Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.89 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) là một hình
thức của đầu tư quốc tế. Nó ra đời và phát triển là kết quả tất yếu của q trình
quốc tế hố đời sống kinh tế và q trình phân cơng lao động quốc tế theo chiều
sâu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem như chiếc chìa khóa của sự
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thơng qua đó cho phép các nước sở tại thu
hút được các công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến... nhằm khai thác
lợi thế so sánh của đất nước mình, thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh,
điều chỉnh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi thị trường khu vực
và thế giới.
Chiến lược mở cửa để dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện cách đây
gần 20 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chiến lược này là chủ
chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm mục tiêu giải quyết
nạn khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà còn nhằm tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà những
máy móc, quy trình cơng nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và
hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nội sinh nền kinh tế đất
nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp cộng nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.
Trong đề án môn học này,em xin đi vào vấn đề trọng tâm là:
“Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam”
Kết cấu của đề tài gồm ba phần: Phần mở đầu; phần nội dung; phần kết luận và tài
liệu tham khảo. Tuy nhiên phần nội dung gồm 3 mục:
A. Tổng quan về FDI
B. Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
C. FDI trong chiến lược phát triển kinh kế Việt Nam
1



PHẦN NỘI DUNG
A. Tổng quan về FDI:
I. Khái niệm và đặc điểm:
1.Khái niệm:
Đầu tư được hiểu theo nghĩa chung nhất là hy sinh những lợi ích trước mắt
nhằm kì vọng thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Vì thế dưới góc độ kinh tế đầu tư là sử dụng một khối lượng giá trị các nguồn lực
vào những hoạt động nhất định nào đó nhằm thu được lượng giá trị lớn hơn trong
tương lai
Đầu tư quốc tế là một hình thức của di chuyển quốc tế về vốn, trong đó vốn
được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện một hoặc một số
dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho các bên tham gia.
Đầu tư quốc tế trực tiếp có tên gọi phổ biến là đầu tư trục tiếp nước ngoài
(foreign direct investment-FDI), đó là việc nhà đầu tư đưa tiền và các nguồn
lực cần thiết từ một quốc gia sang quốc gia khác và chuyển hóa chúng thành
vốn để tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Trong
đầu tư quốc tế trực tiếp nhà đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức điều
hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Nói chung các hoạt động đầu tư này chủ
yếu được diễn ra trong lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế bao gồm cả sản
xuất thương mại và dịch vụ. Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện phổ biến
giữa mọi loại quốc gia, với nhiều hình thức đầu tư và một số hình thức thực
hiện, trong đó hình thức thực hiện thông qua các dự án FDI là phổ biến hơn
cả.
2.Đặc điểm:
2.1. Đặc điểm chung cùa đầu tư quốc tế:
Thứ nhất, các dòng tiền thuộc đầu tư quốc tế (dòng vốn đầu tư) được chảy từ
nền kinh tế của quốc gia nhà đầu tư sang một nền kinh tế khác. Có thể nói, đây là
đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt đầu tư quốc tế với đầu tư nội địa. Như vậy,
2



trong hoạt động đầu tư quốc tế, dòng vốn đầu tư sẽ dịch chuyển ra khỏi nền kinh tế
của quốc gia nhà đầu tư và được chuyển sang một nền kinh tế khác. Đồng thời kết
quả của hoạt động đầu tư này cũng sẽ được cấu thành trực tiếp trong GDP của nền
kinh tế khác, không thuộc nền kinh tế của quốc gia nhà đầu tư.
Thứ hai, có nhiều đồng tiền khác nhau tham gia vào hoạt động đầu tư quốc
tế. Đầu tư quốc tế có liên quan đến ít nhất là hai quốc gia. Trong khi đó, hiện nay
trên thế giới, trừ phần lớn các quốc gia thuộc EU đều dùng chung đồng euro, còn
lại mỗi quốc gia hầu như đều có đồng tiền riêng khác nhau, địi hỏi phải chuyển
hóa các dịng vốn đầu tư quốc tế từ đồng tiền của nước đầu tư sang đồng tiền của
nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ ba, đầu tư quốc tế chủ yếu bị chi phối bởi các luật lệ, qui định…của
quốc gia tiếp nhận đầu tư và các thông lệ quốc tế. Đây là một thực tế khách quan,
vì hoạt động đầu tư được thực hiện trên thị trường tài chính quốc tế, nên không thể
chỉ tuân thủ theo những luật lệ, qui định của quốc gia đầu tư, mà ngược lại, về cơ
bản là phải tuân thủ theo nước sở tại và các thông lệ quốc tế.
Thứ tư, đầu tư quốc tế có thể đối mặt với những nguy cơ rủi ro cao. Có thể
nói, đầu tư là phải đối mặt với rủi ro, đó hầu như là một tất yếu khách quan. Đối
với đầu tư quốc tế, không những không tránh khỏi rủi ro, mà ngược lại, tiềm ẩn rủi
ro có nguy cơ cịn cao hơn đầu tư nội địa. Sở dĩ như vậy là vì, đầu tư quốc tế ngồi
đối mặt với những rủi ro thường có phổ biến cho mọi loại đầu tư nói chung, cịn
phải đối mặt với nhiều rủi ro riêng có, trong đó đặc biệt là rủi ro tỷ giá hối đoái và
rủi ro chính trị.
2.2. Đặc điểm của FDI:
2.2.1. FDI trở thành hình thức đầu tư chủ yếu trong đầu tư nước ngoài.
Xét về ưu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất
lượng trong nền kinh té thế giới. Gắn trực tiếp với quá trình sản xuất trực tiếp,
tham gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của
sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp xuyên quốc tế


