Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

BÀI GIẢNG về SINH lí ĐỘNG vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 50 trang )

BÀI GIẢNG VỀ SINH LÍ ĐỘNG VẬT
CHƯƠNG I: SINH LÍ MÁU
I. MÁU VÀ VAI TRÒ CỦA MÁU
Máu là một dịch lỏng được lưu thông trong một hệ thống ống kín gọi là hệ mạch máu. Máu cùng với dịch
bạch huyết, dịch gian bào, dịch não tuỷ, dịch màng phổi, dịch màng tim... tạo nên môi trường trong (nội môi)
của cơ thể. Máu có các chức năng sinh lý quan trọng sau đây:
+ Vận chuyển
- Máu vận chuyển khí O2 từ phổi đến các tế bào của mô và khí CO2 từ các tế bào về phổi để thải ra môi
trường ngoài. Chức năng này còn được gọi là chức năng hô hấp.
- Máu vận chuyển các chất dinh dưỡng: axit amin, glucose, axit béo; các muối khoáng, các loại vitamin
từ ống tiêu hoá tới gan rồi đi nuôi cơ thể. Chức năng này còn được gọi là chức năng dinh dưỡng.
- Máu vận chuyển các sản phẩm cặn bã của quá trình trao đổi chất như ure, axit uric, creatin... từ các mô
đến các cơ quan bài tiết như thận, da, phổi, ruột để thải ra ngoài. Chức năng này còn được gọi là chức năng đào
thải.
+ Điều hoà:
- Điều hoà thân nhiệt: nhờ khả năng co giãn của hệ mạch mà máu đem nhiệt từ các cơ quan tạo nhiệt như
gan, cơ đến những nơi bị mất nhiệt như da làm ổn định nhiệt độ cơ thể.
- Điều hoà thể dịch: máu đem các hormone (thể dịch) từ các tuyến nội tiết đến các cơ quan đề điều hoà hoạt
động.
+ Bảo vệ: Bạch cầu ở trong máu có khả năng:
- Tiêu diệt các vi trùng, vi khuẩn nhờ cơ chế thực bào.
- Tạo kháng thể: tấn công các tác nhân xâm nhập vào cơ thể bằng phản ứng kháng nguyên - kháng thể.
Các phản ứng này có liên quan đến khả năng miễn dịch tự nhiên của cơ thể.
II. THÀNH PHẦN CỦA MÁU
Máu là một loại mô liên kết đặc biệt gồm huyết tương chiếm 55-60% thể tích máu và huyết cầu chiếm 4045%.
1. Huyết tương
Huyết tương là phần dịch lỏng của máu có màu vàng nhạt, gồm chủ yếu là nước: 90-92%, các chất
a. Protit huyết tương
- Trong huyết tương có hơn 100 loại protein khác nhau mà fibrinogen, albumin, globulin chiếm lượng chủ yếu.
+ Fibrinogen: là chất tham gia vào quá trình đông máu: nó bị biến đổi thành fibrin (sợi máu) dưới tác dụng
của thrombin.


+ Albumin: do gan tiết ra, được chuyển đến tế bào và biến thành albumin đặc trưng của mô. Nó tham gia
vào cấu trúc tế bào và đặc trưng cho khả năng sinh trưởng, phát triển của cơ thể.
+ Globulin: có ba loại chủ yếu là α, β, γ trong đó:
- α, β globulin tham gia vào vận chuyển cholesteron, hormone, các photphatit, các axit béo.
- γ globulin có vai trò trong miễn dịch nó rất cần cho sự tạo kháng thể.
b. Gluxit huyết tương (đường huyết)
Trong huyết tương, gluxit có hai dạng đơn giản là glucose và fructose. Trong trạng thái nghỉ, glucose huyết
của người Việt Nam là 90 ± 13mg trong 100ml huyết tương (90 ± 13mg%).
c. Lipit huyết tương
Trong huyết tương, lipit chiếm khoảng 0.5-1%, tồn tại dưới dạng mỡ trung tính và các sản phẩm phân giải
của nó là glyxerin, axit béo. Ngoài ra còn có lipoprotein, cholesteron, photpholipit. Nhờ lipoprotein mà
glyxerin và axit béo được hấp thu từ ống tiêu hoá về gan rồi tới các mô. Từ cholesteron mà các hormone loại
steroit được tổng hợp. Khi vượt quá mức bình thường trong máu, lipit sẽ được biến đổi thành mỡ dự trữ. Khi
quá dư thừa nó tích tụ lại và bám vào các cơ quan như gan, thận, thành mạch máu... cản trở chức năng bình
thường của các cơ quan đó dẫn đến bệnh lý (bệnh xơ vữa thành mạch máu...).
2. Huyết cầu
Đó là thể hữu hình (có hình dạng) của máu, bao gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu

1


a. Hồng cầu
* Thành phần của hồng cầu: chứa nước: 63%, chất
khô: 37%. Trong chất khô chứa 95% (là huyết sắc tố
-hemoglobin (Hb).
+ Chức năng của Hb:
- Vận chuyển khí O2 tư phổi đến các tế bào do
các phân tử Hb dễ dàng kết hợp với O2 tạo thành
oxyhemoglobin theo phản ứng:


Đây là phản ứng thuận nghịch, chiều của phản ứng
do phân áp của O2 quyết định. Cụ thể, ở phổi, phân áp
của O2 cao nên phản ứng diễn ra theo chiều thuận:
HbO2 được tạo thành. Ở mô, phân áp của O 2 thấp, phản
ứng diễn ra theo chiều ngược, HbO2 bị
phân ly thành:
Trong điều kiện bất thường, khả năng vận chuyển O 2 của Hb bị giảm sút gây hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ
khi hít phải khí có nhiều CO (monoxit cacbon) thì HbCO (cacboxyhemoglobin) được tạo thành:
Hb + CO → HbCO
Lực hút của CO với Hb cao gấp 200 lần so với O 2 nên khi Hb đã kết hợp với CO thì không còn khả năng
kết hợp với O2 nữa. Đó là cơ chế ngộ độc khí CO, gây ngạt thở.
- Vận chuyển khí CO2 từ tế bào ra phổi do Hb dễ kết hợp với CO2 để tạo thành HbCO2 (cacbaminohemoglobin)
theo phản ứng:
Đây cũng là phản ứng thuận nghịch, chiều của phản ứng là do phân áp của CO 2 quyết định. Ở mô (tế bào)
chiều của phản ứng là thuận do phân áp của CO 2 cao nên HbCO2 được tạo thành. Còn ở phổi phản ứng xảy ra
theo chiều ngược do phân áp CO2 gồm thấp nên HbCO2 bị phân ly :
- Sự vận chuyển O2, CO2 còn được gọi là chức năng hô hấp của Hb. Ngoài ra Hb còn có chức năng đệm: đi ều
hoà cân bằng axit- bazơ trong máu, chẳng hạn khi axit (như H2CO3) tăng trong máu thì phản ứng đệm sẽ diễn
ra:
HHb là một axit yếu hơn H2CO3 nhờ đó độ axit trong máu giảm xuống, pH của máu trở về trạng thái cân
bằng.
b. Bạch cầu
* Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3 máu): ở người Việt Nam: 4000-9000. Số lượng này có thể thay đổi tuỳ
thuộc vào:
+ Trạng thái sinh lý: bạch cầu tăng khi bị nhiễm khuẩn cấp tính, giảm khi bị nhiễm độc, phóng xạ, suy tuỷ.
+ Trạng thái cơ thể: bạch cầu tăng sau khi ăn, lao động nặng, hoạt động thể thao...,
* Công thức bạch cầu: là tỷ lệ (%) của các loại bạch cầu. Công thức này khác nhau tuỳ thuộc vào tuổi tác,
đặc điểm loài, trạng thái sinh lý của cơ thể. Nó là một chỉ tiêu sinh lý máu rất quan trọng trong chẩn đoán lâm
sàng.
+ Công thức bạch cầu của người Việt Nam:

