Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG GIÁM sát từ XA tại bảo HIỂM TIỀN gửi VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NAM

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT TỪ XA TẠI BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên: Vũ Hoàng Thanh Hải
Lớp: 12B1

Mã SV: 12C1401011

Khoa: Tài chính Ngân hàng

Hµ Néi - 2015


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) được thành lập với một mục tiêu
quan trọng là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng,
góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng. Mục tiêu đó được
thực hiện bằng các công cụ: kiểm tra tại chỗ, giám sát từ xa, hỗ trợ tài chính, tiếp


nhận và xử lý, chi trả tiền gửi được bảo hiểm trong đó hoạt động giám sát từ xa,
kiểm tra tại chỗ có vai trò hết sức quan trọng. Việc làm tốt công tác này không
những góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng
(TCTD), làm cơ sở để đánh giá, xếp loại chất lượng hoạt động đối với tổ chức tham
gia BHTG mà còn gián tiếp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền một cách tích cực.
Thực tế trong những năm vừa qua, BHTGVN đã rất quan tâm, chú trọng
đến hoạt động kiểm tra, giám sát, bao gồm từ khâu xây dựng kế hoạch và đề
cương kiểm tra; bố trí cán bộ, đào tạo tập huấn nghiệp vụ; xây dựng các chỉ tiêu
giám sát; tăng cường trang thiết bị công nghệ nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác này. Tính đến hết năm 2014, BHTGVN đã thực hiện
giám sát thường xuyên 100% tổ chức tham gia BHTG gồm 90 NHTM, 11 TCTD
phi NH và 1.138 QTDND với tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm là khoảng gần
1.500 nghìn tỷ đồng. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện 8.938 lượt tổ chức
tham gia BHTG có vi phạm quy định về BHTG, quy định về an toàn trong hoạt
động ngân hàng, trên cơ sở đó đã thực hiện hơn 4000 cảnh báo để tổ chức tham
gia BHTG chỉnh sửa các tồn tại, vi phạm.
Kết quả từ hoạt động này giúp BHTGVN có những thông báo, cảnh báo kịp
thời tới các TCTD đồng thời cũng là cơ sở để Chi nhánh tiến hành nghiệp vụ kiểm
tra tại chỗ các TCTD. Tuy nhiên, trên đà phát triển của ngành công nghiệp ngân hàng
trên thế giới hiện nay, các TCTD đang gia tăng về số lượng và loại hình bao gồm cả
những tổ chức có vốn nước ngoài, thị thường tài chính ngân hàng thường xuyên biến
động, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt nên rủi ro cho các TCTD ngày càng


2
cao, vì vậy, yêu cầu chất lượng hoạt động giám sát từ xa cần được nâng cao hơn nữa để
đảm bảo cảnh báo sớm và giảm thiểu rủi ro cho hệ thống. Bởi vậy nâng cao chất lượng
hoạt động giám sát từ xa đang là yêu cầu cấp bách tại BHTGVN.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hệ thống giám sát từ xa và hiệu quả thực tế
của hệ thống giám sát này nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất

lượng hoạt động giám sát từ xa tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu cho bản chuyên đề này. Mục đích chính của đề tài này là tìm ra những nhân tố
tác động đến chất lượng giám sát này và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động đó. Từ đó góp phần nâng cao vai trò của BHTGVN đối với
mạng an toàn tài chính quốc gia.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng hoạt động giám
sát từ xa của tổ chức BHTG để tìm ra các nhân tố tác động đến chất lượng hoạt
động giám sát từ xa.
- Nghiên cứu kinh nghiệm giám sát từ xa của các tổ chức BHTG quốc tế
- Phân tích thực trạng chất lượng hoạt động giám sát từ xa tại BHTGVN để thấy
được những mặt tích cực, hạn chế cũng như nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động giám sát từ
xa tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng hoạt động giám sát từ xa của tổ chức
BHTG
- Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng hoạt động giám sát từ xa tại BHTGVN từ
năm 2012 đến 2014.
Phần thực trạng sẽ tập trung nghiên cứu phân tích điển hình nội dung giám sát
từ xa đối với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở (QTDNDCS) bởi đây là loại hình tổ chức
tham gia BHTG có số lượng lớn, xảy ra nhiều vi phạm an toàn hoạt động ngân hàng
và có nhiều trường hợp đổ vỡ và cần hỗ trợ tài chính.

4. Phương pháp nghiên cứu


3

a. Cơ sở lý thuyết sẽ sử dụng để phân tích thực tiễn:
- Các yếu tố phản ánh chất lượng giám sát từ xa
- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động giám sát từ xa
- Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động giám sát từ xa tại một số quốc gia như: Mỹ,
Đài Loan, Hàn Quốc.
b. Các phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính trong thu thập và xử lý
thông tin đồng thời sử dụng các dữ liệu đã có sẵn để phân tích, so sánh, tổng hợp.
Cách thức tiếp cận nguồn dữ liệu thông qua quan sát, phỏng vấn, thu thập
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: Chuyên đề sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ
các tài liệu, báo cáo, thông tin của các phòng tại BHTGVN. Nguồn dữ liệu thu thập
từ bên ngoài bao gồm: các bài báo, bài nghiên cứu, báo cáo thường niên,… được
đăng tải trên các báo, tạp chí, thông tin từ các website, thông cáo báo chí của Ngân
hàng Nhà nước và các tổ chức có uy tín. Các nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực
tiếp trong Chuyên đề và được ghi chú chi tiết trong mục Tài liệu tham khảo.

5. Kết cấu chuyên đề :
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng hoạt động giám sát từ xa của tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi
Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động giám sát từ xa tại Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát từ xa tại
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam


4

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG

GIÁM SÁT TỪ XA CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1 Hoạt động giám sát của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
1.1.1 Tổng quan về bảo hiểm tiền gửi
1.1.1.1 Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Trong quá trình toàn cầu hóa, xu thế tự do hóa tài chính và sự phát triển của
thị trường tài chính đã làm cho thị trường tài chính thế giới ngày càng phụ thuộc và
gắn kết lẫn nhau. Đồng thời quá trình này cũng nảy sinh nhiều rủi ro hơn cho môi
trường hoạt động của các định chế tài chính. Vì vậy yêu cầu tất yếu đặt ra đối với sự
phát triển của bất cứ thị trường tài chính nào là việc nghiên cứu để đưa ra các giải
pháp nhằm tối thiểu hóa các rủi ro trên. Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là một trong các
cơ chế được các quốc gia sử dụng để bảo vệ người gửi tiền, một phần hoặc toàn bộ,
khỏi những thiệt hại do việc mất khả năng trả nợ đến hạn của ngân hàng. Với mục
tiêu chính nhằm bảo vệ người người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của nền
kinh tế và ổn định hệ thống tài chính.
Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới hình thành hệ thống BHTG. Trong giai đoạn
1829 đến 1917, 14 bang tại Mỹ bắt đầu từ New York đã triển khai kế hoạch thành lập tổ
chức BHTG tại cấp tiểu bang. Mục tiêu của việc thành lập các tổ chức BHTG ở cấp tiểu
bang đều là bảo vệ cộng đồng trước những bất ổn về kinh tế do đổ vỡ ngân hàng gây ra; và
bảo vệ người gửi tiền trước những thiệt hại của đổ vỡ ngân hàng.
Trong giai đoạn từ năm 1929 đến cuối năm 1933, nước Mỹ phải đối với với
khủng hoảng tài chính, biểu hiện cụ thể ở việc thị trường chứng khoán sụp đổ,
khoảng 9.000 ngân hàng phải dừng hoạt động dẫn tới thiệt hại ước tính lên tới 1,3 tỷ
USD cho người gửi tiền. Chỉ tính trong vài tháng đầu năm 1933, đã có tới 4.000
ngân hàng phải đóng cửa. Hệ thống tài chính đứng trước nguy cơ đổ vỡ, khu vực
nông nghiệp và sản xuất cũng chỉ có thể hoạt động cầm chừng do những khó khăn
về tài chính.


