Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân xã an phụ, huyện kinh môn, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.74 KB, 75 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong

phát triển kinh tế tuy nhiên đời sống của người dân vẫn chưa thực sự được cải
thiện, đặc biệt là người dân ở vùng nông thôn. Hầu hết các hộ gia đình ở khu
vực nông thôn có nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp, một bộ phận nhỏ có
nguồn thu nhập từ buôn bán, làm thuê, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Một đặc
trưng của sản xuất nông nghiệp là chỉ mang tính thời vụ dẫn tới nguồn thu nhập
của các hộ nông dân thường không ổn định. Chi tiêu của hộ có mối quan hệ
cùng chiều với thu nhập, khi thu nhập thay đổi thì chi tiêu cũng thay đổi qua đó
dẫn đến sự thay đổi trong các khoản tiết kiệm của hộ. Tiết kiệm đóng vai trò
quan trọng trong việc tái đầu tư nhưng do sản xuất nông nghiệp còn manh mún,
các hộ vẫn còn nghèo về vật chất- kỹ thuật, yếu kém về trình độ,…nên hầu hết
thu nhập của hộ chưa tương xứng với sức bỏ ra. Thực tế này dẫn tới tình trạng
phần lớn hộ nông dân có khoản tiết kiệm không đủ bù đắp thêm cho các chi phí
sản xuất phát sinh làm cho nhiều hộ nông dân rơi vào tình trạng thiếu vốn. Mặt
khác, nông nghiệp, nông thôn là khu vực sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro
khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách hàng thấp…) nên
luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại đổ vào khu vực này rất hạn chế.
Nguồn cung vốn từ các tổ chức tín dụng không đủ đáp ứng nhu cầu vốn của hộ,
dẫn tới thực trạng các hộ nông dân phải đi vay từ các nguồn tín dụng phi chính
thức với lãi suất rất cao. Thực tế này đang diễn ra ở rất nhiều vùng nông thôn
Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng. Nhận thấy những vấn đề đó
nên việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng huy
động vốn sản xuất của hộ nông dân xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương” là cấp thiết và có ý nghĩa thực tế.
2.


Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về vốn sản xuất của hộ nông dân.

1


Phân tích thực trạng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân tại xã An
Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế trong huy động vốn sản xuất của hộ nông dân.
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị để nâng cao khả năng huy động vốn
sản xuất của hộ nông dân trên địa bàn xã An Phụ.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cách tiếp cận của hộ

nông dân với nguồn vốn chính thức và với nguồn vốn phi chính thức
thông qua việc phân tích thu nhập, chi tiêu, đầu tư và tiết kiệm của hộ để
làm rõ khả năng huy động vốn của hộ nông dân trên địa bàn xã An Phụ.
• Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn 50 mẫu để quan sát về “Khả năng huy động vốn sản
xuất của hộ nông dân xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương”.
Đề tài nghiên cứu thực trạng huy động vốn của hộ nông dân năm
2011 và đề xuất các giải pháp để tăng cường huy động vốn sản xuất của
hộ nông dân đến năm 2015.
Thời gian thu thập thông tin cho nghiên cứu bắt đầu từ 18/3/2012
đến 19/3/2012
Địa điểm: xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
4.


Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sơ bộ: Phỏng vấn sâu với 2 hộ nông dân được chọn thuận

tiện việc phỏng vấn, ý kiến của các nông dân đưa ra được ghi lại để làm cơ sở
cho việc thiết kế bảng câu hỏi. Phỏng vấn trực tiếp 3 hộ nông dân dựa trên bảng
câu hỏi đã được thiết kế sẵn, mục đích của việc phỏng vấn này là phát hiện ra
những sai sót.
Nghiên cứu chính thức: Dựa trên bảng câu hỏi chính thức tiến hành thu
thập dữ liệu sơ cấp thông qua quá trình phỏng vấn trực tiếp đến từng nhà 50 hộ
tại khu vực xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.

2


• Sử dụng phương pháp chọn mẫu: chọn hộ điều tra được thực hiện ngẫu

nhiên với 20 mẫu ở chợ Huề Trì, 30 mẫu khác được chọn thuận tiện ở
những nông hộ thuộc xã.
• Sử dụng phương pháp hồi qui để xem xét mối quan hệ giữa tổng lợi nhuận
và vốn đầu tư cho từng loại hình sản xuất:
Y= A+a1X1+ a2X2+ a3X3+ a4X4+ a5X5+ a6X6+ a7X7+ a8X8
Trong đó:
Y: Tổng lợi nhuận.
X1, X2, X3, X4, X5, X6, X7, X8: vốn đầu tư cho lúa, rau màu, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, buôn bán, nghề phụ, làm thuê, hoạt động khác.
A: hằng số
a1, a2, a3, a4, a5, a6, a7, a8: hệ số sinh lời tổng thu nhập trên vốn đầu tư.
• Số liệu thứ cấp: Thu thập thông tin từ phòng tín dụng xã An Phụ, huyện

Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, sách, internet, những kiến thức đã học ở

trường, tham khảo những tài liệu có liên quan, tài liệu giảng dạy các của
giáo viên, tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn.
5.

Kết cấu của đề tài
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vốn sản xuất của hộ nông dân.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn sản xuất của hộ nông dân xã An

Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng huy động vốn sản
xuất của hộ nông dân xã An Phụ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và một
số kiến nghị.
6.

Lời cảm ơn:
Trước tiên em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Thị Minh đã tận tình

hướng dẫn, góp ý và động viên em trong quá trình thực hiện chuyên đề này.
Xin chân thành cảm ơn các cô chú ở Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
trung ương, quý thầy cô Khoa Bất Động Sản và Kinh tế Tài nguyên trường đại
học Kinh tế quốc dân, quý thầy cô chuyên ngành Kinh tế Nông nghiệp và Phát
3


triển nông thôn, các bạn lớp kinh tế nông nghiệp khóa 50 đã nhiệt tình giúp đỡ
em trong suốt thời gian làm chuyên đề này.

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN SẢN XUẤT CỦA
HỘ NÔNG DÂN

I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘ NÔNG DÂN VÀ KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
1.1.

Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Nước ta là một nước nông nghiệp lâu đời với hơn 70% dân số là nông

dân, với trình độ sản xuất lạc hậu, manh mún. Tuy nhiên, quy mô kinh tế hộ vẫn
chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Nói đến sự
tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản
xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông
nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang
tiếp tục phát triển. Mỗi phương thức sản xuất có những quy luật phát triển riêng
của nó và trong mỗi chế độ nó tìm cách thích ứng với nền kinh tế hiện hành. Vì
vậy có nhiều quan niệm khác nhau về hộ sản xuất. Theo phụ lục của ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ban hành kèm theo quyết định
499A TDNH 02/09/1993 thì khái niệm hộ sản xuất được nêu như sau: “Hộ sản
xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ

4


thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình”.
Bên cạnh đó, ta cũng cần làm rõ khái niệm hộ nông dân. Hộ nông dân là
một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu
dùng. Sản xuất của hộ nông dân dựa trên công cụ sản xuất thủ công, trình độ
canh tác lạc hậu, trình độ khai thác tự nhiên thấp. Tuy nhiên, trong thời kỳ nền
kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, hộ
nông dân, với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ, đã từng bước thích ứng với
cơ chế thị trường, áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, thực

hiện liên doanh, liên kết, khai thác hiệu quả các nguồn lực để sản xuất nông sản
đáp ứng nhu cầu xã hội. Các hộ nông dân, ngoài hoạt động nông nghiệp còn
tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau. Bên
cạnh đó, hộ nông dân có sự gắn bó các thành viên về huyết thống, về quan hệ
hôn nhân, có lịch sử và truyền thống lâu đời. Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
nông nghiệp, là lĩnh vực mà chịu sự tác động trực tiếp của điều kiện thời tiết như
mưa, gió, nắng hạn…là những nguyên nhân khách quan không thể thay đổi vì
vậy sản xuất kinh doanh của hộ nông dân chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khách
quan, tuy nhiên khả năng khắc phục lại hạn chế. Từ những đặc điểm trên ta thấy
kinh tế hộ là thành phần kinh tế khá linh động, là cơ sở ban đầu cho việc thực
hiện các quy hoạch phát triển kinh tế nước ta.
1.2.

Đặc điểm kinh tế hộ nông dân

1.2.1. Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa

là một đơn vị tiêu dùng.
Với lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu đời và là hình thức tổ chức
sản xuất trình độ thấp nhất trong các loại hình tổ chức kinh doanh chủ yếu trong
nông nghiệp, hộ nông dân đóng vai trò là đơn vị kinh tế cơ sở. Nước ta đang
trong thời kỳ đổi mới với nhiều khó khăn và thử thách.Với cơ cấu nền kinh tế
nhiều thành phần, kinh tế hộ vẫn đóng vai trò quan trọng, vẫn là mục tiêu phát
triển chính và chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
5


Mặt khác, kinh tế hộ nông dân nước ta chủ yếu còn nhỏ lẻ, manh mún, sử
dụng lao động gia đình là chính, trình độ sản xuất hạn chế. Do đó, sản xuất chủ
yếu mang tính tự cấp, tự túc. Phần lớn sản phẩm làm ra là để tiêu dùng trong gia

đình. Khi sản xuất không đủ tiêu dùng, họ thường điều chỉnh nhu cầu, khi sản
xuất dư thừa họ có thể đem sản phẩm dư thừa để trao đổi trên thị trường, nhưng
đó không phải là mục đích sản xuất của họ. Vì vậy, hộ vừa là một đơn vị sản
xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng.
1.2.2. Sản xuất của hộ nông dân dựa trên công cụ sản xuất thủ công, trình độ
canh tác lạc hậu, trình độ khai thác tự nhiên thấp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất chính ở nông thôn. Vì hộ sản xuất kinh
doanh nước ta chủ yếu còn nhỏ lẻ, manh mún nên công cụ sản xuất cũng ở mức
độ thô sơ, thủ công. Nước ta đi lên từ sau chiến tranh, đời sống người dân còn
khổ cực, trình độ năng lực còn rất hạn chế. Trước đây, vì trình độ canh tác còn
lạc hậu, các hộ chủ yếu sản xuất nhỏ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng gia đình, ít
mở rộng sản xuất, hầu như không áp dụng khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, nông
nghiệp là ngành mang tính thời vụ cao, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên, trong khi đó, khả năng khai thác tự nhiên của hộ rất thấp, chủ yếu phụ
thuộc hoàn toàn vào nó, dẫn đến tình trạng có năm được mùa, có năm lại mất
trắng, cuộc sống không ổn định.
Hiện nay, trong thời kỳ nền kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam mở cửa
hội nhập với khu vực và thế giới. Hộ nông dân, với tư cách là những đơn vị kinh
tế tự chủ, hộ đã từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, áp dụng các tiến bộ
khoa học và công nghệ vào sản xuất, thực hiện liên doanh, liên kết, khai thác
hiệu quả các nguồn lực để sản xuất nông sản đáp ứng nhu cầu xã hội.
1.2.3. Các hộ nông dân, ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào các
hoạt động phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau.
Đối tượng sản xuất của hộ nông dân chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp,
hộ sản xuất kinh doanh trồng trọt các loại cây ăn quả, cây trồng lâu năm…; hộ
sản xuất kinh doanh chăn nuôi; hay là hộ sản xuất kết hợp trồng trọt và chăn
6


nuôi các loại cây trồng, vật nuôi khác nhau có tính hỗ trợ cho nhau. Thực tế hiện

nay, có rất nhiều mô hình kết hợp trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả cao, thu về
cho hộ nông dân hàng trăm triệu mỗi năm.
Bên cạnh đó, nền kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi kinh tế hộ phải
phát triển hơn cả về chất và lượng, không chỉ đơn thuần hoạt động sản xuất nông
nghiệp mà hộ còn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh ở các ngành nghề phi
nông nghiệp khác vào lúc nông nhàn với quy mô lớn, nhỏ khác nhau để tận dụng
triệt để nguồn nhân lực, tránh lãng phí tư liệu sản xuất, đồng thời đa dạng các
khoản thu nhập, nâng cao đời sống người dân. 1.2.4. Hộ nông dân có sự gắn bó
các thành viên về huyết thống, về quan hệ hôn nhân, có lịch sử và truyền thống
lâu đời.
Với đặc điểm như vậy nên các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau
trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Do thống nhất
về lợi ích nên sự gắn kết, tính tự nguyện, tự giác cao trong lao động. Trong mỗi
nông hộ, bố mẹ vừa là chủ hộ, vừa là người tổ chức hoạt động sản xuất. Vì vậy,
tổ chức sản xuất trong hộ nông dân có nhiều ưu việt và có tính đặc thù.
1.2.5. Sản xuất kinh doanh chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khách quan, tuy
nhiên khả năng khắc phục lại hạn chế.
Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, là lĩnh vực mà chịu sự tác
động trực tiếp của điều kiện thời tiết như mưa, gió, nắng hạn…là những nguyên
nhân khách quan không thể thay đổi. Hiện nay, sự đầu tư cho nông nghiệp, nông
thôn đã chú trọng đến vấn đề này nhưng thực tế vẫn chưa triệt để, nông nghiệp,
nông thôn vẫn phải gánh chịu những đợt mất mùa, mưa bão, hạn hán; những đợt
dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi làm ảnh hưởng xấu đến quá trình sản xuất
kinh doanh của hộ.
1.2.6. Về tính pháp lý và khả năng tài chính của hộ
Đây là một đặc điểm đứng trên phương diện nghiên cứu hộ là một chủ thể
kinh tế chịu sự tác động của các hoạt động tín dụng.