3


2.2.2. FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước công nghiệp phát
triển với nhau nhưng có thể thấy được hai nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, môi trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao.
Mơi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và mơi
trường pháp lý.
Thứ hai, xu hướng khu vực hố đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị
trường của nhau.
Từ hai lý do đó ta có thể giải thích được xu hướng tăng lên của FDI ở các
công nghiệp mới (NICs), các nứơc ASEAN và TrungQuốc.
Ngoài ra xu hướng tự do hoá và mở cửa của nền kinh tế các nước đang phát
triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi đáng kể dòng
chảy FDI.
2.2.3. Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn.
Trong những năm gần đây cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên
đa dạng hơn so với trước đây. điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống phan
cơng lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường kinh tế
thương mại toàn cầu.
Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước cơng nghiệp phát triển có
những thay đổi sau:
Vai trò và tỉ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao
tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then chốt như
điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hoá chất và chế tạo máy. Trong khi đó nhiều
ngành cơng nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối
hoặc không đầu tư .
Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế taọ giảm xuống trong khi FDI vào

các ngành dịch vụ tăng lên. Điều này có liên quan đến tỷ trọng khu vực vụ trong
GDP của các nứơc CECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ trong cộng nghiệp chế
4


tạo. Một số lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ thương mại, bào hiểm, các dịch
vụ tài chính và giải trí
2.2.4. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giưã FDI và ODA, thương mại và chuyển
giao công nghệ.
FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau . Thơng thường, một
chính sách khuyến khích đầu tư nước ngồi được nhằm vào mục đích tăng tiềm
năng xuất khẩu của một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn
ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trên trường quốc tế
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyển giao công nghệ.
Xu hướng hiệnu nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ
với nhau . Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuuyển vốn và kỹ
thuật trên phạm vi quốc tế .
Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các yếu tố bên ngoài
để phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý đến điều này. Hong Kong , Singapo
và Đài Loan rất tích cực khuyến khích các cơng ty xun quốc gia chuyển giao
cơng nghệ cùng với q trình đầu tư.
Sự gắn bó giữa FDI và ODA cũng là một đặ điểm nổi bật của sự lưu chuyển
các nguồn vốn , công nghệ trên phạm vi quốc tế trong những năm gần đây. Hơn
nữa xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn .
II. Các hình thức FDI và đặc trưng cơ bản của chúng
1. Doanh nghiệp liên doanh:
Hình thức này được áp dụng phổ biến hơn, nhưng có xu hướng bớt dần về tỉ
trọng. Các nhà đầu tư nước ngồi thích áp dụng hình thức liên doanh vì :
Thấy được ưu thế giữa hình thức xí nghiệp liên doanh so với hình thức xí

nghiệp 100% vốn nước ngoài là tranh thủ được sự hiểu biết và hỗ trợ của các đối
tác trong tất cả các khâu hình thành, thẩm định và thưc hiện dự án.
5


Phạm vi , lĩnh vực và địa bàn hoạt động của xí nghiệp liên doanh rộng hơn xí
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi.
Tuy nhiên có thể giải thích xu hướng hạn chế dần hình thức xí nghiệp liên
doanh ở Việt Nam bằng những nguyên nhân sau :
Sau một thời gian tiếp cận với thị trường Việt Nam , các nhà đầu tư nước
ngoài , đặc biệt các nhà đầu tư Châu Á đã hiểu rõ hơn về luật pháp , chính sách và
thủ tục đầu tư tại Việt Nam .
Thực tiễn phát sinh nhiều tranh chấp trong việc quản lý điều hành mà một
phần do sự yếu kém về trình độ của người Việt Nam . Bên nước ngồi thường góp
vốn nhiều hơn nhưng khơng qêt định những vấn đề chủ chốt của xí nghiệp vì
ngun tắc nhất trí trong hội đồng quản trị.
Khả năng tham gia liên doanh của bên Việt Nam là có hạn vì thiếu cán bộ ,
thiếu vốn đóng góp .
Nhiều trường hợp cơ quan quản lý nhà nước đã tác động quá sâu vào q
trình sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp
2. Doanh nghiệp 100% vớn nước ngoài:
Đầu tư nước ngồi theo hình thức này ngày càng tăng . Nguyên nhân giảm
sút tỉ trọng xí nghiệp liên doanh cũng chính là nguyên nhân tăng tỉ lệ các xí nghiệp
100% vốn nước ngồi .Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư trước đây đã từ chối
cấp giấy phép cho nhiều dự án 100% vốn nước ngoài trong những ngành ,lĩnh vực
quan trọng hoặc có tính đặc thù như : Bưu chính viễn thơng , xây dựng kinh doanh
khách sạn , văn phòng cho thuê , sản xuất xi măng , dịch vụ xuất nhập khẩu , du
lịch…Tuy nhiên trong những năm gần đây , các địa phương phía Nam , đặc biệt là
các tỉnh Đồng Nai , Sông Bé, Bà Rịa _Vũng Tàu đã ủng hộ mạnh các dự án 100%
vốn nước ngoài với lập luận rằng cho các nhà đầu tư nước ngồi th đất lập xí

nghiệp 100% vốn nước ngồi có lợi hơn việc giao đất cho bên Việt Nam góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia liên doanh

