Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tìm hiểu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.4 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Sau hơn 1 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO ngày 07/11/2006,
Việt Nam đã ngày càng đạt được những vị thế lớn trên trường quốc tế
với việc trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An
Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008- 2009 ngày 16/10/2007. Cùng với việc
tổ chức thành công hàng loạt những sự kiện quan trọng của đất nước,
Việt Nam càng khẳng định được những bước phát triển mạnh mẽ của
mình trên tất cả các lĩnh vực, trong đó phải kể đến sự đóng góp của thị
trường tài chính- bảo hiểm, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ra đời và phát triển cho
đến nay đã được hơn 15 năm, từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp
bảo hiểm duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, cho đến nay thị
trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều
công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh. Từ
đó, đã tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết. Để tồn
tại và phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải không ngừng
chuyển mình, đổi mới, hoàn thiện và hiện đại hóa công tác khai thác
cũng như quản lý, duy trì hợp đồng.
ë Việt Nam hoạt động bảo hiểm phát triển khá mạnh trong vài
năm gần đây từ khi chúng ta chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm.
Các lĩnh vực, các nghiệp vụ và các sản phẩm bảo hiểm ngày càng được
mở rộng, đời sống nhân dân không ngừng tăng lên. Do đó các hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ được kí kết ngày càng nhiều. Tuy vậy, bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam nói chung và nganh bảo hiểm nói riêng vẫn
chưa phát triển tương xứng qui mô của nó và cũng chưa có một qui chế
pháp lý vững chắc, một hệ thống pháp luật hoàn thiện tạo cơ sở pháp
lý cho toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh và có
hiệu quả. Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc
nghiên cứu về vấn đề bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm đặc biệt là bảo


hiểm nhân thọ, để có thêm cách nhìn mới và hiểu rõ hơn về bản chất
và những vấn đề cơ bản của hợp đồng bảo hiểm từ đó đề kiến nghị xây
dựng luật cũng như áp dụng các qui phạm pháp luật về bảo hiểm một
cách chính xác và hiệu quả tôi đã chọn đề tài “ Tìm hiểu về Hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ”.
1


I. KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm nhân thọ
Trên thế giới
Bảo hiểm nhân thọ là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài người
trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào
lịch sử là năm 1583 ở London và hợp đồng đầu tiên được ký kết với người được
bảo hiểm là William Gibbons. Trong hợp đồng thoả thuận rằng một nhóm người
góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong vòng
một năm. Lúc đó ông William Gibbons chỉ phải đóng 32 bảng phí bảo hiểm và
khi ông chết (trong năm đó), người thừa kế của ông được hưởng số tiền 400
bảng.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên vào năm 1583 ở London
nhưng đến năm 1759 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên mới ra đời, công ty bảo
hiểm Philadelphia của Mỹ, tuy nhiên chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm cho các
con chiên trong nhà thờ của họ. Tiếp theo là Anh năm 1765, Pháp năm 1787,
Đức năm 1828, Nhật Bản năm 1881, Hàn quốc năm 1889, Singapore năm 1909.
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện mạng lưới đại lý bảo hiểm nhân thọ. Theo số
liệu ngân hàng và học viện bảo hiểm nhân thọ của Nhật Bản thì Nhật Bản là
nước đứng đầu về tỷ lệ phí bảo hiểm nhân thọ theo đầu người là 1909
USD/người (1994) .
Năm 1990 phí bảo hiểm nhân thọ của Châu Á chiếm 33,8% tổng số phí bảo
hiểm nhân thọ trên toàn thế giới. Năm 1993, tổng số phí bảo hiểm của các nước

Đông Á là 6,1 tỷ USD, trong đó doanh số bảo hiểm nhân thọlà 45,1 tỷ USD
chiếm 73%, doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 27%.
Tại Việt Nam:
Trước năm 1954, ở miền Bắc những người làm việc cho Pháp đã mua bảo
hiểm nhân thọ và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi từ các hợp đồng bảo
hiểm này. Các hợp đồng bảo hiểm trên đều do các công ty bảo hiểm của Pháp
trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970, 1971 ở miền Nam công ty bảo hiểm Hưng Việt đã
triển khai một số loại hình bảo hiểm nhân thọ như: an sinh giáo dục, bảo hiểm
trường sinh (bảo hiểm nhân thọ cả đời), bảo hiểm có thời hạn 5,10 năm hay 20
năm. Nhưng công ty này hoạt động trong thời gian rất ngắn chỉ 1-2 năm nên hầu
hết người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm này.
2


Năm 1987, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã tổ chức nghiên
cứu đề tài: "Lý thuyết về bảo hiểm nhân thọ và sự vận dụng vào thực tế Việt
Nam" đã được Bộ Tài chính công nhận là đề tài cấp bộ. Qua việc đánh giá các
điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, năm 1990 Bộ Tài chính đã cho phép
Bảo Việt triển khai "bảo hiểm sinh mạng cá nhân - một loại hình ngắn hạn của
bảo hiểm nhân thọ ". Đến hết năm 1995 đã có trên 500000 người tham gia bảo
hiểm với tổng số phí trên 10 tỷ VND. Qua việc nghiên cứu tác dụng cũng như sự
cần thiết phải có một loại hình bảo hiểm mới - bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam,
ngày 10/3/1996 Bộ Tài chính đã ký quyết định số 281/TC/TCNH cho phép Bảo
Việt triển khai hai loại hình bảo hiểm nhân thọ: bảo hiểm nhân thọ có thời hạn
5-10 năm và chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành (an sinh
giáo dục).
Ngày 22/6/1996 Bộ Tài chính ký quyết định số 568/TC/QĐ/TCCB thành
lập công ty Bảo hiểm nhân thọ (Bảo Việt nhân thọ) từ đó Bảo Việt nhân thọ tiến
hành các hoạt động nhằm triển khai tốt các loại hình bảo hiểm này một cách

khẩn trương.
Hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển và giữ vai trò quan trọng
trong mỗi nền kinh tế. Đối với các tổ chức và cá nhân điều này có thể thấy rõ
qua tác dụng của bảo hiểm nhân thọ.
1.2. Những đặc trưng của Bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất: có sự phức tạp trong các mối quan hệ giữa người ký, người được
bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ.
Các loại bảo hiểm khác ngoài bảo hiểm nhân thọ đều đề phòng các hậu quả
của một sự cố không lường trước. Người ta cũng biết được ai là người được
hưởng quyền lợi của hợp đồng, chẳng hạn là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của
sự cố.
Đối với bảo hiểm nhân thọ, trong trường hợp tử vong, người được hưởng
quyền bảo hiểm không phải là nạn nhân của sự cố. Người được bảo hiểm chết,
người được hưởng là người có mối quan hệ thân thuộc với người được bảo
hiểm. Người ta thấy rằng điều này đã làm hạn chế đến sự tự do của người được
bảo hiểm. Người được bảo hiểm không phải lúc nào cũng có thể tự do thay đổi
người được thừa hưởng vì một số người khác cũng cũng có thể được thừa hưởng
từ người này. Trường hợp này có thể xảy ra đối với bảo hiểm trong trường hợp
sống nhưng rất hiếm. Trong bảo hiểm nhân thọ, các mối quan hệ giữa người ký,
người được bảo hiểm và người được hưởng rất phức tạp và mang tính nguyên
tắc hơn rất nhiều so với các loại hình bảo hiểm khác.
3


