Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực trạng áp dụng và giải pháp phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.09 KB, 23 trang )

Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC
DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

BỘ MÔN: KINH TẾ QUỐC TẾ

Đề tài:
Thực trạng áp dụng và giải pháp phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
tại Việt Nam

Giáo viên hướng
dẫn :

TS. Đỗ Thị Hương

Sinh viên thực
hiện :

Phạm Thị Ngọc Anh

Mã sinh viên
:

CQ528024

Lớp
:

Kinh tế quốc tế E


Khóa
:

52

Hệ
:

Chính quy


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:

Ngày 7/11/2006 chính thức đánh dấu bước ngoặt lớn với nền kinh tế Việt Nam,
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thiết lập quan hệ kinh tế với hơn 150 quốc gia trên
thế giới: Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Theo đó, quá trình hội
nhập thương mại của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới ngày càng sâu, rộng hơn.
Các quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế phải tự khẳng định vị thế của
mình
trong cuộc cạnh tranh có tính quốc tế ngày càng diễn ra gay gắt với các công ty và
doanh nghiệp nước ngoài. Trong bối cảnh đó, nhu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu
đối với các doanh nghiệp là tất yếu. Đồng nghĩa với Doanh nghiệp Việt Nam phải đối
mặt với sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Đây là một khó khăn rất lớn đè
nặng lên vai các doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ- năng lực
về kĩ thuật, vốn và công nghệ chưa cao.

Do vậy, việc tìm và áp dụng công cụ hỗ trợ doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro
trong hoạt động thương mại quốc tế là rất cần thiết. Nhưng làm thế nào, hỗ trợ ra sao để
không vi phạm các quy tắc của WTO? Và một trong những hình thức hỗ trợ được rất
nhiều quốc gia áp dụng đó là “ Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu”.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã xuất hiện và được áp dụng phổ biến ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là châu Âu. Tuy nhiên ở Việt Nam hình thức này còn khá
mới mẻ và lạ lẫm với doanh nghiệp xuất khẩu. Được áp dụng thí điểm ở một số doanh
nghiệp bảo hiểm uy tín như Bảo Việt, Bảo Minh, PVI….từ năm 2010, đến nay, bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu vẫn là một hình thức hỗ trợ mà doanh nghiệp xuất khẩu còn ít được
tiếp cận.


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

Xuất phát từ nhu cầu đó, đề tài: “ Thực trạng áp dụng và giải pháp phát triển bảo
hiểm tín dụng tại Việt Nam” đã được lựa chọn nghiên cứu.
Với đề tài trên, em mong rằng bài nghiên cứu có thể đưa ra được tổng quan thực
trạng áp dụng “bảo hiểm tín dụng xuất khẩu” trong doanh nghiệp xuất khẩu cũng như tại
các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay. Đồng thời, đưa ra một số các giải pháp nhằm thúc
đẩy sự phát triển của công cụ hỗ trợ này, đem lại cho doanh nghiệp những lợi thế nhất
định khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ được khái niệm của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và vai trò của nó
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam và

đưa ra một giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ này
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất
-


khẩu tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu tại Việt Nam trong giai đoạn 2010 đến 2012.

4.

Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam
trong giai đoạn 2010- 2012
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại
Việt Nam đến năm 2020


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN
DỤNG XUẤT KHẨU
1.1. Tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm và phân loại tín dụng xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng xuất khẩu
1.1.1.2. Phân loại tín dụng xuất khẩu
1.1.2. Tổng quan về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.2.1. Khái niệm, vai trò của bảo hiểm
1.1.2.2.Khái niệm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.2.3. Một số nguyên tắc thực hiện bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.3.1. Giúp các nhà doanh nghiệp an tâm hơn trước các rủi ro

1.1.3.2. Phát triển được các hoạt động tín dụng xuất khẩu an toàn và có hiệu quả,
giải quyết một phần vấn đề thúc đẩy xuất khẩu
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.2.1. Nhân tố vĩ mô
1.2.2. Nhân tố vi mô
1.3. Kinh nghiệm của Mỹ trong việc phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu và bài học cho Việt Nam
1.3.1. Khái quát chung
1.3.2. Chương trình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN
DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 20102012
2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

2.1.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 đến hết 2012
2.1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động tín dụng xuất khẩu của
Việt Nam, giai đoạn 2010- 2012
2.1.2.1. Về năng lực sản xuất hàng xuất khẩu
2.1.2.2. Về hoạt động xuất khẩu
2.1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
2.2. Thực trạng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam giai đoạn 20102012
2.2.1. Môi trường pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt
Nam
2.2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
tại Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu

2.2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
2.3. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại
Việt Nam, giai đoạn 2010- 2012

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO
HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1. Giải pháp vĩ mô
3.2. Giải pháp vi mô
3.2.1. Giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu
3.2.2. Giải pháp cho các nhà cung cấp dịch vụ
KẾT LUẬN


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN
DỤNG XUẤT KHẨU
1.1. Tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm và phân loại tín dụng xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng xuất khẩu:
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyển sử dụng vốn từ người cho vay sang
người đi vay trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định (được
gọi là lãi vay).
“Tín dụng xuất khẩu” là khoản tín dụng dùng để hỗ trợ cho hoạt động xuất
khẩu, cụ thể là khoản tín dụng của người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu hoặc
khoản cho vay trung và dài hạn mà ngân hàng dùng để tài trợ cho các dự án và cung
cấp vốn cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa.