7



Mọi thành viên trong hộ gia đình đều liên đới trách nhiệm trong quan hệ
giao dịch tín dụng. Về mặt thủ tục pháp lý trong giao dịch với ngân hàng, chỉ
cần người đại diện hộ đứng tên giao dịch với ngân hàng trên cơ sở ủy quyền của
các thành viên trong hộ.
Tài sản của hộ bao gồm cả tài sản chung của các thành viên trong hộ và cả
tài sản riêng của các thành viên góp vào sử dụng chung. Xét từ góc độ này thì
năng lực tài chính của hộ bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của các thành
viên. Vốn tự có của hộ chủ yếu là khả năng lao động của hộ, tức là kinh nghiệm
cùng khả năng tổ chức và trực tiếp tham gia lao động của các thành viên trong
hộ.
1.3. Các điều kiện phát triển kinh tế hộ nông dân
1.3.1. Điều kiện chủ quan
Là những điều kiện mà cơ sở sản xuất kinh doanh và chủ cơ sở sản xuất
kinh doanh có thể tạo ra được. Điều kiện chính và cơ bản nhất là trình độ, năng
lực và hiểu biết chuyên môn của chủ hộ nông dân. Chủ sản xuất kinh doanh phải
là người có trình độ chuyên môn phù hợp, nhạy bén với thị trường, quyết đoán
và linh hoạt trong xử lý các tình huống. Người chủ sản xuất kinh doanh cần phải
có những tri thức cần thiết phục vụ cho kinh doanh và phát triển kinh tế hộ, đó là
những kiến thức chung về kinh tế và quản lý kinh tế, những kiến thức về nghiệp
vụ, thu thập thông tin và xử lý thông tin một cách nhanh, nhạy và chính xác.
Bên cạnh trình độ, năng lực và hiểu biết chuyên môn của chủ hộ thì vốn,
các yếu tố vật chất đầu vào, liên kết sản xuất kinh doanh cũng là những điều
kiện chủ quan đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
- Vốn: vốn đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu để thực hiện quá
trình kinh doanh của hộ trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông
thôn. Một hộ nông dân muốn sản xuất kinh doanh cái gì điều đầu tiên phải cần
có vốn, lượng vốn nhiều hay ít quyết định quy mô sản xuất của hộ, quyết định
qúa trình sản xuất kinh doanh đấy có được diễn ra liên tục, không bị bỏ dỡ giữa
chừng vì thiếu vốn. Vốn cũng quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ.

8


Với lượng vốn lớn, hộ nông dân sẽ được tiếp cận với nguồn lực vật chất đầu vào
chất lượng, từ đó dẫn đến sản phẩm sản xuất kinh doanh của hộ đạt chất lượng
cao, dẫn đến đạt hiệu quả kinh tế.
- Tiềm lực vật chất đầu vào: Là điều kiện cần thiết cho bất kỳ hộ nông dân
nào hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nói chung và kinh doanh nông
nghiệp nói riêng. Đối với hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp thì sự biểu hiện
của nó càng đậm nét hơn vì mối quan hệ giữa các yếu tố trong sản xuất nông
nghiệp không chỉ bị chi phối bởi các quy luật kinh tế mà còn bị chi phối bởi các
quy luật đặc điểm sản xuất nông nghiệp, trong đó quy luật sinh học chi phối một
cách mạnh mẽ, nhất là đối với cây trồng, vật nuôi có chu lỳ sản xuất dài, yêu cầu
đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Tiềm lực vật chất đầu vào cũng quyết
định xem quá trình sản xuất kinh doanh có diễn ra hay không và sản phẩm sản
xuất kinh doanh có đạt hiệu quả không, dẫn đến hiệu quả kinh tế có đạt được
không.
- Liên kết sản xuất kinh doanh: Mở rộng sự liên kết hợp tác theo hướng đa
dạng giữa các hộ sản xuất trên cơ sở tự nguyện của hộ với sự hỗ trợ của Nhà
nước. Sự liên kết sản xuất hiệu quả giữa các hộ sẽ giảm được lượng chi phí sản
xuất, đồng thời tạo ra sản phẩm phong phú, đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường.
1.3.2. Điều kiện khách quan
Là những điều kiện vượt ra khỏi phạm vi giải quyết của hộ sản xuất kinh
doanh nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn. Bao gồm nhiều điều kiện,
trong đó cần lưu ý các điều kiện sau:
- Điều kiện tự nhiên: Hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn mang
tính thời vụ rõ rệt, lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên
thuận lợi thì cây trồng, vật nuôi sinh trưởng, phát triển tốt làm cho quá trình sản
xuất đạt hiệu quả cao. Nếu môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, điều kiện tự
nhiên ngày càng khắc nghiệt hơn sẽ dẫn đến tính rủi ro sản xuất ngày càng cao,

tổn thất ngày càng lớn và khó lường trước được.

9


- Cơ chế chính sách của Nhà nước: Hệ thống pháp luật, các chính sách
quản lý kinh tế ổn định, an ninh đảm bảo, chính sách cho vay thực thi tạo điều
kiện để hộ yên tâm sản xuất kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại,
nó sẽ là nhân tố cản trở hộ tiếp cận với nguồn vốn vay, với thị trường, từ đó làm
giảm hiệu quả kinh doanh của hộ.
II/ CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN SẢN XUẤT CỦA HỘ NÔNG DÂN
2.1. Khái niệm vốn sản xuất
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, nông
nghiệp nói riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang
phạm vi lưu thông
và trở về sản xuất. Hình thức của vốn sản xuất cũng thay đổi từ hình thức tiền tệ
sang hình thức tư liệu sản xuất và tiền lương cho nhân công đến sản phẩm hàng
hóa và trở lại hình thức tiền tệ…Như vậy, vốn sản xuất trong nông nghiệp là
biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào
sản xuất nông nghiệp.
2.2. Vai trò và đặc điểm của vốn sản xuất với kinh tế hộ nông dân
Vốn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ. Vốn là yếu tố cơ bản
trong quá trình phát triển và lưu thông hàng hóa và là điều kiện để cho hộ nông
dân thực hiện tốt các khâu sản xuất, chế biến, marketing.
Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, vốn sản xuất nông nghiệp có
những đặc điểm sau:
- Trong sự cấu thành vốn cố định, ngoài những tư liệu lao động có nguồn
gốc kỹ thuật còn bao gồm cả tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học, như cây
lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản. Trên cơ sở tính quy luật sinh học,
các tư liệu lao động này thay đổi giá trị sử dụng của mình khác với tư liệu lao

