kể đến như: Tập đoàn Sông Đà phát hành
1.500 tỷ, EVN 2000 tỷ, Vincom 1000 tỷ,... Các đợt phát hành trái phiếu của năm 2010 đều có
mức lãi suất khá cao.Trong khi lãi suất ngân hàng khoảng 12%/năm thì lãi suất huy động trái
phiếu khoảng 14 – 15%/năm, cao nhất là trái phiếu Vincom 16%/năm.Trái phiếu chuyển đổi vẫn
là một hình thức hữu hiệu để huy động được nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn.
Sự nở rộ của trái phiếu doanh nghiệp năm 2010 có thể do tác động của một số các nhân tố như:
thị trường chứng khoán có nhiều lình sình, bất ổn; lãi suất ngân hàng và lãi suất trái phiếu kho
bạc thấp; bất động sản hồi phục đẩy tăng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
phát hành thành công chủ yếu là các công ty bất động sản hay các doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2011
Trái ngược hẳn với năm 2010, bước sang năm 2011, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đi
xuống một cách rõ rệt. Với 27 đợt phát hành, tổng khối lượng giao dịch đã giảm 70% so với năm
2010, tụt xuống còn 17.350 tỷ đồng, 90% lượng vốn chảy vào bất động sản và các công ty
chứng khoán. Và theo Ủy ban giám sát tài chính quốc gia các khoản đầu tư trái phiếu này thực
chất là tín dụng ngân hàng cấp cho doanh nghiệp nhằm tránh giới hạn tín dụng 16% cho lĩnh vực
phi sản xuất.
Thị trường kinh tế ảm đạm, lãi suất cao (lãi suất liên ngân hàng có lúc lên tới 20%),
những thay đổi trong chính sách của nhà nước như thắt chặt chi tiêu, hạn chế cung tiền đã khiến
cho hoạt động phát hành trái phiếu cầm chừng, các doanh nghiệp khát vốn nhưng không thể chấp
nhận chi phí quá cao, chỉ có những doanh nghiệp lớn, có tình hình tài chính khả quan mới dám
13


tiếp cận với nguồn này. Các nhà đầu tư cũng còn khá dè dặt do lãi suất ngân hàng huy động ở
mức tương đối cao.
Trước biến động không ngừng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ngày 14/10/2011,

Chính phủ ban hành Nghị định 90/2011/NĐ- CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp với một số
thay đổi so với Nghị định 52/2006/NĐ- CP:
- Điều chỉnh cả phát hành trái phiếu riêng lẻ trên phạm vi đất nước cũng như phát hành
trái phiếu quốc tế.
- Điều chỉnh cả phát hành của tổ chức tín dụng song ưu tiên luật chuyên ngành
- Đối với phát hành để đầu tư cho các chương trình, dự ăn, doanh nghiệp phải đảm bảo
duy trì vốn chủ sở hữu tối thiểu là 20%.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của năm liền trước phải có lãi và có báo cáo tài
chính được kiểm toán của năm liền kề đó. Đặc biệt, Nghị định này có quy định riêng với trường
hợp doanh nghiệp phát hành trước ngày 01/4 chưa có báo cáo tài chính kiểm toán của năm liền
trước thì phải có: báo cáo tài chính có kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả kinh
doanh có lãi, báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi
được kiểm toán, báo cáo tài chính của năm liền kề có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đòng thành
viên hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt.
- Báo cáo tài chính được kiểm toán phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến chấp nhận toàn
phần, doanh nghiệp sẽ không được phát hành nếu có ý kiến ngoại trừ của tổ chức kiểm toán.
Và một số thay đổi khác liên quan tới phương thức phát hành, phát hành trái phiếu quốc
tế, phát hành trái phiếu chuyển đổi, phát hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng, các doanh
nghiệp có yếu tố nhà nước.
Nghị định 90 này sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp chủ động trong huy động vốn
thông qua kênh phát hành trái phiếu, góp phần hỗ trợ và hình thành thị trường vốn, thị tường trái
phiếu, tạo cơ sở pháp lý, tăng cường quản lý, giám sát đối với việc phát hành để hoạt động này
an toàn, hiệu quả và minh bạch hơn.
Năm 2012
Năm nay, thị trường trái phiếu trong chờ những tín hiệu tốt lành. 55.000 tỷ đồng trái
phiếu đáo hạn vào năm 2011 và gần 80.000 tỷ đáo hạn vào năm 2012 kỳ vọng sẽ được tái đầu tư
nên thị trường nhiều khả năng sẽ lại sôi động. Tuy nhiên theo nhận định cho tới tháng 8 năm
nay, trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn rất ảm đạm. Ngoại một số doanh nghiệp có tên tuổi như
Vingroup, Massan, Hoàng Anh Gia Lai, Hòa Phát,...Cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
rất ít hoặc nếu như các doanh nghiệp có mạnh dạn tiến hành thì cũng phải gánh một mức lãi suất