1.1.1.2. Phân loại tín dụng xuất khẩu:
a. Căn cứ vảo chủ thể cấp tín dụng xuất khẩu:

*) Nhà nước cấp tín dụng:
Tín dụng xuất khẩu do nhà nước cấp được chia thành 2 loại:
-

Nhà nước cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trong nước
Nhà nước cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu nước ngoài

*) Ngân hàng cấp tín dụng:
Đây là công cụ giúp ngân hàng có thể cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn
trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng, chủ yếu dưới hai hình thức chiết khấu
các giấy tờ có giá hoặc tạm ứng theo chứng từ hàng hóa.
Trên cơ sở đó, nhà xuất khẩu có thể nhận bộ chứng từ hàng hóa có kèm hối phiếu
chấp nhận trả tiền của nhà nhập khẩu. Ngân hàng sẽ là người đứng ra nhận trách
nhiệm thu tiền của hai bên nhập khẩu và xuất khẩu và rủi ro trong thanh toán của
hai bên giảm đi đáng kể.


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

*) Tín dụng do nhà xuất khẩu cấp:
Tín dụng do nhà xuất khẩu cấp có thể hiểu là tín dụng dưới hình thức nhà xuất
khẩu bán chịu, nhà nhập khẩu trả chậm với lãi suất ưu đãi mà người xuất khẩu dành
cho người nhập khẩu.
*) Tín dụng do nhà nhập khẩu cấp:
Tín dụng do nhà nhập khẩu cấp được hiểu là nhà nhập khẩu phải trả cho nhà
xuất khẩu toàn bộ hoặc một phần tiền hàng trước khi nhà xuất khẩu chuyển giao
hàng hoá dưới quyền định đoạt của người nhập khẩu hoặc trong khoảng thời gian
nhà xuất khẩu chấp nhận đơn hàng cho đến trước khi nhà xuất khẩu thực hiện đơn
hàng của nhà nhập khẩu.
Do được cấp tín dụng nên vị thế tài chính của nhà xuất khẩu được củng cố và

nhà xuất khẩu chắc chắn sẽ bán được hàng.
b. Căn cứ và quy trình xuất khẩu:
*) Tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng ( trước khi xuất khẩu)
Loại tín dụng này cần cho người xuất khẩu để đảm bảo các khoản chi phí sau:
-

Mua nguyên vật liệu
Sản xuất hàng xuất khẩu
Sản xuất bao bì cho xuất khẩu
Chi phí vận chuyển, bốc xếp hàng hóa
Trả tiền cước phí bảo hiểm, thuế…

Lãi xuất tín dụng xuất khẩu là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh
của hàng hóa xuất khẩu. Vì vậy, các quốc gia thường cấp tín dụng xuất khẩu với mức ưu
đãi để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Tuy nhiên, biện pháp này hiện nay
không được áp dụng do mức độ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng cao, các quốc gia
tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO) đều phải tuân thủ theo quy tắc
không được áp dụng biện pháp ưu đãi tín dụng nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp trong nước.
*) Tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng:
Đây là loại tín dụng do ngân hàng cấp dưới hình thức mua (chiết khấu) hối
phiếu xuất khẩu hoặc bằng cách tạm ứng theo các chứng từ hàng hoá. Loại hối


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

phiếu này cùng với các điều kiện thanh toán do người xuất khẩu và nhập khẩu thoả
thuận là những cơ sở quan trọng để ngân hàng cấp tín dụng sau khi giao hàng. Tín
dụng sau khi giao hàng thường được vay cho các khoản tín dụng trước khi giao
hàng. Mặt khác, nó còn được vay cho các khoản tiền thuế sẽ được hoàn lại trong

tương lai cho người xuất khẩu.
c. Căn cứ vào sự đảm bảo:
*) Tín dụng xuất khẩu có đảm bảo:
Là hình thức cấp tín dụng nhằm phục vụ, liên quan đến hoạt động xuất khẩu
dựa trên cơ sở các đảm bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của
một bên thứ ba nào khác, có thể là ngân hàng hoặc Nhà nước. Nếu xảy ra rủi ro đối
với khoản tín dụng trên thì bên thứ ba sẽ phải chịu trách nhiệm.
*) Tín dụng xuất khẩu không đảm bảo:
Là hình thức cấp tín dụng có liên quan hoặc nhằm phục vụ hoạt động xuất
khẩu mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba và chỉ dựa
vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.

1.1.2. Tổng quan về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.2.1 Khái niệm, vai trò của bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ gặp
phải rủi ro bất ngờ xảy ra, ảnh hưởng đến tình hình tài chính cũng như ảnh hưởng
đến đời sống của mỗi cá nhân.
Rủi ro luôn xảy ra một cách bất ngờ, và gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Con người không thể loại trừ được hoàn toàn rủi ro, mà chỉ có thể dự đoán và đưa
ra các biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tác động xấu và thiệt hại gây ra bởi rủi
ro.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp đối phó như:
Tránh né rủi ro: Ví dụ: để tránh tai nạn giao thông, hạn chế đi lại; tránh tai
nạn lao động, người ta chọn những nghề không nguy hiểm…
Ngăn ngừa tổn thất: tức là đưa ra các hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024


giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ: phòng chống hoả hoạn, người ta thực
hiện tốt phòng cháy chữa cháy; phòng tránh tai nạn, tham gia giao thông phải đúng
luật…
Chấp nhận rủi ro chủ động bằng cách lập quỹ dự phòng tài chính như tích luỹ
để dành (tiết kiệm). Tuy nhiên giải pháp này chỉ áp dụng đối với những người có
thu nhập cao và khả năng tích luỹ lớn, thường chỉ đáp ứng được những thiệt hại tài
chính có quy mô nhỏ vì yêu cầu về chi phí để lập quỹ dự phòng rất lớn, thường
chiếm khoảng 70-80% giá trị tổn thất dự tính.
Tương trợ nhau: Hình thức này ban đầu được hình thành một cách tự phát, sau
này phát triển dần lên thành các tổ chức có quy định và quản lý chặt chẽ được gọi là
hội tương hỗ. Đây chính là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Như vậy, đứng trên góc độ tài chính, bảo hiểm là hệ thống các quan hệ phân
phối theo nguyên tắc hoàn trả có điều kiện và không tương đương giữa những người góp
vốn thành lập quỹ dự phòng chung (hay còn gọi là quỹ bảo hiểm) nhằm mục đích
khắc phục hậu quả của những rủi ro bất ngờ, từ đó ổn định kinh doanh và đời sống.
Đứng dưới góc độ pháp lý: Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người
được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền cho chính mình hoặc cho một người thứ ba
khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên
khác là ngươi được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù
những thiệt hại theo Luật thống kê.
Dưới góc độ kinh doanh của một doanh nghiệp bảo hiểm: Bảo hiểm là một cơ chế,
theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho
công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.
Với cơ chế hoạt động là tạo ra một “sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh
của số ít” trên cơ sở quy tụ nhiều người có cũng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán
hậu quả tài chính của những tổn thất, hoạt động bảo hiểm luôn gắn chặt, xoay quanh
việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm. Nguồn thu hình thành quỹ bảo hiểm càng



Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

lớn khi số lượng người tham gia bảo hiểm càng đông. Số người tham gia bảo hiểm lớn
hơn rất nhiều so với số người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro.
Quỹ bảo hiểm trước hết và chủ yếu được sử dụng để bù đắp những tổn thất cho
người được bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro được bảo hiểm. Ngoài ra, quỹ bảo hiểm còn
được sử dụng để trang trải cho một số chi phí khác. Đối với người tham gia gặp phải rủi
ro thì phí bảo hiểm nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường.
Vai trò của bảo hiểm là hết sức to lớn đối với sự ổn định và phát triển của nền
kinh tế, xã hội. Bảo hiểm có nhiều lợi ích khác nhau, trong đó phải kể đến những tác
dụng quan trọng sau đây:
Ổn định kinh doanh và đời sống bằng cách hạn chế rủi ro và mức độ tổn
thất xảy ra: Bảo hiểm bồi thường những thiệt hại về tài chính do rủi ro bất ngờ gây nên.
Từ đó giúp mỗi cá nhân, mỗi tổ chức hay doanh nghiệp khôi phục lại điều kiện kinh tế
ban đầu, ổn định sản xuất kinh doanh và chính sự ổn định của mỗi cá nhân, mỗi tổ
chức sẽ tạo ra sự ổn định chung cho toàn xã hội. Đây có thể coi là vai trò quan trọng
nhất của bảo hiểm xét trên phạm vi vĩ mô của nền kinh tế. Các công ty bảo hiểm sẵn
sàng thanh toán các chi phí hợp lý đối với người thứ ba tham gia hạn chế tổn thất, vì
vậy sẽ khuyến khích mọi người tích cực tham gia cứu chữa, do đó sẽ hạn chế được tổn
thất có thể xảy ra.
Góp phần tăng tỷ lệ tiết kiệm trong xã hội và phát triển thị trường tài chính, đặc
biệt là thị trường chứng khoán: Đứng trên góc độ của toàn nền kinh tế quốc dân, mỗi
một cá nhân hay tổ chức khi tham gia bảo hiểm cũng có nghĩa đã thực hiện tiết kiệm để
tăng tích luỹ vốn đầu tư phát triển nền kinh tế. Với việc thu phí bảo hiểm theo
nguyên tắc ứng trước, các công ty bảo hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi rất lớn của người tham gia bảo hiểm, thể hiện cam kết của họ đối với người tham gia
bảo hiểm này. Do vậy, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng số
tiền nhàn rỗi này đầu tư sinh lời mua trái phiếu, cổ phiếu, gửi tại ngân hàng hoặc
đầu tư vào thị trường bất động sản. Hiện nay trong số các tổ chức trung gian tài
chính, bảo hiểm chỉ đứng vị trí thứ 2 sau các ngân hàng thương mại trong việc huy động

3

và cung cấp vốn cho thị trường tài chính .


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

Tiết kiệm chi, tăng thu Ngân sách Nhà nước: Trước những tổn thất do thiên tai
hoặc những rủi ro gây ra trên phạm vi diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định
kinh tế xã hội, các công ty bảo hiểm sẽ gánh bớt cho Ngân sách Nhà nước những
khoản chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia bảo hiểm trong trường hợp gặp phải rủi ro.
Bên cạnh đó, xét trên phạm vi của một quốc gia, khi bảo hiểm cung cấp dịch vụ cho các
công ty đầu tư nước ngoài hay thực hiện bảo hiểm ra nước ngoài (xuất khẩu bảo
hiểm) cũng có nghĩa là bảo hiểm góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước.

1.1.2.2.Khái niệm và phân loại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
Để đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro và những tác động xấu của nó đến hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như sự ổn định tài chính cho các doanh nghiệp, bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu đã ra đời với ý nghĩa ban đầu là loại hình bảo hiểm nhằm bồi
thường cho nhà xuất khẩu (ngân hàng nhà xuất khẩu) trước rủi ro khi nhà nhập khẩu
(ngân hàng nhà nhập khẩu) không thanh toán khoản nợ cho nhà xuất khẩu (ngân hàng
nhà xuất khẩu). Sau này, khi thị trường phát triển, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là loại
hình bảo hiểm nhằm cung cấp bồi thường tài chính về các khoản nợ khó đòi theo các
hợp đồng mua bán, xuất nhập khẩu phát sinh do các rủi ro thương mại hoặc rủi ro chính
trị trong giao dịch thương mại quốc tế.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có vai trò là một công cụ hỗ trợ, thúc đẩy xuất
khẩu thông qua việc bảo vệ và bồi thường cho người xuất khẩu khi họ cấp tín dụng
thương mại cho nhà nhập khẩu nước ngoài hoặc bảo vệ và bồi thường cho các ngân
hàng khi ngân hàng cho vay trung hoặc dài hạn nhằm phục vụ các hoạt động liên
quan đến xuất khẩu.