6


3. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Hình thức này được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dị khai thác dầu
khí và trong lĩnh vực bưu chính viễn thơng .Hai lĩnh vực này chiếm 30% số dự án
hợp đồng hợp tác kinh doanh , nhưng chiếm tới 90% tổng vốn cam kết thưc hiện .
Phân còn lại chủ yếu thuộc về lĩnh vực công nghiệp , gia công , dịch vụ
4. Các hình thức khác:
4.1. Cơng ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngồi:
Đây là hình thức tổ chức khá phổ biến trên thế giới . Theo quan điểm của các
nhà đầu tư nước ngồi , so với các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn , công
ty cổ phần có lợi thế trong việc huy động vốn ngay từ đầu của doanh nghiệp.
4.2. Cổ phần hố các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi:
Việc chuyển nhượng phần góp vốn trong xí nghiệp liên doanh phải được sự
chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền . Xí nghiệp liên doanh không
được phép huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc bán lại chứng khốn .
Vì vậy , một số nhà đầu tư nước ngoài cho rằng quy định của Luật hiện hành là
“cứng” và đề nghị cho cổ phần hố xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
4.3. Chi nhánh cơng ty nước ngồi tại Việt Nam:
Luật đầu tư hiện hành khơng có quy định về hình thức chi nhánh cơng ty
nước ngồi tại Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm qua, một số ngân hàng nước
ngồi ,các cơng ty tài chính, thương mại quốc tế đã làm đơn xin mở chi nhánh tại
Việt Nam.
Phương thức đổi đất lấy cơng trình: Nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn xây dựng
một hoặc một số dự án cơ sở hạ tầng như cầu, đường, hoặc khu phố mới theo
phương thức chìa khố trao tay hoặc BT ( xây dựng – chuyển giao). Đổi lại, Nhà

nước Việt Nam sẽ dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền sử dụng một diện tích
7


đất trong một thời gian xác định để xây dựng, kinh doanh hoặc một số dự án cụ
thể.
Hình thức thuê mua: Một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, đặc biệt là
xí nghiệp 100% vốn của các cơng ty Nhật Bản đề nghị được thuê mua hoặc thuê
miễn phí máy móc thiết bị. Vì đây là vấn đề mới và máy móc thiết bị vẫn thuộc sở
hữu của xí nghiệp tại Việt Nam nên Bộ Thương mại đã không chấp nhận đề nghị
miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị leasing.
III. Những nhân tớ ảnh hưởng đến FDI:
1. Các chính sách kinh tế vĩ mơ:
Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận đầu tư:
Yếu tố đầu tiên ở đây góp phần mở rộng họat động xuất khẩu của các nhà đầu tư.
Tỷ giá đồng bản bị nâng cao hay bị hạ thấp đều bị ảnh hưởng xấu tới hoạt động
xuất nhập khẩu.
Chính sách thương nghiệp: Yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt đối với vấn đề đầu
tư trng lĩnh vực làm hàng xuất khẩu. Mức thuế quan cũng ảnh hưởng tới giá thành
xuất khẩu. Hạn mức xuất nhập khẩu thấp và các hàng rào thương mại khác trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như có thể khơng kích thích hấp dẫn tới các nhà đầu
tư nước ngồi. Chính yếu tố này làm phức tạp thêm cho thủ tục xuất khẩu và bị
xếp vào hàng rào xuất khẩu khác.
Chính sách thuế và ưu đãi: Chính sách thuế và ưu đãi thường được áp dụng
để thu hút các nhà đầu tư nước ngồi.
Chính sách kinh tế vĩ mơ: Chính sách này ổn định sẽ góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư bản xứ lẫn nước ngồi. Nếu khơng có
những biện pháp tích cực chống lạm phát thì có thể các nhà đầu tư thích bỏ vốn
vào nước này. Nếu giá cả tăng nhanh ngồi dự kiến thì khó có thể tiên định được
của kết quả hoạt động kinh doanh

Luật đầu tư: Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoạt động của các
cơng ty nước ngồi trên thị trường bản địa. Nhiều nước mở cửa thu hút vốn đầu tư
8


nước ngoài theo các điều kiện giống như cho các nhà đầu tư bản xứ. Ở Việt Nam,
luật khuyến khích đầu tư nước ngồi triển khai cịn chậm và khơng đáp ứng được
sự mong mỏi bởi mức độ ưu đãi và khuyến khích cịn hạn chế, chưa nhất qn.
2. Các yếu tố khác:
Yếu tố hàng đầu là đặc điểm của thị trường bản địa (quy mô, dung lượng của
thị trường sức mua của dân sư bản xứ và khả năng mở rộng quy mô đầu tư)
Đặc điểm của thị trường nhân lực: Công nhân lao động là mối quan tâm hàng
đầu ở đây, đặc biệt đối với những nhà đầu tư nước ngoài muốn bỏ vốn vào các lĩnh
vực cần nhiều lao động, có khối lượng sản xuất lớn. Trình độ nghề nghiệp và học
vấn của các công nhân đầu đàn (có tiềm năng và triển vọng) có ý nghĩa nhất định.
Khả năng hồi hương vốn đầu tư.Vốn và lợi nhuận được tự do qua biên giới
(hồi hương) là tiền đề quan trọng để thuhút vốn đầu tư nước ngoài.ở một số nước
mang ngoại tệ nước ngoài phải xin giấy phép của ngân hàng trung ương khá rườm
rà.- Bảo vệ quyền sở hữu.Quyền này gồm cả quyền của người phát minh sang chế,
quyền tác gỉa, kể cả nhãnhiệu hàng hóa và bí mật thương nghiệp vv... Đây là yếu
tố đặc biệt có ý nghĩa lớn đối với những người muốn đầu tư vào các ngành hàm
lượng khoa học cao và phát triển năng động (như sản xuất máy tính, phương tiện
liên lạcvv....) ở một số nước,lĩnh vực này được kiểm tra, giám sát khá lỏng lẻo,
phổ biến là sử dụng khơng hợp pháp các cơng nghệ ấy của nước ngồi. Chính vì lý
do này mà một số nước bị các nhà đầu tư loại khỏi danh sách các nước có khả
năng nhận vốn đầu tư.
Điều chỉnh hoạt động đầu tư của các cơng ty đầu tư nước ngồi.Luật lệ cứng
nhắc cũng tăng chi phí của các cơng ty đầu tư nước ngồi. Các nhà đầu tư rất thích
có sự tự do trong môi trường hoạt động và do vậy họ rất quan tâm đếnmột đạo luật
mềm dẻo giúp cho họ ứng phó linh hoạt, có hiệu quả với những diễn biến của thị

trường. Ví dụ có những nước cấm sa thải cơng nhân là khơng phù hợpvới lợi ích
của cơng ty nước ngồi. Chính sách lãi suất ngân hàng và chính sách biệt đãi đối
với một số khu vực cũng có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư ở một số nước
9


