Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.11 KB, 17 trang )

Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329

MỞ ĐẦU
Công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp có từ lâu trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, loại hình này mới chỉ được ghi nhận trong pháp luật của Việt Nam chưa lâu.
Lần đầu tiên loại hình doanh nghiệp này được ghi nhận là ở Luật Doanh nghiệp năm
1999. Đến Luật doanh nghiệp năm 2005 đã quy định cụ thể chi tiết hơn về công ty hợp
danh, có nhiều quy định mới tiến bộ hơn. Tuy nhiên những quy định về công ty hợp danh
trong Luật doanh nghiệp năm 2005 còn nhiều điểm chưa hợp lí, cần phải sửa đổi. Để làm
rõ vấn đề trên em xin phân tích đề tài: “Bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp
(2005) về công ty hợp danh mà em cho rằng chưa phù hợp”

NỘI DUNG
Các quy định của luật doanh nghiệp năm 2005 đã có nhiều quy định mới về công ty
hợp danh phù hợp hơn với bản chất của công ty hợp danh. Điều đó đã thể hiện qua quy
định, trách nhiệm liên đới vô hạn của thành viên hợp danh (điều 133), chịu trách nhiệm
liên đới của các thành viên hợp danh sau 2 năm kể từ ngày chấm dứt tư cách thành viên
hợp danh của công ty đối với khoản nợ đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành
viên (khoản điều 138), thành viên góp vốn không được tham gia quản lí công ty, không
được tiến hành công việc kinh doanh nhân danh công ty (khoản 2 điều 140). Tuy nhiên
những quy định như thế lại không thu hút được các nhà đầu tư.
I.
1.

Khái quát về công ty hợp danh:
Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp danh:
Theo khoản 1 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 đã định nghĩa công ty hợp

danh là doanh nghiệp, trong đó:
“a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh
doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp


danh có thể có thành viên góp vốn;
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 1


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm
vi số vốn đã góp vào công ty”

-

Đặc điểm của công ty hợp danh:
Công ty hợp danh là công ty đối nhân. Vì công ty hợp danh ra đời đầu tiên trên cơ
sở liên kết kinh doanh giữa các thành viên trong gia đình, bạn bè hoạt động trong
cùng một ngành nghề, lĩnh vực. Trên cơ sở đó, vấn đề hoạt động và tổ chức quản
lý của công ty hợp danh dựa trên chủ yếu sự tín nhiệm, tin tưởng lẫn nhau giữa
các thành viên, những “chiến hữu đồng hội đồng thuyền” theo nguyên tắc “cùng
làm cùng chịu” với trách nhiệm vô hạn đối với nhau và đối với nghĩa vụ của công
ty. Cho nên, các quy định của pháp luật về tổ chức, quản lý của loại hình công ty

-

này là khá đơn giản.
Công ty có tư cách pháp nhân.
Công ty phải có từ hai cá nhân trở lên tham gia thành lập bao gồm thành viên hợp
danh, thành viên góp vốn ( có thể có).Thành viên hợp danh phải là người có trình
độ, có uy tín nghề nghiệp, chịu trách nhiệm vô hạn đối với các hoạt động của

mình.Thành viên góp vốn là thành viên chỉ góp vốn vào công ty và chịu trách

-

nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình.
Công ty hợp danh và các thành viên hợp danh của công ty phải chịu trách nhiệm vô

-

hạn.
Thành viên của công ty hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc

2.

thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác.
Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào
Thực trạng công ty hợp danh ở Việt Nam:
Mô hình công ty hợp danh là mô hình công ty rất được ưa chuộng trên thế giới. So

với các loại hình công ti đối nhân khác, loại hình này được ưa chuộng hơn cả. Tại Pháp

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 2


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
hiện nay có 32.000 CTHD. Ở Thụy Điển từ 15.765 công ty vào 01/01/1976 và 30.134
vào 1979 đến 76.573 công ti vào 1993.
Trong khi đó hiện nay ở nước ta, số lượng công ty hợp danh rất ít. Theo số liệu của

Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, năm 2010, không có công ty hợp danh nào thành lập.
Cả nước hiện chỉ có 33 công ty hợp danh trong số hơn 500 nghìn doanh nghiệp đang hoạt
động. Theo thống kê doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và đầu tư TP Hồ Chí Minh hiện nay
có 9 công ty. Cho đến ngày 20/11/2007, Hà Nội chỉ có 17 công ty hợp danh so với 33.327
công ty trách nhiệm hữu hạn, 21.061 công ty cổ phần, 2.921 doanh nghiệp tư nhân, 2.137
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như vậy, có thể thấy số lượng công ty hợp
danh là quá ít ỏi so với số lượng các doanh nghiệp thuộc các loại hình khác.
Điều đó cho thấy mô hình hoạt động của công ty hợp danh chưa nhận được sự quan
tâm của nhà đầu tư do một số hạn chế như: thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Mặt khác, do chế
độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất
cao. Vì vậy để mô hình công ty hợp danh có thể tiếp tục phát triển, là sự lựa chọn của các
nhà đầu tư ở Việt Nam thì Luật doanh nghiệp năm 2005 nên sửa đổi một số quy định
chưa hợp lí.
II.

Những điểm chưa hợp lí của Luật doanh nghiệp năm 2005 về
công ty hợp danh:
So với Luật doanh nghiệp năm 1999 Luật doanh nghiệp năm 2005 đã có nhiều quy

định mới hợp lí, tiến bộ hơn, tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều quy định chưa hợp lí, dẫn
đến việc áp dụng quy định pháp luật trên thực tế còn nhiều khó khăn, làm cho mô hình
công ty hợp danh vẫn chưa thu hút được sự lựa chon của các nha kin doanh, các nhà đầu
tư.
1.

Không nên quy định gộp chung cả hai mô hình công ty hợp danh chỉ có thành
viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên góp vốn là một:

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2


Page 3


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
Vì về logic thì công ty hợp danh chỉ có thành viên hợp danh khác với công ty hợp
danh có cả thành viên góp vốn. Nếu như Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định chung cả
loại hình công ty chỉ có thành viên hợp danh và công ty có cả thành viên góp vốn, như
vậy dường như phủ nhận vai trò của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh. Vì vậy
nên việc tách công ty hợp danh thành 2 loại hình công ty như trên là hợp lí.
Tuy cả hai loại hình công ty hợp danh này về bản chất đều là công ty đối vốn song
có một số điểm 2 loại hình công ty hợp danh này có nhiều điểm khác nhau như: trường
hợp giải thể khi không đủ số lượng thành viên tối thiểu, quyền hạn và nghĩa vụ của thành
viên, tỉ lệ khi biểu quyết…
Việc phân chia công ty hợp danh thành 2 loại hình như trên còn tạo điều kiện cho
việc xác định vai trò và quyền biểu quyết các vấn đề của thành viên hợp danh cũng như
thành viên góp vốn trong quá trình hoạt động của công ty.
2.

Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh:
Khác với Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định công

ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Khoản 2 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy
định: “ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh”.
Quy định này của Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định công ty hợp danh có tư
cách pháp nhân, quy định này đã tạo ra sự công bằng giữa công ty hợp danh, và các loại
hình doanh nghiệp khác, đồng tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hợp danh tham gia vào
các hoạt đông kinh doanh.
Tuy nhiên quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định công ty hợp danh có

tư cách pháp nhân còn nhiều điểm bất hợp lí.
-

Quy định này mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự.
Vì theo điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 4


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Trong khi đó tài sản của công ty hợp danh chưa tách rời với tài sản của thành viên
hợp danh của công ty, theo khoản 1 điều 132 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định tài
sản của công ty hợp danh còn bao gồm: “Tài sản góp vốn của các thành viên đã được
chuyển quyền sở hữu cho công ty”.
Mặt khác Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định công ty hợp danh có tư cách
pháp nhân còn không mâu thuẫn với chính những quy định khác của Luật doanh
nghiệp về công ty hợp danh, và các hình công ty khác.
Khoản 3 điều 94 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Thành viên pháp nhân không
chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác
lập, thực hiện”.
Trong khi đó điểm đ khoản 2 điều 134 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Liên
đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty

không đủ để trang trải số nợ của công ty”. Luật Doanh nghiệp quy định chế độ chịu trách
nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của của công ty bằng toàn bộ
tài sản của mình, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ
còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty.
Quy định này vừa mâu thuẫn với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về pháp
nhân, vừa mâu thuẫn với cách hiểu về pháp nhân từ lâu đã được áp dụng, mâu thuẫn với
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 5


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
ngay trong quy định của Luật doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn có tư cách pháp nhân, và thành viên của các loại hình công ty đo chỉ chịu trách nhiệm
hữu hạn trong phạm vi số vốn góp)
3.