- Bạch cầu hạt ưa bazơ: 0,5%
- Bạch cầu hạt ưa axit : 9- 11 %
- Bạch cầu hạt trung tính: 66%
- Bạch cầu mono (monocyte): 2-2,5%
2


- Bạch cầu limpho (limphocyte): 20-25%
+ Công thức bạch cầu thay đổi tuỳ theo trạng thái bệnh lý:
- Tỷ lệ bạch cầu hạt trung tính tăng trong những bệnh nhiễm khuẩn cấp, giảm trong các bệnh sởi, cúm,
quai bị, thương hàn, sốt rét, sốt xuất huyết.
- Tỷ lệ bạch cầu hạt ưa axit tăng khi bị dị ứng, hen, ký sinh trùng đường ruột.
- Tỷ lệ bạch cầu hạt ưa bazơ tăng trong các bệnh viêm mãn tính.
- Tỷ lệ bạch cầu limpho tăng trong các bệnh nhiễm khuẩn mãn tính.
* Chức năng của bạch cầu: bảo vệ cơ thể theo cơ chế miễn dịch nhờ 2 khả năng: thực bào và tạo kháng thể.
+ Thực bào các vi khuẩn, vật lạ... xâm nhập vào cơ thể hoặc dọn sạch xác vi khuẩn tại các ổ viêm nhiễm,
vết thương.
- Bạch cầu hạt trung tính: có thể thực bào 5- 20 vi khuẩn, chuyển động theo kiểu amip, xuyên qua thành
mạch máu tới nơi viêm nhiễm, thò chân giả vây quanh vật lạ và tiết enzym phân huỷ vật lạ.
- Bạch cầu hạt ưa axit: khả năng thực bào yếu hơn nhưng dọn sạch các ổ viêm ở giai đoạn cuối. Nó tiết
ra chất precipitin làm kết tủa các protein lạ hay làm mất độc tố do vi khuẩn tiết ra.
- Bạch cầu hạt ưa bazơ: không có khả năng thực bào nhưng lại tiết ra hepHrin vào máu để ngăn cản quá
trình đông máu trong lòng mạch.
- Bạch cầu mono: có khả năng thực bào rất lớn: 100 vi khuẩn, bạch cầu này còn kích thích bạch cầu
limpho tạo kháng thể đặc hiệu để tiêu diệt các tác nhân gây bệnh.
+ Tạo kháng thể: do bạch cầu limpho phụ trách vì chúng sản xuất kháng thể β-globulin và γ- globulin
chống tác nhân gây bệnh. Bạch cầu này có hai loại limpho B:sản xuất β, γ-globulin lưu thông.
- Limpho T; có hai dạng:
Dạng tế bào cứu trợ: giúp limpho B sản xuất kháng thể.
Dạng tế bào loại bỏ: chấm dứt hoặc loại trừ cuộc chiến của cơ thể chống mầm bệnh.