Ổn định chính trị ở nước muốn nhận đầu tư và trong khu vực này.Đây là yếu
không thể xem thường mỗi khi bỏ vốn đầu tư vì rủi ro chính trị có thểgây thiệt hại
lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài
Cơ sở hạ tầng phát triển. Nếu các yếu tố nói trên đều thuận lợi nhưng chỉ một
khâu nào đó trong kết cấu hạtầng (giao thơng liên lạc, điện nước) bị thiếu hay bị
yếu kém thì cũng ảnh hưởng và làm giảm sự hấp dẫn của các nhà đầu tư.
IV. Tác động của FDI
1. Đối với nước đầu tư:
1.1. Mặt tích cực:
Chủ đầu tư có khả năng kiểm sốt hoạt động sử dụng vốn đầu tư và có thể
đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do đó vốn đầu tư thường được sử
dụng với hiệu quả cao
Giúp được chủ đầu tư nước ngoài tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và
chiếm lĩnh thị trường nước sở tại
Chủ đầu tư có thể giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm do khai thác
được nguồn nguyên liệu và lao động với giá cả thấp của nước sở tại. Vì vậy, thơng
qua thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngồi, chủ đầu tư có thể nâng cao được khả
năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới.
1.2 Mặt tiêu cực:
Chủ đầu tư có thể gặp rủi ro cao nếu không biết rõ về môi trường đầu tư của
nước sở tại
Có thể xảy ra tình trạng chảy máu chất xám nếu chủ đầu tư nước ngoài để
mất bản quyền sở hữu cơng nghệ, bí quyết sản xuất trong q trình chuyển giao
2. Đới với nước tiếp nhận đầu tư:

2.1. Mặt tích cực:
a) Là nguồn hỗ trợ cho phát triển.
10


FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốnngoại
tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.Hầu hết
các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vịng luẩn quẩn” đó là: Thu nhập thấp
dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập thấp.
Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải vượt
qua để hội nhập vào quỹ đạo ta kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì
trệ của nghèo đói bởi lẽ khơng lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác. Một mắt
xích của “vòng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối vớicác
nước kém phát triển là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn
việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ
đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên
để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả khó tránh
khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước ngồi sẽ
là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vịng luẩn quẩn” đó. Đặc biệt là
FDI nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các
nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận
thích đáng khi cơng trình đầu tư hoạt động có hiệu quả.Hơn nữa lượng vốn này
cịn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định
và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, cịn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt
hơn.Theo mơ hình lý thuyết “hai lỗ hổng” của Cherery và Stront có hai cản trở
chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: Tiết kiệm khơng đủ đáp ứng cho
nhu cầu đầu tư được gọi là “lỗ hổng tiết kiệm”. Và thu nhập của hoạt động xuất
khẩu không đpá ứng nhu càu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là “lỗ
hổng thương mại”
Hầu hết các nước kém phát triển, hai lỗ hổng trên rất lớn. VÌ vậy FDI góp

phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận
đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các cơng ty nước ngồi, thu ngoại tệ từ các hoạt
động dịch vụ cho FDI.

11


b) Chuyển giao cơng nghệ.
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là cơng nghệ khoa học hiện đại,
kỹsảo chun mơn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó,
chủđầu tư khơng chỉ vào nước đó vốn bằng tiền mà cịn chuyển cả vốn hiện vật
nhưmáy móc thiết bị, nhun vật liệu....(hay cịn gọi là cộng cứng) trí thức khoa
hoạch bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.)
Do vậy đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư.
FDI cóthể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề địi hỏi hàm
lượng cơng nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với q trình cơng nghiệp
hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, ta nhanh của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại
kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác
trong nước nhận đầu tư, thơng qua những chương trình đào tạo và q trình vừa
học vừa làm. FDI cịn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong
khi tiếp nhận cơng nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI cịn thúc đẩy các nước
nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ
chuyên môn để tham giavào các công ty liên doanh với nước ngoài.Thực tiễn cho
thấy, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ kỹ thuật cơng
nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60 Hàn Quốc cònkém về lắp ráp
xe hơi, nhưng nhờ chuyển nhận công nghệ Mỹ, Nhật, và các nướckhác mà năm
1993 họ đã trở thành những nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 thế giới.Trong điều kiện
hiện nay, trên thế giới có nhiều cơng ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu
đầu tư ra nước ngồi và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận
đầu tư. Thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được các

cơng nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triểnđược “đi xe
miễn phí” mà họ phải trả một khoản “học phí” khơng nhỏ trong việc tiếp nhận
chuyển giao cơng nghệ này.
c) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

