Tải bản đầy đủ (.pdf) (233 trang)

Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.13 MB, 233 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
----------◘◘◘--------

LÊ NGUYÊN THANH

NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 62.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THÁI PHÚC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu nêu trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong
luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


BLDS

: Bộ luật dân sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTDS

: Tố tụng dân sự

TTHS


: Tố tụng hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘi
PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................12
1.1. Khái niệm thiệt hại do tội phạm gây ra và người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra trong tố tụng hình sự.................................................................................12
1.2. Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 ................................................................................................25
1.3. Vị trí, vai trò của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự
Việt Nam .............................................................................................................52
1.4. Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong lịch sử tố tụng hình sự và trong
luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới ..............................................62
CHƯƠNG 2. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO
TỘI PHẠM GÂY RA THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003...............................................................................................77
2.1. Quyền buộc tội của người bị hại, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của
người bị hại và nguyên đơn dân sự......................................................................77
2.2. Nghĩa vụ khai báo trung thực của người bị hại và nguyên đơn dân sự ..............96
2.3. Các quyền, nghĩa vụ khác của người bị hại và nguyên đơn dân sự..................104
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ NĂM 2003 VỀ NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA ..........122

3.1. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.................................................................122
3.2. Quan điểm định hướng việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ......................137
3.3. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ...........................................150
KẾT LUẬN ............................................................................................................172


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tố tụng hình sự thu hút sự tham gia của nhiều chủ thể với những
động cơ, mục đích và định hướng khác nhau. Trong đó, có những chủ thể phạm tội
gây ra thiệt hại, chủ thể có nghĩa vụ bồi thường, chủ thể thực hiện chức năng buộc
tội, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, chủ thể thực hiện chức năng xét xử.
Riêng những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra tham gia tố tụng vì lý do bị thiệt
hại. Họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi, góp phần chứng minh vụ án hình sự
và thực hiện nghĩa vụ khai báo vì lợi ích chung.
Người bị thiệt hại do tội pham gây ra trong tố tụng hình sự có địa vị pháp lý
là người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự. So sánh với Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định bổ sung thêm một số quyền của
người bị hại và nguyên đơn dân sự theo hướng nâng cao vai trò của họ trong tố tụng
hình sự, như quyền phát biểu, quyền tranh luận tại phiên tòa, nhưng nhìn chung vẫn
còn thiếu và chưa đồng bộ.
Về mặt lý luận, mảng tri thức về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam hầu như còn rất hạn chế do chưa được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Vì thế, hoạt động lập pháp và giải quyết vụ án hình sự chưa

nhận được sự hỗ trợ, định hướng về mặt khoa học.
Từ những hạn chế trong nhận thức và pháp luật thực định, hoạt động áp dụng
pháp luật cũng gặp phải những khó khăn, sai lầm khi xác định tư cách tham gia tố
tụng của người bị hại và nguyên đơn dân sự. Tình trạng bị vi phạm quyền và không
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của hai chủ thể này còn xảy ra. Mặc dù không có con
số thống kê, báo cáo chính thức từ phía cơ quan có thẩm quyền nhưng bằng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau vẫn có thể đánh giá được tình trạng trên. Ví dụ,
tình trạng người bị hại không được triệu tập tham gia tố tụng, triệu tập không đúng


2

hoặc được triệu tập quá trễ; sự khó khăn trong việc chủ động cung cấp thông tin,
tiếp cận vụ án, thực hiện quyền đề nghị; không được thông báo về người tiến hành
tố tụng; không có người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi; kết quả điều tra
không được thông báo; không có cơ hội phát biểu, tranh luận dân chủ, công khai với
các bên tham gia tố tụng; vấn đề bồi thường thiệt hại không được chú ý từ giai đoạn
điều tra, giải quyết bồi thường theo yêu cầu không hợp lý; công tác bảo vệ người bị
hại trước nguy cơ bị trả thù còn xem nhẹ; tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm
và tiếp tục làm tổn thương người bị hại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vẫn
tồn tại. Tình trạng đó đã làm cho người bị hại và nguyên đơn dân sự thật sự gặp
nhiều khó khăn khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời phần
nào làm giảm hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khi không có sự tích cực tham gia
tố tụng của họ. Nói theo ngôn ngữ của các nhà Tội phạm học, nạn nhân của tội
phạm là “người bị bỏ quên” (forgotten person) trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, cải cách tư pháp ở Việt Nam có những phương hướng, nhiệm vụ
quan trọng, đó là “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân
chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử” [13]. Đây cũng là tiền đề tư tưởng để sửa
đổi, bổ sung các quy định liên quan đến bảo vệ người bị thiệt hại do tội phạm gây ra

nhằm nâng cao vai trò tố tụng của chủ thể này trong tố tụng hình sự. Có như vậy,
một mặt sẽ bảo vệ được quyền của người bị hại và nguyên đơn dân sự, mặt khác
đảm bảo tranh tụng công khai, dân chủ khi có sự thực hiện đầy đủ quyền tố tụng của
các bên trong quá trình giải quyết vụ án.
Với những lý do trên, việc chọn vấn đề “Người bị thiệt hại do tội phạm gây
ra trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học là có tính
cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo các tư liệu lịch sử, vị trí, vai trò nạn nhân của tội phạm bị giảm dần
trong tố tụng hình sự sau khi kết thúc thời kỳ trung cổ, do đó “trong một thời gian