14


rất cao. Năm 2012 đa số các doanh nghiệp hướng việc phát hành trái phiếu theo loại hình trái
phiếu chuyển đổi quốc tế như:
Tháng 3, Công ty cổ phần Vincom phát hành 185 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế đợt I,
lãi suất coupon 5%/năm.
Tháng 5, VietinBank phát hành 250 triệu USD trái phiếu quốc tế bằng USD, lãi suất cố định
8%/năm.
Tháng 7, Tập đoàn than-khoáng sản Việt Nam phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp
đợt I, kỳ hạn 5 năm, lãi suất thả nổi.
Tháng 6, Tập đoàn Vingroup phát hành 115 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế bổ sung,
hoàn thành kế hoạch phát hành 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế trong năm.
2/8, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã phát hành 2.030 tỷ đồng trái phiếu với kỳ hạn 2
năm và 3 năm.
17/8, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai phát hành 850 trái phiếu, mệnh giá 1 tỷ đồng/trái
phiếu, tổng giá trị trái phiếu phát hành là 850 tỷ đồng.
Cũng trong năm 2012, một số đợt phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp những năm
trước tới thời điểm đáo hạn, song tín hiệu lại không mấy lạc quan. Theo báo cáo của Quốc
Cường Gia Lai, chỉ 30% trong tổng số 195 tỷ đồng trái phiếu phát hành ngày 9/12/2010, lãi suất
0% được các nhà đầu tư đòng ý chuyển đổi thành cổ phiếu. Đây là một điều đáng lo ngại cho
doanh nghiệp bất động sản này khi đứng trước nhu cầu vốn lớn cho không ít các hạng mục đầu
tư. Nguyên nhân chính của tỷ lệ chuyển đổi thấp này bên cạnh đà đi xuống trầm trọng của TTCK
Việt Nam là do cổ phiếu của QCGL cũng đã liên tục sụt giảm (tháng 1 giảm 23%), thêm vào đó,
kết quả kinh doanh thua lỗ gần 40 tỷ đồng của năm 2011 khiến các nhà đầu tư vơi dần sự hào
hứng của mình trước trái phiếu chuyển đổi. Không chỉ các doanh nghiệp tư nhân, các công ty,
Tổng công ty nhà nước cũng cùng chung số phận. Vinashin là doanh nghiệp nhà nước tiên phong
trong phát hành trái phiếu doanh nghiệp đặc biệt trong năm 2007- 2009, Tập đoàn này đã phát
hành 10.296 tỷ đồng. 2012 này, Vinashin bắt đầu phải hoàn trả vốn cho các nhà đầu tư khoảng

1.500 tỷ đồng nhưng trong tình cảnh nợ nần chồng chất, làm ăn thua lỗ thì việc đáo hạn gần như
là một bài toán vô nghiệm.
Tính đến năm 2012 này số doanh nghiệp phát hành trái phiếu vẫn còn rất khiêm tốn, khoảng 20
doanh nghiệp và đa số sự tham gia là của các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp
bất động sản, tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp chỉ bằng 8% tổng giá trị trái phiếu
trong nước, tính đến cuối tháng 6/2012.
b. Phát hành trái phiếu quốc tế

15


“Chủ trương phát hành trái phiếu ra nước ngoài nhằm hai mục tiêu.Một là, tạo ra hình
ảnh của Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế, huy động thêm nguồn lực để phát triển vốn trong
nước, trong điều kiện doanh nghiệp chưa trực tiếp tham gia được thị trường vốn quốc tế.Hai là,
giúp doanh nghiệp làm quen và tiến tới tự huy động được vốn quốc tế”.
Năm 2005
Lần đầu tiên, vào tháng 10/2005, chúng ta đã huy động được 750 triệu USD bằng phát hành trái
phiếu quốc tế với lợi tức 7,125%/năm. Toàn bộ số tiền này cho Tổng công ty Tàu thủy Việt nam
vay để thục hiện dự án đóng tàu trọng tải lớn trên 100.000 tấn.
Năm 2006
Sau đợt phát hành trái phiếu Chính phủ ra quốc tế cho thấy thành công bước đầu đã nâng cao hệ
số tín nhiệm cho trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế, mở ra một kênh huy
động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp cũng như Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới.
Theo đó, hàng loạt các doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã trình phương án lên Bộ Tài chính xin
phát hành trái phiếu công ty tại thị trường vốn quốc tế.
+ Tổng công ty Dầu khí VN Petro phối hợp cùng ngân hàng Đầu tư và Phát triển VN BIDV lập
phương án phát hành trái phiếu quốc tế để cơ cấu lại khoản vay( không bảo lãnh của Chính phủ).
+ Tổng công ty Điện lực VN (EVN) đề nghị Bộ Tài chính xem xét việc đưa nhu cầu vốn của
EVN vào đợt phát hành trái phiếu Chính phủ sắp tới ra thị trường quốc tế. Số vốn EVN đề nghị
phát hành lần này là 150 triệu USD.

