Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Một số khía cạnh cơ bản của mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa thương mại và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.35 KB, 34 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân,
thương mại ngày càng khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của
mình. Mặt khác, sự tăng trưởng mạnh mẽ này cũng đem lại những tác
động sâu rộng đến những hoạt động và lĩnh vực khác. Ví dụ, xuất phát
từ các chính sách thương mại tác động đến hoạt động thương mại và từ
đó có tác động nhất định đến hoạt động bảo vệ môi trường như: Chính
sách cấm buôn bán động vật quý hiếm tác động đến việc săn bắt động
vật quý hiếm giảm có tác dụng bảo vệ hệ sinh thái hay chính sách cho
phép xuất khẩu than khiến cho hoạt động khai thác than diễn ra nhiều
hơn gây suy thoái tài nguyên thiên nhiên,…Thương mại và môi trường
là một trong nhưng mối quan hệ phức tạp nhất của quan hệ kinh tếmôi trường và phát triển bền vững. Vì vậy, việc giải quyết và xử lí mối
quan hệ giữa thương mại và môi trường là một trong những vấn đề lớn
của toàn thể loài người và của mỗi quốc gia trong thời đại mới.
Đề án này sẽ nghiên cứu về “Một số khía cạnh cơ bản của mối
quan hệ tác động lẫn nhau giữa Thương mại và Môi trường” (ở đây
là môi trường tự nhiên, từ sau sẽ gọi tắt là môi trường) bao gồm những
vấn đề chủ yếu về quan hệthương mại và môi trường,cùng với thực
trạng phát triển thương mại nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ở nước
ta hiện nay.

11


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
THƯƠNG MẠI VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI BỀN
VỮNG
1.1.1. Thương mại là gì?
1.1.1.1. Điều kiện lịch sử của thương mại
Từ thời kì chiếm hữu nô lệ, trong xã hội đã có sự phân công giữa
chăn nuôi và trồng trọt. Những người chủ nô chiếm hữu sản phẩm


thặng dư của nô lệ làm ra và bắt đầu có những sản phẩm thừa hay còn
gọi là của cải. Sản phẩm thừa tích trữ ngày càng nhiều, xã hội bắt đầu
có nhu cầu trao đổi hàng hóa (H-H). Sự trao đổi này diễn ra ngẫu
nhiên và dần dần nó phát triển đi đôi với sự phát triển của sản xuất
hàng hóa. Khi trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nhất định đã
xuất hiện tiền tệ làm chức năng và phương tiện lưu thông thì trao đổi
hàng hóa được gọi là lưu thông hàng hóa (H-T-H).
Quá trình lưu thông hàng hóa tất yếu đòi hỏi một sự hao phí lao
động nhất định trong quan hệ trao đổi hàng hóa trực tiếp giữa người
sản xuất với người tiêu dùng và cả trong việc thực hiện những hoạt
động mua-bán giữa họ với nhau. Lao động đó cần thiết và ích lợi cho
xã hội. Cũng giống như lao động ở các lĩnh vực khác, lao động trong
lưu thông hàng hóa luôn đòi hỏi được chuyên môn hóa cao. Nếu như
mọi chức năng lưu thông do chính người sản xuất và người tiêu dung
thực hiện thì việc chuyên môn hóa lao động xã hội rất bị hạn chế. Việc
phân công lao động xã hội không cụ thể, chi tiết ngay từ đầu giữa các
đơn vị sản xuất dẫn tới hậu quả là năng xuất lao động sẽ rất thấp, hiệu
quả không cao. Sự xuất hiện mối quan hệ tổng hợp đó trong các doanh
nghiệp, các hộ tiêu dung dẫn tới sự ra đời các ngành lưu thông hàng
hóa- các ngành thương mại- dịch vụ. Cùng với sự phát triển của nền
sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học kĩ thuật, các ngành thương mạidịch vụ phát triển hết sức đa dạng và phong phú.
1.1.1.2. Khái niệm thương mại
Thương mại ra đời không phủ nhận lưu thông hàng hóa mà coi lưu
thông hàng hóa là một chức năng độc lập của mình. Trong thời kì bao
1.1.

22


cấp, khái niệm thương mại chỉ được khuôn trong hoạt động của ngành:

Thương nghiệp, cung ứng vật tư và xuất khẩu (bao gồm các hành vi
mua hàng hóa để bán; các dịch vụ sửa chữa; các dịch vụ ăn uống,
khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ). Tương ứng quản lí nhà nước về thương
mại cơ bản cũng chỉ giới hạn quản lí các hành vi đó.
Tuy nhiên, thương nghiệp, cung ứng vật tư và xuất khẩu chỉ là ba
ngành của nền kinh tế quốc dân, còn thương mại là hành vi của nhiều
ngành từ sản xuất đến tiêu dung. Vì vậy, khái niệm thương mại cần
được hiểu cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, Thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh
trên thị trường. Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được hiểu như
là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường. Theo luật Thương mại năm 2005, hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác. Theo quy định của Tổ chức thương
mại thế giới thì thương mại bao gồm: Thương mại hàng hóa; thương
mại dịch vụ; đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Theo nghĩa hẹp, Thương mại là quá trình mua bán hàng hóa dịch vụ
trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa. Nếu hoạt
động mua bán hàng hóa dịch vụ có một bên là người nước ngoài thì
người ta gọi đó là thương mại quốc tế. Với cách tiếp cận này thì các
hành vi thương mại bao gồm: mua bán hàng hóa; đại diện cho thương
nhân; môi giới thương mại; ủy thác mua bán hàng hóa; gia công
thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giám định
hàng hóa; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày giới thiệu
hàng hóa; hội chợ triển làm thương mại; dịch vụ phát triển kinh
doanh…
1.1.2. Phát triển thương mại bền vững
Theo Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future)
của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới-WCED (nay là Ủy ban