3

dài, các nhà tội phạm học, các nhà khoa học đã bỏ qua, không tập trung nghiên cứu
vấn đề nạn nhân của tội phạm” [52, tr. 5]. Cho đến những năm bốn mươi của thế kỷ
hai mươi, nạn nhân của tội phạm được quan tâm trở lại ở những nghiên cứu thuộc
lĩnh vực Tội phạm học với bài báo của Hans Von Hentig có tên “Nhận xét về sự tác
động giữa người phạm tội với nạn nhân” (Remarks on the interaction of perpetrator
and victim, 1941). Năm 1948, Hans Von Hentig cho xuất bản tác phẩm nổi tiếng
“Tội phạm và nạn nhân của nó” (Criminal and his victim). Một nhà tội phạm học
khác, người Rumani tên là Benjamin Mendelson cũng có bài thuyết trình về nạn
nhân học tại Hội Tâm thần học ở Bucharest năm 1947. Những nghiên cứu đầu tiên
về nạn nhân của tội phạm ở góc độ tội phạm học thời kỳ này được các nhà nghiên
cứu ở phương Tây gọi là sự hồi sinh của vấn đề nạn nhân của tội phạm [61, tr.1,
17]. Cũng có thể nói, tội phạm học bàn về nạn nhân của tội phạm sớm hơn khoa học
luật tố tụng hình sự.
Ở Mỹ và các nước Châu Âu, nạn nhân trong tố tụng hình sự được chú ý
nghiên cứu từ những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi. Chủ đề này thực sự thu hút
sự quan tâm của các nhà khoa học sau khi nhiều nước ban hành các đạo luật về nạn

nhân của tội phạm và Đại hội đồng Liên hợp quốc ra “Tuyên bố những nguyên tắc
cơ bản về tư pháp hình sự đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của lạm dụng
quyền lực” (1985). Tuy nhiên, số lượng tài liệu viết về nạn nhân của tội phạm cũng
còn hạn chế so với những vấn đề khác của tố tụng hình sự. Một quan sát ở Mỹ
những năm gần đây đối với mười tám cuốn sách viết về tố tụng hình sự cho thấy
phần lớn nội dung không đề cập đến nạn nhân của tội phạm trong tất cả các danh
mục, có một số nội dung cũng chỉ là một đoạn đơn giản hoặc ghi chú sự liên quan
của nạn nhân tại tòa hình sự, và chỉ xem xét nạn nhân ở mức độ hời hợt [142, tr.
229]. Có lẽ tác phẩm thường được nhắc đến và viết khá nhiều về các khía cạnh nạn
nhân trong tố tụng hình sự Mỹ là “Nạn nhân trong tố tụng hình sự” (Victims in
Criminal Procedure, Carolina Academic Press, 1999) của Douglas E. Beloof. Nội
dung đáng chú ý nhất là tác giả đã đưa ra “Mô hình thứ ba của tố tụng hình sự: Mô
hình tham gia của nạn nhân” (The Third Model of Criminal Process: The Victim


4

Participation Model). Tác giả William F. McDonald với tài liệu “Sự lý giải về truy
tố hình sự của tư pháp hình sự” (Criminal Prosecution Rationalization of Criminal
Justice, Final Report, National Institute of Justice, US. Department of Justice,
1991), tập trung bàn về sự phát triển của hệ thống truy tố ở một số quốc gia theo
cách tiếp cận lịch sử, trong đó có tư tố (buộc tội cá nhân) trong tố tụng tố cáo, tố
tụng thẩm vấn. Tìm hiểu vai trò nạn nhân trong lịch sử tố tụng hình sự Anh, có tác
phẩm “Nạn nhân trong luật hình sự và tư pháp hình sự” (The Victim in Criminal
Law and Justice, của tác giả Tyrone Kirchengast (2006), Palgrave Macmillan Ltd).
Ở Đức có bài viết khoa học như “Nạn nhân trong tố tụng hình sự: Mô tả hệ thống
bảo vệ nạn nhân theo luật tố tụng hình sự Đức” (The Victim in Criminal
Procedure: A systematic portrayal of victim protection under German Criminal
Procedure law) [139] của tác giả Markus Loffelmann, công tố viên, chuyên viên về
luật tố tụng hình sự của Bộ Tư pháp Đức. Tài liệu này xem xét vai trò của nạn nhân

trong tố tụng hình sự của Đức như là người tố cáo tội phạm, một bên truy tố, như
người làm chứng, như một đồng phạm và vấn đề bảo vệ nạn nhân trong tố tụng hình
sự Đức.
Ở Châu Á, Giáo sư Toshihiro Kawaide của Đại học Tokyo Nhật Bản trong
bài viết “Sự tham gia của nạn nhân trong phiên tòa hình sự của Nhật Bản”
(Victim's participation in the criminal trial in Japan) [133], cho thấy có sự tham gia
của nạn nhân trong tòa án Nhật Bản, kiểm tra nhân chứng, phát biểu ý kiến, mối
quan hệ của nạn nhân với công tố viên cũng như những mặt tiêu cực của việc nạn
nhân tham gia vào phiên tòa hình sự như làm cho bản án nặng, thiếu công bằng. Bài
viết “Sự bảo vệ và các biện pháp đối với nạn nhân của tội phạm và lạm dụng quyền
lực ở Trung Hoa” (The protection and remedies for victim of crime and abuse of
power in China) của Gao-Feng Jin, Giảng viên, nhà nghiên cứu của Đại học An
ninh nhân dân Trung Hoa, trình bày về sự thay đổi địa vị pháp lý nạn nhân tội phạm
theo hướng tăng cường vai trò và sự bảo vệ quyền của nạn nhân kể từ Bộ luật tố
tụng hình sự Trung Hoa năm 1979 đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 1996 và thời kỳ
tiếp theo trên cơ sở chuẩn mực quốc tế về nạn nhân của tội phạm trong Tuyên bố


5

của Liên hợp quốc năm 1985 [138] . Viện trưởng Viện nghiên cứu và đào tạo pháp
lý Hàn Quốc, Nae-Hyun Lim, với bài viết Vai trò của nạn nhân trong tố tụng hình
sự (The Role of the Victim in the Criminal Process) được trình bày tại Hội thảo
thường niên của Hiệp hội công tố viên quốc tế, Đan Mạch (2005), trong đó nêu bật
vị trí vai, trò quan trọng của nạn nhân trong tố tụng hình sự Hàn Quốc và sự cải
thiện vị trí, vai trò đáng kể của nạn nhân ở góc độ Hiến pháp và pháp luật tố tụng
hình sự Hàn Quốc kể từ năm 1987 [132].
Ngoài ra, còn có những tài liệu viết về nhiều vấn đề khác nhau của tố tụng
hình sự, trong đó có nạn nhân của tội phạm, ví dụ tài liệu “Sau năm năm áp dụng
Bộ luật tố tụng hình sự Nga”(2007) (Russia's Criminal Procedure Code Five Years