+ Tập đoàn công nghiệp tàu thủy VN ( Vinashin) cũng đệ trình Chính phủ cho phát hành trái
phiếu quốc tế dựa trên dự án đóng tàu trọng tải lớn lên tới 105.000 tấn mà trước đó năm 2005
Chính phủ đã sử dụng 750 triệu USD phát hành được để cho vay đầu tư dự án này.
Năm 2007
Tính tới tháng 5, sau hàng loạt các Tổng công ty lớn xin phát hành trái phiếu quốc tế nhằm huy
động nguồn vốn đầu tư bằng ngoại tệ nhưng vẫn chưa được phê duyệt trong khi Chính phủ mong
muốn doanh nghiệp tự phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế.
Tuy nhiên ở thời điểm năm 2007, các điều kiện chưa chín muồi bởi vì còn có một số yêu cầu như
khả năng về đánh giá hệ số tín nhiệm, đánh giá về năng lực tài chính, kiểm toán,... của các doanh
nghiệp phát hành chưa được sẵn sàng. Trong khi đó, nhu cầu về vốn thì rất cấp bách, nhất là
những dự án lớn.
Cuối quý 4 năm 2007, Chính phủ đã phát hành thêm 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế kỳ
hạn mở rộng 10-30 năm với lãi suất danh nghĩa 6,75%/năm và lợi tức phát hành 6,95%.

16


Theo đó, trong tổng số trái phiếu phát hành, 56% từ các nhà đầu tư Mỹ, 28% từ các nhà đầu tư
châu Á và 16% từ các nhà đầu tư châu Âu. Về cơ cấu nhà đầu tư, các quỹ đầu tư và công ty quản
lý tài sản mua 73%, các quỹ bảo hiểm và hưu trí mua 10%, ngân hàng 7% và các nhà đầu tư
khác. Trái phiếu được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Singapore và đáo hạn vào ngày
29/1/2020.
Số tiền thu được dành cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng
công ty Sông Đà và Tổng công ty Lắp máy Việt Nam vay lại để thực hiện đầu tư các dự án Nhà
máy lọc dầu Dung Quất, Dự án mua tàu vận tải, Dự án Thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy thủy
điện Hủa Na.
Năm 2008
Một số doanh nghiệp điển hình lớn đã được Chính phủ chấp nhận trên nguyên tắc nhưng chưa
thể đủ điều kiện phát hành trái phiếu quốc tế theo như ý kiến của Bộ Tài chính như:
+ Tập đoàn Vinashin với mức dự kiến phát hành 400 triệu USD( xin phát hành trái phiếu ra quốc

tế ngay sau khi Chính phủ phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra quốc tế tháng 10/2005). Mặc dù
Vinashin đã làm việc với Tập đoàn KPMG để kiểm toán các báo cáo tài chính và tư vấn về quản
trị rủi ro, quản lý tài chính doanh nghiệp và phối hợp với các ngân hàng đứng ra hỗ trợ đợt phát
hành này, chuẩn bị mời hãng định mức tín nhiệm, gặp gỡ nhà đầu tư để thông tin về tình hình
doanh nghiệp nhưng tính đến đầu quý 4 năm 2008 vẫn chưa được duyệt vì những lý do mà phía
Chính phủ và Bộ tài chính đưa ra đối với hầu hết các doanh nghiệp.
+ Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN cũng lập dự án và tìm hiểu, lựa chọn nhà tư vấn, thực
hiện kiểm toán và xếp hạng tín nhiệm theo tiêu chuẩn quốc tế khá lâu trong suốt thời gian năm
2006 - 2007 với dự kiến xin được phát hành từ 300 – 500 triệu USD vào năm 2008.
Tại diễn đàn trực tuyến với các nhà đầu tư quốc tế ngày 19/6/2008 về khả năng huy động vốn
quốc tế trong năm 2008, Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh nói: “Trước mắt việc huy động vốn
phải tạm dừng, khi điều kiện thuận lợi sẽ tiếp tục triển khai”.
Ngoài ra, ông Ninh cũng cho biết thêm, năm 2008 Chính phủ đã quyết định giảm 25% đầu tư từ
nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Bộ trưởng cũng nhận định lãi suất trái phiếu Chính phủ chưa được hấp dẫn trong bối cảnh lãi
suất ngân hàng tăng cao, vì vậy, sắp tới vấn đề lãi suất sẽ được xem xét để có thể huy động vốn
tốt hơn cho nền kinh tế.
Năm 2009
Bước qua giai đoạn xem xét và tạm dừng việc huy động ngoại tệ bằng việc phát hành trái phiếu
quốc tế của doanh nghiệp thì Chính phủ cũng cho phép tiếp tục thực hiện việc phát hành trái
phiếu quốc tế trong năm 2009-2010 và giao Bộ Tài chính lựa chọn thời gian cụ thể thích hợp.
17