Thứ hai, bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích. Trong khi các loại hình
bảo hiểm phi nhân thọ có một mục đích là bồi thường cho các hậu quả của một
sự cố tiêu cực, không lường trước thì bảo hiểm nhân thọ lại có nhiều mục đích
khác nhau: tạo lập một quỹ dự phòng cho tương lai để con cái học tập hay lập
nghiệp, lập ra một quỹ hưu trí cho bản thân khi về già, để lại một khoản tiền cho

người thân khi tử vong, dành khoản tiền để chi tiêu cho một mục đích trong
tương lai.
Thứ ba, trong bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng, hầu hết các trường hợp không áp dụng nguyên tắc bồi thường mà áp dụng
nguyên tắc khoán. Bởi lẽ:
+ Trong trường hợp tử vong, nhà bảo hiểm sẽ trả số tiền bảo hiểm khi
người được bảo hiểm chết. Nhưng không thể xác định được số tiền này một cách
hoàn toàn khách quan vì khái niệm giá cả không thể áp dụng cho con người
được. Tính mạng của con người là vô giá.
+ Một người được hưởng bảo hiểm muốn gia đình hay người thân của anh
ta hưởng một khoản tiền nhất định nào đó tuỳ thuộc vào thu nhập hoàn cảnh gia
đình của mình... Anh ta có quyền ấn định khoản tiền bồi thường vào thời điểm
ký hợp đồng với nhà bảo hiểm. Như vậy bảo hiểm trong trường hợp tử vong
không nhằm vào bồi thường một thiệt hại. Hơn nữa, ttrong nhiều loại hình bảo
hiểm con người, biến cố dẫn đến nghĩa vụ của người bảo hiểm không có bản
chất thiệt hại. Do vậy khái niệm thiệt hại không thể sử dụng trong bảo hiểm con
người.
Nhìn chung, bảo hiểm con người dẫn đến các khoản trợ cấp khoán mà số
tiền được ấn định trước và tách biệt với khái niệm bồi thường. Đó là:
Nguyên tắc khoán được áp dụng trong hầu hết các loại hình bảo hiểm con
người. Loại trừ trường hợp hoàn trả các khoản chi phí y tế, bị bệnh hoặc tai nạn,
bảo hiểm ở đây mang tính chất bồi thường vì nhà bảo hiểm bồi thường cho
người được bảo hiểm giá của sự chăm sóc thuộc trách nhiệm của anh ta.
Thứ tư, trong bảo hiểm nhân thọ không có sự thế quyền.
Cùng một lúc, khách hàng có thể tham gia nhiều loại hình bảo hiểm con
người và nếu có xảy ra sự cố nào đó thuộc phạm vi bảo hiểm của nhiều hợp
đồng thì họ được nhận tất cả các khoản bồi thường từ các hợp đồng khác nhau.
Người được hưởng quyền lợi từ bảo hiểm con người có thể đồng thời nhận được
các khoản bồi thường từ các hợp đồng mà họ tham gia và khoản bồi thường của
người gây ra thiệt hại. Trong trường hợp này, không có sự khiếu nại của nhà bảo

hiểm (nhà bảo hiểm bồi thường cho các hợp đồng do người bị tai nạn tham gia)
đối với người thứ ba (người gây ra thiệt hại) và nhà bảo hiểm của anh ta.
4


Duy nhất trong bảo hiểm nhân thọ cho phép đảm bảo cùng một lúc hai sự
cố đối lập nhau là "tử vong và sống".
Thứ năm, trong bảo hiểm nhân thọ không áp dụng nguyên tắc đóng góp.
Nguyên tắc này chỉ áp dụng trong bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm, bảo
hiểm thiệt hại. Theo nguyên tắc đóng góp thì công ty bảo hiểm khi đã đền bù
cho người được bảo hiểm có quyền gọi các công ty bảo hiểm khác chia sẻ tổn
thất trong trường hợp:
+ Có hai hợp đồng bồi thường có hiệu lực trở lên
+ Các hợp đồng đều bảo hiểm cho các quyền lợi chung
+ Các hợp đồng đều bảo hiểm cho các rủi ro chung
Nhưng bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm con người nên người tham
gia bảo hiểm có quyền nhận quyền lợi của mọi hợp đồng mà họ tham gia. Hơn
nữa, con người là vô giá nên không áp dụng nguyên tắc này.
Như vậy, nếu bảo hiểm nhân thọ có những điểm tương đồng với các loại
hình bảo hiểm con người thì nó lại có những khác biệt với các loại hình bảo
hiểm phi nhân thọ khác.
1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ.
Đối với người tham gia bảo hiểm:
Bảo hiểm nhân thọ đã góp phần ổn định cuộc sống của dân cư, bảo vệ cho
các cá nhân và gia đình họ chống lại sự bất ổn định về tài chính gây ra bởi các
bất hạnh như: tử vong, thương tật, đau ốm, mất giảm thu nhập hoặc người trụ
cột trong gia đình qua đời để lại một gánh nặng nghĩa vụ chưa kịp hoàn thành
( trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, bảo đảm học hành cho con cái, các khoản
vay thế chấp...). Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ là sự chia sẻ các tổn thất giữa
những người tham gia bảo hiểm nhằm thay thế sự bất ổn bằng sự ổn định về tài

chính trong các trường hợp có sự cố bảo hiểm xảy ra. Trường hợp rủi ro không
xảy ra, người tham gia bảo hiểm vẫn được hưởng các quyền lợi từ số phí đã
đóng.
Bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần nâng cao sức khoẻ cho nhân dân thông
qua việc kiểm tra sức khoẻ miễn phí tại các trung tâm y tế do công ty bảo hiểm
chỉ định trước khi ký kết hợp đồng. Mặt khác, khi người được bảo hiểm gặp rủi
ro như ốm đau, phẫu thuật tàn tật... công ty bảo hiểm cũng chi trả một số tiền để
họ phục hồi sức khoẻ nhanh chóng. Ở Pháp năm 1995, chi phí chăm sóc y tế và