Out) của tác giả William Burnham and Jeffery Kahn, nhận xét về nhiều sự thay đổi
của tố tụng hình sự của Nga từ khi áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001, trong
đó có thừa nhận người bị hại trở thành một bên buộc tội chính thức trong tố tụng
hình sự [128, tr. 62]. Những cuốn sách khác như: “Hệ thống tố tụng hình sự trong
cộng đồng Châu Âu” (Criminal procedure systems in the European Community,
Butterworth & Co Ltd, 1993) của tác giả Christine Van Den Wyngaert; cuốn sách:
“Sự thay đổi của hệ thống tố tụng hình sự” (Transition of Criminal procedure
system, Volume II, Editor: Berislav Pavisic, University of Rijeka, 2004) của tập thể
tác giả đến từ nhiều nước Châu Âu… Những tài liệu này viết về hệ thống tố tụng
hình sự nói chung của một số quốc gia Châu Âu, trong đó có đề cập đến quyền và
nghĩa vụ của nạn nhân của tội phạm ở một vài khía cạnh, như xem nạn nhân là chủ
thể của quyền tư tố, chủ thể của quyền yêu cầu giải quyết các vấn đề về dân sự, là
chủ thể của những quyền khác trong tố tụng hình sự.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu của nhiều nước bắt đầu quan tâm nạn nhân
của tội phạm vào những thập niên cuối của thế kỷ trước. Mặc dù các tác giả tiếp cận
khác nhau về nạn nhân của tội phạm, ở khía cạnh lịch sử hay luật thực định, nhưng
phần lớn có cùng quan điểm nên tăng cường sự tham gia của nạn nhân trong tố tụng
hình sự và pháp luật cần thể chế những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu của nạn
nhân trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, còn có ý kiến đề nghị những mô


6

hình tố tụng theo hướng đảm bảo khắc phục thiệt hại cho nạn nhân, tôn trọng nạn
nhân để tránh trường hợp họ tiếp tục bị tổn thương trong quá trình tố tụng
(secondary victimization). Những vấn đề này trở thành chuẩn mực có tính chất quốc
tế về nạn nhân của tội phạm và cũng được các tác giả đem ra so sánh với luật tố
tụng của các quốc gia.
Ở Việt Nam, cũng không phải là ngoại lệ khi chậm tiếp cận và nghiên cứu về
những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra (bao gồm người bị hại và nguyên đơn

dân sự). Những giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của các trường đào tạo
luật, các cuốn sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự của Bộ Tư pháp và
của các tác giả khác, khi đề cập đến người bị hại và nguyên đơn dân sự chủ yếu giải
thích các quyền và nghĩa vụ của những chủ thể này theo quy định của pháp luật hiện
hành mà không lý giải tại sao có những quyền và nghĩa vụ tố tụng đó. Những tài
liệu nghiên cứu chuyên sâu về người bị hại thì cũng chỉ dừng lại ở những bài viết
khoa học trên các tạp chí chuyên ngành luật, như “Một số vấn đề về người bị hại,
nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của tác giả Trần
Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm sát, số 4, 2006), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”
(Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, 2007) của Lê Tiến Châu, “Bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Vũ
Gia Lâm (Tạp chí Luật học số 11, 2011)… Những bài viết này chủ yếu thảo luận về
khái niệm người bị hại, nguyên đơn dân sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện
khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự. Những tài liệu, bài viết khác trình bày
việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể nói chung, trong đó có người
bị hại và nguyên đơn dân sự (Đinh Văn Quế, 2008), về vai trò của người bị hại,
nguyên đơn dân sự trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (Nguyễn Trương
Tín, 2010), giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Đỗ Văn Đại, 2007,
Nguyễn Xuân Đang, 2005), khía cạnh tâm lý của người bị hại trong hoạt động lấy
lời khai (Phạm Ngọc Cường - Trần Nguyên Quân, 2001)…
Những điểm hạn chế chung trong các nghiên cứu khoa học pháp lý ở Việt
Nam về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, có thể nhận thấy như sau:


7

- Các công trình, tài liệu nghiên cứu về người bị hại, nguyên đơn dân sự
thường tìm hiểu địa vị pháp lý của họ qua hệ thống các quyền và nghĩa vụ được Bộ
luật tố tụng hình sự quy định mà không lý giải cơ sở của các quyền và nghĩa vụ tố
tụng đó. Do đó, các tài liệu chưa làm rõ được vai trò cơ bản của người bị hại và

nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự.
- Việc nghiên cứu về người bị hại và nguyên đơn dân sự còn manh mún, chia
cắt ở phạm vi khái niệm, ở những quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể, như khởi tố
theo yêu cầu người bị hại, yêu cầu bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra… Do đó,
không thể đưa ra những giải pháp đồng bộ để hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về
loại chủ thể này.
- Nguyên đơn dân sự cũng là chủ thể được Bộ luật tố tụng hình sự quy định
là “bị thiệt hại do tội phạm gây ra”, có hệ thống quyền và nghĩa vụ tương đương với
người bị hại, có nhiều loại và rất khó xác định để đưa vào hoạt động tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thế nhưng mảng tri thức khoa học về nguyên
đơn dân sự trong vụ án hình sự còn quá ít và cũng chỉ dừng lại ở mức độ bàn về
khái niệm nguyên đơn dân sự và phân biệt với người bị hại (xem Trần Quang Tiệp,
Tạp chí Kiểm sát, số 4, 2006).
Những hạn chế trên đã đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới về người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong luận án này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự cùng với những bất cập
của pháp luật và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến nghị đối với
hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Với mục tiêu đã được xác định, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề
cơ bản như sau:
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề nhận thức về người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra trong tố tụng hình sự ở khía cạnh lý luận và pháp lý. Trong đó có so
sánh, phân biệt giữa hai chủ thể cùng được coi là bị thiệt hại do tội phạm gây ra