Brundtland) ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp
33


ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..."
Từ đó, ta có thể rút ra được khái niệm phát triển thương mại bền
vững là sự phát triển của các hoạt động trao đổi hàng hóa- dịch vụ trên
thị trường với mục tiêu sinh lợi nhưng không chỉ đáp ứng các nhu cầu
hiện tại mà còn không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nói cách khác, phát triển thương
mại bền vững phải bảo đảm có sự phát triển xã hội công bằng và môi
trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành
phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay
nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực: thương mại- xã
hội - môi trường.
1.2. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.2.1. Khái niệm môi trường và môi trường tự nhiên
1.2.1.1. Khái niệm

Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam: "Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật
thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên."
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý,
hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít
nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông,
biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên
cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn
nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho

sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung
cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm
phong phú.
1.2.1.2. Tầm quan trọng của môi trường đối với con người
Thứ nhất phải nhắc đến môi trường là nơi chứa đựng và cung cấp
tài nguyên cho đời sống sản xuất của con người chúng ta. Khi con xã
hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng tăng số
44


lượng tài nguyên được khai thác tăng lên càng cao để đáp độ phức tạp
phát triển của xã hội.Chức năng này của môi trường là chức năng sản
xuất tự nhiên:Rừng núi là nơi cung cấp nước với đa dạng sinh học và
độ phì nhiêu cho đất đai,nguồn gỗ và củi phục vụ cho đời sống,dược
liệu... cải thiện điều kiện sinh thái. Các ao hồ sông ngòi cung cấp nước
dinh dưỡng là nơi tồn tại phát triển cho thủy sản. Các động thực vật
cung cấp nguồn lương thực,thực phẩm thiết yếu cho con người…
Thứ hai, môi trường một không gian sống lý tưởng cho sinh vật và
con người. Cuộc sống hàng ngày của con người cần một không gian
nhất định để hoạt động như nghỉ ngơi làm việc... Như vậy môi trường
đòi hỏi phải đủ tiêu chuẩn về các mặt sinh lý hóa. Không gian sống
của con người thay đổi liên tục theo sự phá triển của công nghệ khoa
học.Như ngày nay việc xây dựng hệ thống cống rãnh để đáp ứng được
sự lưu thông của nước thải sản xuất của con người để tránh phải thông
tắc cống như trước kia.
Thứ ba, chứa đựng chất thải đó là chức năng sống còn của môi
trường. Trong quá trình phá triển con người luôn luôn đào thải các chất
ra ngoài môi trường và được phân hủy dưới tác động của vi sinh
vật.Trong những thời kì còn chưa phát triển quá trình phân hủy chất
thải đa phần là để tự nhiên,nhưng giớ đây với sự gia tăng dân số chóng

mặt và vựa phá triển của khoa học kĩ thuật và đô thị hóa thì lượng rác
thải không ngừng được thải ra làm cho lượng chất thải quá tải gây ô
nhiễm nghiêm trọng.Nhiều nơi rác thải được thải ra đặc biệt là rác thải
sản xuất và sinh hoạt nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng do rác thải như
gây ô nhiễm nguồn nước,tắc cống ngầm... Để giảm được tình trạng đó
chúng ta phải thu gom xử lý đúng như tại gia đình chúng ta lên hút bể
phốt thường xuyên để tránh gây tràn ứ ô nhiễm nguồn nước...
Thứ tư, môi trường là nơi lưu trữ cung cấp thông tin cho con người.
Môi trường là nơi ghi chếp lưu giữ lịch sử tiến hóa phá triển của con
người trên trái đất. Cung cấp các tín hiệu báo hiệu hiểm họa sớm cho
55


con người và sinh vật sống trước những thảm họa từ thiên nhiên. Là
nơi gìn giữ các giá trị thẩm mỹ, tôn giáo,văn hóa của con người...
Môi trường còn bảo vệ con người và sinh vật trước những tác động
từ bên ngoài.Tóm lại môi trường là nơi mà chúng ta cần phải luôn luôn
bảo vệ giữ gìn vì môi trường là nguồn sống thiết thực và mang lại cho
con người sự phát triển phồn thịnh nhất.
1.2.2. Bảo vệ môi trường

Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong
lành, sạch đẹp; cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái; ngăn
chặn và khắc phục những hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây
ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lí tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên.
Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài nguyên và môi trường,
thống nhất quản lí bảo vệ môi trường trong cả nước, có chính sách đầu
tư, có trách nhiệm tổ chức thực hiện giáo dục, đào tạo, nghiên cứu
khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và pháp luật bảo

vệ môi trường. Theo Điều 6 Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam ghi
rõ: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân
phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ
môi trường, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường”.

66


CHƯƠNG 2: QUAN HỆ TƯƠNG TÁC GIỮA PHÁT TRIỂN
THƯƠNG MẠI VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
NHỮNG KHÍA CẠNH TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN
THƯƠNG MẠI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG
Thương mại và Môi trường là một trong những mối quan hệ phức
tạp của quan hệ kinh tế- môi trường và phát triển bền vững. Không thể
bỏ qua những đóng góp quan trọng của thương mại trong quá trình
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội; mức sống và nhu cầu của con
người ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, các hoạt động thương mại
cũng tạo những ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên, môi
trường sống của con người trên toàn thế giới. Tác động của phát triển
thương mại đến môi trường thể hiện dưới 3 khía cạnh chủ yếu sau:
1.1.1 Tác động của hàng hóa
Cùng với sự phát triển của các hoạt động thương mại, các doanh
nghiệp ngày càng đầu tư sản xuất các loại sản phẩm mới, hàng hóa
mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Bên cạnh những
sản phẩm chất lượng cao, thân thiện với môi trường thì cũng xuất hiện
nhiều loại hàng hóa có khả năng tác động xấu đến khí quyển, môi
trường do cạnh tranh về giá. Ngoài ra, thương mại phát triển kéo theo
sự gia tang sản xuất các loại hàng hóa từ đó cũng dẫn đến việc khai

thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây biến đổi khí hậu.
1.1.