12


Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn
thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh ta kinh tế. Đây cũng làđiểm
nút để các nước đang phát triển khoát ra khỏi các vịng luẩn quẩn của sự đói
nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực
hiện chiến lược kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác
dụngcủa các nhân tố bên ngồi biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia
đó tạo được tốc độ tăng cao.Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường
do nhân tố tăng đầu tư,nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử
dụng, năng suất lao động cũng tăng lên theo. Vì vậy có thể thơng qua tỷ lệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế.Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã góp phần tích cực thúcđẩy ta kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề,
là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền
kinh tế.
d) Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu dịch chuyển nền kinh tế khơng chỉ địi hỏi của bản thân sự phát triển
nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế
đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động
kinh tế đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào q
trình phân cơng lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên
thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp
với sự phân công lao dộng quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù

hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu
tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước
nhận đầu tư.Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng
trình độ kỹ thuật cơng nghệ ở nhiều nghành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng
13


suất lao động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là,
một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngồi, nhưng
cũng có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
e) Một số tác động khác.
Ngoài những tác động trên đây, đầư tư trực tiếp nước ngồi cịn có một số
tác động sau:Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông
qua việc nộp thuếcủa các đơn vị đầu tư và tiền thu tư việc cho thuê đất ....Đầu tư
trực tiếp nước ngồi cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp nhận
đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản
phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngồi và việc phát
triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển.Ví dụ như
Singaporelên72,1%, Brazin là 37,2%, Mehico là 32,1%, Đài loan là 22,7%, Nam
Hàn 24,7%,Agentina 24,9%. Cùng với việc tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa,
đầu tư trực tiếp nước ngồi cịn mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước.
Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi đều có phương án bao tiêu sản phẩm.
Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước đang
phát triển hiện nay.Về mặt xã hội, đầu tư trục tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ
làm việc mới,thu hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư
vào làm việc tại tạicác đơn vị của đầu tư nước ngồi. Điều đó góp phần đáng kể
vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều
quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động

rất phong phú nhưng khơng có điều kiện khai thác và sử dụng được. Thì đầu tư
trực tiếp nước ngồi đước coi làchìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây.
Vì đầu tư trực tiếp nước ngồitạo ra được các điều kiện về vốn và kỹ thuật, cho
phép khai thác và sử dụng các tiềm năng về lao động. Ở một số nước đang phát
triển số người làm việc trong các xí nghiệp chi nhánh nước ngồi so với tổng
người có việc làm đạt tỷ lệ tương đốicao như Singapore 54,6%, Brazin 23%,
Mehico 21%. Mức trung bình ở nhiều nướckhác là 10%. Ở Việt Nam có khoảng
14


trên100 nghìn người đang làm trong các doanhnghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là con số khá khiêm tốn.Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm
trong nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sach và khả năng lỹ thuật
của nước đó.
2.2. Mặt tiêu cực:
a) Chuyển giao cơng nghệ.
Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở phần trên,chểng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ
nhận nhiều kỹ thuật khơng thích hợp. Các cơng ty nước ngồi thường chuyển giao
những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể
giải thích là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho
nên máy móc cơng nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển
giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ,
đổi mới sản phẩm, nâng cao chát lượng của sản phẩm của chính nước họ. Hai là,
vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sự
dụng lao động.Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết
quả là giá thánh sản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi cơng nghệ bằng những
cơng nghệ có hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm.Do vậy việc chuyển giao
công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầutư như là:- Rất khó tính
được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nướcđầu tư thường

bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên doanh và hậu quả
là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.- Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các
cơng ty nước ngồi bị cưỡng chế phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất
chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật
bảo vệ môi trường không hữu hiệu.- Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và
do đó sản phẩm của các nước nhậnđầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế
giới.Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công
15


nghiệp sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn.Ví dụ theo báo
cáo củangân hàng phát triển Mỹ thì 70% thiệt bị của các nước Mỹ La Tinh nhập
khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu.Cũng tương tự, các trường
hợp chuyển giao cơng nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh nghiệm kiểm tra nên đã
bị nhiều thiệt thòi.Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần phụ thuộc vào chính
sách cơng nghệ của cácnước nhận đầu tư. Chẳng hạn như Mehico có 1800 nhà
máy lắp ráp sản xuất của các công ty xuyên quốc gia của Mỹ. Một số nhà máy này
được chuyển sang Mehico để tránh những quy định chặt chẽ về môi thường ở Mỹ
và lợi dụng những khe hở của luật môi trường ở Mehico.
b) Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi thường đước chủ yếu do các cơng ty xuyên quốc
gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh
tế củanước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các
cơng ty xun qc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngồi có đóng góp phần vốn bổ
sung quantrọng cho q trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công
nghệ cho các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc
gia là những bên đối tác nươc ngồi để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các
cơng ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác.
Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tuu trực tiếp nước ngồi, thì sự phụ thuộc của

nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa
nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngồi thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh
giả tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái của người khác. Nhưng vấn đề này có xảy
ra hay khơng cịn phụ thuộc vào chính sách và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của
từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực
ban đầu của đầu tư trực tiếpnước ngoài mà nhanh chịng phát triển cơng nghệ nội
đại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ
thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ được rất
nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia.
16


c) Chi phí cho thu hút FDI và sản xuất hàng hóa khơng thích hợp.
Chi phí của việc thu hút FDI:
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu
tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các
dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà
xưởng và một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong
nước. Hay trong một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như
vậy đơi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận
được. Thế mà, các nhà đầu tưcòn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu
tố đầu vào. Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu,bán
thành phẩm, máy móc thiết bị màhọ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này
mang lại nhiều lợi ích cho các nhàđầu tư chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc
giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh
của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường. Ngược lại, điều này lại gây
chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do các
nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thơng tin, trình
độ kiểm sốt, trình độ quản lý, trình độ chun mơn yếu, hoặc các chính sách của

nướcđó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà đầu tư có thể lợi dụng được.
Sản xuất hàng hóa khơng thích hợp:
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa khơng thích hợp
cho các nước kém phát triển, thậm chí đơi khi cịn lại là những hàng hóa có hại
cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng
thuốc lá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay
thế xà phòng vv..
B. Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
17


I. Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của nước
tiếp nhận đầu tư từ thái độ phản đối, đến thái độ buộc phải chấp nhận, đến thái độ
hoan nghênh.
Trong điều kiện thế giới hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngồi được mời chào,
khuyến khích mãnh liệt. Trên thế giới thực chất diễn ra trào lưu cạnh tranh quyết
liệt trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sở dĩ hầu hết các nước đang phát triển có nhu cầu lớn về đầu tư trực tiếp nước
ngồi là vì những lý do sau:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả
những khó khăn về vốn cho cơng nghiệp hố.
Đối với các nước nghèo, vốn đuợc xem là yếu tố cơ bản,là điều kiện khởi đầu
quan trọng để thốt khỏi đói nghèo và phát triển kinh tế. Thế nhưng, đã là nước
nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy động vốn trong nước để tập trung cho các
mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị trường vốn trong nước lại chưa phát triển.
Trong điều kiện của thời kỳ đầu tiến hành cơng nghiệp hố, nhìn chung các nước
đang phát triển đều gặp rất nhiều khó khăn: mưc sống thấp, khẳ năng tích luỹ thấp,
cơ sở hạ tầng chưa phát triển, cơng nghệ kỹ thuật chưa phát triển, mức đầu tư thấp
nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để xâm nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế,

thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới…
Giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm đến với các nguồn đầu
tư quốc tế. Nhưng trong số các nguồn đầu tư quốc tế thì vốn viện trợ tuy có được
một số vốn ưu đãi nhưng lại đi kèm với một số ràng buộc về chính trị, xã hội,
thậm chí cả về qn sự. Cịn vốn vay thì thủ tục vừa khắt khe mà lại phải chịu lãi
xuất cao. Nguồn vốn đuợc đánh giá có hiệu quả nhất đối với giai đoạn đầu tiến
hành công nghiệp hoá của các nước đang phát triển là vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Khi nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư cũng đồng thời họ hoàn toàn chịu trách nhiệm
về hiệu quả của đồng vốn mà mình bỏ ra,do đó truớc khi đầu tư thì họ buộc phải
tính toán kỹ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện dự án .Hay nói cách
18


khác,các nhà đầu tư chỉ xin phép và triển khai dự án khi họ tính tốn thấy độ rủi ro
ít và khả năng thu lợi cao. Đây là ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so
với các loại vôn vay khác.
Thứ hai, Một đặc điểm tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển là sự
lạc hậu và thiếu thốn công nghệ và kỹ thuật. Thơng qua các dự ánđầu tư trực tiếp
nước ngồi, nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới,
những cơng nghê tiên tiến, góp phấn cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển
công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Đồng thời, tạo ra các điều
kiện kinh tế kỹ thuật cho việc thực hiện cuộc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng
giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Thứ ba,các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi có thể thu hút một lượng lớn
lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua
việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi, có thể làm đội ngũ cán bộ
của nước nhận đầu tư qua việc tham gia vào hoạt động của liên doanh mà trưởng
thành hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại; hình thành một
lực lượng cơng nhân kỹ thuật lành nghề; tăng nguồn thu cho ngân sách…
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngồi có các điều kiện cần thiết cho việc tạo

lập một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất cơng
nghiệp hố, tiếp cận và mở rộng được thị trường mới, tăng cường quan hệ hợp tác
kinh tế…Hình thành được các khu chế xuất, khu công nghiêp chủ lực; tạo ra các
điều kiện cơ bản cho tiến trình cơng nghiệp hố.
II. Các biện pháp khún khích đầu tư
1. Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn
Vấn đề mang tính quan trọng then chốt trong việc tổ chức nhằm thu hút FDI
là tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. Môi trường đầu tư là tổng thể các bộ phận
mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động
đầu tư. Buộc các nhà đầu tư phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và phạm vi
hoạt động cho thích hợp, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu
19


quả cao trong kinh doanh.
Người ta có thể phân loại môi trường đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau
và mỗi tiêu thức phân loại đó lại hình thành các môi trường thành phần khác nhau:
Căn cứ phạm vi không gian: có mơi trường đầu tư nội bộ doanh nghiệp, môi
trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư quốc tế.
Căn cứ vào lĩnh vực: có mơi trường chính trị, môi trường luật pháp, môi
trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội, cơ sở hạ tầng…
Căn cứ vào tính hấp dẫn: có mơi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao, mơi
trường đầu tư có tính trung bình, mơi trường đầu tư có tính cạnh tranh thấp và mơi
trường đầu tư khơng có tính cạnh tranh.
2. Đảm bảo các quyền cơ bản của nhà đầu tư.
Về quyền cơ bản và các đảm bảo cho các nàh đầu tư gồm:
Đảm bảo không tước đoạt: Đảm bảo này thông thường được quy định ở
những điều khoản đầu tiên của Luật đầu tư nước ngồi cũng như thơng qua việc
ký kết tham gia vào hiệp định đảm bảo đầu tư đa phương.
Đảm bảo cho những mất mát: Sự đảm bảo này diễn ra trong các trường hợp

sau:
 Quốc hữu hoá: Các nhà đầu tư sẽ quan tâm đến việc chính phủ một nước sẽ

có thái độ như thế nào đối với vịêc quốc hữu hoá. Tại Việt Nam, Luật qui
định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khơng bị quốc hữu hố; có
nước lại qui định rằng trong những trường hợp đặc biệt sẽ quốc hữu hố và
có khoản đền bù xứng đáng.
 Phá huỷ do chiến tranh: Thông thường những thiệt hại gây ra bởi chiến

tranh từ bên ngồi khơng được đền bù nhưng những thiệt hại tạo ra từ các
vấn đề của quốc gia đó như nổi loạn, khủng bố…thì sẽ được đền bù.
 Tính khơng chuyển đổi được của tiền tệ: Đối với đồnh tiền không chuyển