quá trình chào bán và định giá trái phiếu với điều kiện đảm bảo lãi suất trái phiếu thời hạn 10
năm không quá 7% một năm (lãi suất của các trái phiếu có kỳ hạn khác tương ứng với điều kiện
trên).
Theo đó, tháng 12 năm 2009, Vincom đã huy động được 100 triệu USD từ trái phiếu chuyển đổi
quốc tế kỳ hạn 5 năm và trái phiếu này được niêm yết tại Sàn Giao dịch CK Singapore ngay sau
khi phát hành và mở ra cho các doanh nghiệp huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu

chuyển đổi ra thị trường quốc tế.
Đây là đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi đầu tiên của Vincom và cũng là đợt phát hành trái
phiếu chuyển đổi đầu tiên của một doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường quốc tế.Vincom là
doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam phát hành thành công trái phiếu chuyển đổi trên thị trường
tài chính quốc tế.
Như vậy, trong suốt khoảng thời gian từ năm 2005- 2009 các doanh nghiệp vẫn chưa thể phát
hành trái phiếu quốc tế mặc dù cuối tháng 12/2009 Tập đoàn Vincom có phát hành được 100
triệu USD nhưng là trái phiếu chuyển đổi quốc tế.
Theo như Chính phủ và Bộ Tài chính xét trong tình hình giai đoạn 2005- 2009 các điều kiện
chưa chín muồi bởi vì còn có một số yêu cầu như khả năng về đánh giá hệ số tín nhiệm, đánh giá
về năng lực tài chính, kiểm toán,... của các doanh nghiệp phát hành chưa được sẵn sàng.
Ngày 4/6/2009, Nghị định 53/2009/NĐ- CP Về phát hành trái phiếu quốc tế, quy định hướng dẫn
rõ ràng tại chương III và các điều liên quan đối với doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu
quốc tế và các thủ tục Xây dựng đề án, Thẩm định đề án cũng như Phê duyệt đề án phát hành trái
phiếu quốc tế. Đây là tiền đề, cơ sở để cho các doanh nghiệp có thể được phép phát hành trái
phiếu quốc tế theo đúng yêu cầu của Chính phủ và các Bộ ngành liên quan.
Năm 2010
Ngày 27/1/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chứng kiến hợp đồng thu xếp vốn 200 triệu
USD giữa Ngân hàng Đầu tư toàn cầu Credit Suisse với Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh
Bắc( KBC).
Credit Suisse phát hành trái phiếu chuyển đổi cho KBC với lãi suất là 6%-6,2%/năm. Mức lãi
suất này thấp hơn mức 6,95% của Trái phiếu quốc tế Chính phủ vừa phát hành. Giá chuyển đổi
bằng 130% giá thị trường của KBC.
Theo giá thị trường trung bình của KBC những ngày gần đây là 60.000 đồng thị giá chuyển đổi
sẽ là 60 x 130% = 78.000đ/cp.
HOÀNG ANH GIA LAI
Cuối tháng 12.2010, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAG) phát hành 200 triệu USD trái phiếu
quốc tế. Đây là loại trái phiếu có lãi suất cố định, thanh toán lãi 6 tháng một lần, thời hạn 5 năm
18