1.1.2 Tác động của công nghệ

Tự do hóa thương mại khuyến khích chuyển giao công nghệ sản
xuất. Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng hơn đến việc đầu tư các
công nghệ sạch, tiên tiến, gần gũi với môi trường. Việc tích cực cải
tiến công nghệ không chỉ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm nguyên vật
liệu tiêu thụ cho sản xuất, tăng thêm lợi nhuận và giảm sức ép cạnh
tranh mà còn góp phần đáng kể trong việc giảm lượng chất thải ra môi
trường vì cùng với lợi nhuận thu được, các doanh nghiệp cũng sẵn
sàng chi trả thêm cho công tác xử lí chất thải, ô nhiễm.
77


Tuy nhiên, quá trình tự do hóa thương mại cũng dẫn đến việc các
công nghệ, máy móc lạc hậu được chuyển giao, xuất nhập khẩu giữa
các nước làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và còn hủy hoại
những phương pháp sản xuất truyền thống thân thiện với môi trường.
1.1.3. Tác động của cơ cấu thương mại
Tự do hóa thương mại sẽ dẫn tới những thay đổi trong cơ cấu kinh
tế của mỗi quốc gia, thúc đẩy các nước sản xuất nhiều hơn những mặt
hàng mà họ có thế mạnh hoặc có sẵn nguồn nguyên liệu tự nhiên.
Đối với các thị trường mà người tiêu dùng có nhu cầu cao đối với
các sản phẩm xanh (green goods) thì sẽ dẫn tới những thay đổi tích
cực khi các nhà xuất nhập khẩu đáp ứng theo đòi hỏi thị trường bằng
cách phát triển buôn bán các loại hàng hóa phù hợp yêu cầu đó, dẫn
đến thay đổi cơ cấu thương mại theo chiều hướng gia tăng các sản
phẩm thân thiện môi trường.

Mặt khác, khi mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của nước sản xuất dựa
vào khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có hay bản thân
quá trình sản xuất mặt hàng đó gây hại cho môi trường thì tự do hóa
thương mại cũng đồng nghĩa với ô nhiễm, vì mục đích của thương mại
là lợi nhuận nên cơ cấu thương mại sẽ đi theo chiều hướng gia tăng
các sản phẩm gây hại đó, suy thoái và sự cố môi trường có nguy cơ
xảy ra nhiều hơn và ở mức độ lớn hơn.
Tuy rằng, phát triển thương mại sẽ bù đắp cho môi trường ở chừng
mực nào đó bằng nguồn lợi nhuận thu được nhưng hậu quả mà môi
trường phải gánh chịu vẫ là khó tránh khỏi ngay cả khi có những quy
định, luật lệ chặt chẽ. Vì vậy, việc giải quyết và xử lí mối quan hệ giữa
phát triển thương mại và bảo vệ mƯôi trường là một trong những vấn
đề lớn của nhân loại, không chỉ riêng mỗi quốc gia mà còn trên toàn
thế giới trong thế kỷ XXI.
1.2.

ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA THƯƠNG
MẠI ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG
88


Xu thế toàn cầu hóa thúc đẩy quá trình tự do háo thương mại, tạo
điều kiện cho các quốc qia và vùng lãnh thổ xích lại gần nhau, liên kết
và xâm nhập lẫn nhau. Trong điều kiện này, phát triển thương mại sẽ
mang đến những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với bảo vệ môi
trường phụ thuộc vào các chính sách và tính hiệu quả của nó.
1.2.1. Ảnh hưởng tích cực của thương mại tới môi trường

Hoạt động thương mại đem lại lợi ích cho tất cả các đối tác tham
gia vào quá trình này. Thương mại và chuyên môn hóa sản xuất sẽ tạo

ra sản lượng lớn cho xã hội, phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước
tham gia vào quá trình thương mại quốc tế. Tự do hóa thương mại là
một yếu tố đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế cũng như nâng cao mức
sống của người dân ở các nước, các khu vực có nền kinh tế mở. Sự
tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra cơ hội cung cấp thêm các nguồn lực cho
việc bảo vệ môi trường. Dựa trên quan điểm đó, Hiệp định chung về
thuế quan và mậu dịch (General Agreement on Tariffs and Trade –
GATT) đã công bố một báo cáo đặc biệt về thương mại và môi trường
với những luận điểm cơ bản sau:
- Khi thu nhập tăng, mỗi người dân bình thường sẽ sẵn lòng chấp

nhận các hàng hóa chất lượng cao, thân thiện với môi trường;
nghĩa là hàng hóa môi trường có độ co giãn theo thu nhập rất
cao.
- Công nghệ sản xuất ít gây tổn hại đến môi trường sẽ được phát
triển tại những nước có Luật bảo vệ môi trường nghiêm ngặt và
tự do hóa thương mại là con đường phù hợp nhất để chuyển giao
và truyền bá những công nghệ đó.
- Tự do hóa thương mại tạo cơ hội cho người tiêu dùng có quyền
lựa chọn các sản phẩm xanh và sạch. Một khi thu nhập của người
dân tăng, cùng với ý thức xã hội phát triển, nhu cầu về các loại
hàng hóa và dịch vụ môi trường cũng tăng theo. Do vậy, Nhà
nước có thể càng ngày nâng cao các tiêu chuẩn về môi trường.
99


- Tự do hóa thương mại sẽ tháo bỏ cac khoản trợ cấp vốn là rào

chắn thương mại, điều đó tác dụng tích cực đến việc bảo vệ môi
trường. Chính sách nông nghiệp chung (Common Agricultural

Plicy – CAP) là thí dụ điển hình về việc xóa bỏ trợ cấp theo thời
gian.
- Sự hợp tác đa phương là vô cùng cần thiết để giải quyết các vấn
đề môi trường và tự do hóa thương mại sẽ tạo ra bầu không khí
tốt đẹp nhất cho sự hợp tác đó.
Trên cơ sở của những lập luận nêu trên, GATT cho rằng tự do hóa
thương mại có nhiều ưu điểm, góp phần tích cực ngay cả trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường, chính vì vậy, các luật lệ, quy tắc thương mại
cần cởi mở hơn nữa để thương mại phát huy hết tác dụng của mình
đặc biệt là đối với việc bảo vệ môi trường.
1.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của thương mại đến môi trường