5


thuốc men đạt 862 tỷ F (12,4 tỷ USD) trong đó các công ty bảo hiểm tham gia
thanh toán 31%.
Đối với nền kinh tế xã hội:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời cũng là một nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Nó có một số tác dụng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ góp phần tăng tích luỹ, tiết kiệm cho ngân sách.
Trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách phải chi ra một khối lượng vốn khá
lớn để bồi thường cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro (trợ cấp thôi việc, trợ cấp
ốm đau...) dưới hình thức trợ cấp. Đây là điều bất hợp lý gây cho ngân sách luôn
bị thiếu hụt (bội chi), làm hạn chế việc phát triển kinh tế và các mặt khác của đời
sống xã hội. Ngày nay, mỗi cá nhân mua bảo hiểm nhân thọ là một cách tự bảo
vệ mình, chủ động đối phó với rủi ro, đồng thời còn tạo ra một khoản tiết kiệm.
Sự giúp đỡ của ngân sách hay của các tổ chức sử dụng lao động chỉ còn mang ý
nghĩa động viên chứ không có vai trò quyết định căn bản như trước kia nữa. Các
quỹ dự phòng cho các trường hợp rủi ro có thể sử dụng vào các mục đích khác.
Bảo hiểm nhân thọ góp phần thu hút vốn để phát triển kinh tế. Việt Nam
đang thực hiện quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Một trong
những yếu tố đảm bảo thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra là

vấn đề tạo vốn đầu tư. Nghị quyết đại hội Đảng VII đã khẳng định nguồn vốn
trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Nhưng không có gì
tốt hơn là tự lực, tự cường bởi lẽ khi đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì
chúng ta phải trả lãi suất và ít nhiều mất tự chủ về kinh tế. Chẳng hạn trong các
công ty liên doanh, khi các ông chủ nước ngoài góp trên 50% vốn, họ chi phối
hầu như toàn bộ hoạt động của công ty, người Việt Nam chỉ là hình thức bên
ngoài, trên thực tế không có quyền hành gì.
Bảo hiểm nhân thọ là một giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư
cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên, có kỷ luật của mỗi gia đình. Đây
cũng là giải pháp đúng đắn góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội. Vì dự
trù cho tương lai giáo dục đối với con em mình cũng nên coi là trách nhiệm của
mỗi gia đình. Xét trên giác độ vi mô tham gia bảo hiểm nhân thọ vẫn sẽ đảm bảo
được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả khi người trụ cột gia đình không may
qua đời.
Bảo hiểm nhân thọ còn góp phần rất lớn vào giải quyết việc làm cho xã hội.
Bảo hiểm là ngành có mạng lưới đại lý rộng khắp trong và ngoài nước. Bảo
hiểm nhân thọ là ngành thu hút nhiều lao động hơn cả vì nó cần có một mạng
lưới nhân viên khai thác bảo hiểm, máy vi tính, tài chính, kế toán... rất lớn. Vì

6


vậy, việc phát triển bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho thị
trường lao động.
Mặc dù điều kiện sống hiện nay ngày càng được nâng cao nhưng những rủi
ro bất ngờ luôn rình rập xung quanh chúng ta và có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Tham gia bảo hiểm nhân thọ là cách tự bảo vệ của mỗi cá nhân, mỗi gia đình
chống lại sự bất ổn về tài chính nếu rủi ro xảy ra. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ
góp phần làm giảm người bần cùng, nghèo khổ cho những bất hạnh trong cuộc
sống đem lại. Hơn nữa chúng ta phải lo cho tương lai của mình sau khi về hưu.

Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giải quyết gánh nặng trách
nhiệm của xã hội đối với người lao động về hưu, tuổi cao.
1.4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ
Ở các nước trên thế giới, hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ đang bán 4
loại hình sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính:
- Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn.
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời.
- Bảo hiểm trợ cấp hưu trí.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
a. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn:
Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, đúng như tên gọi của nó nhà bảo hiểm
nhận bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm trong một thời gian nhất định
gọi là thời hạn bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm chỉ được thanh toán trong trường hợp
người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Nếu người được bảo
hiểm sống qua thời hạn bảo hiểm sẽ không được thanh toán bất cứ khoản gì. Độ
dài của thời hạn bảo hiểm rất khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay thời hạn bảo hiểm
của các sản phẩm bảo hiểm sinh mạng có thời hạn có khi dưới một năm.
b. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời:
Đây là loại hình có thời hạn bảo hiểm dài hạn và số tiền bảo hiểm chỉ được
trả khi người được bảo hiểm chết hay sống đến 99 tuổi tuỳ thuộc vào sự kiện
nào đến trước. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời kết hợp yếu tố tiết kiệm với bảo
hiểm. Trong khi bảo hiểm sinh mạng có thời hạn chỉ bao gồm yếu tố rủi ro và
không trả thêm bất cứ quyền lợi nào.

7


c. Bảo hiểm cấp hưu trí:
Là loại hình mà phí bảo hiểm được đóng ngay một lần hay định kỳ. Sau đó,
công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm từ

khi người được baỏ hiểm về hưu cho đến chết.
Người ta thường kết hợp dạng bảo hiểm trợ cấp hưu trí với bảo hiểm hưu
trí. Khi về hưu, người được bảo hiểm nhận số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo
hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống khi về
hưu cho đến khi chết.
d. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đảm bảo rằng số tiền bảo hiểm được
trả mà không quan tâm đến việc người được bảo hiểm có bị chết trong thời hạn
bảo hiểm hay không với điều kiện người được bảo hiểm phải đóng phí theo quy
định. Mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đều quy định ngày hết hạn bảo
hiểm. Vào ngày đó, công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo
hiểm nếu anh ta còn sống. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp
đồng thì số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho ngươì được hưởng lợi vào ngày người
được bảo hiểm bị chết.
Như vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp trả số tiền bảo hiểm ấn định
dù người được bảo hiểm vẫn còn sống đến ngày đáo hạn của hợp đồng hoặc chết
trước khi hết hạn hợp đồng. Phí bảo hiểm cũng không đổi trong suốt thời hạn
hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thể hiện rõ sự kết hợp giữa bảo hiểm và
tiết kiệm.
Dựa trên 4 sản phẩm cơ bản này, các Công ty bảo hiểm nhân thọ khác nhau
thiết kế ra các sản phẩm đặc thù riêng của mình.Chẳng hạn:
II. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
1.

Khái niệm Hợp đồng bảo hiểm

Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản pháp lý quan trọng quy định quyền và
nghĩa vụ của DNBH và người tham gia bảo hiểm theo thỏa thuận của các bên có
liên quan.
Theo Điều 12, khoản 1,2 Luật KDBH quy định: “Hợp đồng bảo hiểm là sự

thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua
bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo

8


hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm”.
Như vậy HĐBH là văn bản thỏa thuận.Trong đó doanh nghiệp BH sẽ nhận
được phí bảo hiểm để thiết lập quỹ tài chính và chịu trách nhiệm chi trả và bồi
thường bảo hiểm; người tham gia bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm về kí kết và nộp
phí bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm phải có đủ tư cách pháp lý khi tham gia
bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm là các sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận
hoặc do các bên quy định. Các HĐBH có thể được kí kết giữa người tham gia
bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm hoặc được kí kết gián tiếpthông qua các đại
lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm
2. Các loại HĐBH
Có thể căn cứ theo nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại HĐBH. Song
dưới đây là cách phân loại phổ biến nhất. Cụ thể:
Hợp đồng bảo hiểm con người.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Mỗi loại hợp đồng trên có đối tượng bảo hiểm và kỹ thuật nghiệp vụ bảo
hiểm khác nhau. Việc chia ra làm 3 loại hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ nói
trên nhằm có biện pháp quản lý phù hợp.
2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người.
Hợp đồng bảo hiểm con người là những hợp đồng mà đối tượng bảo hiểm
là sinh mạng, sức khoẻ, khả năng lao động của con người.
- Đặc điểm:
+ Đối tượng bảo hiểm là sinh mạng, sức khoẻ của con người nên không thể

xác định được giá trị của đối tượng bảo hiểm. Do đó số tiền bảo hiểm do các bên
thoả thuận trước trong hợp đồng.
+ Hợp đồng bảo hiểm con người được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện.
+ Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc
thế quyền (chuyển yêu cầu bồi hoàn) nghĩa là bên bảo hiểm sau khi trả tiền bảo