8

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (người bị hại và nguyên đơn dân sự),

đồng thời cũng có sự phân biệt với những chủ thể khác trong tố tụng hình sự.
- Tìm hiểu tư liệu lịch sử tố tụng hình sự về nạn nhân của tội phạm, đồng thời
tham khảo xu hướng lập pháp và pháp luật tố tụng hình sự hiện nay của một số
nước trên thế giới để có thể nhận thức đúng về bản chất, vị trí, vai trò của chủ thể
này trong tố tụng hình sự.
- Phân tích các quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự.
- Đánh giá thực trạng áp dụng BLTTHS Việt Nam để tìm hiểu mức độ đảm
bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự.
- Đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 về người bị hại và nguyên đơn dân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam, bao gồm người bị hại và nguyên đơn dân sự.
Những vấn đề pháp lý và thực tiễn đảm bảo quyền, nghĩa vụ của người bị hại
và nguyên đơn dân sự được nghiên cứu chỉ trong phạm vi tố tụng hình sự. Những
thông tin, tư liệu được sử dụng để nghiên cứu chủ yếu được thu thập trong phạm vi
cả nước, từ năm 2003 cho đến nay,
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng, nhà nước về cải cách tư pháp, bảo
vệ quyền con người cũng là nền tảng tư tưởng để có thể tiếp cận, lý giải và đánh giá
một cách khách quan, toàn diện những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của đối tượng nghiên cứu, tình hình
nghiên cứu và nguồn thông tin còn hạn chế về lĩnh vực nghiên cứu (không được
thống kê, báo cáo chính thức từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền), tác giả đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây để thu thập, phân tích và xử lý các
thông tin nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu:


9


- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bản chất, quy luật hình
thành và phát triển các quy định pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tố tụng về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong quá khứ và hiện tại, từ đó định hướng
việc hoàn thiện pháp luật trong tương lai.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm hiểu điểm tương đồng và khác
biệt giữa lịch sử với hiện tại, giữa luật quốc gia với luật nước ngoài và pháp luật
quốc tế về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để có thể nhận thức một
cách chi tiết và khái quát những vấn đề được nghiên cứu.
- Phương pháp phiếu điều tra xã hội học nhằm thu thập ý kiến của cán bộ
hoạt động thưc tiễn điều tra, truy tố, xét xử án hình sự. Với 607 phiếu điều tra xã
hội học thu thập được (đính kèm phần phụ lục) cho phép tác giả đánh giá khái quát
vấn đề nhận thức và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự có người bị hại và nguyên
đơn dân sự tham gia tố tụng.
- Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình để chứng minh những vấn đề về
pháp lý và thực tiễn tố tụng.
- Phương pháp tham khảo các tư liệu trong các công trình đã công bố của các
chuyên gia, những tổng kết từ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tố tụng
để hỗ trợ các nhận định, đánh giá trong luận án.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp các số liệu trong những báo cáo của ngành
kiểm sát, của một số địa phương để minh họa tình hình thiệt hại do tội phạm gây ra,
tình hình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, từ đó gián tiếp đánh giá
những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận án
Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên
sâu về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự. Vì thế, luận án có
những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự không chỉ có người bị hại mà còn có nguyên đơn dân sự. Hai chủ thể



10

này tuy có địa vị tố tụng khác nhau nhưng “gần” nhau và cùng bị chi phối bởi dấu
hiệu đặc trưng: “bị thiệt hại do tội phạm gây ra”. Chính vì vậy, trong nội dung
nghiên cứu có sự liên hệ, so sánh các dấu hiệu pháp lý giữa người bị hại với nguyên
đơn dân sự, đồng thời phân biệt với các chủ thể khác trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, cách tiếp cận quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân
sự xuất phát từ vị trí, vai trò của hai chủ thể này trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở
đó, luận án trình bày quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự theo
nhóm quyền, nghĩa vụ cơ bản và nhóm các quyền, nghĩa vụ khác. Mặt khác, các
quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự được đề cập trong luận án
không chỉ trong phạm vi các Điều 51 và Điều 52 mà còn liên quan với nhiều điều
luật khác của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ ba, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự nhằm thực hiện tốt hơn vai trò của người bị hại và nguyên đơn dân sự, đảm
bảo quyền con người, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Những
kiến nghị này là phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống tố tụng hình sự của các
nước trên thế giới, trong đó có sự cải thiện vị trí, vai trò nạn nhân của tội phạm. Vì
thế, nội dung các kiến nghị mang tính thời sự.
Với những đóng góp mới về mặt khoa học như trên, luận án làm phong phú
thêm khoa học luật tố tụng hình sự ở nước ta. Nó đóng góp một mảng lý luận liên
quan đến một nhóm chủ thể tham gia tố tụng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm.
Những kiến nghị trong luận án có thể có ích cho hoạt động lập pháp hiện nay
ở Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ nhà nước đang có chủ trương cải cách tư pháp,
đồng thời cũng là tài liệu tham khảo tin cậy đối với những người tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Luận án sẽ là nguồn tài liệu có ích cho hoạt động học tập, nghiên cứu, giảng
dạy của sinh viên, giảng viên trong các trường đào tạo luật học và bạn đọc quan

tâm.


11

7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
gồm ba chương:.
- Chương 1. Lý luận chung về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự.
- Chương 2. Quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
- Chương 3. Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra.


12

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM
GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1.

