Tải bản đầy đủ (.docx) (181 trang)

Khái quát các thị trường xuất khẩu chính của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.21 KB, 181 trang )

2010
Mục lục:
Lời mở đầu......................................................................................2
Khái quát các thị trường XK chính..............................................3
Thị trường Hoa Kỳ........................................................................7
Thị trương EU..............................................................................21
Thị trường Nhật...........................................................................37
Thị trường Trung Quốc...............................................................60
Thị trường Singapore..................................................................77
Thị trường Úc...............................................................................89
Thị trường Nga...........................................................................104
Thị trường các nước ASEAN....................................................116
Các giải pháp chung..................................................................132
Kết luận.......................................................................................134

Page 1


2010
Lời mở đầu:

V

ới xu hướng toàn cầu hóa hiện nay việc giao thương với các nước

trên thế giới đóng vai trò quan trọng, nó thúc đẩy kinh tế phát triển
và thay đổi theo chiều hướng mới. Việt Nam là nước đang trong quá
trình phát triển vì vậy hợp tác hội nhập là tất yếu.Số lượng thị
trường Việt Nam xuất khẩu đã hơn 150 nước trên thế giới. Nhưng
đâu mới là thị trường chủ lực của Viêt Nam do đó thực hiện bài tiểu
luận này cho ta một cái nhìn tổng quát về một số thị trường xuất


khẩu chủ lực của Việt Nam từ đó ta có thể đề ra những giải pháp
thích hợp cho từng thị trường nhằm làm tăng hơn nữa việc giao
thương giữa Việt Nam và các nước này.

Page 2


2010
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, hàng hóa
nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng được nhập
khẩu để đổi mới kỹ thuật - công nghệ, nhằm nâng cao năng suất, tăng
sức cạnh tranh, các loại nguyên, nhiên vật liệu mà trong nước không sản
xuất được, hoặc sản xuất được nhưng không đủ hoặc không có hiệu quả
bằng nhập khẩu thêm vào đó là các loại hàng hóa tiêu dùng để đáp ứng
nhu cầu tăng nhanh về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu
mã và cao hơn về chất lượng
Các thị trường xuất nhập khẩu chính của Việt Nam:
1.Một số thị trường nhập khẩu:

- Nguồn: Tổng cục Thống kê
Qua số liệu thống kê từ 2007- 7 tháng đầu năm 2010, có thể thấy, thị
trường nhập khẩu lớn của Việt Nam có thể kể đến Asean, Trung Quốc,
Nhật Bản , EU…
.Thị trường Trung quốc: với kim ngạch nhập khẩu cao nhất trong những
năm qua và liên tục tăng. Năm 2009, trị giá nhập khẩu từ thị trường này
lên đến trên 16 tỷ USD và chỉ mới 7 tháng 2010, giá trị nhập khẩu đã
trên 10 tỷ USD. Chúng ta nhập khẩu chủ yếu các loại nguyên phụ liệu
cho ngành dệt may, các loại linh kiện điện tử, máy móc thiết bị…

Page 3



2010
Các nước Asean: đây là thị trường có nhiều thuận lợi trong xuất
nhập khẩu của Việt Nam với kim ngạch nhập khẩu hàng năm đạt giá trị
cao. Do có ưu đãi thuế với các nước trong khu vực nên hàng hóa nhập
vào Việt Nam có tính cạnh tranh cao. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, linh kiện điện tử và các mặt
hàng tiêu dùng.
Thị trường EU: Việt Nam nhập khẩu từ EU chủ yếu là máy móc,
thiết bị công nghiệp, hóa chất, tân dược, thực phẩm chế biến, sữa…đây
là thị trường có đặt điểm công nghệ cao, có khả năng cung cấp cho Việt
Nam những máy móc thiết bị phục vụ đổi mới sản xuất.
Thị trường Nhật Bản: kể từ khi hiệp định thương mại Việt- Nhật
có hiệu lực( từ 1.10.2009) hàng công nghiệp, gồm cả phụ tùng ôtô và
sản phẩm điện tử của nước này khi vào Việt Nam được miễn hoặc giảm
thuế nhập khẩu ( tiến trình 10 năm). Đây là điều kiện thuận lợi để đẩy
mạnh thương mại hàng hóa giữa hai nước. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu
các mặt hàng máy móc thiết bị, linh kiện phụ tùng ô tô từ Nhật Bản