và HAG có quyền mua lại sau 3 năm kể từ khi phát hành. Trái phiếu sẽ được niêm yết trên thị
trường chứng khoán Singapore.
Năm 2011
Tiếp tục đà trên Tập đoàn EVN xin phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế và xin Chính phủ chỉ
đạo các Bộ ngành hỗ trợ EVN sớm hoàn thiện các thủ tục phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế.
Trước đó, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tập đoàn Dầu khí
(PVN) cũng đã có kế hoạch gọi vốn trên thị trường trái phiếu quốc tế trong năm 2010, với mức
chào bán từ 500 triệu đến 1 tỉ đôla Mỹ. Tuy nhiên, hai đơn vị này đã xin tạm hoãn việc phát hành
trái phiếu ra thị trường quốc tế chờ thời điểm thích hợp.
HOÀNG ANH GIA LAI
Năm 2011, Hoàng Anh Gia Lai (HAG) huy động 60 triệu USD từ các nhà đầu tư quốc tế thông
qua phát hành 24,3 triệu GDR (chứng chỉ lưu ký toàn cầu) tại thị trường chứng khoán London.
Thương vụ này khi đó khá gây sự chú ý của thị trường và xu hướng huy động vốn bằng hình
thức này được dự báo sẽ phát triển
Năm 2012
Đây là thời điểm bùng nổ phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp như Công ty cổ phần
Masan MSN, Công ty cổ phần Vincom VIC, Tập đoàn Vingroup, Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam PVD…
+ MSN- CÔNG TY CP MASAN
Ngày 28/2, MSN công bố đã huy động được 235 triệu USD gồm khoản trái phiếu chuyển đổi trị
giá 155 triệu USD có thời hạn 4 năm cho tập đoàn và khoản vay 80 triệu USD cho công ty
Masan Resource. Nhà đầu tư trái phiếu chuyển đổi là các quỹ đầu tư của Mỹ sẽ nhận trái tức 5%
sau đó tăng 1% mỗi năm đối với khoản vay bằng USD và 15% cố định đối với khoản vay bằng
VND.Trái phiếu sẽ được chuyển đổi với mức giá 85.000 đồng một cổ phiếu.
VINCOM
Công ty cổ phần Vincom đã phát hành được 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế trong 2
đợt:
+ Đợt 1 ngày 27/3/2012, Vincom đã phát hành thành công 185 triệu USD. Đây là loại hình trái
phiếu không có tài sản bảo đảm, kỳ hạn 5 năm, phát hành bằng đôla Mỹ với lãi suất coupon là

5%/năm, thanh toán 6 tháng một lần vào cuối kỳ. Trái phiếu này cũng được niêm yết tại Sàn giao
dịch chứng khoán Singapore ngay sau khi phát hành.

19


+ Đợt 2 vào tháng 5 năm 2012 VIC đã phát hành thêm 115 triệu USD trái phiếu chuyển đổi với
giá chuyển đổi cho đợt phát hành này là 112.200 đồng một cổ phiếu. Tỷ lệ chuyển đổi ban đầu là
18.627,5 cổ phiếu đổi 1 trái phiếu theo giá chuyển đổi ban đầu. Quyền chuyển đổi của các trái
chủ sẽ được thực hiện từ ngày thứ 41 kể từ ngày hoàn thành đợt phát hành cho đến 10 ngày trước
khi đáo hạn (trừ trường hợp bị mua lại, chuyển đổi, bán hoặc hủy bỏ).
2. Thực trạng.
a. Phát hành trái phiếu trong nước
Nếu tín dụng ngân hàng hay phát hành cổ phiếu là những hình thức huy động vốn khá
phổ biến đối với các doanh nghiệp thì phát hành trái phiếu trong những năm vừa qua chưa phát
huy được hết lợi thế của mình. Số lượng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn ở một mức
khá khiêm tốn- 20 doanh nghiệp, khối lượng vốn huy động được qua kênh này cũng chiếm tỷ lệ
rất nhỏ, 8% tổng giá trị trái phiếu trong nước. Nghiên cứu tình hình phát hành trái phiếu doanh
nghiệp trong những năm vừa qua cho chúng ta thấy một số bất cập đến từ cả phía bản thân doanh
nghiệp lẫn các nhà đầu tư.
Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp.
-Có thể thừa nhận một điều là các doanh nghiệp trong nước đã quá quen với hình thức tín dụng
ngân hàng khiến cho các doanh nghiệp gần như không có nhu cầu đối với phát hành trái phiếu.
100 doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh thì có tới 99 doanh nghiệp đi vay ngân hàng và
1 doanh nghiệp còn lại…được ngân hàng cho vay. Đây là một thực tế không mấy khó hiểu.Có
những doanh nghiệp thậm chí không có nhu cầu vay nhưng nhân viên tín dụng vẫn mời chào tận
cửa với nhiều ưu đãi hấp dẫn. Cụ thể, nghiên cứu tập đoàn Hòa phát tại thời điểm 31/12/2011:
Nguồn
BIDV
VDB

Techcombank
Vietcombank
Indovina Hà Nội
HSBC
ANZ
Ngân hàng khác
Vay cá nhân
Trái phiếu