Trong trường hợp bị mắc bệnh AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome) mà tác nhân gây bệnh là HIV
(Human Immune Virus) thì số tế bào loại bỏ vượt quá số tế bào cứu trợ, mặt khác HIV tấn công tế bào cứu trợ
do vậy việc sản xuất các kháng thể bị giảm sút làm suy giảm khả năng miễn dịch và cơ thể dần suy kiệt.
c. Tiểu cầu
Tiểu cầu là thể hữu hình của máu còn được gọi là tiểu thể đông máu nên nó tham gia vào quá trình đông
máu.
+ Giải phóng chất thrombopiastin để gây đông máu.
+ Khi gặp chỗ thô ráp (mạch máu bị đứt) tiểu cầu ngưng lại thành cục góp phần đóng miệng vết thương.
+ Khi bị vỡ, tiểu cầu còn tiết ra chất serotonin gây co mạch để cầm máu.
III. CÁC NHÓM MÁU
1. Hệ thống ABO
a. Phân loại
Năm 1900 Landsteiner và cộng sự đã chứng minh hiện tượng ngưng kết hồng cầu ngay trong cùng một loài
khi trộn máu giữa các cá thể cùng loài. Khi nghiên cứu ông đã phát hiện:
+ Hồng cầu có hai loại kháng nguyên gọi là ngưng kết nguyên (ngưng nguyên) đó là A và B với bản chất là
polysacarit.
+ Trong huyết tương có hai loại kháng thể gọi là ngưng kết tố, đó là (anti A) và β (anti B) với bản chất là γ
-globulin.
+ Hồng cầu chứa kháng nguyên A sẽ bị đông lại khi gặp huyết tương chứa kháng thể α còn hồng cầu chứa
kháng nguyên B sẽ bị ngưng kết khi gặp huyết tương chứa kháng thể β. Trong máu của một người không bao
giờ cùng tồn tại cả A và α hoặc B và β.
Dựa vào sự có mặt các kháng nguyên và các kháng thể, ông đã dùng tên kháng nguyên đặt cho tên nhóm
máu và chia hệ thống máu ABO của người thành 4 nhóm sau:

3


b. Sự truyền máu
Truyền máu là việc làm rất cần thiết để cứu người. Trước kia vì chưa có hiểu biết đầy đủ về các nhóm máu
nên truyền máu đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng dẫn đến tử

vong.
Năm 1900 Landsteiner đã tìm ra nguyên nhân thất bại của sự
truyền máu vì ông đã chứng minh được rằng: máu của những người
khác nhau thì có đặc tính lý hoá học không giống nhau, hồng cầu sẽ bị
đông lại khi máu của người cho không phù hợp với máu người nhận.
Muốn truyền máu người ta phải xem xét:
+ Ngưng kết nguyên A,B của máu người cho.
+ Ngưng kết tố α, β của máu người nhận. Vì truyền máu phải tiến
hành rất từ từ, tốc độ chậm nên ngưng kết tố của máu người cho bị
dòng máu của người nhận làm pha loãng ngay do đó không gây nguy hiểm cho hồng cầu người nhận.
2. Hệ thống máu Rhesus (Rh).
Người ta lấy máu của khỉ Macacus rhesus tiêm vào máu thỏ nhiều lần,
máu thỏ tạo nên một hệ thống miễn dịch đối với hồng cầu của máu khỉ.
Sau đó lấy huyết thanh của máu thỏ trộn với hồng cầu của người thì thấy
đại đa số hồng cầu của người được thử bị ngưng kết. Chứng tỏ hồng cầu
của những người này có chứa kháng nguyên giống kháng nguyên của hồng
cầu khỉ và được gọi là kháng nguyên Rh.
Người có kháng nguyên Rh trên màng hồng cầu được ký hiệu Rh+
(máu người Việt Nam có tỉ lệ Rh+ : 99,93%), người không có Rh được ký
hiệu Rh-. Kháng thể rh (ngưng kết tố kháng Rh) không có sẵn trong máu,
nó được sản xuất ra khi truyền máu của người Rh+ cho người Rh- (Rh- tạo
rh để chống lại Rh+). Tính chất không hoà hợp về Rh dễ gây tai biến khi
truyền máu làm hồng cầu bị tan vỡ.
Trong sản khoa, Nếu đàn ông Rh+ lấy vợ Rh- thì khi có mang, thai nhi
phần lớn là Rh+ do cha truyền cho. Khi có thai lần đầu, hệ tuần hoàn của mẹ và của con được ngăn cách bởi
nhau thai, hoạt động như một màng chắn, không cho hai luồng máu gặp nhau. Khi sinh con lần đầu, nhau thai
bong ra, giải phóng hồng cầu của bé. Hồng cầu này sẽ chuyển sang hệ tuần hoàn của mẹ. Bạch cầu trong máu
của mẹ nhận dạng hồng cầu của trẻ như một vật lạ, cần được loại trừ. Cơ thể của mẹ sẽ sản sinh ra kháng thể ra
để chống lại hồng cầu của con. Khi người mẹ mang thai lần hai, kháng thể ra trong cơ thể mẹ sẽ xuyên qua
nhau thai và phá huỷ hồng cầu của thai nhi đưa tới hiện tượng xảy thai.