9


hiểm cho người được bảo hiểm thì không có quyền yêu cầu đối với người thứ
ba.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên
được bảo hiểm hoặc người đại diện theo uỷ quyền của họ. Nếu bên được bảo
hiểm chết thì tiền bảo hiểm được trả cho người thừa kế của bên được bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm con người được phân làm hai loại là bảo hiểm nhân thọ
và bảo hiểm con người khác.
a. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Là loại hình bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ của con người.
Đây là một hình thức kết hợp tiết kiệm với bảo hiểm. Tính chất tiết kiệm thể
hiện ở chỗ người tham gia bảo hiểm chắc chắn nhận được tiền bảo hiểm vào thời
điểm kết thúc hợp đồng. Ngoài ra nếu công ty bảo hiểm đầu tư có lãi thì người
tham gia bảo hiểm sẽ được chia lãi từ kết quả đầu tư.
Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho
trường hợp chết của người được bảo hiểm không phải là người sở hữu đơn bảo
hiểm khi được người đó đồng ý bằng văn bản. Doanh nghiệp bảo hiểm bị cấm
ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết của trẻ em dưới 16 tuổi trừ
trường hợp cha mẹ người bảo trợ hợp pháp đồng ý bằng văn bản.
Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có 5 doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ cùng hoạt động và cạnh tranh: đó là Bảo Việt, Bảo Minh - CMG (liên
doanh), Peudeutial, Chinfon - Munulife và AIG (100% vốn nước ngoài) với các

loại hình bảo hiểm nhân thọ như: bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm 10 năm;
bảo hiểm trẻ em; bảo hiểm niên kim nhân thọ; bảo hiểm nhân thọ trọn đời.
b. Hợp đồng bảo hiểm con người khác.
Gồm có ba nhóm:
- Hợp đồng bảo hiểm tai nạn hoặc sinh mạng con người nói chung.
- Hợp đồng bảo hiểm tai nạn hoặc sinh mạng một số đối tượng đặc biệt. Ví
dụ: học sinh, hành khách tham gia giao thông trên các phương tiện giao thông,
thuyền viên của các tàu thuyền đánh cá,...
- Hợp đồng bảo hiểm khách du lịch.

10


Người tham gia bảo hiểm chỉ trở thành người được bảo hiểm khi người đó
có tên trong giấy chứng nhận bảo hiểm do bên bảo hiểm cấp và được hưởng
quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
2.2. Hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản là những hợp đồng mà có đối tượng bảo hiểm là
tài sản.
Phổ biến các hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bảo hiểm tự nguyện vì
trước hết nó gắn với quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Tuỳ nhu cầu bảo
hiểm mà người tham gia bảo hiểm chủ động chọn những rủi ro cần bảo hiểm cho
tài sản của mình cũng như mức phí bảo hiểm cần nộp cho bên bảo hiểm để được
đền bù khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Điều 583 Bộ Luật dân sự qui định: trong
trường hợp quyền sở hữu đối với tài sản bảo hiểm được chuyển cho người khác,
thì chủ sở hữu mới đương nhiên thay thế chủ sở hữu cũ trong hợp đồng bảo
hiểm, kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản. Chủ sở hữu cũ là bên mua
bảo hiểm phải báo cho chủ sở hữu mới về việc tài sản đã được bảo hiểm, báo
kịp thời cho bên bảo hiểm về việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản, nếu là
bảo hiểm tự nguyện thì chủ sở hữu mới có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện

hợp đồng.
Các hình thức bảo hiểm chủ yếu đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản gồm có:
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam.
- Bảo hiểm thân máy bay.
- Bảo hiểm tàu, thuyền.
- Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
- Bảo hiểm công trình xây dựng.
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
- Bảo hiểm trộm, cướp.
- Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi,...
Tính đến hết tháng 4/2000 hoạt động kinh doanh bảo hiểm tài sản trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam tăng trưởng cao. Trong đó các nghiệp vụ bảo hiểm
hàng xuất nhập khẩu tăng mạnh, còn nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe mô tô, bảo
11


hiểm thân tàu lại giảm. Tình hình thị trường bảo hiểm thân tàu trên thế giới cũng
cho thấy các nhà bảo hiểm thân tàu đang gặp khó khăn về tài chính, với những
số liệu kinh doanh bất lợi vì tỉ lệ tổn thất ngày càng tăng cao trong khi phí bảo
hiểm lại có xu hướng giảm. Các chủ tàu thích được ký hợp đồng bảo hiểm dài
hạn đầy lợi lộc với những nhà khai thác bảo hiểm khờ dại.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản mang tính chất là hợp đồng bồi thường. Nguyên
tắc chung được áp dụng cho các loại hợp đồng bảo hiểm tài sản là số tiền bồi
thường mà bên bảo hiểm trả không vượt quá giá trị tài sản được bảo hiểm tại
thời điểm và nơi xảy ra tai nạn.
2.3. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là hợp đồng mà đối tượng bảo hiểm
là trách nhiệm dân sự mà người có trách nhiệm phải bồi thường cho người bị
thiệt hại.

Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba theo thoả
thuận hoặc theo qui định của pháp luật, thì bên bảo hiểm phải bồi thường cho
bên mua bảo hiểm hoặc trả trựct iếp cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua
bảo hiểm số thiệt hại do bên mua bảo hiểm gây ra cho người thứ ba theo mức
bảo hiểm đã thoả thuận hoặc theo qui định của pháp luật (Điều 584 khoản 1 Bộ
Luật dân sự).
Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự là mang tính trừu tượng, khác
hẳn các đối tượng là tài sản và con người. Bên bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm phần
trách nhiệm dân sự nên chỉ phải bồi thường những thiệt hại thuộc trách nhiệm
của bên tham gia bảo hiểm chứ không phải bồi thường thiệt hại của chính người
tham gia bảo hiểm cũng như không chịu trách nhiệm về hình sự.
Hiện nay ở Việt Nam có các loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự phổ biến
như:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, thuyền.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không.
- Bảo hiểm trách nhiệm của quĩ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền
gửi có kì hạn.
3. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm

12


-Doanh nghiệp bảo hiểm: là tổ chức hoặc cá nhân có đầy đủ tư cách pháp
nhân được nhà nước cho phép tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được
thu phí để lập ra quỹ bảo hiểm và chịu trách nhiệm bồi thường hay chi trả cho
bên được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Nguời tham gia bảo hiểm: Là tổ chức hoặc cá nhân kí kết HĐBH với
doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Theo nguyên tắc quyền lợi có thể
được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm phải là nguời có quyền lợi hợp pháp

khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro và bị tổn thất. Ngoài trách nhiệm đóng phí
bảo hiểm, nguời tham gia bảo hiểm còn có trách nhiệm khai báo chính xác rủi ro
khi kí kết HĐBH đồng thời phải nhanh chóng khai báo thiệt hại khi có sự kiên
bảo hiểm xảy ra.
- Người được bảo hiểm: Là tổ chức cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự
và tính mạng hoặc tình trạng sức khỏe được bảo hiểm theo HĐBH.
- Người thụ hưởng: là tổ chức hoặc cá nhân được người tham gia bảo hiểm
chỉ định trong HĐBH sẽ nhận được sự trợ giúp và bồi thường từ doanh nghiệp
bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
4. Sự kiện bảo hiểm.
Bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện hợp đồng bảo hiểm tức là thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm.
Sự kiện bảo hiểm có thể hiểu là những rủi ro gây ra tổn thất thiệt hại cho đối
tượng được bảo hiểm đã được các bên kí kết hợp đồng bảo hiểm thoả thuận.
Điều 575 Luật dân sự định nghĩa: Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan
do các bên thoả thuận hoặc pháp luật qui định mà khi có sự kiện đó xảy ra thì
bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm.
5. Đối tượng bảo hiểm.
Khái niệm: đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là những thực thể có thể bị
rủi ro xâm hại (con người, tài sản) hoặc là trách nhiệm pháp lý do rủi ro mà phát
sinh nghĩa vụ dân sự về đền bù vật chất (trách nhiệm dân sự).
Chính vì sự an toàn hay bảo toàn cho đối tượng này mà các bên kí kết hợp
đồng bảo hiểm.
Điều 573 Bộ Luật dân sự qui định: đối tượng của bảo hiểm bao gồm con
người, tài sản, trách nhiệm dân sự và các đối tượng khác theo qui định của
pháp luật.
13


6. Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm và phí bảo hiểm.

- Số tiền bảo hiểm(STBH): là khỏan tiền được xác định trong HĐBH thể
hiện giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là
trong bất cứ trường hợp nào thì STBT hay số tiền chi trả cao nhất của doanh
nghiệp bảo hiểm cũng chỉ bằng STBH.
- Giá trị bảo hiểm(GTBH): được hiểu là giá trị của đối tượng được bảo
hiểm. Khái niệm GTBH không được sử dụng trong BHTNDS cũng như trong
BHCN mà chỉ được đánh giá trong BHTS.
Như vậy GTBH chính là giá trị của tài sản được bảo hiểm và lấy nó làm căn
cứ để xác định STBH và phí bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm: là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho bên bảo
hiểm (Điều 576 Bộ luật dân sự).
Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phải đóng phí bảo hiểm cho bên bảo
hiểm nhằm xây dựng thành quĩ bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm do hai bên thoả
thuận song cũng có thể do bên bảo hiểm qui định trước.
Trong bảo hiểm con người, mức phí bảo hiểm do Bộ Tài chính qui định
theo mỗi loại hình bảo hiểm con người, được ghi trong biểu phí, người mua bảo
hiểm có thể lựa chọn mức phí phù hợp với mình. Theo qui định của pháp luật
hiện hành về chế độ bảo hiểm tài sản thì phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá
trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm nhân với tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí bảo
hiểm là tỷ lệ % do bên bảo hiểm đề ra trên cơ sở tính toán xác suất của những
rủi ro tổn thất xảy ra hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm thu đủ phí để bồi
thường và có lãi.
Mức phí bảo hiểm luôn tỉ lệ thuận với mức độ rủi ro và trách nhiệm của bảo
hiểm.
Điều 576 Bộ luật dân sự cũng qui định.
Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp
luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc theo định kỳ. Trong trường hợp
bên mua bảo hiểm chậm đóng phí theo định kỳ thì bên bảo hiểm ấn định một
thời hạn để bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Nếu hết hạn đó mà bên mua
bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng chấm dứt.

7. Bồi thường.

14


Bồi thường là việc bên bảo hiểm trả một khoản tiền cho người được bảo
hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm.
Trong hợp đồng bảo hiểm, số tiền bồi thường được xác định trên cơ sở thiệt
hại thực tế nhưng không bao giờ vượt quá số tiền bảo hiểm. Đặc biệt trong bảo
hiểm trách nhiệm dân sự, số tiền bồi thường, ngoài việc dựa trên hai căn cứ trên,
còn phụ thuộc vào mức độ lỗi của bên được bảo hiểm trong vụ tai nạn.
Khi tính toán số tiền bồi thường, phải xác định đúng giá trị thiệt hại thực tế.
Thiệt hại xảy ra có thể là thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và
cũng có thể là cả hai.
- Thiệt hại về tài sản:
Đó là sự thiệt hại về vật chất nên có thể tính được giá trị thiệt hại thành
tiền. Thiệt hại được xác định là toàn bộ thiệt hại về tài sản đó bao gồm: tài sản bị
mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài
sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại vào thời điểm
gây ra thiệt hại.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ:
Tính mạng, sức khoẻ của con người không thể tính toán thiệt hại cụ thể
thành tiền được. Vì vậy việc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ có ý
nghĩa là đền bù phần nào thiệt hại vật chất, tạo điều kiện cho người bị thiệt hại
hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai nạn gây nên. Xác định thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ bao gồm những khoản chi phí về nạn nhân và những khoản
thu nhập bị mất hoặc giảm sút.
8. Thời hạn bảo hiểm.
Là thời gian HĐBH có hiệu lực, kể từ khi kí kết HĐBH và có bằng chứng
doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã

đóng phí bảo hiểm(trừ trường hợp đã thỏa thuận khác trong HĐBH) cho tới khi
kết thúc trách nhiêmk bảo hiểm.
Thời hạn bảo hiểm của các hợp đồng phi nhân thọ thường là 1 năm. Đối với
một số hợp đồng , có thể thời hạn là kể từ lúc bắt đầu một chuyến hành trình cho
tới khi kết thúc chuyến hành trình đó( bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc
bảo hiểm du lịch). Trong BHNT, thời hạn hợp đồng dài hơn, thường là 5-10 năm
hoặc suốt cuộc đời, tùy theo sự thỏa thuận của hai bên.
9. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm.