Số tiền (VND)
232.676.559.409
176.756.976.280
380.621.544.074
87.984.340.083
169.605.302.392
40.324.604.334
302.791.384.112
6.840.168.361
178.172.910.000
800.000.000.000

Tổng

2.375.773.789.000

Lãi suất
Thả nổi
9,6%
Thả nổi
Thả nổi

Thả nổi
Thả nổi
Thả nổi
Thả nổi
14,5 – 15%/năm
Thả nổi, 14,5% cho
năm đầu tiên

Từ bảng trên, ta thấy tín dụng ngân hàng chiếm tới 58,83% tổng nguồn vốn dài hạn, trong đó, giá
trị trái phiếu chiếm khoảng 33,67%. Trong khoảng 1,5 nghìn tỷ tín dụng ngân hàng của Hòa
20


Phát, có tới hơn 8 ngân hàng thương mại tham gia với lãi suất và kỳ hạn rất hấp dẫn. Trong đó,
trái phiếu được hưởng lãi suất 14,5% cho năm đầu tiên. Lãi suất các năm sau sẽ bằng lãi suất trả
sau kỳ hạn 12 tháng trung bình của 4 ngân hàng BIDV, VietComBank, VietinBank, Agribank tại
ngày ấn định lãi suất hàng năm cộng thêm 3.5%.
Đặc biệt từ đầu năm 2012 này, cùng với chiến dịch giảm lãi suất phát đi từ phía NHNN, các
NHTM cũng không ngừng giảm mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp. Như tuyên bố
mạnh dạn của đại diện Vietinbank tại đại hội toàn ngành ngân hàng diễn ra 7/7/2012 sẽ sẵn sàng
cho các doanh nghiệp vay ở mức 12%, thậm chí 11%, đồng thời rà soát để đưa các khoản tín
dụng trung và dài hạn về mức dưới 15% nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng dường như có tác động lớn trong việc đưa trái phiếu doanh nghiệp vào lãng
quên.
-Ngoài việc có tín dụng ngân hàng luôn luôn đồng hành khiến các doanh nghiệp không còn mấy
thắm thiết với các nguồn khác thì khó khăn gặp phải khi có nhu cầu phát hành trái phiếu trong
các khâu thủ tục pháp lý, chậm trễ về mặt thời gian cũng là một thực trạng đáng được đề cập.
Trước hết, doanh nghiệp muốn được phát hành trái phiếu phải có thời hạn hoạt động tối thiểu là
một năm.Điều này mâu thuẫn với nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong năm đầu đi vào hoạt động
khiến cho doanh nghiệp có xu hướng tận dụng các nguồn vốn khác có điều kiện dễ dàng hơn là

huy động qua trái phiếu.
Bên cạnh đó, thời gian hoàn thành các thủ tục xin phát hành trái phiếu, được phê duyệt, chấp
thuận, thuê bảo lãnh và tiến hành phát hành trái phiếu kéo dài khiến cho các doanh nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn, chưa kể đến doanh nghiệp sẽ bỏ lỡ những cơ hội đầu tư. Theo như báo cáo
kết quả đợt phát hành trái phiếu của công ty cổ phần phát triển nhà Bà Rịa – Vũng Tàu, thời gian
chào bán trái phiếu doanh nghiệp từ 15/11/2011 đến 29/02/2012 thu về được 51.500.000.000
đồng. Nếu xét cả thời gian đề nghị, phê duyệt, và thời gian phát hành, doanh nghiệp phải mất tới
gần 4 tháng mới huy động được hơn 51 tỷ đồng trong khi đối với hình thức đi vay khác doanh
nghiệp hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng thời gian này.
Như vậy, đa số các doanh nghiệp không có nhu cầu cấp thiết đối với hình thức phát hành trái
phiếu, còn các doanh nghiệp có nhu cầu thì vướng mắc ở thủ tục pháp lý và thời gian làm cho
nhu cầu phát hành trái phiếu luôn đứng ở một con số khiêm tốn.
Thứ hai, về phía nhà đầu tư.
Ai cũng biết trái phiếu là một công cụ nợ dài hạn, các trái phiếu doanh nghiệp thường có thời hạn
từ 3-5 năm, đặc biệt, trái phiếu doanh nghiệp thường có mệnh giá lớn 1000.000 đồng cho tới 1 tỷ
đồng. Điều này đã gây ra một khó khăn đối với tính thanh khoản của hình thức đầu tư này. Nếu
kỳ phiếu ngân hàng hay tiền gửi tiết kiệm có thể được chiết khấu hay rút ra trước hạn, trái phiếu
chính phủ có thể được chiết khấu hay bán lại trên thị tường trái phiếu chính phủ, cổ phiếu có thể
21