Page 4


2010

2. Một số thị trường xuất khẩu chính:

Các thị trường nhập xuất chủ yếu của Việt Nam từ 2007- 2009 và 7
tháng đầu năm 2010- Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn kinh tế

còn nhiều biến động khó khăn này chủ yếu là các nước ASEAN, Nhật
Bản, Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, đây là những thị trường xuất khẩu
truyền thống của Việt Nam và trong tương lai vẫn còn nhiều cơ hội phát
triển, mở rộng. Ngoài ra, Việt Nam còn có thể tiếp tục thâm nhập một số
thị trường truyền thống hoặc thị trường mới như: Nga, Trung Đông, Mỹ
La Tinh, châu Phi.
Thị trường Mỹ: là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với
giá trị xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD qua các năm. Giai đoạn 2007_2009 ,
tuy ảnh hưởng khủng hoảng trầm trọng nhưng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường này vẫn không sụt giảm đáng kể.. Mỹ là thị
trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2008 kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Mỹ lên tới 11,87 tỷ USD,
tăng 17,3% so với năm 2007. năm 2009 đạt 11,36 tỷ USD, tăng trưởng
âm so với 2008, 7 tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đã có dấu
hiệu tăng trưởng trở lại. Các mặt hàng chủ lực được định hướng xuất
Page 5


2010
khẩu vào thị trường này trong giai đoạn 2009-2010 sẽ là: dệt may, giày
dép, sản phẩm gỗ, thủy sản, cà phê, và một số các mặt hàng thuộc da.
Với ASEAN, đây là thị trường cơ cấu hàng hóa có nhiều điểm rất
giống với Việt Nam. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường ASEAN đạt trên 10 tỷ USD, tăng 41% so với năm trước. Giai
đoạn 2009-2010, các mặt hàng chủ lực vào thị trường này là: gạo, cà
phê, thủy sản, hàng dệt may, điện tử và linh kiện.
Nhật Bản, cũng là một thị trường xuất khẩu nhiều mặt hàng có thế
mạnh của Việt Nam như: dầu thô, khoáng sản, dệt may, thủy sản,…Năm
2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật đạt 8,5 tỷ USD,
tăng 40% so với 2007. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực được định hướng

đến thị trường Nhật Bản giai đoạn 2009-2010 là: dệt may, giày dép, thủy
sản, các mặt hàng cơ khí chế tạo, đồ gỗ.
Úc: là thị trường xuất siêu của Việt Nam. Kim ngạch hàng năm đạt
từ 2-4 tỷ USD. Tuy nhiên, giai đoạn 2008-2009, xuất khẩu vào thị
trường này giảm rõ rệt, từ 4,2 xuống còn 2,3 tỷ USD. Các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường này là dầu thô, hải sản và
gỗ..
Trung Quốc là một nước có chung đường biên giới với Việt Nam
và được đánh giá là một thị trường xuất khẩu quan trọng, nhiều tiềm
năng. Tuy nhiên, từ năm 2003 trở lại đây, Việt Nam liên tục phải nhập
siêu từ Trung Quốc, với kim ngạch lên tới hơn 2 tỷ USD mỗi năm. Năm
Page 6


2010
2008, tình hình có cải thiện hơn nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc cũng mới đạt 4,5 tỷ USD và 4,9 tỷ USD năm
2009. 7 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 3,4 tỷ
USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là than đá, cao su, gỗ và các sản
phẩm từ gỗ..
I. Thị trường Hoa Kỳ:
1. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ:
15 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ: ngày 11 tháng
7 năm 1995, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố bình thường hóa quan
hệ ngoại giao chính thức với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan hệ song phương giữa hai nước được tạo dựng trên những nền tảng
để xây dựng nên một quan hệ toàn diện và lâu dài, hỗ trợ cho những mục
tiêu dài hạn của cả hai quốc gia.Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn
nhất và là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam; năm 2009, Hoa
Kỳ đã đạt vị trí dẫn đầu về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Ngoài ra,

Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng cường hợp tác trên rất nhiều lĩnh vực khác,
chẳng hạn như hoạt động gìn giữ hòa bình và đào tạo, hỗ trợ nhân đạo,
giảm nhẹ thiên tai, an ninh biển, hợp tác chống khủng bố và chống ma
túy, an ninh biên giới và không phổ biến vũ khí.
10 năm kí kết hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ: kí kết
vào ngày 13/ 07/ 2000 và có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Hiệp định
này có ý nghĩa quan trọng trong phát triễn quan hệ kinh tế của 2 quốc
Page 7