Khái niệm thiệt hại do tội phạm gây ra và người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm thiệt hại do tội phạm gây ra

Thiệt hại, theo nghĩa thông thường của tiếng Việt là “mất mát, hư hỏng nặng
nề về người và của” [31, tr. 571]. Thực tế, thiệt hại đối với con người và xã hội có
nhiều nguyên nhân với những nội dung, tính chất đa dạng. Ví dụ, thiệt hại do hiện
tượng tự nhiên gây ra (thiên tai, dịch bệnh...), thiệt hại do con người gây ra (chiến
tranh, xung đột, vi phạm pháp luật...). Thiệt hại không chỉ ở tính mạng, sức khỏe
con người và của cải của người bị xâm phạm mà còn là những khó khăn, bất ổn lâu
dài đối với xã hội. Ở góc độ pháp lý, thiệt hại cũng được xem xét, đánh giá ở nhiều
nguyên nhân trong nhiều ngành luật với mục đích xác định trách nhiệm của chủ thể
gây ra thiệt hại, cách thức khắc phục, bồi thường thiệt hại. Đó là thiệt hại do hành vi
của người vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp
luật hình sự... Thiệt hại do tội phạm gây ra là một dạng thiệt hại có nguyên nhân từ
hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm). Việc đánh giá tính chất, mức độ thiệt
hại cũng như xác định chủ thể bị thiệt hại có ý nghĩa quan trọng trong việc giải
quyết vụ án hình sự và khắc phục thiệt hại. Tuy nhiên, hiểu thế nào là thiệt hại do
tội phạm gây ra vẫn còn có những ý kiến khác nhau, vì thế cần được làm sáng tỏ về
mặt lý luận. Theo chúng tôi, thiệt hại do tội phạm gây ra có những nội dung và đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất, thiệt hại do tội phạm gây ra bao gồm những thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản và tình trạng mất trật tự, an toàn xã hội, trật tự pháp luật.


13

Nhận thức ở mức độ tổng quát thì thiệt hại do tội phạm gây ra tồn tại hai
dạng: vật chất và phi vật chất. Thiệt hại ở dạng vật chất (tồn tại một cách khách
quan trong thế giới vật chất) bao gồm thiệt hại thể chất và thiệt hại về tài sản. Thiệt
hại ở dạng tinh thần (tồn tại trong thế giới tinh thần như ý thức, tình cảm, uy tín...).
Thiệt hại thể chất thể hiện ở những tổn hại về tính mạng, sức khỏe do tội
phạm gây ra, thiệt hại này chỉ gắn với con người tự nhiên. Ví dụ, thiệt hại về tính
mạng của hành vi giết người, thiệt hại về sức khỏe của hành vi cố ý gây thương tích.

Thiệt hại này được định lượng bằng những con số cụ thể về số người chết, tỷ lệ
thương tật, mức độ tổn hại sức khỏe. Thiệt hại thể chất biểu hiện ở sự biến đổi tình
trạng bình thường thực thể tự nhiên của con người [38, tr. 63] .
Thiệt hại về tinh thần thể hiện ở những tổn thương về tình cảm của người bị
thiệt hại hoặc người thân thích do hành vi phạm tội gây ra (buồn bã, đau khổ); uy
tín, danh dự, nhân phẩm bị tội phạm xâm hại do hành vi vu khống, hành vi hiếp
dâm, làm nhục gây ra... Thiệt hại về tinh thần khó định lượng bằng con số cụ thể và
cũng không thể định giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị. Thiệt hại về
tinh thần là một dạng hậu quả phi vật chất, do đó con người chỉ nhận thức được
bằng con đường tư duy [29, tr. 166]. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam có quy
định bồi thường thiệt hại về tinh thần (Điều 609, 610, 611 Bộ luật dân sự (BLDS)
Việt Nam năm 2005) với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại về
tinh thần, cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái
pháp luật [41, tr. 444]. Vì thế, thiệt hại về tinh thần cũng được tính đến trong quá
trình giải quyết vụ án.
Thiệt hại về tinh thần còn có thể được hiểu rộng ra ở những thiệt hại phi vật
chất khác như các quyền tự do, dân chủ của công dân bị xâm phạm (ví dụ, bị giữ
hoặc giam trái pháp luật, xâm phạm bí mật, an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của
người khác…). Cũng có ý kiến cho rằng những thiệt hại này là những thiệt hại về
quyền và lợi ích hợp pháp khác, ngoài phạm trù thiệt hại tinh thần [87, tr. 8, 17-18].


14

Quan niệm truyền thống xem thiệt hại về tinh thần thường xảy ra đối với cá
nhân, như tổn thương tình cảm, danh dự, nhân phẩm. Ngày nay, chủ thể của các
quan hệ xã hội ngày càng được mở rộng và được thiết lập bởi các pháp nhân, tồn tại
độc lập với cá nhân, kể cả các tổ chức không có tư cách pháp nhân. Trong quan hệ
xã hội, một tổ chức cũng có nguy cơ bị thiệt hại không chỉ ở khía cạnh vật chất mà
còn ở khía cạnh tinh thần, uy tín. Vì vậy, thiệt hại về tinh thần của các tổ chức cũng

được pháp luật Việt Nam xác định là danh dự, uy tín bị xâm phạm, bị giảm sút hoặc
mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm [11].
Thiệt hại tài sản thể hiện ở tiền, quyền về tài sản (ví dụ, quyền được hưởng
tiền trợ cấp nuôi dưỡng) hoặc vật có giá trị được quy đổi thành tiền bị mất, bị hủy
hoại, bị hư hỏng, giá trị tài sản bị giảm sút, thu nhập bị mất, chi phí bỏ ra để ngăn
chặn, khắc phục, sửa chữa, xử lý hậu quả... Ví dụ, thiệt hại tài sản do hành vi trộm
cắp tài sản gây ra, tiền thuốc điều trị thương tích do hành vi cố ý gây thương tích
gây ra... Thiệt hại tài sản có thể được quy đổi và định lượng thành tiền. Thiệt hại tài
sản do tội phạm gây ra có thể tính cả những thiệt hại gián tiếp (có mối quan hệ nhân
quả dây chuyền với hành vi phạm tội) như thiệt hại tiền thuốc điều trị thương tật do
hành vi cố ý gây thương tích gây ra, khả năng sinh lợi từ tài sản đã bị hủy hoại, bị
hư hỏng...
Ngoài ra, trong khoa học còn hiểu nội dung thiệt hại do tội phạm gây ra theo
nghĩa rộng và trừu tượng là “trật tự pháp luật đã được nhà nước quy định” [86, tr.
109] mà bất kỳ tội phạm nào cũng có khả năng gây ra thiệt hại. Cũng có thể hiểu đó
là trật tự xã hội, an ninh quốc gia và những lợi ích chung khác bị tội phạm xâm hại.
Đây cũng là dạng thiệt hại phi vật chất nhưng không thể xếp vào thiệt hại tinh thần,
bởi vì thiệt hại tinh thần (như tình cảm, danh dự, uy tín bị tội phạm xâm hại) phải
thuộc về một cá nhân hoặc tổ chức cụ thể.
Như vậy, thiệt hại do tội phạm gây ra gồm nhiều loại: thiệt hại về thể chất,
thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài sản. Ngoài ra, còn có những thiệt hại khác như
trật tự xã hội, trật tự pháp luật… Tổng hợp những thiệt hại này để lại hậu quả về vật