Kể từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động thương mại và
dịch vụ của Việt Nam đã phát triển khá nhanh với những đóng góp
đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, xét
dưới góc độ môi trường, không thể phủ nhận những tác động xấu và
những bất cập do hoạt động thương mại gây ra.
Tự do hóa thương mại một mặt làm tăng trình độ chuyên môn hóa
sản xuất, mặt khác cũng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho môi trường.
Đối với các nước đang phát triển chuyên môn hóa sản xuất tập trung
chủ yếu vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, do đó sẽ đẩy nhanh sự
tàn phá đối với môi trường. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy rằng,
lợi ích có được từ tự do hóa thương mại luôn đi kèm với các thiệt hại
gây ra cho môi trường. Ảnh hưởng tiêu cực của phát triển thương mại
đối với môi trường tự nhiên diễn ra rất đa dạng, chúng được thể hiện
cơ bản ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, thương mại là cơ chế luân chuyển hang hóa và dịch vụ
sản xuất từ địa điểm này sang tiêu dùng tại những địa điểm khác.
Song, nếu các hàng hóa xuất khẩu được sản xuất ồ ạt, khai thác tối đa
1010



tài nguyên thiên nhiên và gậy ô nhiễm môi trường được chú trọng
nhiều hơn so với các loại hang hóa phục vụ cho tiêu dung trong nước
thì thương mại sẽ gậy ra hậu quả nghiêm trọng cho môi trường.
Thứ hai, tụ do hóa thương mại có xu hướng làm gia tang các hoạt
động kinh tế. Điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều hơn nữa những loại
nguyên liệu, năng lượng thiên nhiên bị cuốn vào các hoạt động sản
xuất, buôn bán này. Sự tăng trưởng kinh tế liên tục theo hình thức này
là nguy cơ gây ra thiệt hại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên.
Thứ ba, do tăng khả năng hoạt động thương mại nên đã mở rộng
các hoạt động kinh tế, điều này sẽ kéo theo nhiều thay đổi trong việc
sở hữu đất đai, quyền tài sản cũng như hình thức sử dụng đất, trực tiếp
hay gián tiếp đều đe dọa đến môi trường. Vấn đề này ít được quan tâm
khi nghiên cứu ảnh hưởng tiêu cực của thương mại đến môi trường.
Thị trường nước ta những năm vừa qua phát triển khá nhanh, hàng
hóa phong phú, lưu thong thong suốt đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày
càng tăng của người tiêu dung. Tuy nhiên sự phát triển mạnh mẽ ấy
của thị trường bao giờ cũng kèm theo những vấn đề nan giải về môi
trường, thể hiện trên một số mặt sau:
- Hàng giả vẫn xuất hiện khá nhiều bất chấp sự cảnh báo, xử phạt

-

của các cơ quan chức năng, phản ánh của báo chí, truyền hính
cũng như sự lên án của dư luận xã hội.
Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo. Hóa chất cấm, phẩm
màu vẫn sử dụng tràn lan trong chế biến thực phẩm.
Kinh doanh chợ, nhà hàng, khu giết mổ gia súc, gia cầm gây ô

nhiễm ở nhiều nơi.
Gia cầm nhập lậu không rõ nguồn gốc xuất sứ vẫn được đưa vào
lưu thong tiêu thụ.
Động vật hoang dã vẫn bị săn bắt và bày bán công khai trên các
chợ, đường phố nhiều tỉnh thành.
1111


- Nhu cầu cao về đồ gỗ gây nên nạn chặt phá rừng ngày một

nghiêm trọng.
- Kinh doanh các mặt hàng xăng, dầu, bao bì ni lon, hóa chất cũng
gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.
1.3.

NHỮNG THÁCH THỨC MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI CỦA NƯỚC TA NHỮNG NĂM TỚI

Xu hướng toàn cấu hóa thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại
phát triển cũng đồng thời dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường từ bên
ngoài hay ô nhiễm môi trường xuyên quốc giá. Trong những năm tới,
Việt nam sẽ ngày một hôi nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới cũng
như khu vực, thực hiện thêm nhiều những cam kết song phương, đa
phương. Vì thế việc kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi trường từ bên
ngoài là hết sức quan trọng. Đây cũng là bài toán khó cho các cấp quản
lí để làm sao cho Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi các loại hang hóa,
sản phẩm có hại cho môi trường nhập khẩu vào trong thời kì mở cửa
thị trường cũng như nới lỏng các quy chế, quy định quản lí xuất nhập
khẩu.
Không chỉ vậy, trong những thập kỉ tới, đẩy mạnh xuất khẩu được

xem là định hướng chiến lược để phát triển kinh tế Việt Nam với mục
tiêu gia tăng tốc độ xuất nhập khẩu 12-14% mỗi năm. Điều này đồng
nghĩa với việc chúng ta sẽ phải khai thác triệt để mọi nguồn lực tự
nhiên sẵn có phục vụ sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt kể cả nguồn tài
nguyên không thể tái tạo lại được. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Việt Nam
phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu theo
hướng sử dụng những công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nguyên vật liệu,
tránh gây khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều này sẽ
ảnh hưởng lớn đến phát triển thương mại bền vững trong tương lai.
Vấn đề đặt ra là cần có chính sách thương mại hợp lí.
Việt Nam là một nước xuất khẩu có lợi thế về các mặt hang nông,
thủy hải sản, đây cũng là những mặt hang nhạy cảm với môi trường.
1212