2010
gia, đặt một nền tảng rất tích cực cho Việt Nam mở rộng giao thương,
thúc đẩy quá trình cải cách pháp lý, cải thiện dần môi trường đầu tư, và
thu hút FDI để tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm
qua. Đây là hiệp định thương mại song phương đầu tiênmà nội dung
được xây dựng trên nội dung của hiệp định WTO, là bước đệm có ý
nghĩa quan trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong
những năm qua và cả những năm sau này.Theo số liệu thống kê, từ năm
2001 đến 2010, giá trị thương mại hai chiều giữa hai nước đã tăng hơn
10 lần, từ khoảng hơn 1,5 tỉ đô la trong năm 2001 lên đến gần 15,4 tỉ đô
la vào năm 2009 và___ 7 tháng đầu năm 2010. Cũng trong khoảng thời
gian này, Việt Nam liên tục hưởng thặng dư thương mại với Hoa kỳ mỗi
năm, tăng từ 592,8 triệu đô la trong năm 2001 lên đến gần 9,2 tỉ đô la
trong năm 2009. Mặc dù hàng Việt Nam phải gặp trở ngại khi vào thị
trường Hoa kỳ (được thể hiện qua các vụ như tôm, cá ba sa, và dệt
may),các ngành dịch vụ của Việt Nam như bảo hiểm, ngân hàng, vận
tải... khó cạnh tranh hay sức cạnh tranh của các ngành nông nghiệp ,
hàng hóa trong nước còn kém, bức tranh toàn diện vẫn là điểm sáng nhất
trong nỗ lực xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Hơn nữa,
khi có những ưu đãi thương mại tốt hơn nữa từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam

có đầy triển vọng để thu hút các nhà đầu tư có công nghệ cao, chẳng hạn
như của Intel, vào sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ.Rõ ràng là những lợi ích trực tiếp và gián tiếp mà Việt Nam có

Page 8


2010
được trong việc mở rộng giao thương với Hoa Kỳ có tầm quan trọng đặc
biệt trong chiến lược phát triển của Việt Nam
Tình hình kinh tế Mỹ:
Từ năm 1947 đến năm 2010 tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình của Hoa
Kỳ hàng quý là 3,31%, cao lịch sử là 17,20 % vào tháng 3 năm 1950 và
mức kỷ lục thấp nhất -10,40%trong tháng 3 năm 1958. Nền kinh tế của
Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất trên thế giới với nền kinh tế định hướng
thị trường.
Sau đợt suy thoái nhẹ từ khủng hoảng dot com tháng 3 đến tháng 11 năm
2001, kinh tế Mỹ bắt đầu tăng trưởng với tốc độ trung bình là 2,9%
trong giai đoạn từ 2002 đến 2006. Trong khi đó, lạm phát về giá cả, tỷ lệ
thất nghiệp và lãi suất vẫn duy trì ở mức tương đối thấp. Bằng nhiều
biện pháp, Hoa Kỳ đã duy trì được vị thế là một nền kinh tế có tính cạnh
tranh cao, sản lượng lớn và có tầm ảnh hưởng rộng lớn nhất trên thế
giới. tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đạt 13,13 nghìn tỷ đô-la Mỹ trong
năm 2006. Với ít hơn 5% dân số thế giới, khoảng 302 triệu người, nước
Mỹ chiếm 20 đến 30% tổng GDP của toàn thế giới. - Đứng đầu về tổng
kim ngạch nhập khẩu, khoảng 2,2 nghìn tỷ đô-la Mỹ, gấp 3 kim ngạch
nhập khẩu của nước đứng thứ hai là Đức.
Khủng hoảng tài chính 2007- 2010: là một cuộc khủng hoảng bao gồm
sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình
trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước

trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ. Bong
Page 9


2010
bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã
dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng
phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và
kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng
hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những
đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở
nhiều nước trên thế giới.Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà
không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này
nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ
thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008,
hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba
các khoản này là nợ khó đòi. giữa năm 2006, lãi suất tăng lên 5,25%
khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Thị
trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt
giảm. Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt
giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan
từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến
khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến
nhiều công ty lớn phá sản. Tình trạng thị trường tài chính đóng băng
ngày càng tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh, Nhật, EU và
nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông dòng
vốn. Mỹ kể từ đầu năm đến nay đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất
cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%.
Page 10



2010
Bước vào quý IV/ 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế được đẩy lên một nấc
thang mới khi nền tài chính và kinh tế của nhiều quốc gia bị đe dọa
nghiêm trọng.Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật, và EU tuyên bố rơi
vào suy thoái. Mỹ, lần đầu tiên sau 8 năm, chính thức thừa nhận đã lâm
vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Điều tương tự cũng xảy ra với Nga,
cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Tình trạng đóng băng của hệ
thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong các hoạt động sản xuất
của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của tình
trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại
nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng
rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.