15

chất (người, tài sản) và phi vật chất (tinh thần, trật tự xã hội, trật tự pháp luật) của
tội phạm. Thật ra, những loại thiệt hại này cũng bị xâm hại bởi những hành vi trái
pháp luật khác, tuy nhiên phạm vi nội dung, mức độ thiệt hại là có thể khác nhau.
Ví dụ, hành vi vi phạm hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ hợp đồng – một loại vi phạm

pháp luật dân sự) gây thiệt hại về tài sản; hành vi cố ý gây thương tích chưa đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự (vi phạm pháp luật hành chính) cũng gây thiệt
hại về thể chất; hành vi xúc phạm chưa đến mức nghiêm trọng đối với nhân phẩm,
danh dự người khác gây thiệt hại về tinh thần... Nhưng nếu gây thiệt hại thể chất mà
là tính mạng thì thiệt hại do hành vi trái pháp luật đóng vai trò nguyên nhân bị coi là
tội phạm. Vấn đề nhận thức loại thiệt hại do tội phạm gây ra có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá đầy đủ các nội dung thiệt hại, những người bị thiệt hại và giải
quyết bồi thường thiệt hại trong TTHS.
Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra ở mức “đáng kể” đối với các quan hệ
xã hội bị tội phạm xâm hại.
Khi bàn về hậu quả của tội phạm, các nhà khoa học cho rằng đó là “sự thiệt
hại cụ thể nhất định và đáng kể do hành vi phạm tội gây ra cho các lợi ích được bảo
về bằng pháp luật hình sự” [17, tr. 367]. Chính sự thiệt hại đáng kể do tội phạm gây
ra góp phần tạo nên tính nguy hiểm cao cho xã hội của tội phạm và “là căn cứ để
phân biệt hành vi là tội phạm với những hành vi vi phạm khác” [37, tr. 35 – 36].
Khoản 4 Điều 8 BLHS năm 1999 cũng chỉ rõ: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của
tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là
tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Thông thường, thiệt hại do tội
phạm gây ra ở mức nghiêm trọng hơn so với thiệt hại của hành vi vi pháp pháp luật
khác. Có những hành vi khi thực hiện đã bộc lộ tính nguy hiểm cao cho xã hội mà
không cần căn cứ vào mức độ thiệt hại, nếu hành vi này đã gây ra thiệt hại thì chắc
chắn rằng đó là những thiệt hại đáng kể hoặc hành vi gây ra những thiệt hại khó xác
định. Trong khoa học luật hình sự thường xem những tội phạm này có cấu thành
hình thức, ví dụ tội cướp tài sản, tội bắt, giam, giữ người trái pháp luật. Tuy nhiên,
có nhiều hành vi có tính nguy hiểm được thể hiện đầy đủ trong hành vi và thiệt hại


16

(hậu quả). Tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi xảy ra thiệt hại. Khoa học luật

hình sự thường xem những tội phạm này có cấu thành vật chất. Đối với những tội
phạm có cấu thành vật chất thì dấu hiệu mức độ thiệt hại cũng là căn cứ để phân
biệt một hành vi phạm tội với một hành vi vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, vì
mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra được nhìn nhận là nghiêm trọng hơn. Ví dụ,
trong trường hợp bình thường thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác từ 11% trở lên thì hành vi đó mới bị coi là tội
phạm. Điều đó có nghĩa nếu thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11% (ít nghiêm
trọng hơn) mà không có những điều kiện khác kèm theo thì hành vi này không bị
coi là tội phạm. Hoặc trong trường hợp bình thường nếu một hành vi hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng trở lên (theo luật
sửa đổi, bổ sung một số điều BLHS năm 2009) thì hành vi này mới bị coi là tội
phạm, nếu thiệt hại nhỏ hơn mà không có những điều kiện kèm theo thì không bị
coi là tội phạm. Cũng cần lưu ý là một tội phạm có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra
một hoặc nhiều thiệt hại, trong đó có ít nhất một thiệt hại đáng kể và có thể kèm
theo những thiệt hại nhỏ phái sinh khác. Tổng những thiệt hại do tội phạm gây ra
bao giờ cũng là thiệt hại đáng kể. Sự nhận thức mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra
có ý nghĩa đối với việc đánh giá hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong
vụ án hình sự, đồng thời phân biệt với thiệt hại do những hành vi vi phạm pháp luật
khác gây ra.
Thứ ba, thiệt hại do tội phạm gây ra có quan hệ nhân quả với tội phạm.
Nếu coi thiệt hại là kết quả thì tội phạm là nguyên nhân. Theo cặp phạm trù
nhân quả của phép biện chứng duy vật thì tội phạm có trước thiệt hại và thiệt hại đó
là hậu quả tất yếu của tội phạm. Tức là giữa tội phạm và thiệt hại có mối quan hệ
sản sinh ra nhau. Tội phạm có vai trò nguyên nhân không những gây ra những thiệt
hại trực tiếp mà còn có thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại gián tiếp cũng có quan hệ nhân
quả với tội phạm.