5
Cuộc khủng hoảng đã đặt ra yêu cầu cấp thiết thành lập hệ thống BHTG. Đồng

thời, sức ép công luận thúc đẩy Quốc hội Mỹ ban hành Luật BHTG. Đến ngày
16/6/1933, Tổng thống Mỹ lúc đó ông Roosevelt đã ký ban hành Luật ngân hàng,
trong đó quy định việc thành lập Tổng công ty BHTG Mỹ (FDIC). Từ sau khi FDIC
chính thức được thành lập, từ năm 1934 đến 1981 trung bình số vụ phá sản/năm
giảm xuống chỉ còn 10 từ mức 600 vụ/năm trong giai đoạn khủng hoảng 1929 –
1933. FDIC đã có nhiều thành công và khẳng định được vai trò của mình trong
mạng lưới an toàn tài chính quốc gia bằng sự đóng góp tích cực vào sự ổn định và
phát triển của thị trường tài chính Mỹ trong suốt gần 8 thập kỷ qua.
Thành công của FDIC là động lực cho các quốc gia khác trên thế giới thành
lập tổ chức BHTG. Vào những năm 1960, có thêm 6 nước thành lập tổ chức BHTG
mà chủ yếu là các nước phát triển như Canada (1967), Đức (1966), Phần Lan
(1969), NaUy (1961). Xu hướng thành lập tổ chức BHTG trở nên mạnh mẽ kể từ
thập niên 80 của thế kỷ trước. Số lượng tổ chức BHTG thành lập mới tăng ngày
nhanh (Hình 1.1: Số lượng tổ chức BHTG trên thế giới). Đặc biệt, sau cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm 1996 – 1998, hàng loạt
nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam, đã thành lập mới hoặc cải cách hệ thống
BHTG (Hàn Quốc, Việt Nam, Nga, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Úc). Tính đến
31/3/2011, trên thế giới đã có 111 quốc gia thành lập hệ thống BHTG, 41 quốc gia
khác đang nghiên cứu hoặc xem xét việc thành lập hệ thống BHTG công khai.1
Ngày 6/5/2002, Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI) được thành lập có trụ sở đặt
tại Thụy Sỹ. Cho đến nay, IADI đã có 67 nước có hệ thống BHTG là thành viên, 9
hội viên và 12 đối tác. Việc ra đời IADI đánh dấu sự quan tâm của nhiều nước trên
thế giới về hoạt động BHTG và là động lực thúc đẩy phát triển hoạt động BHTG tại
các nước trên thế giới.
Mặc dù hoạt động BHTG đã được triển khai trong thời gian dài song ở các
nước có hoạt động này thường chỉ xác định mục tiêu, mô hình BHTG, liệt kê các
hoạt động của tổ chức BHTG. Vì vậy, một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về BHTG là
hết sức cần thiết, đặc biệt đối với công chúng gửi tiền nhằm tạo sự thống nhất trong
1


theo thống kê mới nhất của Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI) trên website />

6
việc thanh toán bảo hiểm và tạo điều kiện để xử lý các tranh chấp phát sinh có liên
quan đến tiền gửi một cách hiệu quả. Có thể hiểu khái niệm về BHTG như sau:
BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về
việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi
tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán
cho người gửi tiền. Trong đó,
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là đối tác nhận đóng góp tài chính từ tổ chức
tham gia BHTG hoặc được cấp vốn bởi Chính phủ, có trách nhiệm thực hiện chi trả
tiền bảo hiểm tới người có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức
tham gia BHTG khi tổ chức đó chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán.
Tổ chức tham gia BHTG là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi được tham gia BHTG
có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ
chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường
hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán và bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt
hoạt động.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là khách hàng có tiền gửi
thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Người gửi tiền không
phải đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG nhưng có quyền yêu cầu tổ chức
BHTG thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó trong hạn mức
chi trả tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức BHTG có thể là toàn bộ hoặc một phần
tiền gửi do chính sách của mỗi quốc gia.

1.1.1.2 Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi
Các quốc gia trên thế giới thành lập tổ chức BHTG nhằm đạt được các mục
tiêu chính sách công, trong đó có thể nói đến hai mục tiêu chủ yếu là bảo vệ người
gửi tiền thông qua cơ chế chi trả tiền bảo hiểm trong trường hợp xảy ra đổ vỡ ngân

hàng; và góp phần giảm thiểu rủi ro, ngăn ngừa khủng hoảng và duy trì sự phát triển
an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính.
Từ hai mục tiêu chủ yếu trên, qua quãng đường hình thành và phát triển của
mình, BHTG đã đóng góp vai trò to lớn cho sự phát triển của hệ thống tài chính. Cụ


7
thể các vai trò đó có thể được hình dung qua Hình 1.1: Vai trò của tổ chức BHTG.

Hình 1.1. Vai trò của tổ chức BHTG
Từ sơ đồ nêu trên, cho thấy vai trò của BHTG được thể hiện rõ nét qua các
khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền, nâng
cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Bởi lẽ, trong
nền kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng
là yêu cầu đặt ra đối với mỗi Chính phủ. Bảo vệ người tiêu dùng là để đảm bảo cân
bằng giữa sự phát triển và đảm bảo quyền lợi của người dân trong xã hội dân sự. Do
đó, BHTG là một công cụ tài chính hữu hiệu được hầu hết các Chính phủ sử dụng
để bảo vệ người gửi tiền.
BHTG có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng cố niềm tin của công
chúng đối với hệ thống tài chính - ngân hàng. Tổ chức BHTG đã thay mặt Chính
phủ bảo vệ tiền gửi của dân, và trong trường hợp tổ chức tín dụng bị đổ vỡ, BHTG
sẽ chi trả toàn bộ hoặc một phần tiền gửi cho người gửi tiền. Ngân hàng là trung
gian tín dụng, là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn. Trong quá trình chu
chuyển của nguồn vốn nếu không có yếu tố niềm tin thì chu trình đó sẽ bị “tắc
nghẽn” và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế.
Bảo hiểm tiền gửi xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ
thống ngân hàng thông qua một số hoạt động như:
- Cung cấp đầy đủ hơn cho công chúng thông tin về các ngân hàng;
- Thực hiện các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro đối với tổ chức tham gia