Nói cách khác, mục đích của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là giúp các doanh
nghiệp cũng như ngân hàng cấp tín dụng tránh được các rủi ro xảy ra đối với khoản tín
dụng. Có hai loại rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng:
Rủi ro kinh tế (hay còn gọi là rủi ro thương mại): khả năng tài chính của người
mua không đủ để thanh toán tín dụng (phá sản, thua lỗ kéo dài…);
Rủi ro chính trị: những sự kiện xảy ra ngòai khả năng tài chính khiến cho người
mua không thể thanh toán được khoản tín dụng (chiến tranh, khủng bố, đình công…)


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được khuyến khích sử dụng cho những hợp đồng chấp
nhận phương thức thanh toán ghi sổ hoặc trả chậm, và các hoạt động tài trợ vốn lưu
động xuất khẩu.
Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bao gồm các khiếu nại tổn thất
do không thanh toán những khoản phải thu, phát sinh từ hoạt động buôn bán hoặc
những khoản cho vay trung - dài hạn khi có các rủi ro chính trị hay kinh tế như đã trình
bày ở trên.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được chia thành 2 loại:
Ngắn hạn: có thời hạn 12 tháng, là loại bảo hiểm cam kết bù đắp một tỷ lệ phần
trăm nhất định giá trị hóa đơn khi xảy ra rủi ro kinh tế hoặc chính trị dẫn đến việc
người mua không trả được tiền. Phần trăm bù đắp rủi ro thường dao động từ
80-95% tùy theo từng đối tượng cung cấp bảo hiểm (các công ty bảo hiểm tư nhân hoặc
các ngân hàng xuất nhập khẩu của từng quốc gia).
Trung – dài hạn: bù đắp một tỷ lệ phần trăm nhất định giá trị hợp đồng ròng,
thường đối với những hợp đồng máy móc hoặc vốn lớn có thời hạn trên 1 năm đến 10
năm, tùy quy định của từng công ty cung cấp bảo hiểm.

1.1.2.3. Một số nguyên tắc thực hiện bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hoạt động dựa trên các nguyên tắc sau:

a. Nguyên tắc hoạt động
Nguyên lý cơ bản của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được thể hiện qua các điểm:
- Hòa vốn (dài hạn), chỉ hỗ trợ những đối tượng có khả năng đảm bảo hoàn trả
hợp lý;
- Chia sẻ rủi ro; hỗ trợ tài chính cho khối doanh nghiệp tư nhân; hình thành tập
quán kinh doanh tốt (trên cơ sở môi trường kinh doanh thân thiện, lành mạnh);
- Quá trình giải quyết khiếu nại minh bạch, công bằng; hạn chế rủi ro thông qua
hoạt động tái bảo hiểm và/ hoặc đồng bảo hiểm.
b. Nguyên tắc bồi thường
Trong hầu hết các hệ thống bảo hiểm tín dụng, người mua bảo hiểm (người
xuất khẩu) sẽ được hưởng quyền lợi theo những điều khoản đã đặt ra trong trường hợp


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

việc thanh toán bị chậm trễ hoặc bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán. Một hợp
đồng được coi là không thể thanh toán nếu như bên mua thanh toán muộn hơn hoặc
không thể thanh toán sau một thời gian đã được quy định trong bảo hiểm. Khoảng thời
gian này được tạm gọi là thời gian chờ. Thông thường thời gian chờ kéo dài 6 tháng
sau ngày hết hạn hóa đơn.
Mặt khác, thông thường do tỷ lệ bảo hiểm thấp hơn 100% nên người mua bảo hiểm
vẫn phải chịu một phần rủi ro phát sinh, đôi khi yêu cầu bồi thường bị khước từ khi
không thích ứng được với những yêu cầu cụ thể trong quy định hợp đồng bảo hiểm.
Ưu điểm của nguyên tắc này là giảm rủi ro khi người nhập khẩu không thanh toán,
đảm bảo sự chủ động và yên tâm của người xuất khẩu trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình đồng thời giúp tăng độ an toàn của phương thức thanh toán ghi sổ/trả
chậm trên thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, nguyên tắc bồi thường cũng có một số hạn chế như: doanh nghiệp phải
chịu chi phí để mở và duy trì bảo hiểm; tỷ lệ bảo hiểm thường dưới 100% nên rủi ro
không được phòng vệ hoàn toàn và đòi hỏi vốn lớn và quy trình kỹ thuật khá phức tạp.

c. Nguyên tắc tính phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm được xác định dựa trên nguyên tắc: mức phí sẽ được xác định
dựa trên mức độ rủi ro của khả năng thanh toán. Khả năng xảy ra rủi ro càng lớn thì phí
bảo hiểm sẽ càng cao.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm:
Tình hình nước nhập khẩu: nước nào có môi trường càng ổn định thì mức phí
càng thấp. Ngược lại với những nước có tình hình chính trị bất ổn thì mức phí bảo
hiểm sẽ tăng lên;
Phương thức thanh toán: Rủi ro tăng dần theo thứ tự: L/C, D/P, D/A, tương ứng
mức phí bảo hiểm tăng dần;
Thời hạn thanh toán: Thời hạn càng dài thì khả năng rủi ro càng lớn, phí bảo
hiểm càng cao;
Mức độ bồi thường so với giá trị hợp đồng mua bán: mức độ càng cao thì phí
càng lớn.