Công ty hợp danh không được phát hành các loại chứng khoán
Theo quy định tại khoản 3 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì:
“ Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào”.
Ta nhận thấy trong hệ thống các công ty theo quy định của luật doanh nghiệp năm

2005, chỉ có công ty hợp danh là không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào.
Công ty cố phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu theo khoản 3 điều 77 “Công ty cổ
phần có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn”. Công ty trách nhiệm hữu hạn
có quyền được phát hành trái phiếu, theo khoản 3 điều 38 Luật doanh nghiệp năm 2005
quy định "công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần".
Quy định của luật doanh nghiệp năm 2005 không cho công ty hợp danh phát hành
trái phiếu đã gây ra sự bất bình đẳng giữa công ty hợp danh và các công ty khác, đồng
thời công ty hợp danh không có quyền phát hành trái phiếu gây khó khăn cho công ty

trong quá trình huy động vốn.
4.

Quy định không nhất quán về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn
trong công ty hợp danh gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Điểm c khoản 1 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định:
“ Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm

vi số vốn đã góp vào công ty”.
Như vậy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005
quy định thành viên góp vốn của công ty hợp danh phải chịu trách nhiệm trong phạm vi
số vốn đã góp vào công ty.
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 6


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
Trong khi đó khoản 3 điều 131, và điểm a khoản 2 điều 140 Luật doanh nghiệp năm
2005 quy định:
“ Trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết
thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty; trong
trường hợp này, thành viên góp vốn có liên quan có thể bị khai trừ khỏi công ty theo
quyết định của Hội đồng thành viên”.
“Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm
vi số vốn đã cam kết góp”
Như vậy theo quy định tạikhoản 3 điều 131 và điểm a khoản 2 điều 140 Luật doanh
nghiệp năm 2005 quy định thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Quy định không thống nhất về
việc thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về khoản nợ hay khoản nợ và nghĩa vụ trong

phạm vi số vốn đã góp cho công ty đã gây ra sự khó khăn trong công tác áp dụng pháp
luật trên thực tế trong việc xác định trách nhiệm của thanh viên góp vốn trong phạm vi số
vốn đã gópvào công ty.
5.

Quy định thêm quyền cho thành viên góp vốn nhưng chỉ mang tính hình thức:
So với luật doanh nghiệp năm 1989 thì Luật doanh nghiệp năm 2005 đã ghi nhận sự

có mặt của thành viên góp vốn trong Hội đồng thành viên của công ty hợp danh. theo
điều 135 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định:
“1. Tất cả thành viên hợp lại thành Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên bầu
một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.
2. Thành viên hợp danh có quyền yêu cầu triệu tập họp Hội đồng thành viên để thảo
luận và quyết định công việc kinh doanh của công ty. Thành viên yêu cầu triệu tập họp
phải chuẩn bị nội dung, chương trình và tài liệu họp.
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 7


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
3. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty.
Nếu Điều lệ công ty không quy định thì quyết định các vấn đề sau đây phải được ít nhất
ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận”
Nếu như trước đây theo quy định của luật doanh nghiệp năm 1999 quy định thành
viên góp chỉ được chia lợi nhuận, mà không được tham gia bất kì vào hoạt động quản lý
công ty, hôi đồng thành viên chỉ bao gồm tất cả các thành viên hợp danh, không có thành
viên góp vốn. Còn luật doanh nghiệp năm 2005 quy định thành viên góp vốn được tham
gia vào hội đòng thành viên, được tham gia thảo luận biểu quyết những vấn đề có liên

quan đến quyền, lợi ích của mình như giải thể công ty; sửa đổi, bổ sung điều lệ; quyết
định dự án đầu tư…
Tuy Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định thành viên góp vốn có quyền tham gia
biểu quyết, quyết định những vấn đề quan trọng, có liên quan đến lợi ích của họ, song
luật doanh nghiệp lai không đề ra cơ chế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
họ.Khoản 3, khoản 4 điều 135 quy định:
“Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty.
Nếu Điều lệ công ty không quy định thì quyết định các vấn đề sau đây phải được ít nhất
ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận”
“Quyết định về các vấn đề khác không quy định tại khoản 3 Điều này được thông
qua nếu được ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hợp danh chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do
Điều lệ công ty quy định”.
Các vấn đề của công ty tuy có sự tham gia biểu quyết của thành viên góp vốn, song
những vấn đề đó chỉ được thông qua khi có ít nhất 2/3, có trường hợp đặc biệt phải có ít
nhất 3/ 4 tổng số thành viên hợp danh đồng ý. Như vậy ta nhận thấy những phiếu biểu
quyết của thành viên hợp danh đóng vai trò quyết định, sự tham gia bểu quyết của thành
viên góp vốn dường như chỉ mang tính hình thức.