Bên cạnh đó, chúng ta cũng bị hạn chế về trình độ thông tin, khoa học
kĩ thuật, mức độ nhận thức của doanh nghiệp hay kinh nghiệm để giải
quyết những tranh chấp xung quanh vấn đề môi trường. Đặt trong
hoàn cảnh ngày nay, khi các chính sách, quy định về môi trường trong
thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, nghiêm ngặt và chặt chẽ yêu
cầu về bảo vệ môi trường của các nước nhập khẩu thì đây sẽ là thách
thức lớn đối với các doanh nghiệp thương mại Việt Nam. Trong bối
cảnh đó, Việt Nam cần phải có những chính sách thương mại để đối
phó và vượt qua rào cản về môi trường để bảo vệ và nâng cao sức cạnh
tranh của hang xuất khẩu.
Tự do hóa thương mại đem đến sự xuất hiện của nhiều những loại
hình dịch vụ mới, tác động đến nhu cầu tiêu dung của người dân. Một
mặt, quá trình này sẽ tạo ra những tiền đề để thay đổi nhận thức của
người dân đối với vấn đề bảo vệ môi trường. Nhưng mặt khác, nếu
như không có sự quản lí và kiểm soát chặt chẽ thì những loại hình dịch

vụ phát triển như lưu thông hàng hóa – đặc biệt là các chất gây ô
nhiễm như xăng, dầu, hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống chợ,
dịch vụ ăn uống, trung tâm giết mổ, các cơ sở sản xuất, chế biến…sẽ
là yếu tố gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh những mặt
trái của cơ chế thị trường như nạn hàng giả, hàng nhái, buôn lậu cũng
sẽ bộc lộ ngày càng nhiều. Do đó chính sách thương mại và môi rường
trong những năm tới cần phải cải thiện theo hướng đẩy mạnh cơ chế
thị trường cũng với ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường từ việc
xuất hiện ngày càng nhiều những loại hình dịch vụ tiêu dùng.
Những thách thức từ môi trường nói trên sẽ tác động đến nhiều mặt
đối với phát triển thương mại trong những năm tới. Việt Nam sẽ phải
đối mặt với ngày càng nhiều hơn những khó khăn trong phát triển
thương mại đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường. Đó là sức ép phát
triển kinh tế tốc độ cao và bền vững, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển cơ chế thị trường.

1313


Khuyến khích tự do hóa thương mại trong khi vẫn duy trì và tăng
cường bảo vệ môi trường và các nguồn lợi tự nhiên là một trong những
thách thức lớn của thập kỉ chúng ta đang sống. Theo tính toán của các
chuyên gia nước ngoài, nếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ chất thải ô
nhiễm tằng gấp 3 đến 5 lần, GDP tăng 1% thì chất thải tăng 3%. Lần
đầu tiên, quốc tế đã có một tính toán về hậu quả của sự phá hủy môi
trường. Giá phải trả cho việc tàn phá thiên nhiên cho đến năm 2050 có
thể lên đến 2000 tỷ euro. Những kết quả tính toán mơi nhất vừa được
ông Pavan Sukhdev – trưởng phòng thị trường toàn cầu của Deutsche
Bank công bố tại hôi nghị bảo vệ đa dạng sinh học diễn ra tại Bon.
Theo đó nếu như cứ tiếp tục phá rừng không kiềm chế, tổng sản phẩm

quốc nội của toàn thế giới đến năm 2050 sẽ ít hơn 6% so với trường
hợp bảo tồn rừng – tương ứng 2000 tỷ euro. Nếu cứ tiếp tục tình trạng
này, chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt cho tương lai.
Gia tăng các hoạt động thương mại phải đi đôi với việc bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tinh
thần chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-6-1998 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính
trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Đối với Việt Nam, kể từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt
động thương mại và dịch vụ đã phát triển với tốc độ khá nhanh và có
những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, xét dưới góc độ môi trường, trên nhiều khía cạnh và bình
diện khác nhau như xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu, khách
sạn, nhà hàng, dịch vụ, chợ, buôn bán động thực vật, hoạt động biên
mậu,... chúng ta không thể phủ nhận những tác động xấu và những bất
cập do các hoạt động này gây ra.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra rất sâu
sắc và nhanh chóng, thì khái niệm, ranh giới giữa thị trường trong
nước với thị trường nước ngoài đã dần bị thu hẹp. Do vậy, mỗi quốc
1414


gia phải có một chiến lược dẫn tới điểm cân bằng giữa các nhân tố
trong nước và nhân tố nước ngoài (gắn với thương mại và đầu tư quốc
tế). Điều đó có nghĩa là câu hỏi cũ "Làm thế nào để tăng sự tiếp cận thị
trường nhằm tăng xuất khẩu?" phải được thay bằng câu hỏi mới "Làm
thế nào để người dân được hưởng lợi nhờ vào hội nhập kinh tế quốc tế,
trong đó có xuất khẩu?". Đối với những nước có quy mô dân số trung
bình như Việt Nam, việc tìm ra điểm cân bằng đó là rất quan trọng.

Song, hiện trạng mối quan hệ giữa thương mại và môi trường ở Việt
Nam như thế nào? Xin nêu một số ví dụ:
Hoạt động kinh tế đối ngoại mang đậm nét thâm dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên, khoáng sản sẵn có của đất nước. Cùng với nhịp độ
tăng trưởng kinh tế và quá trình tự do hóa thương mại, nguồn tài
nguyên khoáng sản dưới lòng đất cũng được khai thác khá mạnh.
Ngành than đã đóng góp những kết quả nhất định vào sự phát triển nền
kinh tế đất nước, nhưng hậu quả do nó để lại cho môi trường cũng cực
kỳ nghiêm trọng. Qua điều tra, cứ 4.000 người dân Quảng Ninh có
2.500 người mắc bệnh, trong số đó có 80% mặc bệnh bụi phổi, hen
phế quản, bệnh về tai mũi họng..., có 3 đơn vị thuộc ngành than bị xếp
vào danh mục ô nhiễm khá trầm trọng (ô nhiễm nước thải, không khí,
chất thải).
Muốn có than, phải bạt đèo, xẻ đá, khoan đồi, khoét sâu vào lòng
đất, có nơi tới gần 200m so với mặt nước biển, thậm chí có nơi sâu
khoảng 6 - 7km... Theo số liệu thống kê, tỷ lệ bóc đất đá hiện nay là 5
- 5,5 lần. Điều đó có nghĩa là mỗi năm để khai thác được 30 triệu tấn
than đá, công nhân ngành than phải bóc 150 - 160 triệu m3 đất đá, 7
năm khoảng 1,1 tỉ m3. Như vậy, có thể hình dung trong thời gian
không xa sẽ có thêm những "ngọn núi" khổng lồ xuất hiện ở Quảng
Ninh - nơi có Vịnh Hạ Long đang được xem xét, bình chọn là 1 trong
7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới và hậu quả nặng nề về môi trường là
không thể tránh khỏi. Một vùng đất, vùng biển, vùng đảo với những
cánh rừng nguyên sinh, một vùng du lịch sinh thái đầy tiềm năng, triển
vọng có thể và cần được khai thác sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
1515