8
BHTG;
- Hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn về tài chính nhằm phục
hồi hoạt động của tổ chức đó;
- Xử lý tổ chức tín dụng bị đổ vỡ;
- Góp phần thúc đẩy và đảm bảo hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển an
toàn, lành mạnh và nâng cao kỷ cương thị trường;
- Bảo hiểm tiền gửi tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng;
- Đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của các tổ chức tín dụng;
Trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi
tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra đối với Chính phủ mỗi nước. Bảo vệ người tiêu dùng
là để đảm bảo cân bằng giữa sự phát triển và đảm bảo quyền lợi của người dân
trong xã hội. BHTG là một công cụ tài chính hữu hiệu được hầu hết các Chính phủ
sử dụng để bảo vệ người gửi tiền. Tổ chức BHTG có nhiệm vụ thay mặt Chính phủ
bảo vệ tiền gửi của người dân, trong trường hợp TCTD bị đổ vỡ thì tổ chức BHTG
có trách nhiệm chi trả toàn bộ hoặc một phần tiền gửi cho người gửi tiền.
Thứ hai, BHTG còn có vai trò quan trọng trong việc tạo sự phát triển lành
mạnh hoạt động ngân hàng và ổn định hệ thống tài chính quốc gia. Bởi vì BHTG
đã tạo ra sự công bằng, tạo ra “sân chơi bình đẳng” cho tất cả các tổ chức tín dụng,
đặc biệt là các tổ chức tín dụng có quy mô hoạt động nhỏ.
Bên cạnh đó, yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng.
Nếu không có BHTG thì thông thường người gửi tiền sẽ có cảm giác yên tâm hơn
khi gửi tiền vào các ngân hàng lớn. Tuy nhiên, nếu có hoạt động của hệ thống
BHTG thì họ cũng có thể lựa chọn những tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ vì gửi
tiền ở đâu thì tiền gửi của họ cũng vẫn được an toàn. Điều đó thúc đẩy hoạt động tín
dụng phát triển bình đẳng, tránh được tình trạng thu hẹp cơ hội khách hàng đến với
tổ chức tín dụng quy mô nhỏ hoặc loại hình khác nhau. Ngoài ra, Bảo hiểm tiền gửi
góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng từ khi

cấp phép cho đến khi chấm dứt hoạt động (Hình 1.2: Mô hình hóa vai trò BHTG
trong chu kỳ của TCTD).


9

Hình 1.2. Mô hình hóa vai trò BHTG trong chu kỳ của TCTD
Thông qua các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro các TCTD, BHTG đã góp
phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Bởi vì, bằng
các nghiệp vụ đó, BHTG có thể cảnh báo đến cơ quan chức năng hoặc tổ chức tín
dụng về tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng có vấn đề để từ đó giúp các cơ
quan chức năng hoặc tổ chức tín dụng có vấn đề có những hành động điều chỉnh kịp
thời nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động. Như vậy, BHTG không chỉ có vai trò
trong việc bảo vệ tiền gửi mà còn có vai trò quan trọng trong việc quản lý rủi ro.
Thứ ba, thông qua vai trò bảo vệ người gửi tiền, xây dựng và củng cố niềm
tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, BHTG có vai trò quan trọng
thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế và ổn định xã hội .
Huy động vốn trong dân để phục vụ phát triển là yêu cầu quan trọng đặt ra đối
với mỗi nền kinh tế, đặc biệt ở những nước đang phát triển thì nhu cầu này càng
tăng. Nhà nước sử dụng nhiều kênh để thu hút nguồn vốn nhưng có một kênh rất
quan trọng là thu hút nguồn vốn qua các ngân hàng. Để người dân có niềm tin
đối với hệ thống tài chính ngân hàng thì phải có một cơ quan là tổ chức BHTG
đứng ra thay mặt Chính phủ để bảo vệ tiền gửi của họ trước những biến động
trên thị trường tiền tệ khiến họ sẽ yên tâm hơn khi gửi tiền vào ngân hàng. Ở
nước ta, vào khoảng những năm 90, hàng loạt Quỹ tín dụng nhân dân bị sụp đổ
và người dân mất tin tưởng vào hệ thống tài chính ngân hàng, việc huy động vốn
của các ngân hàng thời kỳ đó gặp rất nhiều khó khăn.


10

Thứ tư, BHTG không chỉ có vai trò quan trọng trong thời kỳ kinh tế ổn định
mà còn có vai trò quan trọng trong giảm thiểu những tác động bất lợi khi xảy ra
khủng hoảng tài chính – ngân hàng. Thứ nhất, việc tiền gửi của người dân được
một tổ chức thay mặt Chính phủ đứng ra bảo hiểm sẽ góp phần ngăn ngừa hoảng
loạn và tình trạng người dân rút tiền ồ ạt từ hệ thống ngân hàng do lo ngại đổ vỡ
ngân hàng, mà trong nhiều trường hợp chính điều này lại đẩy các ngân hàng đến
tình trạng mất khả năng thanh khoản nhanh hơn. Thứ hai, một khi có ngân hàng gặp
vấn đề, tổ chức BHTG sẽ đứng ra tiếp nhận và xử lý nhằm giúp thu hồi vốn một
cách nhanh chóng với chi phí thấp nhất.

1.1.1.3 Hoạt động của bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động BHTG trên thế giới hiện nay được tổ chức triển khai theo ba mô
hình bảo hiểm tiền gửi: Mô hình giảm thiểu rủi ro, Mô hình chi trả với quyền hạn
mở rộng và Mô hình chi trả. Chức năng nhiệm vụ của các mô hình hệ thống BHTG
được so sánh qua Bảng 1.1.

Bảng 1.1. So sánh chức năng nhiệm vụ của các mô hình hệ thống
BHTG
Chức năng nhiệm vụ

Mô hình
Mô hình chi
Mô hình chi
Giảm thiểu trả với quyền
trả
rủi ro
hạn mở rộng

Chi trả bảo hiểm


ü

ü

ü

Tính và điều chỉnh mức phí bảo hiểm

ü

ü

ü

Đánh giá rủi ro

ü

ü

Áp dụng mức phí theo rủi ro

ü

ü

Giám sát rủi ro

ü


ü

Vai trò trong giải quyết đổ vỡ ngân
hàng

ü

ü

Giám sát từ xa

ü

Kiểm tra tại chỗ

ü

Can thiệp vào hoạt động của tổ chức
tham gia BHTG

ü

Nguồn: Hiệp hội BHTG quốc tế - IADI


11

Tổ chức BHTG có chức năng chi trả đơn thuần : chỉ thực hiện việc chi trả
tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản nhằm
thực hiện một số mục tiêu chính sách công trong đó hai mục tiêu quan trọng nhất

