Tải bản đầy đủ (.pdf) (217 trang)

Biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.43 KB, 217 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

VŨ NGỌC MIẾN

BIỆN CHỨNG GIỮA LI ÍCH GIAI CẤP,
LI ÍCH DÂN TỘC VÀ LI ÍCH NHÂN LOẠI
TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

TP HỒ CHÍ MINH - 2008


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

VŨ NGỌC MIẾN

BIỆN CHỨNG GIỮA LI ÍCH GIAI CẤP,
LI ÍCH DÂN TỘC VÀ LI ÍCH NHÂN LOẠI
TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành

: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số

: 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Trương Văn Chung
2. PGS.TS. Vũ Văn Gầu

TP HỒ CHÍ MINH - 2008


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là kết quả nghiên cứu của tôi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trương Văn Chung và
PGS.TS. Vũ Văn Gầu; các tài liệu sử dụng trong luận án đều trung
thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tác giả

Vũ Ngọc Miến



4

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................

1

1. Tính cấp thiết của đề tài ..............................................................

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.........................................................

4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án .............................................

12

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................

13

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án ...............................

13

6. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của luận án .................................


13

7. Kết cấu của luận án.....................................................................

14

CHƯƠNG 1: Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về lợi ích, mối quan hệ biện
chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích
nhân loại.............................................................................

15

1.1. Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin về lợi ích ...................

15

1.1.1. Lợi ích với tính cách là một trong những động lực trực
tiếp của sự phát triển xã hội ..................................................

15

1.1.2. Biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích
nhân loại ................................................................................

35

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa lợi ích giai
cấp,
lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại ...........................................


54

1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc
và lợi ích nhân loại ................................................................

57

1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại ...............

63


5

CHƯƠNG 2 : Lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay........................................

73

2.1. Tính chất, đặc điểm của toàn cầu hóa xét trên phương
diện lợi ích ..............................................................................

73

2.1.1. Về xu thế toàn cầu hóa hiện nay...........................................

73


2.1.2. Tính chất và đặc điểm của toàn cầu hóa hiện nay ................

91

2.2. Sự thống nhất và đấu tranh về lợi ích trong điều kiện toàn cầu
Hóa hiện nay............................................................................ 104
2.2.1. Sự thống nhất về lợi ích trong điều kiện toàn cầu hóa hiện
nay ........................................................................................... 104
2.2.2. Cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề lợi ích trong điều kiện
toàn cầu hóa hiện nay .......................................................... 116
CHƯƠNG 3: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và
những vấn đề đặt ra về lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc
và lợi ích nhân loại ................................................................. 136
3.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay...................................................................... 136
3.2. Sự thống nhất biện chứng giữa các lợi ích trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ......................................................... 156
3.3. Những giải pháp mang tính đònh hướng nhằm đảm bảo sự hài
hòa cho mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích
dân tộc và lợi ích nhân loại ...................................................... 174
KẾT LUẬN............................................................................................ 199
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ........... 201
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 202


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước, Văn kiện

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng đònh: “nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn đònh chính trò – xã hội; sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [19, tr. 76].
Việc nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc
và lợi ích nhân loại cần gắn liền với việc phát huy cao độ nội lực đồng thời ra
sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , trên cơ
sở khẳng đònh lợi ích dân tộc là mục tiêu cao nhất. Báo cáo Chính trò tại Đại hội
X nhấn mạnh: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy
đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi
ích đất nước làm mục tiêu cao nhất” [19, tr. 113-114].
Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trong tất cả các lónh vực, mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đang tiến hành, diễn ra trong bối cảnh trong và ngoài nước rất phức
tạp, với những thuận lợi và thách thức to lớn. Chúng ta phải trải qua một thời kỳ


2
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ. Các lónh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ. Chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta, vì thế còn có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội với lợi ích kinh tế xã hội
khác nhau. Làm thế nào để điều hòa các mối quan hệ và lợi ích của các tầng
lớp, các giai cấp trong xã hội, thống nhất lợi ích giai cấp với lợi ích toàn dân tộc
nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu

chung “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghóa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”? Giải đáp vấn đề này là một việc làm vừa
mang tính chiến lược lâu dài, vừa có tính thời sự cấp bách.
Mặt khác, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Vi t Nam diễn ra
trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hết sức sâu rộng nhưng cũng
đầy phức tạp. Mỗi quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển không thể đứng
ngoài tiến trình và xu thế tất yếu đó, không thể khép mình trong “cái nếp cũ” đã
trở nên lạc hậu, lỗi thời. Chủ tòch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Xã hội bây giờ
ngày một phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nếu cứ giữ lấy cái kẹp
giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả” [87, tr. 35]. Tuy nhiên, xu thế
toàn cầu hóa vừa tạo ra thời cơ lớn, vận hội lớn cho tất cả các nước, nhưng nó
cũng đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Quá trình
toàn cầu hóa một mặt tạo điều kiện cho các nước có điểm xuất phát thấp tranh
thủ nắm bắt những thành quả khoa học, công nghệ của các quốc gia tiên tiến,
đẩy mạnh nhòp độ phát triển, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho mọi
người trong xã hội, tích lũy kinh nghiệm về cách tổ chức và quản lý xã hội theo
những tiêu chí tiên tiến của thời đại, từng bước hội nhập vào tiến trình vận động
chung của thế giới; mặt khác, tính chất hai mặt và đầy mâu thuẫn của toàn cầu