17


Thiệt hại trực tiếp của tội phạm được xác định là đối tượng của tội phạm, do
chính tội phạm trực tiếp gây ra. Ví dụ, tội phạm giết người có thiệt hại trực tiếp là
tính mạng (chết) của người bị hại.
Thiệt hại gián tiếp là thiệt hại không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt
hại gián tiếp xảy ra trong hai trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, tội phạm gây ra thiệt hại trực tiếp, thiệt hại trực tiếp là
nguyên nhân của thiệt hại gián tiếp. Có nghĩa là thiệt hại gián tiếp xảy ra sau thiệt
hại trực tiếp và cũng được coi là hậu quả của tội phạm (xem sơ đồ 1.1.1-1).
Tội
phạm

Thiệt hại
trực tiếp

Thiệt hại
gián tiếp

(Sơ đồ 1.1.1-1)
Ví dụ, tội phạm giết người gây ra thiệt hại trực tiếp là tính mạng của người bị
hại. Nếu một người có cuộc sống phụ thuộc vào người chết (người mất sức lao
động, trẻ em...) bị mất hoặc giảm sút nguồn trợ cấp nuôi dưỡng, đó là thiệt hại gián
tiếp. Thiệt hại này có mối quan hệ nhân quả gián tiếp với tội phạm1. Vì trong cùng
điều kiện, hoàn cảnh đó, bất cứ người nào sống phụ thuộc người bị hại cũng bị mất
nguồn trợ cấp (thiệt hại) như một hậu quả tất yếu. Thiệt hại đó khác hoàn toàn với
những thiệt hại mà tội phạm không đóng vai trò là nguyên nhân có tính tất yếu. Ví
dụ, một người giết người bị hại, người thân của người bị hại bị xúc động mạnh, tăng
huyết áp đột ngột và chết sau đó. Thiệt hại tính mạng của người thân người bị hại
trong trường hợp này không nằm trong quan hệ nhân quả có tính chất tất yếu. Bởi vì
trong cùng hoàn cảnh, điều kiện đó không phải ai cũng bị tăng huyết áp đột ngột
dẫn đến tử vong. Như vậy, căn cứ vào quan hệ nhân quả có thể giới hạn những thiệt


1 Trong khoa học luật hình sự có đưa ra hình thức khác về quan hệ nhân quả gián tiếp. Đó là quan hệ nhân
quả có tính dây chuyền được xác định qua hai quan hệ nhân quả trực tiếp. Trong đó quan hệ nhân quả trực
tiếp giữa hành vi trái pháp luật thứ nhất với hành vi trái pháp luật thứ hai; quan hệ nhân quả trực tiếp giữa
hành vi trái pháp luật thứ hai với hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Quan hệ nhân quả gián tiếp được xác định
là quan hệ giữa hành vi trái pháp luật (tội phạm) thứ nhất với hậu quả của tội phạm [38, tr. 69].


18

hại gián tiếp khác không có tính tất yếu từ nguyên nhân tội phạm như ví dụ nêu trên
về cái chết của người bị tăng huyết áp. Người phạm tội không phải chịu trách nhiệm
đối với thiệt hại của người thân thích của người bị hại trong trường hợp đó bởi
nguyên nhân quyết định không phải do tội phạm. Trong thực tế có nhiều trường hợp
bị thiệt hại gián tiếp nhưng không được coi là hậu quả tất yếu của tội phạm và
không thuộc phạm trù thiệt hại do tội phạm gây ra. Ví dụ, một người bị mất cơ hội
tìm việc làm, mất cơ hội học tập tốt, mất cơ hội thăng tiến, đổ vỡ hạnh phúc gia
đình, người thân sinh bệnh… do liên quan đến tội phạm đã xảy ra trước đó.
Trường hợp thứ hai, có một loại thiệt hại khác cũng được coi là thiệt hại gián
tiếp nhưng có cơ chế hình thành khác với thiệt hại gián tiếp ở trên. Nó cũng có quan
hệ nhân quả với tội phạm nhưng không phải là hậu quả của một thiệt hại trực tiếp đã
xảy ra trước đó. Đó là thiệt hại có tính phái sinh và không phải là mục đích của tội
phạm khi tội phạm đó cố ý gây ra một thiệt hại trực tiếp khác. Hay nói cách khác,
loại thiệt hại gián tiếp này xảy ra đồng thời với thiệt hại trực tiếp và cũng thỏa mãn
điều kiện nó không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại phái sinh này chưa đủ
làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm độc lập với tội phạm
đã thực hiện (xem sơ đồ 1.1.1-2). Ví dụ, khi thực hiện tội phạm cố ý gây thương
tích cho một người lại làm hư hỏng tài sản người khác. Tài sản bị hư hỏng là thiệt
hại gián tiếp của tội phạm cố ý gây thương tích. Người bị thiệt hại tài sản là người
bị thiệt hại gián tiếp do tội phạm gây ra.

Tội
phạm

Thiệt
hại
trực tiếp
Thiệt
hại
gián tiếp
(Sơ đồ 1.1.1-2)

Nhận thức quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng: Thứ nhất, là cơ sở để phân biệt thiệt hại do tội phạm gây ra với


19

thiệt hại do những nguyên nhân khác gây ra, như do hiện tượng tự nhiên (thiên tai,
dịch bệnh), hoặc do những hành vi vi phạm pháp luật dân sự, hành chính gây ra.
Thứ hai, nếu có một thiệt hại nào xảy ra trước khi tội phạm được thực hiện, thì thiệt
hại đó không được coi là thiệt hại do tội phạm gây ra. Có nghĩa là chỉ có những thiệt
hại nào xuất hiện sau khi tội phạm được thực hiện thì mới được giả định rằng thiệt
hại đó có thể do tội phạm gây ra. Tuy nhiên, không phải cứ có hai hiện tượng xuất
hiện nối tiếp nhau về mặt thời gian thì hiện tượng có trước là nguyên nhân của hiện
tượng có sau, mà giữa chúng phải có quan hệ nhân quả. Thực tế có nhiều sự kiện,
hành vi xuất hiện trước khi có thiệt hại nhưng không phải là nguyên nhân của thiệt
hại đó. Điều này có thể do trùng hợp thời gian một cách ngẫu nhiên nên rất dễ ngộ
nhận về nguyên nhân gây ra thiệt hại. Do đó, thông qua phân tích quan hệ nhân quả,
có thể nhận thức đúng những thiệt hại nào được sản sinh từ tội phạm. Ví dụ, bác sỹ
tiêm thuốc cho bệnh nhân, sau đó bệnh nhân tử vong vì một lý do khác không liên