được giao dịch trên thị trường chứng khoán thì trái phiếu doanh nghiệp lại thiếu đi một thị
trường thứ cấp để đảm bảo cho nhà đầu tư rút vốn trong trường hợp cần thiết. Nhà đầu tư cũng
không thể yêu cầu doanh nghiệp trả tiền khi chưa đáo hạn giống như tiền gửi ngân hàng và việc
bán lại trái phiếu doanh nghiệp cho một nhà đầu tư khác đôi khi là không thể.Nhà đầu tư gần như
chỉ có cách mua trái phiếu và đợi tới ngày đáo hạn.
Khả năng trả nợ của các doanh nghiệp cũng là một dấu hỏi lớn đối với các nhà đầu tư. Trước hết
là vấn đề sức khỏe của các doanh nghiệp do ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh cũng như năng
lực nội tại và thực trạng thông tin chưa minh bạch đã góp thêm và sự dè dặt của nhà đầu tư. Một
lý do khác đến từ phía các doanh nghiệp đã thực hiện phát hành trái phiếu. Các doanh nghiệp này

khi chào bán trái phiếu thì vẽ nên những kế hoạch kinh doanh với triển vọng rất cao, lợi nhuận
kỳ vọng lớn nhưng sau một thời gian thực hiện thì kết quả hầu như là thua lỗ.Một ví dụ điển hình
là Vinashin, doanh nghiệp nhà nước tiên phong trong phát hành trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt
từ 2007- 2009, doanh nghiệp này vay được 10.296 tỷ đồng từ trái phiếu. Năm 2012 này,
Vinashin bắt đầu hoàn trả khoảng 1.500 tỷ đồng cho các nhà đầu tư nhưng trong tình cảnh nợ
nần chồng chất, làm ăn thua lỗ thì việc đáo hạn gần như là một bài toán vô nghiệm với doanh
nghiệp này. Không chỉ các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng phải đối mặt
thực trạng này.Năm 2012, rất nhiều trái phiếu chuyển đổi của các doanh nghiệp đáo hạn song tín
hiệu không mấy lạc quan. Theo báo cáo của Quốc Cường Gia Lai chỉ 30% trong tổng số 195 tỷ
đồng trái phiếu phát hành ngày 9/12/2010, lãi suất 0% được các nhà đầu tư đồng ý chuyển đổi
thành cổ phiếu. Tỷ lệ chuyển đổi thấp này một phần do tình hình xấu đi của thị trường chứng
khoán nhưng quan trọng hơn cả là từ kết quả kinh doanh thua lỗ gần 40 tỷ đồng của năm 2012 đã
khiến các nhà đầu tư vơi dần sự hào hứng đối với trái phiếu chuyển đổi. Chính các doanh nghiệp
đi trước đã tạo cho nhà đầu tư trong và ngoài nước tâm lý không tốt, ảnh hưởng tới mức độ tín
nhiệm và niềm tin vào trái phiếu doanh nghiệp.
Trên đây là một số thực trạng nổi bật từ khi hình thức vay nợ trung - dài hạn thông qua phát hành
trái phiếu của các doanh nghiệp được triển khai. Bên cạnh đó còn rất nhiều những vấn đề khác
như thị trường chứng khoán chưa phát triển, thiếu mức lãi suất tham chiếu, công ty xếp hạng tín
nhiệm hoạt động chưa hiệu quả hay vấn đề thông tin bất cân xứng song nguyên nhân vẫn là từ
phía doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư. Cung ít, cầu hạn chế làm cho hình thức này vốn đã
mới lại càng thêm lạ lẫm.
b. Phát hành trái phiếu quốc tế
Nếu phát hành trái phiếu trong nước gặp khó khăn từ cả phía nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp
thì việc mang chuông đi đánh xứ người, bản thân chủ thể phát hành đang phải đối mặt với rất
nhiều rào cản.
Trước hết, đa số các doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu ra quốc tế đều phải chịu một mức lãi
suất cao dù có được bảo lãnh hay không. Đầu năm 2012, có nhiều doanh nghiệp đã tiến hành
phát hành trái phiếu quốc tế như Masan, Vingroup, Vincom với hình thức hầu như là trái phiếu
22