3
hóa cũng buộc các quốc gia, các dân tộc đang phát triển phải tìm cho mình một
hướng đi và cách thức phù hợp với các đặc trưng về văn hóa, tâm lý, truyền
thống lòch sử và đònh hướng chính trò của dân tộc đó để “hòa nhập mà không hòa
tan”, vừa tiếp thu tốt những tinh hoa tri thức, văn hóa nhân loại, vừa bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Nghò quyết Đại hội
đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X đã vạch ra, phải được
thực hiện trên cơ sở phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ sử dụng tối đa và có
hiệu quả các yếu tố bên ngoài, biến các yếu tố đó thành các yếu tố nội sinh tác

động trực tiếp đến quá trình biến nước ta từ một nước kém phát triển thành một
nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển nhanh và bền vững, đưa
nước ta thực sự trở thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Vì thế, việc nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại càng là vấn đề có tính thời sự cấp bách và là
một yêu cầu tất yếu khách quan, là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong
điều kiện lòch sử mới. Quan điểm kết hợp các lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và
lợi ích nhân loại đã được Chủ tòch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
nêu ra trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong hơn
nửa thế kỷ qua.
Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình hội nhập và
toàn cầu hoá cũng tác động đáng kể đến lợi ích và quan hệ giữa các lợi ích giai
cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại. Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập
WTO vào ngày 7 tháng 11 năm 2006, việc làm sáng tỏ những thời cơ và thách
thức mới đối với đất nước cần gắn liền với phương thức nhận thức và giải quyết
vấn đề lợi ích một cách xác đáng, trên cơ sở đảm bảo lợi ích của dân tộc, quốc


4
gia. Toàn cầu hoá và hội nhập tất yếu đưa đến những thay đổi trong cơ cấu xã
hội, hệ thống phân tầng xã hội, đụng chạm đến lợi ích của hàng triệu người,
trước hết là giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động. Vì
thế việc tìm hiểu và phân tích lợi ích từ nhiều bình diện, nhiều mối quan hệ,
nhiều cấp độ khác nhau không chỉ bám sát vào mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, mà còn tính đến những nhân tố bên ngoài, trong đó có những nhân tố
mới nảy sinh từ sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO – một minh chứng
khẳng đònh quan điểm chủ động và tích cực hội nhập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, được nêu ra trong Đại hội X.
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích

dân tộc và lợi ích nhân loại trên cơ sở ý nghóa phương pháp luận về mối quan hệ
biện chứng giữa cái riêng và cái chung, cái phổ biến và cái đặc thù của triết học
Mác – Lênin, còn góp phần khắc phục biểu hiện của chủ nghóa phiêu lưu chính
trò lẫn chủ nghóa giáo điều, chủ nghóa kinh nghiệm, chủ nghóa dân tộc hẹp hòi,
bệnh ấu tró tả khuynh lẫn hữu khuynh vốn là những lực cản đối với quá trình cải
tạo và xây dựng chủ nghóa xã hội ở nước ta. Do vậy việc chúng tôi chọn đề tài
“Biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến só
của mình là cần thiết và cấp bách.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nhận thức và xử lý đúng đắn vấn đề lợi ích và biện chứng giữa lợi ích giai
cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại là một vấn đề triết học xã hội, triết học
chính trò hết sức phức tạp và nhạy cảm, nhất là trong bối cảnh quan hệ quốc tế
luôn biến động, đầy mâu thuẫn và đa chiều hiện nay. Vấn đề này đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà lý luận trong và ngoài nước.