động có nguồn gốc kỹ thuật.
- Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh
doanh không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Cơ

10


cấu và chất lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất
đai, từng đối tượng sản xuất là sinh vật.
- Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp, một mặt làm cho
sự tuần hoàn và luân chuyển chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định,
tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài của vốn lưu
động và làm cho vốn ứ đọng, mặt khác tạo ra sự cần thiết và khả năng tập trung
hóa cao về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với công
nghiệp.
- Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên nên việc
sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn.
- Một bộ phận sản xuất nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà
được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp, do
vậy vòng tuần hoàn vốn sản xuất được chia thành vòng tuần hoàn đầy đủ và
không đầy đủ. Vòng tuần hoàn không đầy đủ là vòng tuần hoàn của một bộ phận
vốn không được thực hiện ở ngoài thị trường mà được tiêu dùng trong nội bộ
nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật của
chúng. Vòng tuần hoàn đầy đủ yêu cầu vốn lưu động phải trải qua tất cả các giai
đoạn, trong đó có giai đoạn tiêu thụ sản phẩm.
2.3. Phân loại vốn sản xuất
2.3.1. Vốn cố định
Vốn cố định là số vốn ứng trước để mua sắm tư liệu lao động chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phương thức luân chuyển và bù đắp giá
trị của nó là chuyển dần từng phần giá trị vào sản phẩm mới đến khi tư liệu lao

động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định kết thúc quá trình luân chuyển.
2.3.2. Vốn lưu động
Vốn lưu động là vốn bằng tiền ứng trước để dự trữ cho sản xuất, để mua
sắm vật rẻ tiền mau hỏng và hình thành vốn lưu thông nhằm đảm bảo cho quá
trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa diễn ra một cách bình thường. Theo tính chất
tham gia của các yếu tố vào quá trình sản xuất, vốn lưu động được chia thành 3
11


bộ phận, gồm: vốn lưu động dự trữ cho quá trình sản xuất, vốn lưu động dùng
trong quá trình sản xuất và vốn lưu động trong quá trình lưu thông.
- Vốn lưu động dự trữ trong quá trình sản xuất: là biểu hiện bằng tiền toàn
bộ nguyên nhiên vật liệu, phân bón, thuốc trừ sâu, vật tư cho sản xuất phụ, phụ
tùng dự trữ,.. chuẩn bị cho vụ sản xuất sau và những vật tư bảo hiểm nhằm đảm
bảo cho quá trình sản xuất có thể tiến hành một cách liên tục.
- Vốn lưu động trong quá trình sản xuất: là biểu hiện bằng tiền của những
sản phẩm sản xuất dở dang, bán thành phẩm và những chi phí chờ phân bổ của
ngành trồng trọt, chăn nuôi và ngành nghề.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông gồm những khoản nông sản
hàng hóa, vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán.
2.4. Hình thức huy động vốn sản xuất của hộ nông dân- cung vốn sản xuất
của hộ
2.4.1. Vốn của hộ nông dân
Vốn dành cho sản xuất ở hộ nông dân được hình thành từ hai nguồn cơ
bản:
- Một phần từ thu nhập thuần của hộ: thu nhập của hộ nông dân được hiểu
là phần giá trị sản xuất tăng thêm mà hộ được hưởng để bù đắp cho thù lao lao
động của gia đình, cho tích lũy và tái sản xuất mở rộng nếu có. Thu nhập của hộ
phụ thuộc vào kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh mà họ thực hiện.
Thường thu nhập của hộ nông dân có thể phân thành 2 loại:

Thu nhập từ nông nghiệp: bao gồm thu nhập từ các hoạt động sản xuất
trong nông nghiệp như: trồng trọt (lúa, màu, rau, quả,..), từ chăn nuôi (gia súc,
gia cầm,..) và nuôi trồng thủy sản (tôm, cá).
Thu nhập phi nông nghiệp: là thu nhập được tạo ra từ các hoạt động
ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm các ngành nghề chế
biến, sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí,..Ngoài ra thu nhập phi nông
nghiệp còn được tạo ra từ các hoạt động thương mại dịch vụ như buôn bán…

12


Thu nhập là hàm số theo quy mô sản xuất, chi phí dành cho sản xuất, tiết
kiệm, đầu tư mở rộng sản xuất, số người lao động trong gia đình, trình độ học
vấn,…
- Một phần từ tiết kiệm của hộ: tiết kiệm của hộ được hiểu là phần thu
nhập còn lại sau khi đã trừ chi phí sản xuất, nộp thuế cho chính phủ, chi tiêu tiêu
dùng, đầu tư mở rộng sản xuất, tiền thuê đất,…Tiết kiệm thường được tích lũy
dưới nhiều hình thức: tiền mặt, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ,…Trong những điều
kiện nhất định, tiết kiệm còn có thể xem như là khoản dự phòng khi có chuyện
cần thiết lấy ra sử dụng của hộ nông dân như: ốm đau, cưới xin,.. Tiết kiệm là
khoản tiền nhàn rỗi của hộ nông dân nếu khoản tiền đó không được đem đi đầu
tư hoặc sử dụng thì nó được coi như khoản tài chính chết, tài chính chết là khoản
tài chính không đem lại giá trị gia tăng cho người chủ sở hữu nó, nhưng nếu
khoản tài chính đó được đem đi đầu tư, sử dụng một cách hợp lý thì nó sẽ góp
phần gia tăng thu nhập. Do đó những biến động trong tỷ lệ tiết kiệm của hộ nông
dân theo thời gian cũng được sử dụng để giải thích và dự báo thái độ chi tiêu và
đầu tư của hộ nông dân. Tiết kiệm là một hàm số theo thu nhập, lãi suất, chi phí
dành cho sản xuất, tập quán sinh hoạt, đầu tư mở rộng sản xuất, lạm phát…
2.4.2. Vốn vay
Vốn vay ở nông thôn hiện nay được huy động từ nhiều nguồn khác nhau:

- Nguồn chính thức: là hệ thống tín dụng thường thấy giữa các cá nhân và
các tổ chức tín dụng được pháp luật thừa nhận và hoạt động dưới sự quản lý của
pháp luật.
- Nguồn phi chính thức: thường là các quan hệ tín dụng giữa các cá nhân
và không được qui định trong luật pháp. Những hình thức tín dụng trong hệ
thống phi chính thức không chịu sự quản lý của nhà nước, hoạt động trên cơ sở
tin tưởng lẫn nhau.
Đặc điểm của 2 nguồn tín dụng:
Nguồn chính thức:
- Có nguồn vốn lớn.