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 8


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
Mặt khác quy định nay của danh nghiệp khiến cho nhiều trường hợp biểu quyết về
những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của thành viên góp vốn nhưng thành viên
góp vốn lại không được quyết định mà lại do thành viên hợp danh quyết định. Như việc
chuyển nhượng vốn cho người khác phải được ít nhất 3/ 4 thành viên hợp danh đồng ý.
Quy định như vậy không hợp lí.
6.


Quy định chưa rõ ràng về đại diện theo pháp luật của công ty:
Quy định của luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về người đại diện theo pháp luật

của công ty hợp danh cũng có nhiều sự khác biệt lớn so với quy định này của các loại
hình doanh nghiệp khác theo luật doanh nghiệp năm 2005.
Đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, quy định rất rõ về người đại diện theo pháp luật của
công ty.
Điều 46 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định đại diện của công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên là: “Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”;
khoản 1 điều 67 quy định về người đại diện của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên là: “Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một số người đại diện theo uỷ quyền với
nhiệm kỳ không quá năm năm để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của Luật này và pháp luật có liên quan”; điều 95 quy định về người đại diện của
công ty cố phần như sau: “Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty”.
Trong khi đó luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về người đại diện theo pháp luật
của công ty hợp danh chưa rõ ràng.
Theo quy định tại khoản 1 điều 137 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định:

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 9


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
“Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành
hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty”.

Như vậy Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định tất cả các thành viên hợp danh đều
là người đại diện theo pháp luật của công ty. Quy định nay chưa hợp lí, bởi có nhiều
trường hợp đòi hỏi sự tham gia dưới danh nghĩa một cá nhân đại diện (như trường hợp kí
hợp đồng ). Trong trường hợp đó thì tất cả các thành viên hợp danh lại họp biểu quyết
người đai diện theo pháp luật của công ty để kí hợp đồng hay là tất cả các thành viên hợp
danh đều cùng nhau ký. Quy định chưa rõ ràng về người đại diện theo pháp luật của
công ty gây khó khăn cản trở trong việc xác định người đại diện theo pháp luật của công
ty, đồng thời những trách nhiệm ràng buộc họ trong trường hợp thực hiện những hành vi
trái pháp luật.
7.

Chuyển nhượng vốn góp:
Khoản 3 điều 133 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định:
“Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn

góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành
viên hợp danh còn lại”.
Thành viên hợp danh chỉ được chuyển nhượng vốn trong trường hợp được sự đồng ý
của tất cả các thành viên hợp danh còn lại, trong trường hợp một trong số những thành
viên hợp danh còn lại không đồng ý thì thành viên đó không được chuyển nhượng.
Điểm d khoản 1 điều 140 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy đinh:“Chuyển nhượng
phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác” khi được 3/ 4 thành viên hợp danh
đồng ý.
Quy định này nhằm hạn chế sự tham gia của thành viên hợp danh mới vào công ty,
tuy nhiên quy định nay bất hợp lí trong trường hợp một thành viên hợp danh muốn
chuyển nhượng vốn góp cho thành viên khác song tất cả các thành viên hợp danh gây khó
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 10



Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
dễ nhằm hạn chế sự chuyển nhượng vốn góp của thành viên hợp danh và thành viên góp
vốn. Trong trường hợp đó pháp luật cũng không dự liệu được những chế định pháp lí cần
thiết để bảo vệ quyền chuyển nhượng vón góp của thành viên hợp danh và thành viên góp
vốn.
Mặt khác về quy định chuyển nhượng vốn góp của thành viên góp vốn, về bản chất,
các thành viên hợp danh mới đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại của công ty, là
tinh thần của công ty, còn thành viên góp vốn chỉ hiện diện qua phần vốn góp của mình
trong công ty, việc thay đổi vốn góp cũng chỉ là thay đổi chủ sở hữu chứ phần vốn góp
vẫn nằm trong vốn điều lệ của công ty. Nên quy định quyền chuyển nhượng vốn góp của
thành viên góp vốn lại phụ thuộc vào ý chí của thành viên hợp danh la không phù hợp.
III.

Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về công ty hợp danh.

Trên những phân tích về những điểm chưa hợp lí của Luật doanh nghiệp năm 2005
về công ty hợp danh em xin đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
công ty hợp danh.
Luật doanh nghiệp nên phân chia công ty hợp danh thành 2 loại hình công ty

1.

hợp danh, công ty hợp danh chỉ có thành viên hợp danh và công ty hợp danh
có cả thành viên góp vốn.
Căn cứ như những phân tích trong phần I. 1 thì Luật doanh nghiệp năm 2005 nên
tách công ty hợp danh thành hai loại hình công ty hợp danh riêng, gồm công ty hợp danh
chỉ có thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên góp vốn, và có những
quy định riêng cho từng loại hình công ty hợp danh.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới thì công ty hợp danh cũng được tách

thành hai loại hình công ty hợp danh. Ví dụ như Thái Lan chia công ty hợp danh ra thành
2 loại:

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 11


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
+ Công ty hợp danh đơn thường: là loại hình công ty chỉ bao gồm thành viên hợp
danh mà ở đó tất cả các thành viên cùng chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa
vụ của công ty hợp danh.
+ Công ty hợp danh hữu hạn: bao gồm cả thành viên hợp dah và thành viên góp vốn.
Như vậy thì luật doanh nghiệp Việt Nam nên tách công ty hợp danh thành hai loại
công ty, công ty chỉ bao gồm thành viên hợp danh, công ty bao gồm cả thành viên góp
vốn cho hợp lí, việc thực thi quy định của pháp luật trên thực tê thuận lợi hơn, đồng thời
phù hợp hơn với pháp luật của các nước trên thế giới.
2.

Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh:
Như những phân tích ở trên thì ta thấy việc quy định công ty hợp danh có tư cách

pháp nhân theo Luật doanh nghiệp năm 2005 đã mâu thuẫn với quy định của Bộ luật dân
sự năm 2005. Vì vậy cho nên về định hướng ta có hai cách sửa đổi: thứ nhất giữ nguyên
Luật doanh nghiệp năm 2005, sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005 về quy định pháp nhân.
Thứ hai giữ nguyên Bộ luật dân sự sửa đối Luật doanh nghiệp năm 2005 không thừa
nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh như Luật doanh nghiệp năm 1999.
Theo ý kiến cá nhân em thì nên sửa đổi Luật doanh nghiệp năm 2005 theo hướng
không thừ nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Vì việc sửa đổi theo hướng như
vậy nó vừa phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, vừa phù hợp với quan niệm lâu đời

về pháp nhân, vừa phù hợp với chế độ chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của
công ty của thành viên hợp danh.
3.

Cho phép công ty hợp danh phát hành trái phiếu
Luật doanh nghiệp năm 2005 không cho phép công ty hợp danh phát hành trái phiếu,

quy định này gây bất bình đẳng giữa công ty hợp danh và các loại hình công ty khác,
đồng thời cũng gây khó khăn cho công ty hợp danh trong quá trình huy động vốn. Vì vậy
Luật doanh nghiệp nên sửa đổi cho công ty hợp danh được quyền phát hành trái phiếu.
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 12


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
4.

Sửa điểm c khoản điều 130
Quy định về trách nhiệm của thành viên góp vốn có sự mâu thuẫn giữa điểm c khoản

1 điều 130 và điểm a khoản 2 điều 140 Luật doanh nghiệp năm 2005 .
Theo nguyên tắc áp dụng luật riêng, luật chuyên ngành, chỉ khi luạt riêng luật
chuyên ngành không quy định thì mới áp dụng luật chung. Vì vậy Luật doanh nghiệp
năm 2005 nên sửa đổi điểm c khoản 1 điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 thành:
“Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã cam kết góp vào công ty”
Cho phù hợp với khoản 3 điều 131 và điểm a khoản 2 điều 140 Luật doanh nghiệp
năm 2005.
5.