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

1.1.3. Vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.1.3.1. Giúp các nhà doanh nghiệp an tâm hơn trước các rủi ro
Trước tình hình nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam rất cần có sự bảo trợ nhằm giảm thiểu
những rủi ro mà họ có thể gặp. Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu như: hỗ trợ xúc tiến
thương mại, hỗ trợ về xây dựng thương hiệu, hỗ trợ tín dụng đầu tư và tín dụng xuất
khẩu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong việc phát triển các mặt
hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, việc ra nhập WTO
vào đầu năm 2007 đã làm hạn chế tác dụng cũng như phạm vi sử dụng của
các biện pháp trên. Sự xuất hiện của hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã đáp
ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đầu tư, đồng
thời bảo hiểm cho các loại rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải, đặc biệt là những rủi ro về

tài chính.
Với ưu điểm hạn chế rủi ro, đảm bảo tính chủ động và bảo vệ tài chính cho các
nhà xuất khẩu như được trình bày ở trên, hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn
được đánh giá là một trong những biện pháp khuyến khích xuất khẩu có tác dụng rõ nét
nhất trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia nói riêng và kinh tế quốc tế nói
chung thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Có thể lấy cao su là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo
của nước ta làm ví dụ điển hình cho mô hình gây quỹ và thành lập quỹ bảo hiểm xuất
khẩu nói trên nhằm giúp các doanh nghiệp tham gia hạn chế được rủi ro và bảo đảm tài
chính trong quá trình mua bán quốc tế. Trước tình hình giá cả thường xuyên biến động
lớn, nhằm giúp hội viên giảm thiểu rủi ro về giá, Hiệp hội cao su Việt Nam đã thành
lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng cao su từ tháng 12/2006.
Nguồn thu của Quỹ là từ 1% doanh thu xuất khẩu của các hội viên tham gia
5

vào Quỹ. Quỹ đã thu được 56 tỷ đồng năm 2008 và dự kiến năm 2009 là 62 tỷ đồng .
Mục đích của Quỹ là khắc phục, hạn chế rủi ro trong xuất khẩu cao su do thay đổi giá,
thị trường mới chưa ổn định, rủi ro trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu đồng thời


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

hỗ trợ cho hội viên vay trung và ngắn hạn để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu cao su,
cũng như hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện nay, ngành cao su có khoảng 100
doanh nghiệp xuất khẩu đến hơn 45 quốc gia, trong đó có 10 doanh nghiệp xuất khẩu
lớn. Trong tương lai, sản lượng cao su Việt Nam xuất khẩu được dự kiến tăng gấp đôi,
từ 600-700 ngàn tấn lên đến 1-1.2 triệu tấn vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu
nhu cầu mở rộng thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống, tiếp cận nguồn khách
hàng tiềm năng, ngành cao su cần áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vì đây là hình
thức khuyến khích các nhà nhập khẩu nước ngoài mua sản phẩm Việt Nam khi Việt

Nam muốn giới thiệu sản phẩm vào thị trường mới.
Như vậy có thể thấy ngoài vai trò cơ bản nhất là hạn chế rủi ro thanh toán
trong quá trình xuất nhập khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn đóng vai trò quan
trọng trong quá trình giảm thiểu rủi ro về vốn cho các nhà đầu tư, cũng như các
doanh nghiệp xuất khẩu.

1.1.3.2. Phát triển được các hoạt động tín dụng xuất khẩu an toàn và có hiệu quả,
giải quyết một phần vấn đề thúc đẩy xuất khẩu
Trước hết, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn tín dụng. Từ trước đến nay, vốn luôn là một
trong những trở ngại, cản trở các doanh nghiệp Việt Nam trong qúa trình thâm nhập thị
trường quốc tế. Thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp có nguồn vốn lớn nhưng lại
không biết tận dụng trong khi không ít trường hợp các nhà xuất khẩu Việt Nam phải từ
chối những hợp đồng quý giá chỉ vì không đủ vốn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau, bất kể là trong hay ngoài nước.
Trong khi đó, khi áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các nhà xuất khẩu Việt Nam
sẽ không chỉ được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng hết sức phong phú từ nước ngoài
thông qua những hợp đồng có giá trị kí kết với đối tác nước ngoài, mà còn có thể tăng
nhanh vòng quay vốn, qua đó nắm bắt những cơ hội đầu tư cũng như tăng cường khả
năng tiếp cận những thị trường thương mại tiềm năng lớn đang trên đà phát triển trong
khu vực cũng như trên thế giới.
Bảo hiểm tín dụng ra đời khiến các doanh nghiệp an tâm với các rủi ro, đồng thời


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

các ngân hàng cũng có thể an tâm khi mà các khoản cho vay của họ có thể chắc chắn thu
hồi lại được thông qua công ty bảo hiểm thì hoạt động tín dụng xuất khẩu cũng sẽ được
thực hiện một cách an toàn hơn. Yếu tố an toàn sẽ làm nên sự hiệu quả của hoạt động cho
vay tín dụng phục vụ cho xuất khẩu, các doanh nghiệp thật sự có nhu cầu về vốn để kinh