Nguồn phi chính thức:
- Lượng vốn vay nhỏ, thời gian cho
13


vay ngắn.
- Lãi suất thường được quy định bởi - Lãi suất cao hay thấp tùy thuộc sự
nhà nước.
thỏa thuận giữa các bên.
- Hoạt động trong phạm vi rộng với - Thủ tục đơn giản, tiện lợi, lúc nào
thời gian dài.
cũng có sẵn.
- Hình thức thường thấy như tín dụng - Một số hình thức như vay lẫn nhau,
ngân hàng, tín dụng nhà nước,…
mua bán chịu,..
• Các định chế tài chính tham gia cung cấp tín dụng phục vụ nông nghiệp,

nông thôn tập trung chủ yếu vào các định chế sau:
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT): được

thành lập năm 1988 và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 12/1990, sau khi
hai pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực. Mạng lưới hoạt động của NHNo&PTNT
ngày càng tăng, năm 2003 có 1726 chi nhánh, phòng giao dịch, đến nay,
NHNo&PTNT có hơn 2000 chi nhánh nằm rải rác khắp cả nước.
- Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH): được thành lập theo Quyết
định số 131/2002/QĐ – TTg ngày 4/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ nhằm
tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại trên cơ sở tổ chức lại Ngân
hàng Phục vụ người nghèo. Qua gần 6 năm hoạt động, NHCSXH là ngân hàng
có mạng lưới lớn thứ hai trong hệ thống ngân hàng Việt Nam với 65 chi nhánh
cấp tỉnh và Sở giao dịch; 601 phòng giao dịch cấp huyện, 8.649 điểm giao dịch
cấp xã và trên 180.000 tổ tiết kiệm và vay vốn. Hoạt động của NHCSXH đang
từng bước được xã hội hoá, ngân hàng luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các hội,
đoàn thể để thực hiện nghiệp vụ uỷ thác cho vay vốn ưu đãi để thực hiện mục
tiêu xóa đói giảm nghèo của Chính phủ.
- Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND): bắt đầu từ một chương trình
thí điểm chịu sự giám sát của NHNN vào tháng 7/1993, là hình thức hợp tác xã
tiết kiệm và tín dụng cấp xã xây dựng theo mô hình Caisse Populaire ở Quebec,
Canada. Khi đó, một trong những mục tiêu quan trọng của NHNN là khôi phục
lòng tin của người dân đối với hệ thống tín dụng nông thôn sau sự sụp đổ của
hàng loạt hợp tác xã tín dụng(1). QTDND là loại hình tín dụng hợp tác hoạt
động trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, dịch vụ ngân hàng chủ yếu ở nông thôn.
14


Mục tiêu hoạt động là nhằm huy động nguồn vốn tại chỗ để cho vay tại chỗ,
tương trợ cộng đồng, vì sự phát triển bền vững của các thành viên. Theo thống
kê, hiện nay, cả nước có 989 QTDND hoạt động với tổng nguồn vốn gần 14.000
tỷ đồng (chưa tính QTDND Trung ương và 24 chi nhánh), tổng dư nợ hơn
12.000 tỷ đồng, thu hút gần 1,3 triệu thành viên là đại diện hộ gia đình.
Để hiểu rõ hơn về khả năng huy động vốn của hộ nông dân, ta cần hiểu rõ

hơn về cơ chế tín dụng đối với hộ nông dân.
2.5. Cơ chế tín dụng:
- Lãi suất: là giá cả của khoản cho vay, được biểu hiện bằng tỷ lệ % giữa
giá trị lãi của khoản vay và khoản vay trong một thời gian nhất định.
- Thủ tục cho vay: là một tập hợp các bước, các công việc cần thiết nhất
định phải tiến hành giữa người đi vay và người cho vay.
- Thời hạn cho vay: là 1 khoảng thời gian được tính từ khi người đi vay
bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa người đi vay và người cho vay. Thời
hạn cho vay thường gồm:
+ Cho vay ngắn hạn: đối với người đi vay vay vốn ngắn hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống được xác định phù
hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của người đi vay tối đa
đến 12 tháng.
+ Cho vay trung, dài hạn: đối với người đi vay vay vốn trung, dài hạn
nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời
sống. Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự
án đầu tư, khả năng trả nợ của người đi vay và tính chất nguồn vốn cho vay của
người cho vay (>12 tháng)
- Mức cho vay:
+ Đối với hình thức cho vay có thế chấp, giá trị món vay luôn được xác
định trên cơ sở giá trị tài sản thế chấp.

15


+ Đối với hình thức cho vay theo tín chấp, mức cho vay là số tiền tối đa
mà các tổ chức tín dụng có thể cho người cần vốn vay.
- Thời gian thu hồi vốn vay: là thời gian bắt đầu từ khi người vay nhận
được khoản vay đến khi thực hiện trả lần đầu tiên về lãi hoặc nợ gốc.

2.6. Hình thức sử dụng vốn sản xuất của hộ nông dân- cầu vốn sản xuất của
hộ:
Sử dụng vốn để sản xuất hay còn gọi là đầu tư, là việc hộ nông dân bỏ
vốn, nhân công lao động, quản lý vào quá trình canh tác, sản xuất kinh doanh
trên cơ sở tính toán kinh tế, xã hội. Hay nói cách khác, cầu vốn sản xuất của hộ
chính là các khoản chi phí mà hộ phải trang trải trong quá trình sản xuất như: chi
phí mua giống, phân bón, thức ăn, tiền thuê làm đất, làm cỏ,…
Một hộ nông dân có mức đầu tư hợp lý sẽ tiết kiệm chi phí sản xuất, gia
tăng thu nhập. Đầu tư là hàm theo quy mô sản xuất, thu nhập, tài sản dành cho
sản xuất, tiết kiệm, khấu hao, tập quán sinh hoạt, thuế, trình độ học vấn,…
Thu nhập thuần

(1a)

Đầu tư

(2a)

(1b)

(1c)

Tiết kiệm

(2b)

Chi tiêu

(3a)
(3b)

(4)
Đi vay vốn

(5)
Cho vay vốn

(1a), (1b), (1c): 1 phần thu nhập thuần được dùng để chi tiêu hàng ngày, 1
phần thu nhập thuần để đầu tư sản xuất, phần thu nhập dư ra để tiết kiệm.
16