5
Ở ngoài nước, nếu nói riêng về đề tài công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
trước đây tại Liên Xô và các nước Đông Âu, các nhà nghiên cứu đã bàn khá
nhiều về vấn đề này. Song nếu đặt công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong việc
nhận thức quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích
nhân loại thì số lượng các công trình nghiên cứu của các nhà mác xít ngoài nước
chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu, trình bày các đặc điểm của đấu tranh giai
cấp trong thời đại ngày nay, mối quan hệ giữa các dân tộc, sự thống nhất giữa
các giá trò nhân loại chung, những mối quan tâm toàn cầu và vấn đề xu thế vận
động của lòch sử, như cuốn “Biện chứng của cái đơn nhất, cái riêng và cái chung”
của A.B. Septulin, NXB Đại học Mátxcơva xuất bản năm 1973, cuốn “Chủ nghóa
Mác và vấn đề dân tộc” B.A Tsaghin, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, xuất bản năm
1986, và bộ sách 6 tập với tựa đề “Phép biện chứng duy vật” do P.V

Konstantinốp và V.G Marakhôp chủ biên, NXB Tư tưởng, Mátxcơva, xuất bản
năm 1984 …
Trong cuốn “Biện chứng cái đơn nhất, cái riêng và cái chung”, tác giả đã
trình bày và phân tích các cặp phạm trù của phép biện chứng và vận dụng nó để
giải thích mối quan hệ giai cấp, dân tộc và thời đại trong bối cảnh Liên Xô đang
xây dựng chủ nghóa xã hội. Còn trong tập bốn, bộ sách “Phép biện chứng duy
vật”, các tác giả đã tập trung phân tích các vấn đề của sự phát triển xã hội và
vai trò của việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích giai cấp, dân
tộc và nhân loại với việc xây dựng chủ nghóa xã hội trong điều kiện những diễn
biến phức tạp của đời sống chính trò quốc tế.
Ở Việt Nam vấn đề lợi ích và vấn đề quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và
nhân loại luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh xem là một trong
những vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc


6
tế. Điều đó được thể hiện một cách nhất quán và xuyên suốt qua các Văn kiện
Nghò quyết của Đảng ta. Về vấn đề lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “trong
thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần
kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vò trí của
các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về
kinh tế, xã hội. Trong mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan
hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai
cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghóa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” [18, tr. 85]. Về vấn đề quan hệ quốc tế, “Cương lónh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghóa xã hội” của Đảng Cộng

sản Việt Nam khẳng đònh: “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đi lên chủ nghóa xã
hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội …
“Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế
độ chính trò - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa
bình” [17, tr. 308].
Với tư tưởng có tính chất đònh hướng chiến lược đó của Đảng về vấn đề giai
cấp, dân tộc và nhân loại, ở Việt Nam từ trước đến nay, nhiều nhà khoa học đã
tập trung nghiên cứu, nhằm góp phần vào làm sáng tỏ tính khoa học và tính thực
tiễn của việc nhận thức và xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại – những mối quan hệ hết sức sinh động, phức
tạp của thế giới.


7
Về vấn đề lợi ích, đây là chủ đề khá hấp dẫn, nhưng cũng không kém phần
khó khăn và nhạy cảm, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
trong nước, nhất là từ sau thời kỳ đổi mới, khi Đảng ta đã có những quan điểm
và đánh giá lại một cách đúng đắn vấn đề lợi ích.
Một trong những công trình đó phải kể đến các cuốn “Từ điển bách khoa
Việt Nam”, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, xuất bản năm 2002, “Lợi ích động lực phát triển xã hội” của Nguyễn Linh Khiếu, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, xuất bản năm 1991, cuốn “Xây dựng chủ nghóa xã hội ở Việt Nam, vấn đề
nguồn gốc và động lực”, của Lê Hữu Tầng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất
bản năm 1991, “Triết học với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
Nguyễn Thế Nghóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, ….
Trong cuốn “Lợi ích - động lực phát triển xã hội” gồm ba chương với các
tựa đề: Lợi ích và vai trò động lực của nó đối với sự phát triển xã hội, mối quan
hệ biện chứng giữa một số lợi ích chủ yếu với tính cách là động lực của sự phát
triển xã hội; Vấn đề sử dụng vai trò động lực của lợi ích trong thực tiễn cách

mạng Việt Nam, tác giả đã phân tích một số quan điểm khác nhau về lợi ích. Sự
hình thành lợi ích và vai trò của lợi ích trong sự phát triển xã hội. Từ đó tác giả
đã vạch ra mối quan hệ biện chứng giữa một số lợi ích chủ yếu, như biện chứng
giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng…. Đặc
biệt, trong cuốn sách, tác giả đã tập trung trình bày vấn đề khai thác và sử dụng
vai trò động lực của lợi ích trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Cũng bàn về vấn đề lợi ích, trong chương II của cuốn “Xây dựng chủ nghóa
xã hội ở Việt Nam, vấn đề nguồn gốc và động lực”, tác giả Lê Hữu Tầng đã vạch
ra vò trí của nhu cầu và lợi ích trong hệ thống các động lực của sự phát triển xã
hội; nó là “khâu trung gian chuyển hóa những yêu cầu khách quan bên ngoài
thành những động cơ tư tưởng bên trong thúc đẩy con người ta hành động…” [109,