doanh mới thực hiện hoạt động bảo lãnh cho khoản vay và có thể hạn chế được rủi ro
thanh toán trong quá trình xuất nhập khẩu. Vì vậy, vốn vay sẽ đến được với những doanh
nghiệp thiếu và cần vốn, thu hẹp được phạm vi doanh nghiệp vay vốn tín dụng, giảm
thiểu được vấn đề nợ xấu cũng như vay vốn nhằm mục đích khác không phải phục vụ cho
hoạt động kinh doanh  hiệu quả cho vay và thu hồi vốn được nâng cao.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một hình thức hỗ trợ cho doanh nghiệp của chính
phủ, nó thay thế cho các hoạt động cho vay tín dụng ưu đãi hay trợ cấp xuất khẩu. Biện
pháp này được sự cho phép của Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO), nhằm giải quyết
một phần vấn đề thúc đẩy xuất khẩu bên cạnh các biện pháp như xúc tiến thương mai, tự
do hóa thương mại thông qua cắt giảm thuế quan… Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn tín dụng. Từ
trước đến nay, vốn luôn là một trong những trở ngại, cản trở các doanh nghiệp Việt
Nam trong qúa trình thâm nhập thị trường quốc tế. Thực tế cho thấy, không ít doanh
nghiệp có nguồn vốn lớn nhưng lại không biết tận dụng trong khi không ít trường hợp
các nhà xuất khẩu Việt Nam phải từ chối những hợp đồng quý giá chỉ vì không đủ vốn.
Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau, bất
kể là trong hay ngoài nước. Trong khi đó, khi áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu,
các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ không chỉ được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng hết
sức phong phú từ nước ngoài thông qua những hợp đồng có giá trị kí kết với đối tác
nước ngoài, mà còn có thể tăng nhanh vòng quay vốn, qua đó nắm bắt những cơ hội
đầu tư cũng như tăng cường khả năng tiếp cận những thị trường thương mại tiềm năng
lớn đang trên đà phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới.  Doanh nghiệp có thể
mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và phát triển kỹ
năng tài chính cho nhà xuất khẩu cũng như giúp các quốc gia cải thiện cán cân thanh
toán, tạo công ăn việc làm cho người lao động, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

nền kinh tế đất nước.


1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.2.1. Nhân tố vĩ mô
Khi xét đến những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu, không thể không tính đến những nhân tố vĩ mô liên quan trực tiếp đến tính chất
của hoạt động này. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được sử dụng để giúp nhà xuất
khẩu phòng ngừa hai loại rủi ro chủ yếu là rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị. Những
rủi ro này chịu ảnh hưởng rất lớn của tình hình kinh tế vĩ mô cũng như tình hình chính
trị của nước nhập khẩu. Khi những yếu tố vĩ mô này thay đổi, rủi ro đối với hoạt động
xuất khẩu cũng sẽ thay đổi theo, tạo ra ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế nước nhập khẩu cũng như nền kinh tế thế
giới có thể kể đến khung pháp lý bao gồm những quy định, điều luật mang tính pháp
lý liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, lãi suất, cầu hàng
hóa dịch vụ nước ngoài, tỷ giá và chế độ tỷ giá và tình hình nền kinh tế vĩ mô.
Hành lang pháp lý: Hoạt động này thường được điều chỉnh trực tiếp bởi
những đạo luật do Quốc hội hay Nghị viện ban hành, ví dụ như đạo luật Council
Directive 98/29/EC được Ủy ban Châu Âu (EC) ban hành ngày 16/08/1998 về thi
6

hành chính sách bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong các nước thành viên EU . Ngoài
những đạo luật trong nước, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, với ý nghĩa là một
phần của chính sách tín dụng xuất khẩu của các quốc gia, còn được đề cập trong thỏa
thuận quốc tế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu chính thức của Tổ chức Hợp tác và phát triển
7

kinh tế OECD năm 2004 . Tuy không trực tiếp đề cập đến các quy định về bao hiểm
tín dụng xuất khẩu, thỏa thuận này được đưa ra nhằm tạo khung pháp lý cơ bản cho các
hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu chính thức của các nước thành viên tham gia thỏa
thuận. Thỏa thuận của OECD là không bắt buộc, nhưng nó lại tạo ra cơ sở pháp lý cho

các nước chấp nhận thỏa thuận và cơ sở tham khảo của các nước khác khi xây dựng
chính sách, quy định về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc hỗ


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

trợ, cung cấp thông tin về cơ chế hoạt động cũng như những chính sách văn bản pháp
lý điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu từ phía các cơ quan Nhà nước
cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cũng sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển
của loại hình này.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu: Nếu mặt hàng xuất khẩu ra thị
trường quốc tế không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người nước ngoài, giá cả và
chất lượng của hàng hoá xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh sẽ làm giảm cầu nhập khẩu
hàng hoá tại nước nhập khẩu. Điều này sẽ làm giảm số lượng xuất khẩu, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu quốc gia. Từ đó dẫn đến nhu cầu sử dụng bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu giảm. Do vậy, có thể thấy, bên cạnh những yếu tố khách
quan như biến động của nền kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến lãi suất cũng như tỷ giá
hối đoái thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu đóng vai trò không thể thiếu
trong việc kích thích sự phát triển của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong
việc hỗ trợ xuất khẩu của mọi quốc gia.
Sự phát triển của thị trường tài chính và các định chế tài chính cũng là nhân
tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu mỗi quốc gia. Ngày nay, sự
phát triển của các thị trường tài chính đã giúp các công ty phòng ngừa được hầu hết các
rủi ro trong thương mại quốc tế, đặc biệt là rủi ro tỷ giá. Thị trường tài chính và các
định chế tài chính ngày càng khẳng định được vai trò không thể thiếu trong việc hỗ trợ
hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát huy được hết vai trò của mình trong việc
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Sự ổn định của tỷ giá hối đoái cũng là một nhân tố vĩ mô quan trọng với hoạt
động xuất nhập khẩu nói chung và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nói riêng. Ngày nay,
mức độ rủi ro tỷ giá đã tăng lên thậm chí còn nhanh hơn tốc độ tăng khối lượng thương

mại và đầu tư quốc tế. Điều này xảy ra là vì sự biến động của tỷ giá ngày càng trở nên
khó kiểm soát với cường độ ngày càng mạnh hơn. Biến động tỷ giá quá lớn sẽ gây ra
những thiệt hại về chênh lệch tỷ giá cho các nhà xuất khẩu. Rủi ro thay đổi tỷ giá mà
những nhà xuất khẩu và nhập khẩu phải đối mặt là rủi ro cơ bản nhất trong thương
mại quốc tế mà thương mại nội địa không có. Bởi vậy, một trong các rủi ro chủ yếu