(2a), (2b): trong quá trình chi tiêu hoặc đầu tư, nếu thiếu tiền hộ nông dân
có thể lấy tiền tiết kiệm để tài trợ.
(3a), (3b): trong quá trình đầu tư sản xuất, nếu thừa tiền, một phần hộ
nông dân có thể bổ sung thêm nguồn tiết kiệm hoặc bổ sung thêm cho chi tiêu.
(4): trong quá trình đầu tư sản xuất, nếu thiếu tiền mà hộ nông dân không
còn tiền tiết kiệm để tài trợ, hộ sẽ dùng nguồn đi vay để tài trợ.
(5): trong quá trình đầu tư sản xuất, chi tiêu hàng ngày, nếu hộ dư thừa
tiền tiết kiệm, để kiếm thêm thu nhập, hộ có thể đi vay.
Như vậy, quá trình tạo ra thu nhập thuần và phân bổ thu nhập thuần cho
mục đích chi tiêu hàng ngày, đầu tư sản xuất và tiết kiệm của hộ nông dân sẽ
phát sinh nhu cầu cần vay vốn khi hộ bị thiếu vốn và hiện tượng dư thừa vốn khi
hộ còn dư nguồn tiết kiệm mà không phải phân bổ cho đầu tư hoặc chi tiêu. Khi
dư thừa vốn, hộ có thể gửi tiết kiệm ngân hàng, cho người thân vay (tạo thành
nguồn tín dụng phi chính thức) hoặc đầu tư vào các kênh khác. Khi thiếu vốn,
hộ có thể vay các tổ chức tín dụng (nguồn tín dụng chính thức) hoặc vay người
thân. Tuy nhiên, khi vay các tổ chức tín dụng, người nông dân bị gặp nhiều khó
khăn như ràng buộc về tài sản đảm bảo, thủ tục vay rườm rà, số vốn vay bị hạn
chế, .... nên tình trạng các hộ nông dân tìm đến nguồn tín dụng phi chính thức và
phải chịu lãi suất cao đang là vấn đề nhức nhối ở nhiều địa phương nước ta.


17


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA HỘ NÔNG DÂN
XÃ AN PHỤ

I. Một số thông tin chung về hộ nông dân xã An Phụ
1.1. Một số thông tin chung về xã An Phụ
An Phụ là xã miền núi thuộc huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Tổng
diện tích tự nhiên 785,16 ha, gồm 5 thôn với 9150 nhân khẩu, 2544 hộ. Phía
đông xã giáp xã Hiệp An và xã Long Xuyên, phía nam giáp sông Vận và sông
Phúc Thành, phía tây giáp xã Thượng Quận, phía bắc giáp xã An Sinh và Hiệp
Sơn. Ngăn cách giữa xã An Phụ với xã Hiệp Sơn, xã An Sinh là cánh rừng
phòng hộ có diện tích 124,8 ha.
Về địa hình : do An Phụ là xã miền núi nên địa hình không bằng phẳng,
ruộng đất khu cao, khu trũng đã gây nhiều khó khăn trong việc tưới tiêu. Mặt
khác, đất đai của xã kém mầu mỡ, năng suất cây trồng thấp. Muốn thâm canh
đạt hiệu quả, khâu quan trọng nhất là phải làm tốt công tác thủy lợi và cải tạo
đồng ruộng. Thế mạnh của xã là chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, 1 năm
có 2 vụ lúa và 1 vụ màu.
Về hệ thống thủy lợi : dọc theo đường tỉnh lộ có hệ thống sông Phùng
Khắc là kênh lưu thoát nước cho đồng ruộng.
Về giao thông : có trục đường tỉnh lộ chạy từ đầu tới cuối xã tạo điều kiện
giao thông đi lại bằng đường bộ. Các tuyến đường liên thôn và đi vào ngõ xóm
đều được bê tông hóa.
Về đời sống nhân dân : ở mức ổn định, sản xuất lương thực là chính. 76%
sản xuất nông nghiệp còn lại là tiểu thủ công nghiệp, thương mại- dịch vụ.
1.2. Một số thông tin chung về 50 hộ điều tra

Cơ cấu kinh tế của 50 hộ điều tra :

18


Qua điều tra: số hộ nông dân sống bằng nghề trồng lúa chiếm đến 80%,
trồng rau màu 16 %, chăn nuôi 20%, nuôi trồng thủy sản 10%, buôn bán 22%,
nghề phụ 6%, làm thuê 34%, hoạt động tạo thu nhập khác 16% trên tổng số 50
hộ điều tra.
Ta thấy sự phân công lao động xã An Phụ vẫn nặng về nông nghiệp và cụ
thể là trồng lúa. Riêng trong lĩnh vực chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trong thời
gian qua đã phát triển đáng kể nhờ chuyển đổi những diện tích trồng lúa năng
suất thấp và tận dụng những phế phẩm từ trồng trọt và đời sống hàng ngày.
Bên cạnh đó hệ thống thủy điện, giao thông được phủ khắp xã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đi lại cũng như phát triển kinh tế nông thôn được dễ
dàng. Đặc biệt là người dân có điều kiện tiếp thu tiến bộ khoa học –kỹ thuật,
những mô hình chăn nuôi, trồng trọt đạt hiệu quả từ những hộ nông dân khác
thông qua chương trình làm bạn với nhà nông nhờ vậy mà sản xuất ngày càng
đạt hiệu quả hơn góp phần gia tăng thu nhập cho kinh tế hộ.
Chăn nuôi chủ yếu tập trung vào các loại gia súc và gia cầm phổ biến như:
gà, vịt, heo,…nhưng thời gian qua do dịch cúm gia cầm, những nhóm hộ nông
dân có thu nhập chủ yếu từ chăn nuôi bị ảnh hưởng đáng kể, làm cho thu nhập
không những đã thấp mà còn phải lâm vào cảnh nợ nần.
Buôn bán, nghề phụ (dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp..) tập trung ở những
khu vực đông dân cư, khu vực chợ phát triển mạnh vì đây là ngành mang lợi
nhuận cao, do vậy số lượng hộ nông dân tham gia không ngừng tăng lên.
Bên cạnh hộ có nguồn thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán… thì
làm thuê tập trung ở số hộ không có đất canh tác hoặc diện tích đất canh tác thấp
(thu nhập thấp thường tập trung vào nhóm hộ này), những hộ có máy móc phục
vụ sản xuất nông nghiệp: máy cày, máy tuốt lúa, máy bơm nước…. Ngoài ra

một số hộ còn có nguồn thu khác từ trợ cấp xã hội, làm công ăn lương.