là: khẳng định sự cam kết của Chính phủ về sự đảm bảo thông qua một tổ chức
và một cơ chế BHTG công khai bảo vệ người gửi tiền thông qua việc hình thành
một cơ chế bồi thường.
Tổ chức BHTG có quyền hạn mở rộng: Tổ chức này ngoài chức năng chi trả
đơn thuần còn được trao thêm một số quyền hạn như hỗ trợ tài chính cho tổ chức
tham gia BHTG gặp khó khăn trong thanh toán, theo dõi và khuyến nghị sự cẩn
trọng và phòng tránh rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG, tham gia xử lý nợ
và thu hồi nợ đối với tổ chức tham gia BHTG bị phá sản.
Tổ chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro: Ngoài các chức năng, thẩm
quyền theo hai mô hình trên còn có thêm chức năng, thẩm quyền để bảo vệ tốt nhất
người gửi tiền; đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài chính và tham gia tái thiết hệ
thống tài chính – ngân hàng.
Dù là mô hình nào thì sự ra đời của hệ thống BHTG đều là phục vụ cho những
mục tiêu chính sách công nhất định. Trên thực tế, mô hình giảm thiểu rủi ro là mô
hình tổ chức BHTG có thẩm quyền rộng, nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chính sách
khác nhau. Đây là mô hình được nhiều quốc gia đang trong quá trình xây dựng, cải
cách hệ thống BHTG hướng tới. Vì vậy, mức độ phát triển hoạt động của hệ thống
tài chính - ngân hàng, điều kiện kinh tế, chính trị ở mỗi quốc gia có khác nhau nên
việc lựa chọn mô hình triển khai chính sách BHTG ở mỗi quốc gia cũng khác nhau.
Thêm vào đó, tùy vào mục đích và mô hình tổ chức ở mỗi quốc gia mà tổ chức
BHTG có những hoạt động cụ thể. Tuy nhiên, nhìn chung các tổ chức BHTG trên
thế giới đều thực hiện một số hoạt động: kiểm tra, giám sát từ xa, hỗ trợ, chi trả tiền
bảo hiểm. Ngoài các hoạt động này, tổ chức BHTG còn thực hiện các hoạt động
liên quan tới công tác quản trị, điều hành để vận hành bộ máy tổ chức của mình.

1.1.2 Hoạt động giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi
1.1.2.1 Khái niệm giám sát từ xa
Theo Ngân hàng thế giới (WB) định nghĩa giám sát là một chức năng được



12
thực hiện một cách liên tục nhằm cung cấp cho bên quản lý và các bên có liên quan
các dấu hiệu về tác động thành công hoặc không thành công của các hoạt động, dự
án, chương trình triển khai. Quá trình giám sát giúp cho các tổ chức theo dõi những
thành quả thông qua việc thường xuyên thu thập thông tin kịp thời hỗ trợ việc ra
quyết định, đảm bảo việc giải trình trách nhiệm và tạo nền tảng cho việc đánh giá và
rút ra bài học kinh nghiệm.
Thuật ngữ “giám sát ngân hàng” theo nghĩa rộng được hiểu là tất cả các hoạt
động nhằm đảm bảo cho sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng và các
định chế tài chính có cung cấp dịch vụ ngân hàng, bao gồm: giám sát từ xa (off-site
supervision), kiểm tra tại chỗ (on-site examination) và cưỡng chế thực thi các hành
động chỉnh sửa kịp thời. Trong một số trường hợp, thuật ngữ này bao hàm cả các
hoạt động như: thu thập, xử lý thông tin tín dụng, đánh giá và xếp hạng tổ chức tín
dụng, bảo vệ người sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng, chống rửa tiền, chống tài
trợ khủng bố…
Hoạt động giám sát từ xa ra đời từ giữa thập kỷ 70 tại Mỹ. Vào thời điểm đó,
nhiều ngân hàng ở Mỹ lâm vào tình trạng khó khăn, vượt khỏi tầm kiểm soát của hệ
thống kiểm tra tại chỗ vốn đã rất mạnh và được bố trí rộng khắp. Sở dĩ xảy ra hiện
tượng này vì thời gian giữa 2 kỳ kiểm tra tại chỗ có một khoảng trống khá dài,
thường là 2 đến 3 năm nên không nắm bắt được những diễn biến liên tục của các tổ
chức. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải có một phương thức bổ sung cho
phương thức kiểm tra tại chỗ, nhằm kiểm soát thường xuyên ở tầm vĩ mô hoạt động
của các TCTD. Một thời gian sau, tình trạng tương tự lại diễn ra tại Tây Ban Nha và
nhiều nước khác trên thế giới. Sự ra đời của hoạt động giám sát từ xa xuất phát từ
yêu cầu của việc kiểm soát thường xuyên, nhằm duy trì khả năng chi trả của ngân
hàng, bảo vệ lòng tin của TCTD đối với người gửi tiền. Việc mất lòng tin ở một
TCTD nào đó có thể dẫn đến những hậu quả tai hại khó lường, vì vậy lĩnh vực hoạt
động ngân hàng nói riêng và hoạt động tài chính nói chung buộc phải có sự giám sát
chặt chẽ và kịp thời.
Đối tượng giám sát của tổ chức BHTG là các tổ chức tài chính có thực hiện

hoạt động nhận tiền gửi của các chủ thể trong nền kinh tế và tham gia BHTG. Chủ


13
thể giám sát là các cơ quan có chức năng giám sát thuộc mạng an toàn tài chính
quốc gia như Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Tổ chức bảo hiểm tiền gửi, Ủy
ban Chứng khoán... Vì chi phí cho hoạt động BHTG khá lớn trong khi khoản thu
phí bảo hiểm có hạn nên tổ chức BHTG phải do một tổ chức chính trị hoặc cơ quan
nhà nước đứng ra thành lập và quản lý, có thể đó là Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài
chính hoặc Ngân hàng Trung ương, hiệp hội nghề nghiệp. Mặc dù vậy, chức năng
giám sát của tổ chức BHTG không giống nhau tại tất cả các quốc gia. Thông
thường, tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro được trao các chức năng giám sát đầy đủ.
Tóm lại, hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG là quá trình theo dõi,
phân tích, đánh giá thực hiện quy định về BHTG, tình hình hoạt động và mức độ rủi
ro của tổ chức tham gia BHTG dựa trên nguồn thông tin từ các tổ chức này và các
nguồn thông tin khác, từ đó đưa ra các cảnh báo, đề xuất biện pháp chấn chỉnh,
giúp cho tổ chức tham gia BHTG hoạt động đúng pháp luật, an toàn và hiệu quả.
Hoạt động giám sát từ xa tổ chức tham gia BHTG của tổ chức BHTG được
tiến hành thường xuyên trên cơ sở các thông tin về khách hàng tham gia BHTG mà
tổ chức BHTG có được. Nội dung của hoạt động giám sát từ xa là đánh giá hoạt
động của tổ chức tham gia BHTG và từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với hoạt
động của các tổ chức đó với mục đích đảm bảo tuân thủ các quy định về BHTG và
quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG còn là cơ sở để tiến hành hoạt
động kiểm tra tại chỗ tổ chức tham gia BHTG. Việc tiến hành kiểm tra thường
xuyên tất cả các tổ chức tham gia BHTG có thể sẽ là khó khăn cho cả tổ chức
BHTG và tổ chức tham gia BHTG, vì vậy hoạt động giám sát từ xa cho phép tổ
chức BHTG có thể tiến hành kiểm tra tại chỗ theo phương thức chọn mẫu, không
nhất thiết phải kiểm tra đồng loạt các tổ chức tham gia BHTG.