8
tr. 44]. Do vậy, theo tác giả, để kích thích tính tích cực của con người, của người
lao động cần tác động tới lợi ích của họ, và thông qua tính tích cực đó mà thúc
đẩy quá trình phát triển xã hội. Cùng với chủ đề trên, chương VI cuốn “Triết học
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tác giả Nguyễn Thế Nghóa đã xem
xét lợi ích trong hệ thống chỉnh thể tác động qua lại giữa nhu cầu – lợi ích – mục
đích như là chuỗi của hoạt động người, là sự tác động biện chứng giữa nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan. Trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau
về nhu cầu, lợi ích trong lòch sử triết tưởng, tác giả đã khẳng đònh “Các nhà kinh
điển của chủ nghóa Mác-Lênin đã nhấn mạnh: Tất cả những gì con người đấu
tranh đều gắn liền với lợi ích của họ”…. “Những lợi ích thúc đẩy đời sống các
dân tộc” [94, tr. 210].
Nếu nhu cầu của con người là đa dạng, phong phú thì lợi ích cũng rất đa
dạng và phong phú. Lợi ích có thể phân ra thành các loại khác nhau: lợi ích kinh
tế, lợi ích chính trò, lợi ích văn hóa…. Tất cả những lợi ích này được thể hiện dưới
những hình thức cụ thể: lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình, lợi ích của nhóm người,
lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích toàn xã hội, lợi ích toàn nhân loại…. “Như

vậy, lợi ích về mặt nội dung là khách quan, vì nó thể hiện một thực tế khách
quan nhất đònh: thiếu điều kiện để thỏa mãn nhu cầu và khi thỏa mãn nhu cầu
thì gặp cản trở nhất đònh; đồng thời nó phản ánh mâu thuẫn khách quan của thực
tế này, mâu thuẫn giữa nhu cầu với điều kiện thực để thỏa mãn chúng. Chính vì
vậy, lợi ích trở thành nguồn gốc và động lực chủ yếu của hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn” [94, tr. 211].
Về mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại
trong thời gian qua cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, như
các cuốn “Vấn đề dân tộc, giai cấp và toàn nhân loại” của Vũ Hiền và Ngô
Mạnh Lân, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1995, “Chủ nghóa


9
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc” của Nguyễn Thế
Thắng, Nxb. Lao động, Hà Nội, xuất bản năm 1999, cuốn “Quan hệ giai cấp dân tộc – quốc tế” của Trần Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Xuân Sơn,
Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2002, cuốn “Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” do Phan Hữu
Dật chủ biên, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2001, …
Trong các công trình đó, cuốn “Vấn đề dân tộc, giai cấp và toàn nhân loại”
của Vũ Hiền và Ngô Mạnh Lân, qua các chương với tựa đề: Thế giới có vấn đề;
Vấn đề dân tộc đang nổi cộm; Giai cấp cũng là vấn đề rất cấp bách; cần nhận thức
và giải quyết cho đúng vấn đề nhân loại; Biện chứng và các mối quan hệ, các tác
giả đã khẳng đònh vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại là những vấn đề vừa có
tính chiến lược vừa có tính thời sự cấp bách. Do đó cần phải có sự nhận thức và
giải quyết cho đúng những vấn đề này. Theo các tác giả, “Một trong những đặc
điểm đáng chú ý nhất về thế giới hiện nay là nó chứa đựng rất nhiều vấn đề,
nhiều nghòch lý, nhiều mâu thuẫn; nó là vô vàn các mối quan hệ đan xen giữa cái
chung, cái đặc thù và cái riêng; nó là kết quả của sự tác động nhiều chiều nảy sinh
từ các vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại” [29, tr. 96].
Theo quan điểm duy vật biện chứng khi xem xét các sự vật, hiện tượng, các

tác giả đã cho rằng cần phải nhận thức và giải quyết một cách hài hòa, thống nhất
giữa lợi ích giai cấp, dân tộc và nhân loại, giữa giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc và giải phóng nhân loại. Trong đó, “Nếu nói về thứ tự ưu tiên lợi ích gì là
phải dựa trên điều kiện lòch sử cụ thể, xuất phát từ cụ thể. Nếu chỉ quá nhấn mạnh
trách nhiệm bảo vệ trái đất này để rồi quên đi những điều đang nhức nhối của vấn
đề giai cấp và vấn đề dân tộc cũng là một sự ưu tiên sai lệch” [29, tr. 102].
Cũng tập trung vào lý giải những vấn đề trên, phải kể đến cuốn “Quan hệ
giai cấp – dân tộc – quốc tế” của Trần Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn


10
Xuân Sơn. Với ba chương và phần kết luận, tập thể các tác giả đã trình bày một
cách khá khái quát về các vấn đề: Vấn đề dân tộc; Quan điểm Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và quan hệ giai cấp – dân tộc; Thời đại
hiện nay và quan hệ giai cấp – dân tộc; Quan hệ dân tộc - giai cấp – quốc tế
trong cách mạng Việt Nam. Các tác giả khẳng đònh: “Nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghóa xã hội đòi hỏi và cho phép kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, kết hợp nhuần nhuyễn các nhân tố giai cấp, dân tộc, quốc tế
để tạo sức mạnh tổng hợp to lớn, đưa sự nghiệp cách mạng lớn lên, từng bước
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, phát huy cao độ
nội lực và tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, đó là chìa khóa thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh” [115, tr. 171-172].
Góp phần đi sâu nghiên cứu về giai cấp trong vấn đề quan hệ giữa lợi ích
giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại, có tác phẩm: “Biến đổi cơ cấu giai
cấp trong chủ nghóa tư bản hiện đại” do Đào Duy Quát và Cao Đức Thái chủ
biên, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2003. Với kết cấu gồm phần mở đầu
và bốn phần nội dung, cuốn sách đã trình bày những vấn đề chung về giai cấp
công nhân hiện đại, phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát
triển, và trào lưu xã hội dân chủ trong chủ nghóa tư bản hiện đại. Đây chính là

một phần của đề tài KX 06.07 thuộc chương trình khoa học cấp Nhà nước –
“Những vấn đề chủ nghóa tư bản hiện đại”, được nghiệm thu tháng 12 năm 2000.
Tư tưởng về giai cấp, dân tộc, con người và mối quan hệ giữa chúng cũng
được trình bày khá hệ thống và mang tính giáo khoa trong các Giáo trình Triết
học Mác – Lênin, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng trung ương chỉ
đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Nxb.
Chính trò quốc gia, xuất bản năm 2003. Giáo trình Triết học Mác – Lênin đã


11
dành chương XI viết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, trong đó có đề cập đến
những vấn đề về giai cấp, dân tộc và nhân loại theo quan điểm của chủ nghóa
Mác – Lênin. Giáo trình đã đưa ra các khái niệm về giai cấp, dân tộc và nhân
loại, đồng thời chỉ ra những đặc điểm, bản chất xã hội và các mối quan hệ giữa
chúng; rằng: “Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết với nhau. Song đó là những
phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau; mỗi nhân tố có vai trò lòch sử của
nó, giai cấp, dân tộc không thay thế lẫn nhau. Sẽ là sai lầm nếu tách rời giai cấp
và dân tộc hoặc đem quy mối quan hệ này vào mối quan hệ kia … sẽ không hiểu
được bản chất của vấn đề dân tộc, mối quan hệ phức tạp giữa giai cấp và dân
tộc, nếu không nhận rõ vai trò của nhân tố kinh tế - xã hội, của nhân tố giai cấp.
Quan hệ giai cấp – với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất
trong xã hội có giai cấp – là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết đònh đối với sự
hình thành dân tộc, đối với xu hướng phát triển của dân tộc, quy đònh bản chất xã
hội của dân tộc,...” [35, tr. 505].
“Trong xã hội có giai cấp, “vấn đề” giai cấp không chỉ là vấn đề riêng của
một giai cấp, tầng lớp nào đó mà là “vấn đề” của toàn nhân loại. Đấu tranh giải
phóng giai cấp, các dân tộc bò áp bức là nội dung cơ bản của quá trình giải
phóng con người khỏi sự thái hóa” [35, tr. 516].
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, do Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, xuất
bản năm 2003, cũng dành hẳn chương II để trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về

vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Trong đó giáo trình khẳng đònh
việc kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghóa xã
hội, chủ nghóa yêu nước với chủ nghóa quốc tế như là một trong những vấn đề
cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các công trình kể trên ở nhiều khía cạnh và góc độ đã trình bày khá đầy đủ
và sâu sắc về vấn đề lợi ích, mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và
lợi ích nhân loại. Đây là nguồn tư liệu quý báu để chúng tôi có thể kế thừa và


12
phát triển trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi
ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
- Mục đích của luận án
Luận án nhằm góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghóa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề
lợi ích, quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân
loại. Từ đó rút ra bài học và những giải pháp có tính đònh hướng trong việc nhận
thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và
lợi ích nhân loại trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện
nay.
- Nhiệm vụ của luận án
Từ các mục đích nêu trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
+ Trình bày nội dung cơ bản của Chủ nghóa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về lợi ích, mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và
lợi ích nhân loại.
+ Trình bày và phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi
ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong đường lối chính sách của

Đảng và trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
+ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và
lợi ích nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa.
+ Đề xuất và trình bày những giải pháp có tính đònh hướng trong việc nhận
thức và xử lý đúng đắn giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo quan điểm của chủ
nghóa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


13
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghóa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề triết học xã hội, triết học con người.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng
duy vật, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác để trình bày
luận án của mình như: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lòch sử, hệ thống hoá,
thống kê và điều tra xã hội học,....
5. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
- Luận án đã làm rõ hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghóa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi ích, mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích
giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại.
- Trên cơ sở lý luận của chủ nghóa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về phạm trù lợi ích, luận án làm rõ thực chất, nội dung mối quan hệ biện chứng
giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong bối cảnh toàn cầu
hóa và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án cũng đã đề xuất những giải pháp có tính đònh hướng về việc giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
- Trên bình diện triết học, luận án đã hệ thống hoá, làm mới và sâu sắc hơn
quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi ích, mối
quan hệ biện chứng giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại
trong bối cảnh hiện nay.