Năm 2002 2003
GDP 2.45 3.10
%
%

2004
4.40
%

2005
3.20
%

2006
3.20
%


2007
2.00
%

2008
1.1%

GDP Hoa Kỳ qua các năm- Nguồn: indexmundi.com
Page 11

2009
-2,4%


2010

Năm 2010, thời kì hậu khủng hoảng bong bóng, Hoa Kỳ đã tuột từ hạng
2 xuống hạng 4 về tính cạnh tranh kinh tế (competitive economy) trên
toàn cầu, do bảng xếp hạng hàng năm của World Economic Forum
(WEF) đưa ra. Thụy Sĩ vẫn đứng hạng nhất, như năm ngoái. Thụy Điển
xếp hạng nhì của Hoa Kỳ trước đây và Singapore lên hạng 3, Đức hạng
5 sau Mỹ. Mỹ tuột hạng là do “sự mất cân đối trong nền kinh tế vĩ mô,
các định chế công và tư nhân đều yếu kém và các thị trường tài chính rất
bấp bênh”Trong cơ cấu sản xuất của Hoa Kỳ, dịch vụ được sản xuất bởi
khu vực tư nhân chiếm 67,8% GDP của Hoa Kỳ, nông nghiệp chỉ chiếm
một phần nhỏ trong GDP nhưng các trang trại vẫn duy trì được sức
mạnh kinh tế và chính trị của mình. Hoa Kỳ tự sản xuất đủ phần lớn các
loại sản phẩm khác. nông nghiệp được cơ khí hoá cao và tạo ra một
lượng sản phẩm dư thừa đáng kể dành cho xuất khẩu. Sản xuất hàng hóa

chiếm 19,8% GDP bao gồm các ngành: ngành chế tạo, như máy tính,
ôtô, máy bay, máy thiết bị - chiếm 12,1%; xây dựng - chiếm 4,9%; khai
thác dầu mỏ, khí đốt và các hoạt động khai mỏ khác - chiếm 1,9%; nông
nghiệp chiếm ít hơn 1%.Những khu vực kinh tế phát triển mạnh mẽ nhất
là dịch vụ tài chính, các dịch vụ chuyên nghiệp, khoa học và kỹ thuật;
chế tạo sản phẩm bền vững, đặc biệt là máy tính và đồ điện tử; bất động
sản và chăm sóc y tế.Những khu vực kinh tế có tỷ lệ đóng góp trong
GDP giảm đi là nông nghiệp, khai thác mỏ, một vài ngành chế tạo khác
như ngành dệt.
Page 12


2010
Các khó khăn dài hạn mà Hoa Kỳ phải đối mặt đó là :việc đầu tư không
thích hợp vào cơ sở hạ tầng, việc tăng lên nhanh chóng của các chi phí y
tế và trợ cấp cho một dân số già, thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân
sách nghiêm trọng, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tạo nên
khoảng cách giàu nghèo rất lớn giữa các hộ gia đình có thu nhập cao và
các hộ gia đình có thu nhập thấp trong nền kinh tế. Nền kinh tế Mỹ cũng
tiêu thụ rất nhiều năng lượng ,nước Mỹ còn nhập khẩu rất nhiều năng
lượng. Gần một phần ba nguồn cung năng lượng của Mỹ được nhập
khẩu, trong đó, gần 2/3 là dầu mỏ. Sự phụ thuộc của nước Mỹ vào dầu
mỏ từ bên ngoài đã trở thành một vấn đề chính trị vô cùng quan trọng.
Từ sau khủng hoảng, Mỹ sẽ đóng một vai trò ít quan trọng hơn trong nền
kinh tế toàn cầu là một điều không thể tránh khỏi do những thay đổi về
cấu trúc giữa các quốc gia trên thế giới. Nhưng không có lý do gì để
nước Mỹ không thể tiếp tục duy trì vị trí là quốc gia thịnh vượng nhất
hành tinh.