1.1.2.2 Vai trò của hoạt động giám sát từ xa
Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG đối với các tổ chức tham gia
BHTG xuất phát từ mục tiêu của tổ chức BHTG là nhằm đảm bảo sự ổn định và an
toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền. Vai trò của


14
hoạt động giám sát từ xa được thể hiện cụ thể đối với từng đối tượng liên quan sau:
Một là, đối với tổ chức BHTG, giám sát từ xa thể hiện trách nhiệm, quyền hạn
giữa tổ chức BHTG với tổ chức tham gia BHTG. Hoạt động giám sát giúp tổ chức
BHTG đánh giá kịp thời, toàn diện và có hệ thống thực trạng hoạt động của tổ chức
nhận tiền gửi để từ đó đưa ra những cảnh báo về rủi ro; kiến nghị tổ chức nhận tiền
gửi chỉnh sửa các vi phạm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Khi tổ chức nhận
tiền gửi hoạt động hiệu quả sẽ tiết giảm được chi phí của tổ chức BHTG như không
phải hỗ trợ tài chính, không phải chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền.
Mặt khác, khi chất lượng công tác giám sát được nâng cao, tổ chức BHTG sẽ có cơ
sở để chủ động hỗ trợ tài chính và thu phí BHTG theo mức độ rủi ro đối với tổ chức
nhận tiền gửi. Có thể nói, hoạt động giám sát từ xa tổ chức tham gia BHTG là
nhiệm vụ trọng yếu của tổ chức BHTG. Nó khẳng định vị thế của một tổ chức
BHTG, và là cơ sở để tiến hành mọi hoạt động khác.
Hai là, đối với tổ chức tham gia BHTG, hoạt động giám sát từ xa của tổ chức
BHTG góp phần đảm bảo an toàn cho bản thân tổ chức tham gia BHTG và cho cả
hệ thống tài chính ngân hàng. Thêm vào đó, sư phát triển của hệ thống tài chính
ngân hàng, sự bùng nổ về khoa học công nghệ cùng xu thế toàn cầu hóa tiềm ẩn
nhiều rủi ro cho hệ thống tài chính ngân hàng. Khi tổ chức tham gia BHTG có hạn
chế trong việc kiểm soát rủi ro của mình thì vai trò giám sát của BHTG càng trở nên
quan trọng. Trong hoạt động của mình, tổ chức tham gia BHTG với đội ngũ kiểm
soát, kiểm toán nội bộ có hạn, việc vi phạm hay bỏ qua yêu cầu an toàn có thể do
nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Do đó, chính kết quả giám sát từ xa của tổ
chức BHTG giúp tổ chức tham gia BHTG nhìn nhận ra các sai sót, tổn tại để từ đó

đưa ra các biện pháp khắc phục và chỉnh sửa để nâng cao hiệu quả hoạt động của
mình. Tình trạng chấp nhận rủi ro quá mức trong hoạt động của tổ chức tham gia
BHTG sẽ được hạn chế nếu được cảnh báo sớm. Dưới tác động của hoạt động giám
sát từ xa, tổ chức tham gia BHTG sẽ nâng cao trách nhiệm trong chấp hành các tỷ lệ
an toàn, tự bổ sung, hoàn thiện để nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị nói
chung và quản trị rủi ro nói riêng.


15
Ba là, đối với người gửi tiền, hoạt động giám sát từ xa mang lại lợi ích qua
việc tổ chức nhận tiền gửi hoạt động an toàn bởi thường xuyên được tổ chức BHTG
giám sát và đưa ra cảnh báo sớm. Lợi ích còn được thể hiện qua việc người gửi tiền
được cung cấp các thông tin cần thiết về tổ chức nhận tiền gửi, và từ những thông
tin đó để chọn nơi gửi tiền.
Bốn là, đối với xã hội, hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG đối với các
tổ chức tham gia BHTG sẽ giảm thiểu rủi ro khi tổ chức tham gia BHTG có hạn chế
trong tầm kiểm soát rủi ro của mình. Chính hoạt động giám sát từ xa đã ngăn ngừa
việc đổ vỡ ngân hàng theo tính dây chuyền, và lây lan toàn hệ thống trong một quốc
gia ra khu vực và quốc tế giúp ổn định chính trị xã hội và kinh tế, tạo điều kiện phát
triển cho nền kinh tế và xã hội.

1.1.2.3 Các mô hình đo lường rủi ro sử dụng trong giám sát từ xa
Mỗi tổ chức BHTG ở các quốc gia khác nhau thường vận dụng các mô hình
đo lường rủi ro khác nhau để tiến hành hoạt động giám sát các tổ chức tham gia
BHTG: mô hình CAMELS, mô hình PEARLS, mô hình chấm điểm SCOR (FDIC
áp dụng), mô hình ma trận chuyển đổi… hoặc có thể sử dụng kết hợp các mô hình
trong hoạt động giám sát. Trong phạm vi nghiên cứu, Chuyên đề trình bày cụ thể
về mô hình CAMELS và PEARLS, là hai mô hình được sử dụng phổ biến trong
hoạt động giám sát các tổ chức tham gia BHTG.
Mô hình CAMELS

Hệ thống phân tích CAMELS được áp dụng nhằm đánh giá độ an toàn, khả
năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng. Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS là
một phương pháp hoặc một công cụ dùng để phân tích tình hình hoạt động và rủi ro
của ngân hàng. Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS dựa theo sáu yếu tố cơ bản được
sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng, đó là:
C - Capital Adequacy

: Mức độ an toàn vốn

A - Asset Quality

: Chất lượng tài sản có

M - Management

: Quản lý

E - Earnings

: Lợi nhuận

L - Liquidity

: Thanh khoản


16
S - Sensitivity to market risk

: Mức độ nhạy cảm thị trường


Cần lưu ý là các báo cáo tài chính không thể cung cấp đầy đủ thông tin mà
người phân tích cần để đánh giá mức độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản
của ngân hàng. Do đó, cần kết hợp phân tích theo CAMELS với những đánh giá
định tính của ngân hàng để có thể thu đuợc kết quả phân tích kỹ lưỡng và hữu ích.
Mô hình PEARLS
Mô hình PEARLS được thiết kế để giám sát hiệu quả hoạt động tài chính đối
với các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt với tổ chức tài chính có quy mô nhỏ. Nó
được coi là công cụ cần thiết cho các cơ quan quản lý trong hoạt động giám sát
nhằm đánh giá, cảnh báo và xếp hạng các tổ chức tài chính thành viên. PEARLS sử
dụng một bộ các chỉ tiêu tài chính và các tiêu chuẩn đánh giá có mối liên quan chặt
chẽ với nhau, đánh giá chỉ tiêu này, phải xem xét mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu
khác và ngược lại. Chỉ tiêu giám sát theo mô hình PEARLS chủ yếu dựa trên cơ sở
số liệu từ bảng cân đối tài khoản kế toán, vì vậy, PEARLS rất thuận lợi cho việc
khai thác số liệu đầu vào và phù hợp với tình hình khai thác thông tin báo cáo từ các
tổ chức tài chính của Việt Nam hiện nay. Mô hình này đã được Hiệp hội tín dụng
quốc tế (WOCCU) nghiên cứu làm mô hình giám sát từ cuối những năm 1980.
Hệ thống chỉ tiêu và tiêu chuẩn giám sát theo mô hình PEARLS:
P - Protection