14
- Luận án có thể là một chuyên khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy
triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở Việt
Nam.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.


15

Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LI ÍCH,
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LI ÍCH GIAI CẤP,
LI ÍCH DÂN TỘC VÀ LI ÍCH NHÂN LOẠI

1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ LI ÍCH
1.1.1. Lợi ích với tính cách là một trong những động lực trực tiếp của sự
phát triển xã hội
Lợi ích là một trong những vấn đề được các nhà triết học quan tâm ngay từ
thời cổ đại. Nếu Platôn xem ý niệm “lợi ích” (trong trường hợp này đồng nghóa

với hạnh phúc, cái có lợi….) là ý niệm tối thượng, và quy đònh các phẩm hạnh của
nhà nước và công dân về nó [98], thì Arixtốt có xu hướng gắn liền ba phạm trù
“lợi ích” – “mục đích” – “chuẩn mực” với nhau. Trong khi lý giải mục đích như
nguồn gốc và kích thích tố trong hoạt động của con người, Arixtốt đã xem xét sự
hướng đích như phẩm chất bẩm sinh của bản tính con người. Mục đích là ý chí
hiện thực của con người, phản ánh sự tự thể hiện một cách tự do của con người.
Arixtốt xem nội dung cơ bản của sự hướng đích là nhận thức của con người về thế
giới xung quanh và sự thống nhất con người – tự nhiên. Không có mục đích trừu
tượng, mục đích luôn gắn với lợi ích cụ thể của con người, cái mà theo Arixtốt,
đóng vai trò là kích thích tố cho hoạt động. Còn chuẩn mực chính là cái được thừa
nhận phổ biến, trở thành thước đo hành vi. Mục đích – lợi ích – chuẩn mực, do đó,
trở thành những tính quy đònh cơ bản trong đời sống xã hội [1, tr. 35–49).


16
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như Điđơrô, Hônbách, Henvêtuýt đã có
những nỗ lực giải thích đời sống xã hội thông qua khái niệm lợi ích. Họ đem lợi
ích của con người đối lập với tiền đònh thần thánh lẫn những điều kiện ngẫu
nhiên của quá trình lòch sử. Henvêtuýt xem lợi ích là cơ sở hiện thực của đạo
đức, chính trò, chế độ xã hội. Ông viết: “Nếu giới tự nhiên phục tùng quy luật
vận động, thì thế giới tinh thần cũng không thể không phục tùng quy luật lợi ích.
Trên trái đất này lợi ích là ông thầy phù thủy làm thay hình đổi dạng bất kỳ sự
vật nào trước mắt các sinh thể” [26, tr. 45]. Tuy nhiên các nhà duy vật Pháp
không vượt qua được những quan niệm duy tâm về đời sống xã hội, họ xem xét
lợi ích xã hội như tổng số đơn giản các lợi ích cá nhân và giải thích các lợi ích cá
nhân từ tính cảm giác của con người, đại loại như “cái đói và tình yêu thống trò
thế giới”, “hoạt động của cá nhân chỉ hướng đến cái có lợi cho mình”.... C. Mác
viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghóa duy vật từ trước đến nay… là
sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể
hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của

con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan” [64, tr. 9].
Vai trò quan trọng trong sự phát triển lý luận về lợi ích thuộc về Hêghen,
nhà triết học vó đại Đức. Hêghen cho rằng không nên quy lợi ích về tính cảm
giác thô thiển, về bản tính tự nhiên của con người. Ông viết: “Việc nghiên cứu
lòch sử cận đại chứng minh rằng hoạt động của con người xuất phát từ nhu cầu
của họ, dục vọng của họ, lợi ích của họ… và chỉ có chúng mới đóng vai trò
chính” [28, tr. 20]. Trong “Hiện tượng học tinh thần” Hêghen tiếp cận lợi ích từ
quan điểm hoạt động, nghóa là xem nó như cái tạo nên kích thích tố cho hoạt
động. Hơn nữa, ông còn nhấn mạnh hoạt động lao động như hoạt động nền tảng,
là cơ sở của sự phát triển của tự ý thức tự do. Lẽ cố nhiên, theo ông không phải
lúc nào con người cũng có thể hiểu biết đầy đủ những nhu cầu và lợi ích của