15


Tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng bảo
hiểm đã thoả thuận xác định các quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng gọi
là nội dung của hợp đồng bảo hiểm.
9.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bảo hiểm.
a. Quyền:
- Bên bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm đối với người mua bảo hiểm
theo mức hai bên đã thoả thuận hoặc theo biểu phí mà pháp luật qui định đối với
hợp đồng bảo hiểm bắt buộc.
- Bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người mua bảo hiểm phải cung cấp cho
bên bảo hiểm đầy đủ các thông tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm trừ các
thông tin mà bên bảo hiểm đã biết hoặc phải biết. Các thông tin này có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của bên bảo hiểm như rủi ro xảy
ra có phải là sự kiện bảo hiểm không, mức thiệt hại bao nhiêu,...
- Trong trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện
pháp phòng ngừa thiệt hại ghi trong hợp đồng, bên bảo hiểm có quyền đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại
xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không được thực hiện (Điều 578 khoản 2
Bộ luật dân sự).

- Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo
hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm thì bên bảo
hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình phải trả (Điều
581 khoản 1 Bộ luật dân sự).
b. Nghĩa vụ:
Bên bảo hiểm khi nhận được tin báo về rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo
hiểm có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định nguyên nhân và
mức độ thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, bên bảo hiểm
phải bồi thường cho người được bảo hiểm. Bên bảo hiểm có nghĩa vụ tiến hành
giám định tổn thất và lập biên bản giám định. Nghĩa vụ này nhằm đảm bảo
quyền lợi cho người được bảo hiểm vì khi người được bảo hiểm khiếu nại đòi
bồi thường thì phải có cả biên bản giám định tổn thất đồng thời đó cũng là vì
quyền lợi của bên bảo hiểm để xác định được mức bồi thường chính xác.
Đối với một số hợp đồng bảo hiểm như bảo hiểm tai nạn con người vấn đề
giám định tổn thất có thể không đặt ra. Chỉ cần bên được bảo hiểm cung cấp đầy

16


đủ hồ sơ về vụ tai nạn và các giấy tờ liên quan đến chi phí cứu chữa, nằm viện,...
bên bảo hiểm sẽ thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Trong trường hợp hồ sơ về tai nạn, rủi ro xảy ra vẫn chưa được hoàn tất nên
chưa thể tính toán được mức bồi thường thì bên bảo hiểm còn có nghĩa vụ ứng
trước cho bên được bảo hiểm một khoản tiền nếu bên được bảo hiểm yêu cầu.
9.2 Quyền và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm.
Dưới đây xin đề cập quyền và nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm trong
trường hợp họ đồng thời là người được bảo hiểm.
a. Quyền:
- Người tham gia bảo hiểm có quyền hưởng số tiền bảo hiểm mà bên bảo
hiểm bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra theo thoả thuận trong hợp đồng

hoặc theo qui định của pháp luật. Đây là quyền chủ yếu của người tham gia bảo
hiểm.
- Trong một số hợp đồng bảo hiểm tài sản, người tham gia bảo hiểm còn có
một quyền quan trọng đó là quyền từ bỏ đối tượng bảo hiểm. Quyền này được
thực hiện trong trường hợp nguy cơ đối tượng bị tổn thất toàn bộ là không tránh
khỏi hoặc chi phí cứu chữa sẽ quá cao so với giá trị của đối tượng bảo hiểm.
Nếu việc từ bỏ đối tượng bảo hiểm được bên bảo hiếm chấp nhận thì người tham
gia bảo hiểm có quyền được bồi thường tổn thất toàn bộ.
b. Nghĩa vụ:
- Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm cho bên bảo
hiểm. Phí bảo hiểm phải đóng đủ và đúng thời hạn, nếu không bên bảo hiểm có
quyền chấm dứt hợp đồng. Đây là điều kiện quan trọng để duy trì quan hệ hợp
đồng và là điều kiện để được hưởng tiền bồi thường bảo hiểm.
- Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho bên bảo hiểm đầy đủ
thông tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm theo yêu cầu của bên bảo hiểm.
Việc cung cấp thông tin phải đảm bảo sự trung thực, kịp thời, đầy đủ. Nếu thực
hiện không tốt nghĩa vụ này thì người tham gia bảo hiểm có thể phải gánh chịu
những chế tài nhất định theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo qui định của
pháp luật. Chẳng hạn bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ hợp đồng, hoặc có quyền
không bồi thường tiền bảo hiểm hoặc giảm tiền bồi thường.

17


- Khi xuất hiện sự kiện bảo hiểm người tham gia bảo hiểm phải thông báo
kịp thời cho bên bảo hiểm biết và thực hiện mọi biện pháp cần thiết trong khả
năng cho phép để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại.
- Những trường hợp tổn thất xảy ra do lỗi của người thứ ba gây ra, người
tham gia bảo hiểm còn có nghĩa vụ trao cho bên bảo hiểm quyền truy đòi người

gây thiệt hại và giúp bên bảo hiểm có thể thực hiện tốt quyền này.
9.3. Quyền - Nghĩa vụ của người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm.
Người thứ ba mặc dù không tham gia ký kết hợp đồng nhưng là người có
lợi ích liên quan chặt chẽ với việc ký kết đó, họ chính là người được bảo hiểm.
Vì vậy mà người thứ ba vẫn còn có một số quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng. Xét mối tương quan giữa quyền và nghĩa vụ thì họ là người được hưởng
quyền nhiều hơn. Cụ thể là người thứ ba có quyền hưởng tiền bảo hiểm, có
quyền trực tiếp yêu cầu bên bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường đối với tổn
thất do rủi ro bảo hiểm xảy ra. Về nghĩa vụ, người thứ ba có nghĩa vụ trong việc
bảo vệ đối tượng bảo hiểm, phòng ngừa, hạn chế rủi ro, cung cấp thông tin,
nghĩa vụ chuyển quyền truy đòi kẻ gây hại,... Song người thứ ba lại không phải
thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm (vốn được coi là nghĩa vụ nặng nề nhất) mà
nghĩa vụ này thuộc về người mua bảo hiểm. Tuy vậy, người thứ ba cũng không
có quyền thiết lập, sửa đổi hợp đồng bảo hiểm.
9.4. Thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Thực hiện hợp đồng bảo hiểm là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi
bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng các quyền tương ứng của
bên kia.
Khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm, các bên phải thực hiện một cách trung
thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau,
không xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác; thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản về đối tượng bảo hiểm, sự
kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm,... đã xác định trong hợp đồng.
9.5. Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
a. Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm
Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng
bảo hiểm bằng ý chí tự nguyện của mình thoả thuận với nhau để phủ nhận (làm
thay đổi) một số điều khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết.