: Chỉ tiêu đảm bảo an toàn

E - Effective Financial Structure

: Chỉ tiêu cấu trúc tài chính hiệu quả

A - Asset Quality

: Chất lượng tài sản có


R - Rates of Return and Costs

: Chỉ tiêu thu nhập và chi phí

L - Liquidity

: Thanh khoản

S - Signs of Growth

: Dấu hiệu của sự tăng trưởng

Qua phân tích hệ thống các chỉ tiêu của hai mô hình tại Phụ lục 01: Phân tích
hệ thống các chỉ tiêu mô hình CAMELS và mô hình PEARLS có thể nhận thấy,
mô hình PEARLS và mô hình CAMELS có những yếu tố, chỉ tiêu giám sát khác
nhau. PEARLS hoàn toàn sử dụng các chỉ tiêu định lượng, trong khi đó CAMELS
sử dụng cả chỉ tiêu định tính (M-quản lý). PEARLS chủ yếu dựa trên cơ sở số liệu
từ bảng cân đối tài khoản kế toán, còn CAMELS sử dụng dữ liệu là báo cáo thống


17
kê từ các tổ chức tài chính thành viên. Ngoài ra, PEARLS còn đo lường chỉ tiêu
tăng trưởng (S). CAMELS đang được sử dụng là phương pháp giám sát chính thức
của các cơ quan quản lý nhà nước.
Vì vậy, có thể sử dụng kết hợp giữa mô hình CAMELS và PEARLS trong
hoạt động giám sát các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt là các tổ chức tài chính
có quy mô nhỏ, như hệ thống QTDND cơ sở ở Việt Nam hiện nay, để có thêm
thông tin trong việc đánh giá, xếp hạng tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong
thời gian tới.


1.2 Chất lượng giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi
1.2.1 Khái niệm chất lượng giám sát từ xa
Như đã trình bày ở trên, giám sát là đánh giá hoạt động của tổ chức tham gia
BHTG, từ đó đưa ra các khuyến nghị, đề xuất cho hoạt động của tổ chức đó nhằm
bảo đảm tuân thủ các quy định về BHTG và quy định về an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Chất lượng giám sát từ xa của tổ chức BHTG chính là mức độ ảnh
hưởng của những đánh giá đưa ra trong quá trình giám sát từ xa đối với hiệu quả
an toàn, lành mạnh trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG.
Mức độ ảnh hưởng đó chính là việc nhờ kết quả giám sát từ xa tổ chức bảo
hiểm tiền gửi đưa ra những cảnh báo sớm cho tổ chức tín dụng, làm tiền đề cho hoạt
động kiểm tra tại chỗ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Từ đó đưa ra hướng giải quyết,
xử lý đảm bảo an toàn lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng.
Khái niệm chất lượng giám sát từ xa cho thấy cần phải có các tiêu chí, các yêu
cầu nhằm đánh giá tình hình các tổ chức tham gia BHTG. Việc đáp ứng tốt, thỏa
mãn được các tiêu chí, yêu cầu đặt ra đó thì hoạt động giám sát từ xa của tổ chức
BHTG được coi là chất lượng.

1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng giám sát từ xa
1.2.2.1 Tần suất báo cáo giám sát, báo cáo tài chính vĩ mô của tổ chức Bảo
hiểm tiền gửi liên tục và đều đặn
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi có chất lượng hoạt động giám sát tốt là tổ chức có
tần suất cho ra các báo cáo tình hình kinh tế vĩ mô – tài chính ngân hàng, báo cáo
giám sát các TCTD liên tục và đều đặn. Tần suất này thường là hàng ngày đối với


18
báo cáo giám sát để liên tục cập nhật đươc tình hình các TCTD, phát hiện ngay vi
phạm và đưa ra hướng xử lý kịp thời; và hàng tuần đối với báo cáo tình hình kinh tế
vĩ mô – tài chính ngân hàng để có cơ sở khách quan đánh giá nguyên nhân vi phạm
của TCTD và đưa ra phương án xử lý phù hợp với tình hình hiện tại.

Ngoài các báo cáo hàng ngày, hàng tuần, tổ chức BHTG cần có những báo cáo
thống kê, tổng hợp hàng tháng, hàng quý công khai chia sẻ với các tổ chức giám sát
khác trong hệ thống tài chính để liên tục nắm bắt tình hình các TCTD và có cái nhìn
tổng quát về xu thế cũng như đưa ra dự báo, hướng xử lý nhanh chóng và đồng bộ.

1.2.2.2 Nội dung giám sát đầy đủ, trung thực
Chất lượng giám sát được phản ánh một phần thông qua nội dung giám sát của
tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Mỗi tổ chức bảo hiểm tiền gửi lựa chọn nội dung giám
sát cho riêng mình nhằm phù hợp với tình hình hiện tại của mỗi quốc gia, mỗi tổ
chức bảo hiểm tiền gửi. Theo thông lệ quốc tế, nội dung giám sát thường bao gồm 2
nội dung chính: giám sát tuân thủ và giám sát rủi ro (giám sát an toàn hoạt động
ngân hàng). Nội dung giám sát cần được nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu giám sát
đáp ứng các quy định về BHTG và thông lệ quốc tế. Hiện nay, các tổ chức bảo hiểm
tiền gửi trên thế giới thường giám sát theo các chỉ tiêu chủ yếu theo mô hình
CAMELS. Tổ chức BHTG có hoạt động giám sát từ xa chất lượng tốt khi có hệ
thống chỉ tiêu giám sát từ xa đảm bảo đủ 6 yếu tố của mô hình CAMELS.

1.2.2.3 Công tác tiếp nhận thông tin đầu vào đầy đủ và độc lập
Thông tin đầu vào là những cơ sở quan trọng phục vụ hoạt động giám sát từ
xa. Thông tin đầu vào bao gồm các thông tin tài chính được thể hiện trong các báo
cáo kế toán, báo cáo thống kê và thông tin phi tài chính trong các báo cáo hoạt động
ngân hàng. Mỗi loại thông tin đều có giá trị riêng, thông tin tài chính cho biết thực
trạng hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG tại thời điểm giám sát, các thông
tin phi tài chính cho biết xu thế, triển vọng tương lai. Việc kết hợp cả hai nguồn
thông tin sẽ cho một nguồn cơ sở đầu vào tốt, đáp ứng hoạt động giám sát từ xa.
Theo thông lệ quốc tế, một tổ chức BHTG có chất lượng hoạt động giám sát
tốt thường có đầy đủ những thông tin đầu vào được gửi trực tiếp từ các tổ chức
tham gia BHTG như sau:



19
- Hồ sơ pháp lý
- Báo cáo theo yêu cầu của tổ chức BHTG
- Báo cáo quản trị, điều hành
- Báo cáo đột xuất
- Báo cáo tài chính
- Báo cáo thống kê
- Bảng kê số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm
Công tác nhận số liệu trực tiếp từ tổ chức tham gia BHTG giúp tổ chức chủ
động trong vấn đề tiếp nhận và xử lý nguồn thông tin của mình cập nhật được
các dữ liệu thông tin và chủ động kiểm tra tính chính xác của thông tin. Việc
nhận thông tin dữ liệu qua một kênh thứ ba sẽ làm giảm chất lượng giám sát từ
xa. Vì vậy, tổ chức BHTG có chất lượng hoạt động giám sát từ xa tốt khi công
tác tiếp nhận thông tin đầu vào từ tổ chức tham gia BHTG được thực hiện đầy đủ
và độc lập.