đổi được, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hướng dẫn cách cân bằng ngoại tệ
cần thiết cũng như chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ.
20


Chuyển(gửi) ngoại hối: Đối với các nhà đầu tư nước ngồi khả năng tốt nhất
vẫn là khơng có một qui định gì từ phía nước sở tại. Từ đó họ có thể chuyển các
khoản tiền về nước một cách tự do. Những khoản sau đây trong mọi trường hợp
các nhà đầu tư nước ngoài phải được chuyển về nước nếu họ muốn: lợi nhuận, các
khoản kiếm được khác, lợi tức đầu tư, vốn đầu tư, gốc và lãi của các khoản vay
nước ngoài , lương cho nhân viên nước ngoài, tiền bản quyền, phí kỹ thuật…
3. Chiến lược bảo hộ và các ưu tiên dành cho các nhà đầu tư và người nước
ngoài.
Bao gồm các vấn đề sau:
Việc tuyển dụng người nước ngoài: Việc tuyển dụng người nước ngoài là
đảm bảo lợi ích cho các bên đầu tư. Một số quy định mà các nước thường sử dụng
để qui định để qui định việc tuyển dụng người nước ngoài như:

 Qui định tổng số lao động nước ngồi khơng được vượt quá một mức qui

định nào đó.
 Ban hành các thể cư trú cho lao động nước ngoài hay thẻ lao động nước

ngoài cũng như những quy định về đối tượng bắt buộc phải có các thẻ đó
mới được làm việc ở nước sở tại.
 Quy định những nghành nghề cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài.

Quy định việc thết kế các chương trình đào tạo để thay thế lao động nước
ngoài bằng các lao động trong nước.
Quyền sở hữu trí tuệ: Sự đảm bảo quyền sở hữu về sáng chế, nhãn hiệu
thương mại cũng là một điều kiện kích thích các nhà đầu tư.
Sự ưu tiên với các nhà đầu tư chính phủ: Các khoản vay hay nguồn trợ giúp
từ phía chính phủ được coi là một trong những động lực khuyến khích đầu tư .
Đảm bảo cho một mơi trường cạnh tranh bình đẳng : Các nhà đầu tư mong
muốn việc đảm bảo cho một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư
trong nước với nước ngoài, giữa các nhà đầu tư nước ngồi với nhau, giữa khu vực
tư nhân và cơng cộng.Bao gồm:
21


 Cạnh tranh nhập khẩu: Chính sách nhập khẩu của nước sở tại cần phù hợp

và tạo điều kiện cho chính sách cơng nghiệp của nước đó phát triển. Các
hàng hoá sản xuất trong nước thuộc những ngành đườc coi là non trẻ nên có
một thời gian được bảo hộ để cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu.
 Cạnh tranh Chính Phủ: Các chương trình của Chính phủ về hỗ trợ các

doanh nghiệp Nhà nước không được vi phạm tính cạnh tranh. Điều này địi

hỏi Nhà nước phải phân biệt rõ ràng những ưu đãi dành cho từng khu vực.
Khu vực công cộng không được phép xâm phạm khu vực tư nhân.
 Cạnh tranh nội địa thông qua việc đánh thuế từ các hàng rào chắn thâm

nhập vào ngành công nghiệp.Điều này liên quan đến việc tạo ra sự cạnh
tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngồi và các nhà đầu tư trong
nước.
4. Sở hữu bất động sản của các nhà đầu tư nước ngồi
Đây cũng có thể coi là một trong những khuyến khích đầu tư , bởi vì nó làm
cho các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng cào khẳ năng ổn định của khoản đầu tư
cũng như những quyền khác. Nói chung, đối với các nhà đầu tư thì thuận lợi nhất
vẫn là đuợc sở hữu bất động sản. Nếu việc sở hữu bất động sản khơng được luật
pháp cho phép thì các nhà đầu tư đòi hỏi phải được sử dụng bất động sản trong
một thời gian hợp lý.
5. Miễn giảm thuế
Miễn thuế vốn: Chính phủ khơng thu thuế trên các khoản chuyển nhượng hay
phần kiếm được từ cổ phiếu.
Miễn giảm thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp: Sau khi kinh doanh có lãi,
trong một thời gian các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi không phải nộp thuế. Sau
một thời gian miễn thuế, các nước tiến hành giảm thuế.
Miễn giảm các loại thuế thu nhập khác: Chính phủ cho phép các nhà đầu tư
không phải nộp các khoản thuế địa phương như thuế doanh thu, lợi tức.Ngành
22


được miễn giảm có thể là ngành định hướng xuất khẩu, hay ngành thu về nhiều
ngoại tệ cho đất nước.
Miễn giảm thuế hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu (vốn): Chính phủ khơng thu
thuế nhập khẩu tư liệu sản xuất (bao gồm máy móc và các linh kiện, phụ tùng thay
thế, nguyên nhiên vật liệu) phục vụ các ngành khuyến khích như ngành hướng vào