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

được bảo hiểm cho các nhà xuất khẩu là rủi ro tỷ giá.
Cầu hàng hóa, dịch vụ nước ngoài có tác động trực tiếp đến nhu cầu nhập khẩu
hàng hóa. Nếu nước nhập khẩu có nhu cầu cao về hàng hóa nhập khẩu, lượng hợp đồng
với doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tăng mạnh, dẫn đến nhu cầu bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu cũng tăng mạnh. Đây là nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu.
Lãi suất nội địa của nước nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hay hạn chế
nguồn tiền doanh nghiệp nhập khẩu có thể tiếp cận, ảnh hưởng đến năng lực tài chính
của bên nhập khẩu và rủi ro không trả được tiền hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình chính trị của nước nhập khẩu như chiến
tranh, cấm vận hay tranh chấp giữa các đảng phái trong nước cũng được coi là những
yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Những rủi ro chính trị xảy
ra bất ngờ này đều sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp
nhập khẩu. Các nhà bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ phải đền bù khi rủi ro vỡ nợ xảy ra
do các nguyên nhân chính trị này.

1.2.2. Nhân tố vi mô
Nhân tố vi mô tác động đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có thể coi là những
yếu tố liên quan đến bản thân người cung cấp dịch vụ và đối tượng sử dụng dịch vụ này.
Về phía khách hàng sử dụng, tức là các doanh nghiệp xuất khẩu, yếu tố tác
động đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu gồm có năng lực tài chính cũng như

năng lực kinh doanh của doanh nghiệp và tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp
đó. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một hình thức phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
xuất khẩu. Hoạt động này yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu phải có đủ năng lực tài
chính để đảm bảo chi trả tiền bồi thường cho công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu trong tình huống xấu xảy ra đồng thời có khả năng trả mức phí dịch vụ
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được đánh giá là cao hơn so với các loại hình bảo hiểm
khác khi sử dụng dịch vụ này. Các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa khó có khả
năng tham gia dịch vụ này do nguồn vốn có hạn. Bên cạnh đó, nhận thức và tầm nhìn
của doanh nghiệp cũng là nhân tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển của thị trường


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Những doanh nghiệp xuất khẩu có tầm nhìn chiến lược
muốn đảm bảo sự ổn định và bền vững của các hoạt động xuất khẩu sẽ đánh giá rất
cao và sẵn sàng sử dụng dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu này.
Từ phía các nhà cung cấp dịch vụ, các yếu tố về kỹ năng quản lý, tiềm lực về
vốn và các chiến lược phát triển thị trường là những yếu tố vi mô tác động đến nguồn
cung của sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Về kỹ năng quản lý, các công ty
bảo hiểm cần có năng lực kinh doanh tốt, mạng lưới, mối quan hệ để thẩm định khách
hàng nước ngoài cũng như các đối tác tái bảo hiểm. Mặt khác, để cung cấp được dịch
vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, đặc
biệt là những khách hàng mạo hiểm tham gia những hợp đồng có giá trị tiềm ẩn nhiều
rủi ro, công ty bảo hiểm phải đủ năng lực tài chính để đảm bảo bảo hiểm được những
đơn hàng giá trị lớn, có độ rủi ro cao. Chỉ những doanh nghiệp bảo hiểm đủ khả năng
về tài chính và có mạng lưới quan hệ rộng mới đầu tư mạnh vào lĩnh vực này. Nói
cách khác, tiềm lực vốn đủ mạnh cũng với kỹ năng quản lý chính là yếu tố quyết định
ảnh hưởng tới cung bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Ngoài ra, không thể phủ nhận vai trò
của các chiến lược phát triển thị trường trong việc giúp chính công ty cung cấp dịch
vụ bảo hiểm hạn chế rủi ro trong quá trình cung cấp dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt phải kể

đến vai trò quan trọng của việc đủ khả năng thẩm định khách hàng nước ngoài và tìm
được đối tác tái bảo hiểm. Các chiến lược này sẽ quyết định vai trò sống còn của các
công ty bảo hiểm trong nền kinh tế nói chung cũng như việc tiếp cận các khách hàng
tiềm năng tham gia vào hoạt động ngoại thương của quốc gia nói riêng.
Như vậy, các yếu tố vi mô liên quan trực tiếp đến bên cung cấp và sử dụng
dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ vừa tác động trực tiếp đến cung và cầu của bản
thân thị trường dịch vụ này, vừa quyết định mức độ phát triển và tính chuyên nghiệp
của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của một quốc gia.

1.3. Kinh nghiệm của Mỹ trong việc phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu và bài học cho Việt Nam
1.3.1. Khái quát chung


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

Trong cơ cấu nền kinh tế Mỹ, các nguồn hỗ trợ đối với những mặt hàng xuất
khẩu từ phía Chính phủ được phân loại hết sức rõ ràng, bao gồm những nguồn vốn hỗ
trợ trực tiếp nhằm cải thiện xuất khẩu và những nguồn hỗ trợ cho đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng với những công cụ hỗ trợ tài chính cho những nước đang phát triển. Bên
cạnh đó, trong lĩnh vực bảo hiểm và bảo lãnh thường có sự tham gia của ba cơ quan
lớn là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Ex-im bank, Tập đoàn tín dụng hàng thương mại
(CCC - Commodity Credit Corporation) và Tập đoàn đầu tư tư nhân nước ngoài
(OPIC - Overseas Private Investment Corporation) với ba mục tiêu là hỗ trợ xuất khẩu
hàng hoá dịch vụ, xuất khẩu những mặt hàng thiết yếu và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong đó, Ngân hàng Xuất nhập khẩu được coi là một đại diện của Chính phủ có
nhiệm vụ phối hợp hoạt động với các cơ quan khác nhằm thúc đẩy xuất khẩu, đặc
biệt là hỗ trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ cho các nước đang phát triển là
một trong những chiến lược xuất khẩu trọng tâm của Mỹ. Các hoạt động này được điều
phối bởi Hội đồng tư vấn quốc gia về các chính sách tài chính và tiền tệ quốc tế (NAC

- National Advisory Council on International Monetary and Financial Policy). Uỷ ban
này gồm các thành viên của Kho bạc quốc gia, Bộ Thương mại, Ngân hàng Xuất
nhập khẩu, Phòng thương mại, Quỹ dự trữ quốc gia và IDCA (một cơ quan có sự tham
gia của Tập đoàn đầu tư tư nhân nước ngoài, Tập đoàn thương mại và phát triển Mỹ và
Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ).