1.2.2.4 Mức độ tuân thủ của các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi ở
mức cao
Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG có chất lượng tốt sẽ có tác dụng
như “gậy răn đe” đối với các tổ chức tham gia BHTG. Khi được giám sát thường
xuyên, sát sao, cộng với các hình thức xử lý vi phạm nhanh chóng, đánh vào quyền
lợi trực tiếp của tổ chức tham gia BHTG như: tổ chức BHTG kiến nghị NHNN đình
chỉ hoạt động nhận tiền gửi, đồng thời thu hồi giấy chứng nhận BHTG của tổ chức
tham gia BHTG. Điều này ảnh hưởng đến lợi ích, hoạt động kinh doanh của TCTD.
Vì vậy, càng ít trường hợp các tổ chức tham gia BHTG vi phạm tuân thủ đồng
nghĩa với mức độ tuân thủ của các tổ chức càng cao chứng tỏ chất lượng giám sát từ
xa của tổ chức BHTG càng cao.

1.2.2.5 Quy mô giám sát của tổ chức BHTG phù hợp
Một tổ chức tín dụng thường có mạng lưới hoạt động kinh doanh rộng lớn

khắp các địa phương để phục vụ mọi đối tượng người dân có nhu cầu, thậm chí có
mạng lưới rộng tới tận vùng nông thôn, miền núi. Trong khi đó, hoạt động của các


20
chi nhánh tại các vùng này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất do nhận thức của người dân
về tài chính tại các khu vực này chưa cao, điều kiện kinh tế phát triển thấp, làm kinh
tế mang tính tự phát nhiều và hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu
tố tự nhiên. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của tổ chức
tín dụng nói riêng và đến tình hình tài chính ngân hàng nói chung khi các chi nhánh
này gặp phải rủi ro.
Vì vậy, một tổ chức có chất lượng hoạt động giám sát tốt cần có quy mô giám
sát lớn, có mạng lưới hoạt động rộng khắp đến từng chi nhánh của tổ chức tham gia
BHTG để có khả năng nắm bắt được những yếu tố rủi ro “vi mô” một cách nhanh
chóng, từ đó đưa ra cảnh báo sớm hay hướng xử lý kịp thời.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giám sát từ xa
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Nguồn nhân lực
Một hệ thống giám sát có chất lượng cần có tiềm lực đầy đủ về nhân lực, tài
chính và công nghệ; nhưng tiềm lực phải được cung cấp với những điều kiện không
triệt tiêu quyền tự quyết, tính liêm chính và sự độc lập của tổ chức giám sát.
Thật vậy, một trong những yếu tố quan trọng của hoạt động giám sát là các
cán bộ giám sát phải có đủ kỹ năng và kinh nghiệm để giám sát toàn bộ tổ chức
ngân hàng, khả năng rà soát cả những hoạt động ngân hàng và phi ngân hàng do tổ
chức tín dụng đó thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, thực hiện cả trong và ngoài
nước. Các hoạt động phi ngân hàng và những hoạt động của tổ chức tại nước ngoài
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và khó quản lý. Vì vậy, cán bộ giám sát với có trình độ và
chuyên môn trong lĩnh vực tài chính tốt, am hiểu các hoạt động và các dịch vụ tài
chính, có khả năng bao quát, đánh giá tình hình chung một tổ chức về cả quản trị,

điều hành, cơ cấu, tổ chức…
Nguồn nhân lực về giám sát ngày càng được nâng cao về trình độ, chuyên
môn giám sát thì chất lượng giám sát từ xa ngày càng được nâng cao.

1.3.1.2 Điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng
Hiện nay, hiện đại hóa công nghệ ngành tài chính và tự do hóa thị trường dịch vụ
tài chính đang diễn ra hết sức mạnh mẽ đã thúc đẩy dịch vụ tài chính phát triển cả về chất


21
lượng và số lượng. Do đó yêu cầu đặt ra đối với tổ chức giám sát là phải theo kịp sự
chuyển đổi của hệ thống tài chính để có công cụ và phương pháp giám sát hiệu quả nhất.
Thêm vào đó, hoạt động giám sát từ xa không thể đảm bảo chắc chắn hoạt
động ngân hàng luôn trong trạng thái tốt, có thể tiền ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, tổ chức
giám sát luôn phải có sẵn những giải pháp thích hợp đối phó với khó khăn của
ngành ngân hàng, xử lý đổ vỡ một cách nhanh chóng.
Do đó, để đảm bảo chất lượng giám sát từ xa, các tổ chức giám sát cần thiết có
các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật như trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện
làm việc, hệ thống công nghệ… hỗ trợ cho hoạt động giám sát từ xa. Xu hướng hiện
đại hóa công nghệ trong hoạt động giám sát cũng như hoạt động ngân hàng hiện nay
giúp tổ chức giám sát nắm bắt được thông tin đầu vào nhanh hơn, từ đó kịp thời xử
lý tránh gây ra tình trạng đổ vỡ hàng loạt.
Thêm vào đó, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, một tổ chức được
trang bị đầy đủ hệ thống công nghệ sẽ cung cấp công cụ giám sát đắc lực, rút ngắn
thời gian thực hiện hoạt động giám sát. Việc tiếp cận thông tin sẽ không mất nhiều
thời gian và công sức, từ đó có thể nắm bắt tình hình tổ chức tín dụng để đưa ra
những cảnh báo sớm hoặc những hướng xử lý kịp thời. Hoạt động giám sát từ xa
của tổ chức BHTG có chất lượng khi hoạt động giám sát từ xa được công nghệ hóa,
đặc biệt là việc truyền dữ liệu, thu thập thông tin, có các công cụ phần mềm hỗ trợ
việc phân tích hệ thống các chỉ tiêu một cách nhanh chóng.


1.3.1.3 Mô hình tổ chức hoạt động giám sát từ xa
Hiện nay, cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính, việc số lượng các tổ
chức tài chính tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng tăng lên rõ rệt đòi hỏi các tổ chức
giám sát cũng cần phải lớn mạnh cả về quy mô và chất lượng. Theo thông lệ, một tổ
chức giám sát thường có trụ sở chính và mạng lưới chi nhánh tại khắp các vị trí
thích hợp trên toàn lãnh thổ quốc gia. Tùy thuộc vào đặc điểm tình hình họat động
và quy mô của từng hệ thống tài chính trong mỗi nước, hệ thống tổ chức và phối
hợp giữa trụ sở chính và các chi nhánh giám sát là khác nhau. Tổ chức BHTG có
mạng lưới hoạt động càng rộng lớn, hoạt động đồng bộ và chặt chẽ thì chất lượng
hoạt động giám sát từ xa càng được nâng cao.