Nếu tính đúng, tính đủ các loại chi phí, kể cả chi phí để giải quyết
vấn đề môi trường (không ít hơn 40% - 50% tổng chi phí khai thác

than theo kinh nghiệm của thế giới) thì khai thác than nói chung và
xuất khẩu than nói riêng phải được xem xét một cách cẩn trọng. Trên
quan điểm lợi ích quốc gia, theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong và
ngoài nước, việc tổ chức, đẩy mạnh và phát triển nhanh các loại hình
du lịch, dịch vụ ở Quảng Ninh sẽ bù đắp được ngoại tệ cho ngành than
và cứu vãn được môi trường sinh thái đang ở mức báo động cao. Đây
là vấn đề cần phải được suy nghĩ một cách nghiêm túc để có một lời
giải thỏa đáng trong thời gian tới.
Thêm nữa, với vị trí địa lý đặc thù, Việt Nam là một trong những
trung tâm trên thế giới có các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa
dạng, đặc biệt là hệ sinh thái rừng tự nhiên trên cạn, đất ngập nước, đồi
núi đá vôi, đất khô, cùng các hệ sinh thái tự nhiên dọc theo bờ biển và
các hải đảo. Tuy nhiên, hơn 2.000 cơ sở sản xuất và chế biến đồ gỗ,
với năng lực sản xuất khoảng 2,5 triệu m3 gỗ mỗi năm, trong đó có
khoảng 450 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đồ gỗ, đã làm cho nước
ta từ chỗ có nguồn tài nguyên rừng nguyên sinh phong phú đến chỗ
diện tích rừng bị mất khá lớn. Số gỗ xuất lậu và buôn bán phi pháp
trên thị trường nội địa chẳng những không giảm, mà còn có nguy cơ
gia tăng. Với tốc độ tàn phá rừng như hiện nay (trung bình mỗi năm
mất đi 200 nghìn héc-ta) thì diện tích rừng trồng mới (chỉ đạt từ 50
nghìn đến 100 nghìn héc-ta mỗi năm) quả là con số bé nhỏ. Nước ta
đang đối mặt với nguy cơ không còn rừng trong thế kỷ tới.
Thế giới thừa nhận Việt Nam là một trong những nước có tính đa
dạng sinh học vào loại cao nhất. Nhưng các điều tra (đã công bố) ghi
nhận, có tới 400 loài động vật và 450 loại thực vật đang bị đe dọa tuyệt
chủng. Về các loài bị đe dọa tuyệt chủng, Việt Nam nằm trong nhóm
15 nước hàng đầu đối với thú, nhóm 20 nước hàng đầu đối với chim,
nhóm 30 nước hàng đầu đối với lưỡng cư và thực vật.

1616



Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (tháng 4-2007), có
đến 70% các dòng sông đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm,
trong đó bị ô nhiễm nặng nề nhất là hệ thống sông Cầu, sông Nhuệ Đáy và sông Đồng Nai. Những con sông này đã trở nên hôi thối,
nguồn thủy sản bị hủy hoại và ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống
và sức khỏe của cộng đồng. Hệ thống sông Tiền, sông Hậu ở Tây Nam
Bộ và đồng bằng sông Cửu Long cũng đang bị ô nhiễm nặng do ảnh
hưởng của khoảng 2 triệu tấn phân hóa học và gần 500.000 tấn thuốc
bảo vệ thực vật.
Hiện cả nước có khoảng 1.450 làng nghề, phân bố ở 58 tỉnh, thành
và tập trung đông đúc nhất là ở khu vực đồng bằng sông Hồng, trong
đó tại các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ
và công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn (trên 70%) đã và đang nảy sinh
nhiều vấn đề, tác động xấu tới chất lượng môi trường đất, nước, không
khí và sức khỏe của người dân làng nghề.
Tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại các
giống, loài, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người là cái giá phải trả
cho sự phát triển thương mại trong bối cảnh tự do hóa thương mại
được tiến hành chỉ trong vòng 10 năm trở lại đây ở nước ta.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, thương mại trở thành
một lĩnh vực hoạt động liên ngành, là miền giao thoa của các hoạt
động sản xuất và tiêu dùng. Khuyến khích tự do thương mại trong khi
vẫn duy trì và tăng cường bảo vệ môi trường và các nguồn lợi tự nhiên
là một trong những thách thức to lớn của thập kỉ chúng ta đang sống.
Môi liên quan giữa thương mại và môi trường rất phức tạp. Trong
nhiều trường hợp, tự do thương mại thúc đẩy việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên có hiệu quả, làm giảm sự lãng phí trong sản xuất và tiêu
dung. Tuy nhiên việc gia tăng mức độ và phạm vi hoạt động của nó
cũng có thể dẫn đến hủy hoại môi trường tự nhiên. Các nguy cơ trở

thành gánh nặng của môi trường sinh thái không chỉ sinh ra và xuất
1717


phát do các thay đổi trong các chính sách, luật lệ thương mại, dẫn đến
sự mở cửa thị trường, mà còn có thể trầm trọng hơn do các thay đổi
luật lệ, chính sách dẫn đến sự đóng cửa hay cách biệt hóa hoặc bảo hộ
thị trường.

1818


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
NHẰM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM
1.1.