1.3.2. Chương trình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Mục tiêu của chương trình là cung cấp những khoản tiền hỗ trợ nhằm giúp các
nhà xuất khẩu cũng như các ngân hàng tránh được rủi ro trong quá trình giao dịch
thương mại trừ những rủi ro gây ra trong quá trình vận chuyển hoặc do các bên vi
phạm hợp đồng. Các khoản hỗ trợ có thể bù đắp cả rủi ro kinh tế lẫn rủi ro chính trị
hoặc có thể chỉ bù đắp rủi ro chính trị và những rủi ro khác. Mô hình bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu của Mỹ không có một mức hạn mức tín dụng nhất định cho các nước
tham gia cũng như đối với từng giá trị giao dịch. Tuy nhiên, mô hình này có đưa ra
những điều kiện để quyết định thời gian tối đa nhận tài trợ cho các nước tham gia
nhận khoản hỗ trợ bù đắp rủi ro. Bên cạnh đó, theo mô hình bảo hiểm tín dụng xuất


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

khẩu của Mỹ thì rủi ro do đồng tiền mất giá không được hỗ trợ bù đắp.
Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Mỹ có ba loại chính sách cơ bản:
Chính sách nhiều người mua (hoặc nhiều khoản giao dịch): bù đắp một lượng
lớn các đơn hàng mua ở nhiều nước khác nhau. Chính sách này chỉ được áp dụng
trong ngắn hạn và quy định rằng người được bảo hiểm cần phải thoả thuận phần lớn
số lượng hoặc tổng giá trị giao dịch với mục đích giảm thiểu rủi ro và tránh sự lựa
chọn bất lợi. Điều này hàm ý rằng nhà xuất khẩu có thể cố tình gây ra những tác động
xấu ảnh hưởng đến hoạt động của mình chỉ để nhận được tiền bảo hiểm. Chính sách
này đặc biệt chú trọng tới các mặt hàng dân dụng thông thường, linh kiện điện tử, vật
liệu thô, linh kiện lắp ráp và hầu hết các dịch vụ.

Chính sách một người mua (hoặc một giao dịch): bù đắp rủi ro đối với một
hay nhiều mặt hàng xuất khẩu trong cùng một hợp đồng xuất nhập khẩu. Thời gian của
hợp đồng có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, cho phép người được bảo hiểm
quyết định giá trị hàng hoá được bảo hiểm rủi ro.
Bảo hiểm trung hạn (đối với một khoản giao dịch): hỗ trợ tài chính dài hạn
cho những nhà nhập khẩu quốc tế đối với các thiết bị tư liệu sản xuất hoặc những
dịch vụ liên quan. Theo chính sách này, thời hạn tài trợ này có thể kéo dài lên tới 5
năm với giá trị tối đa là 10 triệu USD. Hơn thế nữa, nhà nhập khẩu có quyền yêu cầu
giảm 15% giá trị thanh toán tính trên tổng giá trị hợp đồng.
Những chính sách khác chú trọng vào các đối tượng kinh doanh đặc biệt như
ngân hàng và các tổ chức tín dụng thuê mua. Một số chính sách áp dụng đối với các tổ
chức tài chính là: chính sách tín dụng chứng từ ngân hàng, chính sách tín dụng đối với
các tổ chức tín dụng đóng vai trò là người mua hoặc người bán.
Bên cạnh những khoản hỗ trợ bù đắp rủi ro trên, mô hình bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu của Mỹ còn đưa ra những mô hình đặc biệt nhằm hỗ trợ các công ty nhỏ và
vừa xuất khẩu trung bình dưới 5 triệu USD.

1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Mỹ và so sánh
tính phù hợp của mô hình này đối với điều kiện Việt Nam, có thể rút ra những bài học


Phạm Thị Ngọc Anh- CQ528024

kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về bộ máy hoạt động và quản lý, cần có sự chuyên môn hoá rõ rệt
về vai trò cũng như trách nhiệm của các cơ quan tham gia điều chỉnh hoạt động bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu.
Thứ hai, khuyến khích các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp tư nhân
tham gia và phát huy hết vai trò trong việc thúc đẩy hoạt động bảo hiểm tín dụng

xuất khẩu mở rộng
Thứ ba, mở rộng thời hạn bảo hiểm và đưa ra những mức phí ưu đãi nhằm
khuyến khích và thu hút các doanh nghiệp xuất khẩu làm quen và sử dụng hiệu quả
công cụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Thứ tư, mở rộng đối tượng cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, không
nên bó hẹp ở phạm vi các tổ chức tín dụng xuất khẩu Nhà nước như Ngân hàng Phát
triển Quốc gia hay Ngân hàng Xuất nhập khẩu mà cần khuyến khích các công ty bảo
hiểm tư nhân cũng tham gia vào mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hoạt động
như một tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thực sự dưới sự quản lý của
Nhà nước.
Thứ năm, cần quy định rõ đối tượng được bảo hiểm trong mô hình bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu, cụ thể là khách hàng và ngành hàng được bảo hiểm.



×