18



Các bên tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm có thể thoả thuận sửa đổi hợp
đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi để việc thực hiện hợp đồng phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của mỗi bên. Nhưng cũng có trường hợp pháp
luật qui định không được sửa đổi hợp đồng bảo hiểm cho dù các bên hoàn toàn
tự nguyện. Đó là trường hợp qui định ở điều 416 Bộ luật dân sự khi người thứ
ba đã đồng ý hưởng lợi ích, thì dù hợp đồng bảo hiểm chưa được thực hiện, các
bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ
trường hợp được người thứ ba đồng ý.
Nhưng người thứ ba cũng không có quyền sửa đổi hợp đồng mà việc sửa
đổi phải thực hiện thông qua người tham gia bảo hiểm.
Việc sửa đổi hợp đồng bảo hiểm cũng phải được ghi thành văn bản.
b. Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt theo sự thoả thuận của các bên.
- Khi hợp đồng bảo hiểm đã hoàn thành: khi các bên tham gia hợp đồng đã
thực hiện toàn bộ nội dung các nghĩa vụ và do vậy, mỗi bên đều đáp ứng được
quyền của mình, thì hợp đồng được coi là hoàn thành.
- Hợp đồng bảo hiểm không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng
không còn không phải do sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ví dụ: hai bên tham gia ký
kết một hợp đồng bảo hiểm cháy cho một tài sản nhưng tài sản này bị mất trộm.
- Đơn phương đình chỉ hợp đồng:
+ Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm theo định
kỳ và hết thời hạn được bên bảo hiểm ấn định mà bên mua bảo hiểm không
đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng chấm dứt.
+ Trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết
hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương đình
chỉ hợp đồng hoặc trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các
biện pháp phòng ngừa thiệt hại.

+ Trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản, chủ sở hữu mới của tài sản mà
được chuyển giao có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu là bảo hiểm tự
nguyện.

19


III. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
1.

Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

Hợp đồng BHNT là sự cam kết giữa 2 bên, theo đó bên nhận bảo
hiểm(công ty BHNT) có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho các bên được bảo
hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, còn bên được bảo hiểm có trách nhiệm và
nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm như đã cam kết theo quy định của pháp luật.
Hợp đồng BHNT rất đa dạng và do các công ty bảo hiểm thực hiện đa dạng
hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của người tham gia.
Các quy định có nhiều điểm khác nhau ở mỗi quốc gia, tuy vậy nó vẫn có những
điểm chung phải tuân thủ như các loại hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự
khác như: trách nhiệm, quyền lợi… Đồng thời về nguyên tắc và cơ sở kĩ thuật
bảo hiểmlà giống nhau như: sự tự nguyện, tính chất tin tưởng tuyệt đối, tính
thương mại, vv…
Hợp đồng bảo hiểm có thể dùng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc người
tham gia có thể ứng trước một khoản tiền nhất định giống như công ty bảo hiểm
cho họ vay tiền. Khỏan tiền ứng trước này các công ty thường lấy từ phần dự
phòng phí bảo hiểm để thực hiện.
Hợp đồng BHNT là hợp đồng dài hạn vì vậy chủ yếu được kí kết với từng
cá nhân. Việc kí kết theo nhóm là rất ít và nếu có thì chủ yếu là loại bảo hiểm tử
vong có kì hạn xác định.

2. Các chủ thể trong hợp đồng BHNT
Theo quy định thì đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là tất cả những người
trong độ tuổi từ 1 đến 60. Với đối tượng trên thì người tham gia bảo hiểm có thể
tham gia bất cứ loại hình nào theo nguyện vọng và yêu cầu của mình. Khi tham
gia bảo hiểm thì người tham gia phải viết giấy yêu cầu bảo hiểm và đây là một
bộ phận của hợp đồng bảo hiểm. Trong giấy yêu cầu bảo hiểm người tham gia
phải kê khai đầy đủ: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật...
Giấy yêu cầu bảo hiểm là căn cứ để công ty bảo hiểm có chấp nhận bảo hiểm
hay không.
Để tìm hiểu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì chúng ta tìm hiểu một số
các vấn đề liên quan sau:
2.1. Bên bảo hiểm.
Bên nhận bảo hiểm chính là các công ty BHNT, sau khi đã cam kết nhận
bảo hiểm, trách nhiệm và nghĩa vụ chủ yếu của công ty là chi trả STBH khi có
20


sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm trong
BHNT thường bao gồm: tử vong, hết hạn hợp đồng, sống đến độ tuổi nhất
định…
Bên nhận bảo hiểm không được phép hủy bỏ hay thay đổi các điều khoản
trong hợp đồng và cũng không được khiếu nại đòi phí bảo hiểm
2.2. Người được bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm,
người tham gia bảo hiểm:
a. người được bảo hiểm: là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được
bảo hiểm theo điều khoản của hợp đồng và có tên trong giấy yêu cầu bảo hiểm,
phụ lục của hợp đồng bảo hiểm.
Người được bảo hiểm là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được
bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng. Người được bảo hiểm có thể là
những người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lý để có thể tự kí hợp đồng

cho chính mình và cũng có thể là người chưa đủ tuổi thành niên phải giao tên
của mình cho người đứng ra kí kết HĐBH.
b. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: là người được nhận số tiền bảo
hiểm hoặc các khoản trợ cấp khác do công ty bảo hiểm thanh toán. Người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm thông thường là người được bảo hiểm, những người
thân thiết, người do người được bảo hiểm chỉ định, người thừa kế hợp pháp của
người được bảo hiểm.
Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ
định, nếu việc chỉ định không rõ ràng thì STBH được giải quyết theo luật thừa
kế. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thường là người được bảo hiểm, sẽ là
người khác khi người được bảo hiểm bị chết. Xác định rõ người được hưởng
quyền lợi bảo hiểm là vấn đề hết sức quan trọng, có thể tránh được những tranh
chấp và khiếu nại… Trong nhiều trường hợp cần phải chỉ định người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm thứ nhất và thứ hai nhằm đê phòng trường hợp người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm hàng thứ 1 không may bị chết trước người được
bảo hiểm.
c. Người tham gia bảo hiểm: là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thỏa
thuận và kí kết hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo quy định của
pháp luật về năng lực pháp lý. Trong các hợp đồng bảo hiểm, cá nhân người
tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm là 2 người khác nhau khi người
đuợc bảo hiểm chưa đủ tuổi vị thành niên. Bố mẹ, ông bà, hay người đỡ đầu
đứng ra viết giấy yêu cầu bảo hiểm. Hoặc trong các hợp đồng bảo hiểm theo
21


nhóm người được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm cũng là 2 người khác
nhau. Người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu hủy HĐBH.
2.3. Các khái niệm về thương tật toàn bộ và vĩnh viễn.
- Tai nạn là bất kỳ một thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực
tiếp của một lực mạnh bất ngờ từ bên ngoài tác động lên người được bảo hiểm.

Chính vì vậy, một loạt sự cố sau không thuộc khái niệm này: ngộ độc thức
ăn, trúng gió bất ngờ, viêm nhiễm do vi rút...
- Thương tật toàn bộ vĩnh viễn là trường hợp mà người được bảo hiểm bị
mất hoàn toàn và không thể phục hồi chức năng của:
+ Hai tay; hoặc
+ Hai chân; hoặc
+ Hai mắt; hoặc
+ Một tay và một chân; hoặc
+ Một tay và một mắt; hoặc
+ Một chân và một mắt.
Những trường hợp sau không thuộc phạm vi của thương tật toàn bộ vĩnh
viễn và không phải là nguyên nhân gây ra thương tật toàn bộ vĩnh viễn:
+ Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm.
+ Ảnh hưởng của rượu, bia, ma túy.
+ Hành động tội phạm của người được bảo hiểm.
+ Chiến tranh, nội chiến, nổi loạn, bạo động
2.4. Tuổi người được bảo hiểm.
Tuổi của người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm nói chung
trong bảo hiểm nhân thọ là tuổi tính theo ngày sinh nhật ngay sau ngày được
nhận bảo hiểm và là một trong những điều kiện cơ bản để tính phí bảo hiểm. Cơ
sở để tính tuổi là giấy khai sinh, chứng minh thư hay sổ hộ khẩu.