Page 13



2010

2. Kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều giữa Việt Nam và Hoa kỳ:
Quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn năm
2005- 2009 và 7 tháng /2010.Nguồn: số liệu Tổng cục thống kê Việt
Nam.
Trong năm 2005 và 2006, tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ chỉ đạt tương ứng 5,91 tỷ USD và 7,83 tỷ
USD thì đến năm 2007, tổng trị giá hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang
Hoa Kỳ đã vượt con số 10 tỷ USD.
Năm 2008, tuy chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái kinh tế bắt
đầu tại Hoa Kỳ vào tháng 12/2007 và tiếp đến là cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu từ giữa năm 2008, nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước
vẫn có những dấu hiệu khả quan. Tổng kim ngạch buôn bán hàng hóa
hai chiều trong năm 2008 đạt 14,5 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2007.
Sang đến năm 2009, mặc dù tiếp tục gặp nhiều khó khăn do suy thoái
kinh tế nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới này vẫn đạt được 11,36 tỷ USD, giảm
Page 14


2010
nhẹ 4,3% so với kết quả thực hiện của một năm trước đó. Hoa Kỳ tiếp
tục là thị trường nhập khẩu hàng hoá lớn nhất của các nhà xuất khẩu Việt
Nam.
7 tháng đầu năm 2010, kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
với Hoa Kỳ có nhiều dấu hiệu lạc quan, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường
xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam với tổng trị giá đạt gần 7,7 tỷ

USD,. Ở chiều ngược lại, trong 7 tháng/2010, tổng trị giá hàng hoá các
công ty Việt Nam nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ đạt trên 2 tỷ USD.
Từ 2005_ 2009, Hoa Kỳ luôn luôn là thị trường giành vị trí quán quân
về tiêu thụ hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam với tỷ trọng trung bình
chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng là một trong những
thị trường chính (đứng ở vị trí thứ 7) cung cấp hàng hóa cho các nhà
nhập khẩu Việt Nam. Tỷ trọng bình quân nhập khẩu từ Hoa Kỳ cả giai
đoạn 2005- 2009 chiếm khoảng 3% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả
nước từ tất cả các thị trường. Tính chung cho cả xuất nhập khẩu thì từ
năm 2005-2008 Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ ba của các công ty
Việt Nam. Nhưng sang năm 2009, Hoa Kỳ đã vượt qua Nhật Bản vươn
lên vị trí thứ hai, chỉ sau Trung Quốc, chỉ 7 tháng 2010, thặng dư thương
mại lên đến trên 5,6 tỷ USD
A.Xuất khẩu:
Page 15


2010
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong
những năm qua bao gồm hàng dệt may, gỗ & sản phẩm gỗ, giày dép các
loại, dầu thô, hàng hải sản, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện…

Chỉ tiêu

Kim ngạch (triệu USD)