Quy định cụ thể hơn về quyền của thành viên góp vốn trong việc quyết định
những vấn đề quan trọng của công ty:
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định thành viên có quyền được tham gia thảo luận,

biểu quyết những vấn đề quan trọng có liên quan đến quyền và lợi ích của mình, tuy
nhiên Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định quyền quyết định những vấn đề có liên quan
đến quyền, lợi ích của thành viên góp vốn lại do 3/4 thành viên hợp danh quyết định, như
vậy là không hợp lí.
Luật doanh nghiệp nên sửa đổi quy định về vấn đề này theo hướng dự liệu một số
chế tài áp dụng trong trường hợp quyền biểu quyết của thành viên góp vốn không được
đảm bảo. Ví dụ: vấn đề biểu quyết liên quan đến quyền lợi của thành viên góp vốn được
thông qua khi có bao nhiêu % thành viên hợp danh, % thành viên góp vốn thông qua;
trong trường hợp các thành viên hợp danh liên kết lại đề gây khó khăn cho thành viên
góp vốn thì giải quyết như thế nào?
6.

Quy định cụ thể về đại diện của công ty hợp danh

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 13


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329
Giống như quy định về địa diện của các loại hình công ty khác như công ty cổ phấn,
công ty trách nhiệm hữu hạn, Luật doanh nghiệp cần phải quy định cụ thể hơn về đại diện
của công ty hợp danh, nên sửa đổi quy định tại khoản 1 điều 137 theo hướng:
“Chủ tich hội đồng thành viên là đại diện cho công ty”, hoặc “Các thành viên hợp
danh bầu một người làm đại diện cho công ty”

bởi vì người đại diện theo pháp luật của công ty là người đóng vai trò quan trọng,
đại diện cho công ty trong nhiều trường hợp như đứng ra kí kết hợp đồngđại diện cho
công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại
hoặc các tranh chấp khác…Đồng thời việc quy định cụ thể đại diện theo pháp luật của
công ty hợp danh cũng ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong những trường hợp
nhân danh công ty.
7.

Quyền chuyển nhượng vốncủa các thành viên của công ty hợp danh:
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định cho các thành viên hợp danh và thành viên

góp vốn có quyền được chuyển nhượng vốn cho người khác.
Thành viên hợp danh có quyền chuyển nhượng vốn góp cho người khac nếu được tất
cả các thành viên hợp danh còn lại đồng ý. Thành viên góp vốn được được chuyển
nhượng vốn góp cho người khác khi được 3/4 thành viên hợp danh đồng ý.
Tuy nhiên Luật doanh nghiệp nên quy định các chế tài áp dụng trong trường hợp các
thành viên hợp danh liên kết với nhau để gây khó dễ đối với việc chuyển nhượng vốn của
các thành viên có nhu cầu chuyển nhượng.
Theo ý kiến cá nhân em Luật doanh nghiệp cũng nên sửa quy định: “Thành viên góp
vốn có quyền chuyển nhượng vốn góp cho người khác nếu được 3/4 thành viên của hội
đồng thành viên chấp thuận”.
Như vậy bên canh những điểm mới tiến bộ của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì còn
tồn tại nhiều điểm chưa hợp lí, cần sửa đổi bổ sung.
Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 14


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329


KẾT LUẬN:
Như vậy Luật doanh nghiệp năm 2005 về công ty hợp danh đã có nhiều sửa đổi bổ
sung so với luật doanh nghiệp năm 1999, sau nhiều năm triển khai thực hiện Luật doanh
nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của công ty hợp danh, tạo
điều kiện thuận lợi cho công ty hợp danh phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó Luật doanh
nghiệp còn nhiều điểm về công ty hợp danh chưa hợp lí, cần phải sửa đổi bổ sung để tạo
môi trường kinh doanh bình đẳng giữa công ty hợp danh và các loại hình doanh nghiệp
khác, nhằm tạo điều kiện cho giới doanh nhân có thêm mô hình doanh nghiệp để lựa
chọn cho phù hợp với ý tưởng kinh doanh và phù hợp hơn với xu thế chung của thế giới.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1.
2.

Luật doanh nghiệp năm 2005;
Nghị định Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật

3.

Doanh nghiệp;
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại, Nxb CAND, Hà Nội,

4.

2006;
Công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam: khóa luận tốt nghiệp/Đặng Gia Kiên,

5.
6.


người hướng dẫn ThS Hoàng Minh Chiến;



Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Page 15


Bài tập lớn học kỳ môn Luật thương mại – Trần Thị Nhung - 341329

Mục lục

Lớp N01 – TL1 – Nhóm 2

Trang

Page 16



×