17
mình. Lợi ích không đơn giản là cái con người cảm nhận trực tiếp, mà đụng
chạm đến hệ thống các quan hệ xã hội. Người ta “đạt đến sự thỏa mãn những lợi
ích của mình, nhưng nhờ đó mà còn có một cái gì đó tiếp theo được thực hiện,
một cái gì đó ẩn chứa ở họ, nhưng họ chưa ý thức được và không tính đến một
cách đầy đủ” [28, tr. 27]. Lợi ích, theo Hêghen, là cái gì đó lớn hơn là nội dung
của dự đònh và ý thức, và cái “mẩu vụn” này, thể hiện ở kết quả cuối cùng của
hành vi con người, gắn với tính sắc sảo của lý tính thế giới, với ý niệm tuyệt đối,
sự tự thể hiện trong lòch sử thông qua tính đa dạng vô cùng vô tận của các nhu
cầu và lợi ích. Đề cập đến quan hệ giữa lợi ích phổ biến và lợi ích đặc thù, ông
viết: “Mục đích của nhà nước là lợi ích phổ biến đúng nghóa, trong đó có sự lưu
giữ các lợi ích đặc thù” [27, tr. 294]. Hêghen còn cụ thể hóa vấn đề lợi ích bằng
việc nêu ra các khái niệm lợi ích nội tại, lợi ích cá nhân, lợi ích chủ quan, lợi ích
lý luận, lợi ích xã hội, lợi ích nhân dân, lợi ích nhà nước, lợi ích của người sản
xuất và lợi ích của người tiêu dùng... . Tuy nhiên quan điểm lợi ích của Hêghen
không nằm ngoài chủ nghóa duy tâm khách quan, theo đó toàn bộ thế giới, giới tự
nhiên và thực tiễn được hiểu như sự triển khai của ý niệm, tinh thần tuyệt đối. Ông

viết: “Lợi ích của ý niệm là ở quá trình mà chức năng của nó là nâng tính đơn nhất
và tính tự nhiên thông qua tính tất yếu tự nhiên và thông qua sự tự do vô thức của
các nhu cầu, đến tự do hình thức và tính phổ biến hình thức của tri thức và ý chí, để
hình thành tính chủ quan trong đặc thù của nó” [27, tr. 231].
Nhìn chung, tất cả các nhà triết học trước Mác, từ Platôn đến đỉnh cao nhất
của triết học phương Tây cận đại G.F. Hêghen đều rất quan tâm đến lợi ích và
xem nó như mệnh lệnh tuyệt đối hoặc như động lực hoạt động của con người.
Nhưng vì xuất phát điểm từ những quan niệm, lập trường duy tâm về xã hội, nên
họ đã không giải thích đúng nguồn gốc, bản chất thật sự của lợi ích. Họ cũng
chưa xem xét lợi ích với tư cách là một trong những phạm trù cơ bản của triết


18
học xã hội. Công lao lớn nhất của họ là phát hiện ra vai trò của lợi ích trong hoạt
động của con người và của đời sống xã hội.
Chủ nghóa Mác lưu giữ tất cả những mặt tích cực trong việc lý giải vấn đề
lợi ích do lòch sử tư tưởng để lại, đồng thời nhấn mạnh cơ sở khách quan của lợi
ích xã hội. Trong triết học Mác, cách hiểu về lợi ích gắn liền với cách hiểu về
con người như chủ thể hoạt động. Khái niệm “hoạt động”, theo C. Mác, dùng để
biểu thò tiền đề “của mọi tiền đề lòch sử”, cái tiền đề đưa đến sự hình thành ngay
chính con người và lòch sử loài người. Đối lập với các quan điểm duy tâm chủ
nghóa, mà ở đó mặt tinh thần của sự hoạt động được tuyệt đối hóa, còn nguồn
gốc của nó thì lại bò quy về tư tưởng của các vó nhân, chủ nghóa duy vật lòch sử
phân tích vấn đề này trên mảnh đất trần tục, hiện thực và cụ thể, xuất phát từ
việc làm sáng tỏ hoạt động thực tiễn của con người.
Vậy điểm xuất phát của chủ nghóa Mác khi tiếp cận vào lợi ích bắt đầu từ
lập trường duy vật về lòch sử. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã khẳng đònh: Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền
đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta
chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là

hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện
mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra.
Như vậy, chủ nghóa Mác xem lợi ích là nhân tố khách quan của sự phát
triển xã hội, là một hiện tượng của bản thân hiện thực. Sự xem xét này hoàn toàn
không mang tính chất siêu hình, mà làm sáng tỏ hơn thực chất và vai trò của lợi
ích trong chuỗi hệ thống nhu cầu – lợi ích – mục đích – động cơ – giá trò – chuẩn
mực. Lợi ích xuất hiện gắn liền với quá trình nhận thức của con người, và chòu
sự quy đònh của điều kiện sống và hoạt động của con người, vì thế không thể