Năm

2007


Tên hàng
Hàng
dệt
may
Gỗ & sản
phẩm gỗ
Hàng giày
dép
Dầu thô
Hàng
sản

2008 2009 7
thág
2010

4.465 5.10
5
948
1.06
4
885
1.07
5
782
998

thủy 729


739

4.99
5
1.10
0
1.03
9
470
711

3.30
0
754
74
7
23
2
418

Page 16

Tỷ
trọng /kim
ngạch XK
(%)
200 7
9
thán
g

2010
44, 43,1
0
9,8
9,7
9,8
9,1
3,0
4,1
5,5
6,3

Tăng/giảm so
với
năm
trước (%)
200
9/
200
8
-2,2

7thag20
10/
7thag
2009
18,96

3,4


33,22

-3,4 21,86
0
52,9
-3,8 11,17


2010
Máy vi tính, 273
sản
phẩm
điện tử &
linh kiện
Hạt điều
228

305

433

308

4,0

42,0 27,28

2,4

-4,8 44,88


2,4

-4,7 43,85

1,8

-6,5 9,45

18,2

5,7

100

-4,3 24

3,8
267

255

184
2,2

Túi
xách, 205
ví,vali, mũ
và ô dù
Cà phê

213
Hàng hóa 1.361
khác
Tổng kim 10.
ngạch
089

235

224

187
2,0

211
1.87
0
11
869

197

139

1.93
2
11.3
56

1.38

9
7.65
8

1,7
17,
0

42,32

100

Thống kê kim ngạch, tỷ trọng kim ngạch một số nhóm hàng chính
Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2009 và 7 tháng/2010.Nguồn:
số liệu Tổng cục thống kê.
Có thể thấy, những năm qua, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính ở
Mỹ và toàn cầu, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị
trường này cũng gặp phải rất nhiều khó khăn. Tổng kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường Hoa Kỳ sụt giảm (-4,3%) năm 2009 so với 2008, tuy
nhiên, đến 7 tháng đầu năm 2010 đã có chiều tăng trưởng trở lạ, đạt mức
tăng 24% so với cùng kỳ năm trước.
Hàng dệt may: là một trong những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam,
có đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây cũng là
Page 17


2010
nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt
Nam sang Hoa Kỳ (khoảng 43% trong giai đoạn 2005-2009). Việt Nam
là sự lựa chọn thứ hai của các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ sau Trung Quốc

khi tìm kiếm nguồn cung cấp hàng từ châu Á. Đặc biệt khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của WTO nên không còn chịu sức ép về
hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính ở Mỹ lan rộng, mặt
hàng chủ lực dệt may tăng trưởng xuất khẩu từ 2007- 2008 nhưng đến
năm 2009 cũng bị sụt giảm đáng kể (-2,2%). 7 tháng đầu năm 2010, mặt
hàng này đã có sự tăng trưởng cao trở lại, tăng gần 19% so với cùng kỳ
năm trước. Đây cũng là tín hiệu đáng mừng cho ngành dệt may Việt
Nam khi mà đà tăng trưởng ở thị trường này tiếp tục tăng cao, cùng với
sự thuận lợi từ các chính sách do hiệp định thương mại song phương và
WTO mang lại( bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu, thuế quan…)
Gỗ & sản phẩm gỗ: Với nguồn cung đa dạng, nguồn nhân lực sẵn có,
ngành công nghiệp nhẹ chế biến gỗ đang trên đà phát triển hơn với tỷ
trọng giao động quanh mức khoảng 10%. Vị trí đóng góp vào tổng trị
giá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ của nhóm hàng này cũng được
cải thiện đáng kể. Các năm 2005, 2006, sản phẩm này vươn lên vị trí thứ
tư trong bảng xếp hạng và vươn lên vị trí thứ hai trong năm 2009 với
kim ngạch đạt 1,1 tỷ USD. 7 tháng đầu năm 2010, trị giá xuất khẩu của
ngành hàng này cũng đạt kết quả khả quan với 754 triệu USD, tăng hơn
30% so với cùng kỳ năm trước.
Page 18


2010
Giày dép: Cùng nằm trong nhóm hàng công nghiệp nhẹ như dệt may,
sản phẩm giày dép có mức xuất khẩu tăng trưởng khá qua các năm giai
đoạn 2005-2009. Tuy nhiên so với trị giá xuất khẩu hàng giày dép của
Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU27) thì vẫn chưa xứng
với tiềm năng của cả hai nước. Tổng trị giá xuất khẩu hàng giày dép
sang Hoa Kỳ chỉ bằng 1/3 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt

Nam sang thị trường EU. Do đó, trong thời gian tới các doanh nghiệp
giày dép cần đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường tiềm năng rất lớn này.
B.Nhập khẩu:
Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hoa Kỳ trong những
năm qua bao gồm máy móc thiết bị & dụng cụ phụ tùng, bông các loại,
chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc & nguyên liệu, nguyên phụ liệu dệt
may da giày, ...
Trong giai đoạn 2005 - 2009, cơ cấu mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ
Hoa Kỳ luôn đứng đầu là nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ
tùng và chiếm tỷ trọng khoảng 1/5 tổng trị giá hàng hoá Việt Nam nhập
khẩu từ Hoa Kỳ. 7 tháng đầu năm 2010, kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ thị trường Hoa Kỳ càng tăng cao.
Chỉ tiêu

Kim ngạch (triệu USD)

Page 19

Tỷ
Tăng/giảm so
trọng /kim với năm trước
ngạch NK (%)
(%)


2010
Năm

2007


2008

2009

331

424

716

142

255

270

45

81

195

194

125

157

64


Tên hàng
Máy móc,
TB,DC,P
T
Ô tô các
loại
Bông các
loại
Chất
dẻo,NL
Thức ăn
gia súc,
NL
Nguyên
phụ liệu
dệt may,
giày da
Máy
vi
tính,
sp
DT

linh kiện
Gỗ và NL
từ gỗ
Sữa và sp
từ sữa
Hóa chất
các loại

Hàng hóa
khác

7
2009 7
2009 7thag20
thá
thán /
10/
g
g
2008 7thag
201
201
2009
0
0
434 23,8 21,5 68,9 9,9
1
8,9