xuất khẩu, hay các ngành thực hiện chiến lược hố cơng nghiệp đất nước, các dự
án khuyến khích đầu tư.
Miễn thuế bản quyền. Việc miễn thuế bản quyền nhằm khuyến khích các nhà
đầu tư nước ngồi chuyển giao công nghệ vào nước sở tại. Tuy nhiên các Chính
phủ cũng cân nhắc xem nên miễn thuế bản quyền trong suốt thời gian hợp đồng
hay chỉ miễn thuế cho một số năm.
Miễn các loại thuế và chi phí khác: Các loại thuế và chi phí khác đựơc miễn
bao gồm nhiều dạng như thuế thu nhập cá nhân đối với chuyên gia kỹ thuật nước
ngoài làm việc trong các khu vực được ưu tiên; các khoản thuế doanh thu hay các
mức thuế đặc biệt khi mới khởi sự kinh doanh…Việc ký kết các hiệp định tránh
đánh thuế hai lần cũng là một khuyến khích đối với các nhà đầu tư bởi vì nó miễn
trừ việc nộp thuế thu nhập cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.
Trong một số dự án khuyến khích đầu tư, các nhà đầu tư còn được hưởng ưu đãi
về giá cho th đất và các chi phí khác trong q trình triển khai và vận hành dự
án.
6. Những khoản trợ cấp của chính phủ
Các chi phí tổ chức và tiền vận hành. Chính phủ nước sở tại có thể cho phép
tính này vào chi phí của dự án trong một thời gian nhất định.
Tái đầu tư: Nếu dùng lợi nhuận để tái đầu tư thì sẽ được hưởng những ưu đãi
nhất định.
Trợ cấp đầu tư: Là cho phép một tỷ nhất định của khoản vốn đầu tư không
phải chịu những nghĩa vụ về đầu tư trong khoảng thời gian nhất định.
Các khoản khấu trừ khác: Các khoản khấu trừ này có thể tồn tại dưới có
23


những quy định đặc biệt đối với một số ngành như cho phép được miễn trừ gấp 2
lần về giá trị cũng như về mặt thời gian ban hành những quy định ưu đãi chỉ riêng
cho một dự án nào đó.
Tín dụng thuế đầu tư: Đây thực chất là biện pháp mà chính phủ sử dụng

nhằm khuyến khích và cũng để giúp các nhà đầu tư tăng vốn đầu tư như trợ cấp
đầu tư, trả lại những nghĩa vụ về thuế đã phải nộp cho nhà đầu tư nếu nhà đầu tư
phải tái đầu tư
Các khoản tín dụng thuế khác: Để khuyến khích các nhà đầu tư, một khoản
thu nhập có nguồn gốc từ nước ngồi mà đã chịu thuế ở nước ngồi có thể được
đưa vào để xin miễn giảm ở trong nước có thể sử dụng như những khoản tín dụng
đầu tư
7. Các khuyến khích đặc biệt
Đối với các công ty đa quốc gia :
Các công ty này là một nguồn cung cấp vốn đầu tư lớn trên thế giới nên việc
có những khuyến khích đặc biệt với các công ty đa quốc gia là cần thiết .Tuy nhiên
các chính phủ phải cân nhắc xem nên thực hiện những khuyến khích đặc biệt đó
như thế nào để vẫn đảm bảo nguyên tắc “ sân chơi bình đẳng ”
Một sồ trường hợp đã sử dụng các khuyến khích đặc biệt :
 Coi những công ty đa quốc gia như những cơng ty được ghi tên ở thị trường

chứng khốn và cho hưởng những ưu đãi tương tự
 Cho phép các công ty đa quốc gia được thành lập các cơng ty cổ phần
 Khuyến khích các cơng ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ và thực hiện

mua sắm trong nội bộ hãng cũng như khuyến khích việc thiết lập các trụ sở
chính bằng việc cho phép thành lập các trung tâm mua sắm của công ty đa
quốc gia đó ở nước sở tại và đơn giản hố các thủ tục hải quan , các đòi hỏi
về quản lý ngoại hối , đăng ký làm thẻ cho nhân viên …Việc thành lập các
khu chế xuất , khu công nghệ cao , khu công nghệ tập trung cũng là một
biện pháp khuyến khích các cơng ty đa quốc gia hoạt động ở nước sở tại
24


Đối với các cơ quan tài chính hải ngoại .Việc khuyến khích thành lập các

cơng ty này cũng có nghĩa là khuyến khích các doanh nghiệp nước ngồi đầu tư
vào sở tại .Do đó chính phủ nước sở tại có xu hướng miễn giảm các khoản thuế và
nghĩa vụ tài chính cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của
các cơ quan tài chính hải ngoại .
8. Các luật tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài
Đây là những qui định riêng nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước
ngồi tiến hành cơng việc kinh doanh ở nước sở tại . Nhóm này bao gồm những
khuyến khích phi tài chính như cho phép tuyể dụng nhân cơng nước ngồi khơng
hạn chế ,đảm bảo việc chuyển nhược và hồi hương của vốn và lợi nhuận ; ký kết
các hiệp định ; sự cho phép bán hàng tiêu dùng đến người tiêu dùng cuối cùng
không phải thông qua các đại lý hay công ty thương mại, sở hữu đất đai .

C. FDI trong chiến lược phát triển kinh kế Việt Nam:
I. Sự phát triển của FDI ở Việt Nam trong thời kì đổi mới:
1. Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam:
Đảng và nhà nước ta đã xác định vốn trong nước mang tính quyết định cịn
vốn nước ngồi là quan trọng. Do đó Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm tới
FDI, hình thức này rất quan trọng. Điều đó thể hiện ở chỗ:
FDI giúp thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế của đất nước. Để
đạt được những chỉ tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới
thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đạt trên 7%, và nhu cầu về vốn đầu
tư có từ 4,2 tỷ USD trở lên cho mỗi năm(tức là tích luỹ hàng năm phải đạt 22%
thu nhập quốc dân). Đây là con số không nhỏ đối với nền kinh tế nước ta, cho nên
FDI là nguồn bổ xung quan trọng để phát triển kinh tế ở Việt Nam.
FDI đem lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng những doanh
nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội
25



×