19


II. Thực trạng sử dụng vốn sản xuất- cầu về vốn sản xuất của hộ nông dân
2.1. Thực trạng thu nhập của các hộ nông dân xã An Phụ :
2.1.1. Thực trạng thu nhập hộ nông dân phân theo hoạt động sản xuất :
Sắp xếp thu nhập của 50 hộ quan sát theo thứ tự từ thấp đến cao và phân
thành 4 nhóm bằng nhau:
- Thu nhập nhóm cao nhất từ 3 triệu đồng/người/tháng trở lên.
- Thu nhập nhóm khá từ 1,5 triệu đồng/người/tháng- 3 triệu
đồng/người/tháng.
- Thu nhập nhóm trung bình từ 700ngàn đồng/người/tháng- 1,5triệu
đồng/người/ tháng.
- Thu nhập nhóm thấp nhất từ 700 ngàn đồng/người/tháng trở xuống.
Cuối cùng, trong khoảng hộ đều nhau đó tính thu nhập trung bình của mỗi
nhóm. Mục đích của việc phân nhóm hộ theo mức thu nhập này để xác định
được các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập, chi tiêu, tiết kiệm, đầu tư của từng
nhóm hộ sẽ như thế nào.
Bảng : Thu nhập phân theo hoạt động sản xuất :
Hoạt động
sản xuất

Nhóm hộ thu
nhập cao

Nghìn
đồng
Trồng lúa

3.711
Trồng rau màu 10
Chăn nuôi
263
Nuôi trồng
800
thủy sản
Buôn bán
237
Nghề phụ
0
Làm thuê
52
Khác
88
Tổng
5.162

71,9
0,2
5,1
15,5

Nhóm hộ
thu nhập
khá
Nghìn %
đồng
1.128 59,1
22

1,2
450
23,5
51
2,7

Nhóm hộ thu
nhập trung
bình
Nghìn
%
đồng
711,5
65,7
45,5
4,2
90,9
8,4
0
0

Nhóm hộ
thu nhập
thấp
Nghìn %
đồng
211
43,8
7
1,5

53
11
0
0

4,6
0
1
1,7
100

165
23
24
48
1.911

63,9
89,9
64,9
16,4
1.083

44
0
134
33
482

%


20

8,6
1,2
1,2
2,5
100

5,9
8,3
6
1,5
100

9,1
0
27,8
6,8
100


Đại đa số các hộ nông dân xã An Phụ đều coi sản xuất nông nghiệp là
hoạt động đem lại thu nhập chính lâu dài. Bên cạnh đó nó còn đảm bảo nguồn
lương thực tại chỗ cho gia đình.
Kết quả khảo sát cho thấy:
- Nhóm hộ thu nhập cao có nguồn thu chính chủ yếu từ trồng lúa 3,711
triệu đồng/người/tháng (chiếm 71,9%), nuôi trồng thủy sản là 800 triệu
đồng/người/tháng chiếm (15,5%).
- Nhóm hộ thu nhập khá có nguồn thu chủ yếu là từ trồng lúa 1,128 triệu

đồng/người/tháng (chiếm 59,1%), chăn nuôi 450 ngàn đồng/người/tháng (chiếm
23,5%), buôn bán 165 ngàn đồng/người/tháng (chiếm 8,6%).
- Nhóm hộ thu nhập trung bình có nguồn thu chủ yếu là từ trồng lúa 711,5
ngàn đồng/người/tháng (chiếm 65,7%) chăn nuôi 90,9 ngàn đồng/người/tháng
(chiếm 8,4%), nghề phụ (thủ công nghiệp, dịch vụ,..) 89,9 ngàn
đồng/người/tháng (chiếm 8,3%).
- Nhóm hộ thu nhập thấp nhất thì nguồn thu chủ yếu từ trồng lúa 211ngàn
đồng/người/tháng (chiếm 43,8%), làm thuê 134 ngàn đồng/người/tháng (chiếm
27,8%), chăn nuôi 53 ngàn đồng/người/tháng (chiếm 11%).
Hầu hết các nhóm hộ có mức thu nhập chênh lệch khác nhau khá xa, thu
nhập nhóm hộ cao nhất đạt 5,162 triệu đồng/người/tháng cao gấp 2,7 lần so với
nhóm hộ khá là 1,911 triệu đồng/người/tháng, gấp 4,8 lần so với nhóm hộ trung
bình là 1,083 triệu đồng/người/tháng và gấp 10,7 lần so với nhóm hộ thu nhập
thấp là 482 ngàn đồng/người/tháng.
Trong thời gian qua nhờ việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản
xuất nên năng suất lúa không ngừng tăng lên cùng với việc đa canh, đa dạng hóa
hoạt động sản xuất trong nông nghiệp được phát triển rộng khắp trong vài năm
gần đây. Vì vậy thu nhập hộ nông dân ngày càng tăng.
Trong lĩnh vực trồng lúa có sự chênh lệch đáng kể giữa các nhóm quan sát
trong đó:

21


- Thu nhập nhóm hộ cao nhất từ trồng lúa đạt 3,711 triệu
đồng/người/tháng
- Thu nhập nhóm hộ khá đạt 1,128 triệu đồng/người/tháng.
- Thu nhập nhóm hộ trung bình từ trồng lúa đạt 711,5 ngàn
đồng/người/tháng.
- Thu nhập nhóm hộ thấp nhất từ trồng lúa đạt 211 ngàn

đồng/người/tháng.
Như vậy, nhóm hộ cao nhất có thu nhập từ trồng lúa cao gấp 3,3 lần nhóm
hộ thu nhập khá, cao gấp 5,2 lần so với nhóm hộ có thu nhập trung bình và cao
gấp 17,6 lần so với nhóm hộ thấp nhất, sở dĩ có sự chênh lệch về thu nhập này là
do sự cách biệt về diện tích đất canh tác giữa các nhóm hộ:
- Nhóm có diện tích đất canh tác cao nhất đạt 1800 ha.
- Nhóm có diện tích đất canh tác thấp nhất là 15 ha.
Ngoài ra để bù đắp những thiếu hụt từ trồng lúa, nhiều hộ nông dân còn
có thêm thu nhập từ hoạt động sản xuất khác như: trồng rau màu, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, buôn bán, làm thuê, nghề phụ,…và xu hướng này ngày
càng mở rộng. Tổng giá trị nuôi trồng thủy sản của các nhóm là 851 triệu
đồng/người/tháng trong đó:
- Nhóm thu nhập cao là 800 triệu đồng/người/tháng.
- Nhóm hộ khá là 51 ngàn đồng/người/tháng.
Sở dĩ nuôi trồng thủy sản chỉ tập trung ở nhóm hộ có thu nhập cao nhất là
vì:
- Đòi hỏi phải có nhiều vốn, trình độ hiểu biết, kỹ thuật nuôi trồng.
- Có khả năng gặp nhiều rủi ro vì chịu sự tác động của nhiều yếu tố như:
dịch bệnh, chất lượng con giống, giá cả đầu ra…
Vì vậy, một số hộ từ con cá, tôm mà làm giàu thì cũng có một số hộ vì nó
phải phá sản lâm vào cảnh nợ nần từ hộ giàu trở thành hộ nghèo. Buôn bán tập
trung những khu vực đông dân cư, chợ thu nhập trung bình của từng nhóm quan
sát cụ thể như sau:
22


- Nhóm thu nhập cao 237 ngàn đồng/người/tháng.
- Nhóm thu nhập khá 165 ngàn đồng/người/tháng.
- Nhóm thu nhập trung bình 63,9 ngàn đồng/người/tháng.
- Nhóm thu nhập thấp 44 ngàn đồng/người/tháng.