2,23 4,9

-34,8

134 6,4

6,7

-1,5


23

147

76

4,9

3,8

-6,4

28,8

140

176

283 5,9

14

25,5

189

120

133


77

75

2,6

3,7

-42,1 108

97

130

89

87

3,0

4,3

-31,3 85

97

123

104


80

2,5

4,0

-15,7 63,3

39

63

46

77

1,5

3,8

-27,6 250

36

56

58

41


3,1

2,0

66,6

568

959

1132

686

37 33,9 14,6
,4

Page 20

57,7
-27,7


2010
Tổng kim 1 700
ngạch

2 635 3009


201 100
8

100

14,1

34,35

Thống kê kim ngạch, tỷ trọng kim ngạch một số nhóm hàng chính
Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ năm 2009 và quý I/2010. Nguồn: số
liệu Tổng cục thống kê.
Dựa vào bảng số liệu trên, có thể thấy, kim ngạch nhập khẩu từ Hoa Kỳ
của Việt Nam ngày càng tăng. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là các
loại máy móc thiết bị công nghệ cao, ô tô, các nguyên phụ liệu phục vụ
cho sản xuất.
3 .Thành công, thuận lợi:
Thành công:
Với 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao, 10 năm hợp tác thương
mại song phương, Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam trong nhiều năm liền. Kim ngạch 2 chiều của Việt Nam – Hoa
Kỳ tăng từ 1,4 tỷ USD năm 2001 lên trên 14 tỷ USD năm 2009 và 9 tỷ
USD 7 tháng đầu năm 2010.
Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã có ảnh hưởng tích cực đối
với nền kinh tế Việt Nam trong nhiều lĩnh vực: đẩy mạnh thương mại,
tạo đầu ra cho sản phẩm, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu
tư nước ngoài không chỉ của Hoa Kỳ mà cả các nước khác, mở đường
cho sự phát triển ở các lĩnh vực kinh tế khác như hàng không, nông
nghiệp...
Page 21



2010
Thuận lợi:
Được hưởng các quy chế tối huệ quốc, chế độ ưu đãi phổ cập, từ đó
hàng hóa, các doanh nghiệp đầu tư Việt Nam được bình đẳng hơn trên
thị trường này.
Hoa Kỳ là thị trường có nhu cầu nhập khẩu rất lớn và đa dạng, nhất là
đối với những mặt hàng mà Việt Nam đang có tiềm năng xuất khẩu lớn
như dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủy sản, điện tử, điện và gia công cơ khí.
Việc ký kết và thực thi thành công hiệp định thương mại song phương
nhiều năm qua cũng góp phần nâng cao uy tín đối ngoại của Việt Nam
trên trường thế giới.
Mặc dù khủng hoảng kéo dài ở Mỹ nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng
Việt vào thị trường này vẫn tăng trưởng tốt. Năm 2010, kinh tế Mỹ đang
dần hồi phục sau cơn khủng hoảng tài chính kéo dài, điều này dẫn đến
việc gia tăng nhu cầu nhập khẩu các thị trường này. Bằng chứng là 7
tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đã tăng
24% so với cùng kỳ năm trước.
Môi trường kinh tế Việt Nam từng bước được cải thiện thu hút đầu tư
nước ngoài đáng kể từ các công ty quốc tế cũng đang tạo ra những lợi
ích xã hội đáng kể.
4 Hạn chế, khó khăn:
Hạn chế:
Việt Nam thường xuất các mặt hàng nông sản dưới dạng nguyên liệu
nhiều hơn là qua chế biến. Tuy như vậy sẽ dễ dàng hơn cho việc xuất
Page 22