19
mang tính chất thuần túy chủ quan, hoặc một hiện tượng chủ quan, mà có cơ sở
từ hiện thực khách quan. Nhận thức về lợi ích tác động trực tiếp đến môtíp hoạt
động, hoạch đònh mục tiêu và truyền thông tin đến cách thức xác lập các chuẩn
mực tương ứng. Nói cách khác, lợi ích là lợi ích của con người, nhưng không nảy
sinh một cách tự động trong ý thức con người, mà chòu quy đònh bởi đòa vò xã hội
khách quan của chủ thể. Tuy nhiên, lợi ích của con người lại có cơ sở từ nhu cầu
và để thỏa mãn nhu cầu đó, con người phải hành động và đó chính là hành vi
lòch sử đầu tiên của loài người, hành vi sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn
những nhu cầu ấy. Như vậy lợi ích và nhu cầu là hai phạm trù gắn liền với nhau,
chúng đều là kết quả của chính sự tác động giữa con người với con người, giữa
con người với sản xuất và môi trường. Mặt khác, nhu cầu và lợi ích lại thúc đẩy,
kích thích con người hoạt động và sáng tạo, chúng trở thành động lực của lòch sử
khi lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội nhất trí với nhau theo chiều hướng tích cực.
Các nhà kinh điển của chủ nghóa Mác còn xem lợi ích là một phạm trù
động, nghóa là nội hàm của nó không ngừng được bổ sung, mở rộng cùng tiến
trình lòch sử – xã hội, do đó họ không đưa ra một đònh nghóa cuối cùng về lợi ích,
song đã vạch ra bản chất của lợi ích, những đònh hướng thế giới quan và phương
pháp luận quan trọng để các nhà mácxít tiếp tục làm sáng tỏ và sâu sắc thêm
tùy theo điều kiện cụ thể của thời đại mình. Đó cũng là một trong những biểu

hiện của tính mở, tính sáng tạo trong chủ nghóa Mác. Về vấn đề này V.I. Lênin
nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong
xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền
móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghóa cần phải phát triển
hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu so với cuộc sống….
Lý luận của Mác chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng


20
những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp
không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga” [49, tr. 232].
Trong việc phân tích vấn đề lợi ích các nhà mácxít có cách tiếp cận về cơ
bản là đồng nhất, song vẫn tồn tại những khác biệt về mặt phương pháp luận.
Điều này hoàn toàn có thể hiểu được đối với một trong những vấn đề thiết yếu,
gắn với hoạt động và đònh hướng giá trò của con người, nhất là trong thời đại đầy
biến đôïng như thế kỷ XX và thập niên đầu thế kỷ XXI. Trong loạt bài tranh luận
xung quanh công trình của nhà nghiên cứu, Viện só T.I. Oizerman (Nga) “Chủ
nghóa Mác và chủ nghóa không tưởng” các nhà lý luận một mặt tiếp tục phê phán
sự tầm thường hóa và giáo điều hóa tư tưởng của Mác vào thời kỳ xô viết, phê
phán cả thái độ hai mặt của Oizerman về chủ nghóa Mác và hạt nhân lý luận của
nó – chủ nghóa duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử; mặt khác xem
quan niệm duy vật về lòch sử của Mác là chỉ dẫn tích cực về mặt thế giới quan
đối với cách tiếp cận hiện đại về động lực của sự phát triển xã hội, trong đó có
vấn đề nhu cầu, lợi ích, vấn đề quan hệ giai cấp. Các nhà mácxít Nga cũng nhấn
mạnh vai trò của V.I. Lênin trong việc bảo vệ và phát triển các tư tưởng nền
tảng của C. Mác và Ph. Ăngghen trong học thuyết Hình thái kinh tế – xã hội,
điều đã từng bò xem nhẹ và xuyên tạc vào những năm đầu tiên sau khi mô hình
chủ nghóa xã hội Liên Xô sụp đổ.
Trở lại vấn đề này, từ những năm 70 – 80 các nhà lý luận mácxít Liên Xô
đã lý giải vấn đề lợi ích từ nhiều bình diện khác nhau, và chính điều này đã làm

cho triết học Mác tạo được một diễn đàn tranh luận sôi nổi. Tác giả Nguyễn
Linh Khiếu đã liệt kê hai khuynh hướng cơ bản trong cuộc tranh luận này (cả ở
Liên Xô và Việt Nam) là khuynh hướng xem lợi ích là sự biểu hiện khác của
nhu cầu và khuynh hướng cho rằng mặc dù gắn bó chặt chẽ với nhu cầu, nhưng
lợi ích mang nội hàm và ngoại diên hoàn toàn mới [45, tr. 13–30]. Việc tổng hợp


×