22

1.3.1.4 Phương pháp giám sát từ xa
Giám sát từ xa là công cụ tối thiểu của hoạt động giám sát liên tục. Tổ chức
giám sát chủ yếu sử dụng giám sát từ xa để giám sát các điều kiện tài chính và hoạt
động ngân hàng và để xác định những tổ chức nào cần quan tâm ở mức đặc biệt
hơn. Giám sát từ xa bao gồm phân tích và xem xét các thông tin tài chính định kỳ và
các thông tin khác liên quan tới hoạt động ngân hàng.
Tổ chức giám sát thường yêu cầu các TCTD thực hiện báo cáo về báo cáo thu
nhập, chi phí, bảng tổng kết tài sản, hồ sơ của ngân hàng, tín dụng, đầu tư, nguồn
vốn, vốn, thanh khoản, trích lập dự phòng rủi ro.
Trong những năm gần đây, tổ chức giám sát đã phát triển và áp dụng nhiều
phương pháp giám sát ngân hàng mới nhằm đánh giá và theo dõi những thay đổi về
điều kiện tài chính và mức độ rủi ro của một ngân hàng và để cảnh báo kịp thời để
tổ chức giám sát có những biện pháp hỗ trợ.
Để đảm bảo chất lượng giám sát, tổ chức giám sát cần lựa chọn phương pháp
giám sát phù hợp với tình hình tổ chức và tình hình hệ thống tài chính quốc gia.


1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Môi trường pháp lý
Bên cạnh tác động của môi trường kinh tế xã hôi, môi trường pháp lý cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động giám sát ngân hàng nói chung. Cần có hệ
thống quy định pháp luật rõ ràng cho hoạt động ngân hàng nói chung và áp dụng
cho các tổ chức giám sát tài chính ngân hàng nói riêng. Hệ thống luật cần điều
chỉnh một cách đồng bộ hoạt động của thị trường chứng khoán, hệ thống tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, cơ chế giao dịch và bảo vệ người tiêu dùng, cơ chế phối hợp
của các tổ chức giám sát.
Môi trường pháp lý có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hoạt động giám
sát từ xa. Trước hết để đảm bảo chất lượng hoạt động giám sát từ xa, cần có hệ
thống luật pháp đồng bộ điều chỉnh hoạt động tài chính - ngân hàng và các tổ chức
giám sát. Theo thông lệ quốc tế, các quốc gia thường xây dựng cơ sở pháp lý trước
khi thành lập các tổ chức giám sát hoặc trước khi thành lập tổ chức BHTG. Cần xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan cũng như việc phối hợp hoạt động


23
giữa các cơ quan. Bên cạnh việc điều chỉnh luật pháp, các tổ chức giám sát cũng ký
những biên bản ghi nhớ trong đó quy định trách nhiệm cụ thể của các bên tham gia
như hợp tác trao đổi thông tin, cơ chế phối hợp kiểm tra giữa các bên.
Theo kinh nghiệm quốc tế, đối với các quốc gia đang trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế hoặc quá trình chuyển đổi từ mô hình giám sát phân tán sang mô
hình giám sát hợp nhất, khối lượng luật pháp cần sửa đổi hoặc xây dựng mới
thường rất lớn. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách tại từng quốc gia
phải có những nỗ lực lớn hoặc có sự trợ giúp của nhiều tổ chức quốc tế có kinh
nghiệm nhằm hoàn tất quá trình trên.
Bên cạnh môi trường pháp lý đồng bộ, việc quốc gia có một hệ thống thực thi
pháp luật hiệu quả cũng có ý nghĩa rất lớn. Trong quá trình triển khai công tác giám

sát, hệ thống thực thi pháp luật quy định phương pháp xử lý các vấn đề cụ thể, chế
tài và các biện pháp chế tài đối với các trường hợp vi phạm. Ví dụ trong trường hợp
tổ chức được giám sát vi phạm quy định về thông tin báo cáo, tổ chức giám sát có
quyền ra các quyết định xử phạt hoặc thậm chí, nếu vi phạm lớn và kéo dài, có thể
đánh tụt hạng giám sát.
Bên cạnh môi trường pháp lý đồng bộ, quốc gia đó cũng cần có một hệ thống
thực thi pháp luật hiệu quả. Trong quá trình triển khai công tác giám sát từ xa, hệ
thống thực thi pháp luật quy định phương pháp xử lý các vấn đề cụ thể, quy trình
chế tài và các biện pháp chế tài đối với các trường hợp vi phạm sẽ góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động giám sát từ xa.

1.3.2.2 Sự phát triển của hệ thống tài chính quốc gia
Cấu trúc tổng thể hệ thống tài chính của mỗi quốc gia bao gồm môi trường
thực hiện, các đơn vị hạ tầng cơ sở, các trung gian tài chính, các công cụ tài
chính và thị trường, các tổ chức giám sát và kiểm soát. Các thành tố làm nên cấu
trúc hệ thống tài chính này có mối quan hệ chặt chẽ và quyết định xu hướng phát
triển của nhau.
Tùy vào mức độ phát triển khác nhau của nền kinh tế tài chính quốc gia, các
trung gian tài chính cũng có mức độ đa dạng và trình độ phát triển khác nhau. Điều


24
này đồng thời đặt ra yêu cầu tương ứng đối với hệ thống giám sát và kiểm soát.
Theo thông lệ quốc tế, các tổ chức giám sát chủ yếu bao gồm Bộ Tài chính, Ngân
hàng Trung ương, Tổ chức bảo hiểm tiền gửi và một số cơ quan khác như tổ chức
giám sát chuyên ngành và Ủy ban chứng khoán.
Hệ thống giám sát, kiểm soát hợp nhất liên quan trực tiếp đến rủi ro quốc gia,
bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ người gửi tiền. Để đảm bảo chất lượng giám sát từ
xa, quy trình cung cấp thông tin, phối hợp giám sát cần được xác định với cơ chế
đầy đủ và rõ ràng, có tham vấn đến tính chất và trình độ phát triển của thị trường tài

chính. Từ đó có chiến lược phát triển đồng bộ cả về quy mô, phương pháp, công cụ
giám sát, cách thức phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan từ đó nâng cao chất lượng
giám sát từ xa của tổ chức BHTG.

1.3.2.3 Mối quan hệ với các Cơ quan quản lý nhà nước
Các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước và nhà hoạch định chính sách có
tác động tới cấu trúc hệ thống giám sát rất lớn. Một số cơ quan quản lý nhà nước
đóng vai trò kép, vừa xây dựng chính sách, vừa thực thi chính sách. Ví dụ, Ngân
hàng nhà nước vừa là cơ quan quản lý nhà nước ngành ngân hàng đồng thời là cơ
quan hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, Bộ Tài chính vừa là cơ quan quản lý
nhà nước đồng thời là tổ chức giám sát.
Tổ chức BHTG thông thường do cơ quan Chính phủ hoặc Quốc hội thành lập,
thiết lập cơ chế tạo vốn và giao cho một số chức năng nhất định trong đó có chức
năng giám sát, tổ chức này không phải là cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, chất
lượng hoạt động giám sát từ xa phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ giữa tổ chức bảo
hiểm tiền gửi và một số cơ quan quản lý nhà nước. Để mối quan hệ phối hợp này
thực sự hiệu quả, cần có cơ chế phối hợp rõ ràng được luật hóa cụ thể.

1.3.2.4 Hệ thống chia sẻ thông tin
Một hệ thống giám sát chất lượng cần có hệ thống hợp tác và chia sẻ thông tin
giữa các tổ chức giám sát chính thức khác nhau, cả trong và ngoài nước, chịu trách
nhiệm về sự an toàn và khả năng thanh toán của hệ thống tài chính; sự hợp tác này
được hỗ trợ bởi những sự sắp xếp nhằm bảo mật thông tin giám sát và bảo đảm rằng
thông tin này chỉ được sử dụng chỉ với những mục đích liên quan tới việc giám sát


×