CÁC HIỆP ĐỊNH, CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM

Trong điều kiện công nghiệp hóa và tự do hóa thương mại, có thể
nhận định: phát triển thương mại ở nước ta một mặt góp phần tích cực
bảo vệ môi trường, mặt khác cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa đến
môi trường và phát triển bền vững. Đây cũng chính là lí do phải kết
hợp các chính sách phát triển thương mại và bảo vệ môi trường. Từ
bốn vấn đề thương mại và môi trường ta rút ra được những khía cạnh
cần thiết đối với sự kết hợp này:
Thứ nhất, chính sách thương mại và chính sách môi trường phải
được xây dựng phải kết hợp như thế nào để vừa phù hợp với luật lệ
quốc tế, tạo thuận lợi cho hội nhập, vừa bảo vệ và giải quyết được các
vấn đề môi trường thong qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ hai, chính sách thương mại và chính sách môi trường phải

được kết hợp như thế nào để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng
cường xuất khẩu và bảo vệ môi trường đảm bảo phát triển thương mại
bền vững trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ ba,Chính sách thương mại và môi trường cần phải kết hợp khai
thác triệt để các lợi thế của tự do hóa thương mại, góp phần vượt qua
các hàng rào quốc tế để mở đường cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.
Thứ tư, trong bối cảnh hiện nay cần có chính sách thương mại và
chính sách môi trường gắn kết nhau để vừa thúc đẩy mở rộng thị
trường trong nước, phát triển các loại hình dịch vụ thương mại vừa hạn
chế ô nhiễm môi trường do hoạt động của chúng gây ra.
Liên quan đến các vấn đề thương mại và môi trường, Đảng và nhà
nước cũng cải thiện và hoàn chỉnh hơn các chính sách, cơ chế từ các
bộ luật quan trọng là Luật Thương mại, Luật Bảo vệ môi trường và
Luật Thuế bảo vệ môi trường (có hiệu lực từ 1/1/2012).Trong bối cảnh
1919


mới của thế giới và yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng hơn của Việt
Nam như gia nhập ASEAN, tham gia ASEM, APEC, AFTA, có quan
hệ thương mại với 224 nước và vùng lãnh thổ… thì Luật Thương mại
và Luật Bảo vệ môi trường sẽ còn được bổ sung sửa đổi và hoàn thiện
hơn cho phù hợp và thích ứng với tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra
một cách sâu rộng.
Trong những năm gần đây, những hàng rào truyền thống (thuế, hạn
ngạch, cấm nhập khẩu…) đối với thương mại quốc tế dần bị dỡ bỏ trên
cơ sở các hiệp định quốc tế và các điều ước song phương đa phương.
Các quốc gia phát triển phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ
những mặt hàng của các nước kém phát triển hơn. Do vậy, họ đặt ra
những quy định cao, đặc biệt là tiêu chuẩn môi trường để ngăn cản

hàng hóa nhập khẩu vào nước họ. Đây được xem như “hàng rào
xanh”gây khó khăn cho các nước kém phát triển hơn trong đó có Việt
Nam khi xuất khẩu các hàng hóa đặc biệt nhạy cảm với vấn đề môi
trường như nông, thủy sản, thủ công mĩ nghệ.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, và cũng
phải đối mặt với những quy định liên quan đến môi trường. Nó vừa là
biện pháp giữ gìn và bảo vệ môi trường khỏi ô nhiễm, bảo tồn nguồn
tài nguyên thiên nhiên, nhưng cũng là “hàng rào xanh” trong thương
mại quốc tế. Chúng bao gồm:
- Các quy định chung: Điều XX của hiệp định GATT quy định các thành

viên WTO có thể được phép áp dụng các biện pháp về môi trường mà
không mâu thuẫn với các quy định trong các hiệp định tự do thương
mại của WTO, nếu việc áo dụng những biện pháp này là cần thiết để
bảo vệ sức khỏe, cuộc sông con người, động thực vật hoặc có lien
quan đến việc bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt.
- Quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối
với thương mại (TBTs).
- Quy định về quyền sở hữu trí tuệ: Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ có
liên quan đến thương mại (TRIPs).
2020


Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia kí kết khá nhiều công ước quốc
tế có liên quan đến thương mại và môi trường khác như: các yêu cầu
về phương pháp sản xuất, chế biến (PPM); các yêu cầu về đóng gói
bao bì, nhãn tem của các nước nhập khẩu; cac yêu cầu về hàm lượng
chất liệu tái chế trong sản phẩm xuất khẩu; các tiêu chuẩn ISO 14000,
SA8000, HACCP; các quy định về nhãn môi trường, nhãn sinh thái
của các quốc gia (Nhật Bản, Mỹ…) đã được phổ biến dưới nhiều hình

thức khác nhau.
Qua đó, có thể thấy Việt Nam rất coi trọng đến vấn đề phát triển
kinh tế song song với bảo vệ môi trường. Và điều đó giúp cho chúng ta
từng bước đến gần hơn với phát triển bền vững trong tương lai.
1.2.

Ý THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG MỐI QUAN HỆ PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI

Tuy Đảng và nhà nước đã đưa ra những chính sách, hiệp định về
phát triển thương mại song song với bảo vệ môi trường. Song thực tế
cho thấy, số doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin này chiếm tỷ lệ
rất thấp. Các doanh nghiệp xuất khẩu có quan tâm nhiều hơn đến các
tiêu chuẩn, quy định của các nước nhập khẩu và các tổ chức quốc tế
nhưng việc thực hiện vẫn chưa triệt để và trong nhiều trường hợp vẫn
tìm cách lách luật, gây nên những hậu quả xấu.
Trong một cuộc khảo sát với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, hầu
hết các doanh nghiệp đều cho rằng họ gặp khó khăn nhiều trong việc
đáp ứng các các quy định tiêu chuẩn của các quốc gia và tổ chức quốc
tế đặc biệt là với các tiêu chuẩn về môi trường.
Bảng 1: Mức độ nhận biết của doanh nghiệp về các rào cản của
môi trường trong hoạt động xuất khẩu trên một số khu vực thị
trường
Mức độ

1

2


3

4

5
2121


SL TL SL TL

SL TL

SL TL

Hoa Kỳ
EU

8
6

Nhật Bản

8

10 16 20
7.5 19 22.
5
10 16 20

Trung Quốc


9

10 12 15

ASEAN

2

Thị trường
khác

8

2.5 18 22.
5
10 4 5

18 22.05 14 35
24 30
13 32.
5
32 40
7 17.
5
24 30
11 27.
5
26 20
13 32.