chuyển đổi song mức lãi suất mà họ phải trả đều ở mức 5% trong khi đó lãi suất cho vay bằng
ngoại tệ của một số gói tín dụng tại Vietinbank hiện nay chỉ khoảng 4%/năm hay BIDV cho vay
dài USD hạn khoảng 6%/năm .Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải trả một giá tương đối cao
trên thị trường trái phiếu quốc tế. Thực tế này một phần là do nền kinh tế của chúng ta còn có
quy mô rất nhỏ, trình độ còn ở mức độ thấp, song bản chất vấn đề vẫn là từ phía các doanh
nghiệp. Mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn khá thấp. Thời gian vừa
qua, Hoàng Anh Gia Lai đã bị xếp hạng ở mức B hoặc B- (tiêu cực) bởi cả hai tổ chức S&P và
Fitch Rating, tuy nhiên sau đó cả 2 tổ chức đều rút đánh giá của mình theo yêu cầu của doanh
nghiệp. Vingroup cũng được Fitch xếp ở mức B+ nhưng đây cũng không phải là một vị trí khả
quan.Uy tín chưa cao khiến các doanh nghiệp phải chịu một mức lãi suất tương đối cao.
Bên cạnh đó, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam khi niêm yết trên các sàn quốc tế đã trả một
mức lãi
suất tương đối cao nhưng lượng vốn huy động được lại không cao, tính lỏng thấp do không hấp
dẫn được nhà đầu tư. Vào khoảng tháng 8 năm nay, Hoàng Anh Gia Lai đã công bố hủy niêm yết
90 triệu USD trái phiếu, phát hành năm 2011, lãi suất 9,875%, đáo hạn năm 2016 trên sàn
Singapore do số lượng trái chủ nắm giữ không nhiều, ít giao dịch được thực hiện, tính thanh
khoản của trái phiếu thấp. Đợt phát hành trái phiếu năm 2011 này của HAGL dự kiến thu về 200
triệu USD nhưng lượng trái phiếu thành công chỉ đạt 45% kỳ vọng song doanh nghiệp vẫn niêm
yết trên SGX. Chỉ 15 tháng ngắn ngủi sau đó, HAGL đã hội ý với đơn vị ủy thác, tư vấn Credit
Suisse đi đến quyết định xin hủy niêm yết. Việc hủy niêm yết này có thể giúp cho HAGL tiết
kiệm được thời gian và chi phí song nó gián tiếp ảnh hưởng tới việc “ xuất ngoại” trái phiếu của
các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Mặc dù phát hành trái phiếu quốc tế là việc mà không ít các doanh nghiệp Việt Nam mong muốn
và hướng tới nhưng những tiêu chuẩn đạt được, những quy định phải tuân thủ, cũng như vấn đề
thời gian, chi phí là điều mà doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ càng.

KẾT LUẬN
Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển
đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào

nền kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), đã mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thách cho nền kinh tế nước ta. Để có thể hòa
nhịp cùng nền kinh tế thế giới, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ,
nâng cao trình độ đội ngũ quản lý, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng… Đặc biệt, phải thúc
đẩy thị trường vốn phát triển, trong đó thị trường trái phiếu giữ vai trò chủ đạo.
Hiện nay, thị trường tài chính có nhiều biến động khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận
với nguồn vốn thông qua phát hành cổ phiếu và vay ngân hàng. Do đó, cần tìm một nguồn huy
23


động mới. Và phát hành trái phiếu đã đáp ứng được nhu cầu đó. Đây là một kênh huy động
vốn nợ có hiệu quả, vừa tăng tính tự chủ, độc lập cho doanh nghiệp, vừa chia sẻ rủi ro cho nhiều
nhà đầu tư, san sẽ gánh nặng cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh
nghiêp Việt Nam còn non trẻ, hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, chưa có tổ chức định mức tín
nhiệm, trình độ quản lý doanh nghiệp còn kém, chưa có đường cong lãi suất chuẩn, các
doanh nghiệp còn xa lạ với hình thức phát hành trái phiếu…
Chúng ta cần nghiên cứu và triển khai các giải pháp một cách đồng bộ từ phía cơ quan
quản lý nhà nước, các chủ thể phát hành, đến nhà đầu tư. Qua đó, đã đề xuất một số kiến nghị
với các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường pháp lý. Đồng thời, đưa ra một số biện pháp
nhằm giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếpcận với nhiều nguồn vốn, nâng cao nhận thức, thay đổi tư
duy của các doanh nghiệp và nhà đầu tư, thu hút sự quan tâm của các đối tượng này đối với thị
trường TPDN… Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc phát triển thị trường
TPDN là một tất yếu khách quan. Chúng ta hy vọng rằng với những bước đi hợp lý, các giải
pháp được triển khai một cách đồng bộ, thị trường TPDN Việt Nam sẽ có những bước phát triển
mạnh mẽ trong tương lai, phát huy vai trò của một kênh huy động trung dài hạn hiệu quả, góp
phần đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.

24




×