Buôn bán ở nhóm hộ thu nhập cao nhất và khá chủ yếu bán vật tư nông
nghiệp, tạp hóa, thuốc tây…còn nhóm hộ thu nhập trung bình và nhóm thấp nhất
chủ yếu là buôn bán nhỏ: bán bún, rau cải, bán cá… Chăn nuôi chủ yếu tập
trung ở nhóm hộ khá chiếm 23,5%, nhóm hộ trung bình chiếm 8,4% và nhóm hộ
thấp nhất là 11%. Bên cạnh các nhóm hộ có thu nhập chính từ trồng lúa, nuôi
trồng thủy sản, buôn bán… thì ở nhóm hộ thấp nhất có nguồn thu nhập chính
khác cũng rất quan trọng đó là làm thuê 134 ngàn đồng/người/tháng. Đây là
nhóm thường tập trung những hộ không có đất canh tác hoặc có diện tích đất
canh tác thấp, vì vậy làm thuê được coi như là hoạt động chính nhằm mang lại
nguồn thu nhập cho gia đình, tuy nhiên thu nhập của nhóm hộ này thường không
ổn định, bấp bênh vì chỉ mang tính thời vụ. Ngoài ra, các nhóm hộ còn có nguồn
thu khác từ hoa màu, nghề phụ, dịch vụ, phụ cấp… mặc dù đây là một khoản thu
không lớn chỉ tập trung ở một số hộ nhưng nó cũng rất quan trọng đối với việc
đầu tư nông nghiệp của hộ nông dân đặc biệt là nhóm hộ có thu nhập thấp,
thường thì nhóm hộ này chỉ cần 100 – 500 ngàn đồng là có thể đầu tư cho chăn
nuôi, trồng trọt góp phần gia tăng thu nhập. Nhìn chung, nguồn thu nhập chính
của hộ nông dân xã An Phụ chủ yếu từ các nguồn trồng lúa, chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản, buôn bán, làm thuê. Ngoài ra một số hộ còn có nguồn thu từ
trồng hoa màu, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, phụ cấp….Việc chênh lệch về diện
tích đất canh tác, nuôi trồng càng tạo khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm hộ
ngày càng rõ rệt ảnh hưởng chung đến sự phát triển kinh tế - xã hội của xã và
việc giảm sự cách biệt về giàu nghèo ở nông thôn ngày càng khó khăn.
Bảng : Thu nhập phân theo hoạt động sản xuất của 50 hộ nông dân điều
tra năm 2011
Đơn vị : nghìn đồng
23


Hoạt động
sản xuất

Trồng lúa
Trồng rau màu
Chăn nuôi
Nuôi trồng thủy sản
Buôn bán
Nghề phụ
Làm thuê
Khác

Thu nhập
71397,5
1257,5
13258,5
9020
6848,5
1808,5
2643,5
2251

2.1.2. Những khó khăn gặp phải trong quá trình sản xuất làm ảnh hưởng tới thu
nhập của hộ nông dân :
Giống: Chất lượng giống cây trồng, vật nuôi kém gây ảnh hưởng rất
nhiều đến quá trình sản xuất cũng như sản lượng thu hoạch và quá trình tiêu thụ
sản phẩm gặp khó khăn. Từ đó làm giảm thu nhập với mức độ ảnh hưởng của
từng nhóm cụ thể là:
- Nhóm thu nhập cao chiếm 44%.
- Nhóm thu nhập khá 32%.
- Nhóm thu nhập trung bình 24%.
- Nhóm thu nhập thấp 12%.
Vì vậy việc chất lượng giống tốt là nhân tố quan trọng trong quá trình sản

xuất góp phần gia tăng thu nhập giúp kinh tế hộ phát triển.
Giá cả vật tư nông nghiệp, thức ăn: Đây là một yếu tố có ảnh hưởng lớn
đến quá trình sản xuất và cũng như thu nhập của các nhóm hộ:
- Nhóm thu nhập cao chiếm 96%.
- Nhóm thu nhập khá 64%.
- Nhóm thu nhập trung bình 84%.
- Nhóm thu nhập thấp 64%.

24


Biến động tăng giá sẽ làm tăng chi phí sản xuất, tạo ra sức ép về vốn đối
với các hộ nông dân. Hệ quả là năng suất lao động nông nghiệp có thể giảm
xuống và thu nhập của người nông dân cũng bị ảnh hưởng theo. Sản lượng cung
cấp ra thị trường vì thế cũng hạn chế. Từ đó có thể dẫn đến việc nông dân hạn
chế đầu tư thâm canh hoặc sẽ chuyển đổi hệ thống sản xuất, lựa chọn những cây
trồng, vật nuôi ít chịu tác động của giá cả vật tư nông nghiệp, thức ăn đồng thời
áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lao động, giảm
thiểu chi phí sản xuất.
Vốn: Đây là yếu tố có tác động lớn nhất trong quá trình sản xuất, đặc biệt
ở nhóm các hộ nông dân có thu nhập thấp và trung bình thường gặp nhiều khó
khăn trong việc đầu tư vốn sản xuất cụ thể:
- Nhóm hộ có thu nhập cao chiếm 56%
- Nhóm thu nhập khá 60%
- Nhóm thu nhập trung bình 96%.
- Nhóm thu nhập thấp 100%.
Rõ ràng các nhóm hộ thu nhập cao, thu nhập khá cũng chịu tác động lớn
từ nguồn vốn để mở rộng sản xuất. Đối với nhóm thu nhập trung bình và thấp thì
bên cạnh việc thiếu vốn trong quá trình sản xuất còn thiếu tiền trong chi tiêu
hằng ngày.

Nhân công lao động: Do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ nên chỉ
khi nào đến mùa vụ thì những người làm thuê mới có thu nhập còn vào những
thời gian khác lao động nhàn rỗi, vì vậy để có được thu nhập ổn định hơn lực
lượng lao động chủ yếu ở nông thôn tập trung về các thành phố, các nhà máy
chế biến thủy sản hoặc vào khu công nghiệp nên bắt đầu mùa vụ sản xuất, thu
hoạch lực lượng lao động trở nên khan hiếm. Điều đó gây khó khăn cho các
nông hộ, phải thuê mướn lao động với giá cao làm chi phí sản xuất tăng lên. Tác
động cụ thể trên từng nhóm như sau:
- Nhóm hộ thu nhập cao thuờng xuyên gặp khó khăn nhất vì quy mô sản
xuất lớn chiếm 52%.
25


×