quan đến thuốc do bác sỹ sử dụng. Nếu không có giám định về nguyên nhân chết để
tìm quan hệ nhân quả thì rất có thể nhận thức nhầm lẫn rằng bệnh nhân chết là do
bác sỹ tiêm thuốc gây ra. Thứ ba, cũng thông qua quan hệ nhân quả với các hình
thức đa dạng của nó cho phép xác định thiệt hại nào là kết quả của tội phạm và mức
độ “đóng góp” của hành vi phạm tội trong cơ chế gây ra thiệt hại, từ đó xác định địa
vị tố tụng của người bị thiệt hại và có phương thức giải quyết hợp lý trách nhiệm
đối với người gây ra thiệt hại. Tội phạm không chỉ gây ra thiệt hại trực tiếp mà còn
có thể gây ra thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại gián tiếp xảy ra cùng với thiệt hại trực tiếp
và thường đi kèm với thiệt hại trực tiếp. Thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp đều
thuộc phạm trù thiệt hại do tội phạm gây ra trong vụ án hình sự, được giải quyết
cùng với giải quyết vụ án hình sự.
Như vậy, thiệt hại do tội phạm gây ra là những thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản và tình trạng mất trật tự, an toàn xã hội, trật tự pháp luật. Đó là những
thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm. Thiệt hại do tội
phạm gây ra bao gồm những thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.


20

1.1.2. Khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự
Trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) không có khái niệm pháp lý về
“người bị thiệt hại do tội phạm gây ra”. Ở góc độ khoa học, khái niệm người bị thiệt
hại do tội phạm gây ra không dùng để chỉ một địa vị tố tụng cụ thể mà dùng để chỉ
một nhóm chủ thể, một “bên” tham gia trong quan hệ pháp luật TTHS, bên bị thiệt
hại, trong đó có những chủ thể khác nhau bị thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp bởi
hành vi phạm tội. Trong TTHS, người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có đặc điểm,
dấu hiệu khác với người phạm tội (bị can, bị cáo) hoặc người phải có nghĩa vụ bồi
thường (bị đơn dân sự), đồng thời cũng khác với những người hỗ trợ cho hoạt động
chứng minh tội phạm và hoạt động tố tụng nói chung (người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch...). Việc nhận thức về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra

trong TTHS là quá trình làm sáng tỏ những đặc điểm chung thuộc về bản chất của
những chủ thể thuộc nhóm này, từ đó xem xét sự hiện diện của họ trong TTHS với
những địa vị tố tụng khác nhau theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS). Với những địa vị tố tụng đó, người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có
những quyền, nghĩa vụ theo quy định của BLTTHS đủ để bảo vệ lợi ích của mình
và thực hiện những vai trò nhất định trong TTHS.
Trong TTHS, nhiều người có khả năng trở thành người bị thiệt hại, nhưng
không phải người nào cũng bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Chỉ được coi là người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra khi người đó chịu những thiệt hại đáng kể về thể chất,
tinh thần, tài sản (như đã trình bày ở mục 1.1.1) hoặc đe dọa chịu những thiệt hại đó
từ hành vi phạm tội. Dấu hiệu “bị thiệt hại do tội phạm gây ra” là dấu hiệu đặc trưng
nhất, ảnh hưởng quyết định đến việc xác lập quyền và nghĩa vụ, đồng thời thể hiện
vai trò của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS. Những người khác
cũng có thể bị thiệt hại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng không có
nguyên nhân từ hành vi phạm tội, vì thế họ không phải là người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra trong TTHS. Ví dụ, người bị thiệt hại trong các trường hợp sau:


21

- Bị can, bị cáo, người bị tạm giữ bị oan trong TTHS. Thiệt hại của những
người này không phải do tội phạm gây ra mà do hành vi làm oan trong TTHS. Do
đó không thể coi người bị buộc tội oan là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra1.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng có thể bị những
thiệt hại phát sinh trong vụ án hình sự (ví dụ, một người bị mất thu nhập do không
đi làm vì phải chăm sóc người bị hại).
- Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
(THTT) gây ra khi thực thi nhiệm vụ. Hành vi thực thi nhiệm vụ không phải là tội
phạm, ví dụ trong quá trình thực thi nhiệm vụ của cơ quan THTT có thể gây ra thiệt
hại cho cá nhân, tổ chức như mượn xe để truy đuổi người phạm tội đã làm hư hỏng

tài sản...
Nếu chỉ dừng lại ở việc xem xét dấu hiệu “bị thiệt hại do tội phạm gây ra” thì
người bị thiệt hại chưa đủ điều kiện tham gia tố tụng. Để có quyền và nghĩa vụ tham
gia vào hoạt động TTHS thì người bị thiệt hại do tội phạm gây ra phải được cơ quan
có thẩm quyền THTT công nhận. Như vậy, người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
không đương nhiên tham gia tố tụng nếu không được cơ quan có thẩm quyền THTT
công nhận. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc công nhận của cơ quan có
thẩm quyền THTT đối với người bị thiệt hại do tội phạm gây ra nhằm tạo điều kiện
cho họ tham gia tố tụng một cách hợp pháp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của mình góp phần làm sáng tỏ vụ án hình sự và bảo vệ lợi ích đã bị tội phạm
xâm hại. Trong thực tiễn TTHS ở Việt Nam, sự công nhận được thể hiện bằng các
hành vi tố tụng như: chấp nhận đơn yêu cầu, đơn tố cáo và có văn bản triệu tập
tham gia tố tụng. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền THTT công nhận thì những
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có một địa vị pháp lý trong TTHS, là chủ thể

Theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước (2009), hành vi làm oan là “hành vi không thực hiện hoặc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của pháp luật” [15]. Trong TTHS, người gây ra thiệt hại là
người có thẩm quyền THTT thực hiện hoặc không thực hiện đúng quy định của pháp luật TTHS. Người bị
thiệt hại do bị oan trong TTHS là bị can, bị cáo, người bị tạm giữ.

1


×