5
11 12.5 3 7.5

SL TL
5
3

12.5
7.5

5

12.5

7

17.5

9

22.5

1

2.5

(Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỉ lệ trên tổng số DN (%)
1 là mức độ nhận biết thấp nhất; 5 là mức độ nhận biết cao nhất)
Nguồn: kết quả khảo sát đề tài cấp Bộ của Viện nghiên cứu thương
mại


2222


Bảng 2: Mức độ khó khăn mà DN phải đối mặt với các rào cản của
môi trường trên một số khu vực thị trường
Mức độ

1
SL TL

2
SL TL

3
SL TL

4
SL TL

5
SL TL

Hoa Kỳ

4

5

8


6

30 37.5

EU

0

0

Nhật Bản

4

5

11 12.5 18 22.
5
4 5
29 35

Trung Quốc

10 12.
5
6 7.5

26 32.
5

42 52.
5
34 42.
5
10 12.
5
18 22.
5
10 12.
5

ASEAN
Thị trường
khác

4

5

10

15

26 32.5 34 42.
5
34 42.5 18 22.
5
4 5
6 7.5


11 12.5
10 12.5
0

0

4

5

0

0

(Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỉ lệ trên tổng số DN (%)
1 là mức độ nhận biết thấp nhất; 5 là mức độ nhận biết cao nhất)
Nguồn: kết quả khảo sát đề tài cấp Bộ của Viện nghiên cứu thương
mại
Nguyên nhân của vấn đề nêu trên có thể tóm tắt ở một số điểm sau:
Các doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư cho các công nghệ xử lí ô
nhiễm môi trường. Điều đó thể hiện rõ nét nhất đối với các doanh
nghiệp nhà nước: 57% số doanh nghiệp nhà nước cho rằng khó khăn
nhất là họ thiếu vốn đầu tư cho các vấn đề đáp ứng tiêu chuẩn của môi
trường đối với sản phẩm; trong khi đó, đôi với các doanh nghiệp liên
doanh thì chỉ có 37%; còn đối với các doanh nghiệp tư nhân thì tỉ lệ
2323


này là 48%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã đề nghị
nhà nước hỗ trợ về vốn vì đây là điều quan trọng nhất.

Do thiếu thông tin về các vấn đề rào cản môi trường ở các nước
nhập khẩu. Các doanh nghiệp ở vùng núi phía Bắc, đồng bằng song
Cửu Long cho rằng họ gặp khó khăn hơn nhiều do không có điều kiện
để khai thác thông tin qua mạng Internet, điều đó khiến họ không thể
tìm hiểu các tiêu chuẩn về môi trường đối với sản phẩm xuất khẩu.
Khó khăn còn lớn hơn với các doanh nghiệp tư nhân khi họ còn ít có
dịp được tham gia các hội thảo, hội nghị về thương mại và môi trường,
hầu hết phải tự tìm kiếm thông tin hoặc học hỏi kinh nghiệm từ phía
đối tác hay các doanh nghiệp bạn.
Khó khăn về trình độ công nghệ, trang thiết bị và kinh nghiệm trong
xử lí các vấn đề về môi trường. 68% doanh nghiệp liên doing cho rằng
trang thiết bị của họ hiện đại và đồng bộ; còn 61% doanh nghiệp nhà
nước và 62% doanh nghiệp tư nhân cho rằng trang thiết bị của họ hiện
đại nhưng không đồng bộ; thậm chí 13% doanh nghiệp nhà nước và
12% doanh nghiệp tư nhân cho rằng trang thiết bị của họ đã lạc hậu và
cũ kĩ. Do vậy, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quản lí chất
lượng sản phẩm, xử lí ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, trình độ kĩ
thuật và công nghệ của các doanh nghiệp cũng rất hạn chế. 100% các
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đề nghị nhà nước hỗ
trợ họ trong công tác đào tạo cán bộ, mở lớp tập huấn và phổ biến kinh
nghiệm về giải quyết các vấn đề của môi trường.
Ngoài ra, còn những khó khăn về cơ chế chính sách chưa chặt chẽ,
thiếu nhân lực, dịch vụ môi trường, đơn vị đánh giá hay hệ thống tiêu
chuẩn chưa hài hòa cũng gây nên cản trở cho các doanh nghiệp trong
việc đáp ứng các quy định về môi trường.
Bảng 3: Mức độ khó khăn của DN trong việc đáp ứng các quy
định về môi trường
2424



Mức độ khó khăn 1
2
SL TL SL TL
Thiếu thông tin
12 15 10 12.
5
Thiếu kinh phí
4 5 16 20
Thiếu kỹ thuật

4

5

16 20

Thiếu nhân lực

6

Thiếu DV MT
Thiếu đơn vị
đánh giá
Tiêu chuẩn chưa
hài hòa
Cơ chế, chính
sách chưa chặt
chẽ

6

8
4

7.5 14 17.
5
7.5 12 15
10 18 22.
5
5 4 5

4

5

8

10

3
SL TL
36 45

4
5
SL TL SL TL
14 17.5 8 10

26 32.
5
22 27.

5
30 37.
5
28 35
26 32.
5
34 42.
5
26 32.
5

22 27.5 12 15
34 42.5 4

5

16 20

14 17.5

24 30
20 25

10 12.5
8 10

24 30

14 17.5


28 35

14 17.5

(Ghi chú: SL là số lượng DN; TL là tỉ lệ trên tổng số 81 DN (%)
1 là mức độ nhận biết thấp nhất; 5 là mức độ nhận biết cao nhất)
Nguồn: kết quả khảo sát đề tài cấp Bộ của Viện nghiên cứu thương
mại

2525


×