IV. HỆ BẠCH HUYẾT
Bạch huyết là một chất dịch trong cơ thể giống như sữa có
chứa các tế bào lympho (các bạch cầu liên quan đến việc chống lại
sự nhiễm trùng), các protein và mỡ. Dịch dư thừa rĩ khỏi dòng
máu được thu dọn lại bởi hệ lympho và đưa trở lại máu qua hai
mạch máu chính đó là ống bạch huyết bên phải và ống ngực, nó
giúp duy trì cân bằng dịch trong cơ thể
Hệ bạch huyết gồm mạng lưới bạch mạch, các mô bạch huyết
và các hạch lympho. Chức năng chủ yếu của nó là lọc bỏ các sinh
vật có thể gây nhiễm trùng, sản xuất các tế bào lympho, và dẫn lưu
dịch và protein từ các mô để tránh phù. Các bạch mạch có các cấu
trúc nhỏ hình bầu dục được gọi là các hạch bạch huyết, phân bố
dọc theo chiều dài của chúng. Hầu hết các hạch này nằm ở cổ,
nách, bẹn và bụng.
Lách, là cơ quan lớn nhất trong hệ bạch huyết, được tìm thấy
trong phần tư trên trái của bụng. Nó sản xuất một vài tế bào bạch
cầu, dự trữ máu, phá hủy các hồng cầu già và đồng thời đưa sắt trở
về dòng máu.
CHƯƠNG II: SINH LÍ TUẦN HOÀN
4


I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Đại cương về hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn gồm tim, các mạch máu: động mạch, mao mạch và tĩnh mạch. Đó là một hệ thống ông kín
trong đó có máu lưu thông và tải các chất dinh dưỡng, khí CO 2 và O2, các hormone tới các tế bào và chuyển
sản phẩm trao đổi chất từ các tế bào đến các cơ quan bài tiết. Nhờ hoạt động của tim mà máu được lưu thông
không ngừng trong mạch, sự lưu thông này lại bảo đảm tính ổn định của môi trường trong.
Năm 1628, W. Harvey đã chứng minh: máu vận chuyển không ngừng theo vòng kín từ tim qua động mạch
đến các cơ quan rồi trở về tim bằng tĩnh mạch. Ở người và động vật bậc cao, máu được vận chuyển theo 2