22


Trường hợp công ty bảo hiểm phát hiện khai nhầm tuổi thì sẽ xử lý như
sau:
Thứ nhất, nếu tuổi thật nhiều hơn tuổi đã khai nhưng tính tại thời điểm bắt
đầu được nhận bảo hiểm người được bảo hiểm vẫn ở trong độ tuổi được nhận
bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ tính lại số tiền bảo hiểm và giữ nguyên mức

phí bảo hiểm, lúc đó giá trị của số tiền bảo hiểm sẽ bị giảm đi. Nếu tại thời điểm
bắt đầu được nhận bảo hiểm người được bảo hiểm đã ở ngoài độ tuổi nhận bảo
hiểm thì hợp đồng bảo hiểm bị huỷ bỏ và công ty bảo hiểm chỉ hoàn lại cho
người tham gia bảo hiểm một tỷ lệ phí nhất định đã nộp.
Thứ hai, là trường hợp tuổi thật ít hơn tuổi đã khai. Như vậy, người tham
gia bảo hiểm đã nộp phí cao hơn mức phí tính theo tuổi đúng. Lúc đó, công ty
bảo hiểm sẽ hoàn lại số phí thừa đã nộp và giữ nguyên mức số tiền bảo hiểm.
Mức phí định kỳ sẽ nộp trong những lần sau được tính lại theo tuổi đúng.
2.5. Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm , thủ tục trả tiền bảo hiểm và các
điều khoản loại trừ, giảm STBH và tăng giảm phí bảo hiểm.
a. Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm đăng ký, lựa chọn và
cũng là số tiền mà công ty bảo hiểm phải thanh toán cho người được hưởng
quyền lợi bảo hiểm khi có sự cố xảy ra đối với người được bảo hiểm.
Tuy vậy trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hai khái niệm liên quan đến
số tiền bảo hiểm đó là:
Một là: số tiền bảo hiểm giảm. Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đến một
khoảng thời gian nào đó theo quy định của mỗi công ty bảo hiểm, người tham
gia bảo hiểm có thể cùng đóng phí và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu
lực với số tiền bảo hiểm mới nhỏ hơn số tiền tham gia bảo hiểm ban đầu. Số tiền
bảo hiểm này gọi là số tiền bảo hiểm giảm.
Hai là: giá trị giả ước: là số tiền mà người được bảo hiểm được nhận khi có
yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn hợp đồng.
b. Phí bảo hiểm:
Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ thanh toán cho công ty
bảo hiểm để thực hiện cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
Phí bảo hiểm nhân thọ có thể nộp theo tháng, quý, năm. Tuy vậy, khi xác
định phí bảo hiểm theo quý hoặc theo năm, công ty bảo hiểm nào cũng phải căn
23



cứ vào phí bảo hiểm theo tháng. Đương nhiên phí quý, năm thì các công ty bảo
hiểm đều nhân với hệ số nhất định theo chiều hướng giảm dần.
Phí bảo hiểm phụ thuộc chủ yếu vào ba yếu tố sau:
+ Số tiền bảo hiểm.
+ Độ tuổi của người tham gia hay người được bảo hiểm.
+ Thời hạn của hợp đồng bảo hiểm.
c. Thủ tục trả tiền bảo hiểm:
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra theo quy định của hợp đồng, người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm phải thông báo cho công ty bảo hiểm biết về tình
trạng của nạn nhân và địa chỉ của họ, sau đó hoàn tất hồ sơ. Cụ thể:
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm bị chết thì
hồ sơ gồm:
+ Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm.
+ Hợp đồng bảo hiểm gốc.
+ Giấy chứng tử.
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm bị thương
tật toàn bộ vĩnh viễn:
+ Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm.
+ Hợp đồng bảo hiểm gốc.
+ Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hay cơ quan người tham gia
bảo hiểm làm việc hoặc địa phương nơi xảy ra tai nạn.
+ Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật
của người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm.
- Trường hợp hợp đồng đáo hạn: chỉ cần hợp đồng bảo hiểm gốc.
Nếu người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm có một khiếu nại
về một vấn đề nào đó liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì phải báo
trước và giải quyết bằng văn bản.

24



d. Các điều khoản loại trừ: luật và những văn bản dưới luật về bảo hiểm
quy định loại trừ trong những trường hợp sau trong bảo hiểm tử vong, công ty
BHNT không chịu trách nhiệm chi trả.
- Người được bảo hiểm tự tử.
- Người được bảo hiểm bị kết án tử hình.
- Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm cố ý gây tử vong cho người được
bảo hiểm. Tuy nhiên nếu có nhiều người được hưởng quyền lợi bảo hiểm và
những người khác không phải lả tội pham hay tòng phạm thì họ vẫn được hưởng
STBH mà công ty chi trả.
- Chiến tranh, nội chiến gây ra cái chết cho người được bảo hiểm (rủi ro
này thường có những thoả thuận riêng).
- doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của
hợp đồng bảo hiểm hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng sau khi đã trừ các chi
phí hợp lý có liên quan; nếu bên mua bảo hiểm chết thì số tiền trả lại được giải
quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
e. Số tiền bảo hiểm giảm đi: Khi hợp đồng có hiệu lực trong một thời gian
nào đó, người tham gia bảo hiểm có thể duy trì hợp đồng miễn phí với STBH
giảm đi. STBH bị giảm do người tham gia không còn khả năng nộp phí đúng kì
hạn hoặc không còn khả năng đóng phí tiếp nên yêu cầu duy trì hợp đồng miễn
phí.
f. Các yếu tố làm tăng giảm phí BHNT: Khi có sự thay đổi rủi ro
2.5. Hiệu lực hợp đồng, thời hạn bảo hiểm và tái tục hợp đồng BH.
a. Hiệu lực hợp đồng.
Thường được tính từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, nếu nộp phí bảo hiểm
theo năm thì đó là số phí của năm đầu tiên. Ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên; nếu
theo tháng thì đó là phí của tháng đầu tiên. Ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên phải
được ghi chép thống nhất và chính xác trong cả hóa đơn thu phí và giấy yêu cầu
bảo hiểm… Đồng thời hợp đồng phải được kí kết với những người có đủ năng

lực pháp lý. Mục đích, nội dung, hình thức hợp đồng phải tuân thủ theo quy định
của pháp luật.
Thông thường, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ bị mất hiệu lực nếu phí bảo
hiểm không được đóng đầy đủ vào ngày đến hạn đóng phí. Mặc dù bạn có trách
25


×