2010

khẩu vào thị trường này vì không phải chịu các quy định nghiêm ngặt
của thị trường Mỹ về vệ sinh, an toàn thực phẩm. Tuy nhiên điều này sẽ
làm cho các nhà xuất khẩu mất đi một khoảng lời có thể kiếm được qua
việc chế biến.
Một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa thực sự chuyên
nghiệp và chưa có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vì
vậy khi có biến động về nguồn thu mua hàng trong nước, các doanh
nghiệp dễ rơi vào tình trạng không giao hàng đúng hạn, chất lượng hàng
không đảm bảo như cam kết dẫn đến ảnh hưởng uy tín chung hay dễ bị
lừa trong các hợp đồng.
Khó khăn:
Quy mô sản xuất nhỏ và dựa vào gia công thuần túy là những trở ngại
lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với các đối tác
nước ngoài nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Với thực tế khả năng nguồn
vốn trong nước có hạn, các doanh nghiệp càng gặp khó khăn trong việc
thực hiện các hợp đồng lớn, đảm bảo yêu cầu chất lượng của đối tác,điều
này làm hạn chế sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của sản
phẩm trên thị trường.
Một trong nhưng khó khăn mà các doanh nghiệp thường vấp phải đó là
những qui định về thuế chống phá giá trên thị trường Mỹ. Điều này đã
dẫn đến những vụ kiện chống phá giá trong một thời gian dài, gây ảnh
hưởng không ít tới hiệu quả sản xuất kinh doanh cho nhiều doanh
nghiệp. Thậm chí là gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp xuất nhập
Page 23


2010
khẩu, những vụ kiện bán phá giá tôm hay cá basa của Việt Nam sang thị
trường Mỹ, dẫn đến phía Mỹ đã đưa ra những qui định về chống phá giá
đối với mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam hay một số vụ giam giữ hàng

nhập khẩu từ Việt Nam ở Mỹ do vi phạm những qui định của Cơ quan
Quản lí Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA).
Mỹ cũng đưa ra một số quy định mới trong quy trình nhập khẩu hàng
hoá như:. Luật Lacey liên quan đến cấm buôn bán động vật hoang dã,
cây trồng, thủy sản có nguồn gốc thiên nhiên. Điều này đòi hỏi các nhà
XK Việt Nam phải tuân thủ trong quy trình sản xuất và XK, đặc biệt là
các chứng từ liên quan. Trong khi vấn đề này đang là một trong những
yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam.
Ngành dệt may cũng bị kiểm tra chăt chẽ về quy định chất lượng sản
phẩm.
Hàng hóa Việt Nam xuất ra nước ngoài chủ yếu là hình thức xuất khẩu,
không có cơ sở phân phối ngoài nước nên giảm tính cạnh tranh do phải
qua nhiều trung gian.
Bên cạnh đó, Mỹ là một trong những thị trường chịu tác động mạnh nhất
của khủng hoảng tài chính khiến sức mua giảm mạnh
5. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ:
Cải thiện chất lượng sản phẩm xuất khẩu: Trong những năm tới, muốn
tăng được kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ là thị trường có nhu cầu
nhập khẩu rất lớn, điều cốt lõi là ta phải tăng được nguồn cung có sức

Page 24


2010
cạnh tranh, nhất là những mặt hàng công nghiệp chế biến và chế tạo có
hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Để khắc phục trở ngại về quy mô sản xuất, các doanh nghiệp phải tổ
chức lại sản xuất để đảm bảo và ổn định chất lượng hàng hóa, mở rộng
quy mô và hạ giá thành sản xuất, đặc biệt là phải tổ chức tự cung ứng
được đầu vào của sản xuất để có thể đón xu hướng chuyển dịch đơn

hàng từ các nước khác vào Việt Nam và trở thành đối tác sản xuất trực
tiếp và lâu dài cho các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ.
Nâng cao thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu: sản phẩm xuất vào thị
trường khó tính như Hoa Kỳ thì ngoài chất lượng cao, đáp ứng được các
yêu cầu kỹ thuật thì để nâng cao sức cạnh tranh, hàng hóa cần phải được
chú trọng đến bao bì, nhãn mác cũng như sự đa dạng, thông tin đầy đủ.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần thực hiệntốt công tác nghiên cứu thị
trường để đảm bảo có những dự báo chính xác về nhu cầu cũng như thị
hiếu thường xuyên thay đổi của nước có thu nhập cao này. Cần xây dựng
các phòng giao dịch, hệ thống phân phối tốt để có thể cạnh tranh với các
sản phẩm nội địa chất lượng vốn đã cao.
Nhà nước phải tập trung đổi mới quản lý, đơn giản các thủ tục hành
chính, ban hành các luật pháp, chính sách tháo gỡ khó khăn và tạo môi
trường thuận lợi cho kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển
nguồn nhân lực để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và thu hút
các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra những

Page 25


×