vòng tuần hoàn:
+ Vòng tuần hoàn lớn: Từ tâm thất trái, máu động mạch (giàu O 2) chảy theo động mạch chủ lên đầu, tới
chi trên, xuống khoang ngực, khoang bụng, chi dưới. Động mạch chủ phân chia thành động mạch vừa, nhỏ và
mao mạch. Sự trao đổi chất giữa máu và tế bào phải qua thành mao mạch: máu nhả O2 cho tế bào, thu nhận khí
CO2 từ tế bào và trở thành máu tĩnh mạch. Máu này tập trung vào các tĩnh mạch nhỏ, vừa và cuối cùng vào
tĩnh mạch chủ trên, chủ dưới về tâm nhĩ phải.
+ Vòng tuần hoàn nhỏ: Xuất phát từ tâm thất phải, máu tĩnh mạch (giàu CO2) theo động mạch phổi tới
hai lá phổi để thực hiện sự trao đổi khí: nhả CO 2 thu nhận khí O2 và trở thành máu động mạch. Máu này theo 4
tĩnh mạch phổi trở về tâm nhĩ trái.
2. Mối quan hệ giữa hệ tuần hoàn với các hệ cơ quan khác
Với da: Thay đổi lưu lượng máu trong các mạch dưới da là rất quan trọng trong điều hoà thân nhiệt.
Với hệ xương: Xương kiểm soát hàm lượng can xi trong máu.
Với hệ cơ: Lượng máu tăng khi co cơ sẽ nhả O 2, chất dinh dưỡng cho tế bào và chuyển chất thải cùng CO 2
ra khỏi tế bào. Hoạt động của cơ giúp cho máu được lưu thông trong mạch.
Với hệ thần kinh: Hoạt động của não bộ phụ thuộc chủ yếu vào lượng máu đưa lên đầu. Hệ thần kinh có
vai trò kiểm soát lưu lượng máu và huyết áp.
Với hệ nội tiết: Các hormone của các tuyến nội tiết đều được dòng máu chuyên chở tới các cơ quan đích.
Ngược lại sự hoạt động của tim và mạch máu là do ảnh hưởng trực tiếp của nhiều hormone.
Với hệ tiêu hoá: các chất dinh dưỡng được hệ tiêu hoá phân huỷ thành những chất đơn giản để dòng máu
có thể hấp thu.
Với hệ hô hấp: Hệ hô hấp nhận O2 vào dòng máu và đẩy CO2 ra khỏi mạch máu.
Với hệ tiết niệu: Thận lọc máu tạo thành nước tiểu để thải ta ngoài tức là làm sạch máu, giữ cho huy ết áp
của máu và thành phần nội môi ổn định.
Với hệ sinh dục: Huyết áp có vai trò quan trọng trong việc
giữ chức năng bình thường của các cơ quan sinh dục.
II. SINH LÝ TIM
1. Sinh lý cơ tim
a. Tính hưng phấn của cơ tim
Tính hưng phấn là khả năng đáp ứng của cơ tim đối với
các kích thích. Cơ tim co bóp theo quy luật Ranvier "tất cả

hoặc không có gì" - "hoặc tất hoặc không".
+ Nếu kích thích với cường độ dưới ngưỡng (thấp) thì
cơ tim không co (không đáp ứng).
+ Nếu kích thích có cường độ đạt ngưỡng hoặc trên
ngưỡng thì cơ tim co lại và co ở mức tối đa nhất. Sau đó có
tăng ngưỡng kích thích lên nữa thì sức co tim vẫn không thay
đổi. Điều này được lý giải như sau: cơ tim có cấu tạo như một
hợp bào, các sợi cơ tim nối với nhau bằng chất nguyên sinh.
Khi kích thích có cường độ đạt ngưỡng trở lên tác động thì
kích thích được lan truyền tới toàn bộ các sợi cơ tim làm
chúng cùng một lúc co lại.
b. Tính tự động của tim
Đó là khả năng bóp nhịp nhàng của cơ tim. Nếu tách rời
tim khỏi cơ thể, giữ trong điều kiện thích hợp: độ pH, nhiệt độ các chất đinh dưỡng, khí O 2 thì tim có khả năng
5


co bóp trong một thời gian nhất định. Khả năng này được gọi là tính tự động của cơ tim. Có được khả năng này
là nhờ trong tim tồn tại một hệ thống dẫn truyền đặc biệt gồm các nút (hạch) sau đây :
+ Nút xoang nhĩ (hạch Kett -Flack) nằm ở nơi tĩnh mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ phải. Nó gồm một số
sợi cơ nhỏ, các nhánh tận cùng của dây thần kinh phế vị (đôi Xi và nhánh thần kinh giao cảm. Từ nút này tự
phát sinh ra những nhịp gây co cơ tim nên nó còn được gọi là nút tạo nhịp tim. Nút này có 2 nhánh
dẫn nhịp co tới 2 tâm nhĩ và một nhánh đến một nút khác.
+ Nứt nhĩ thất (hạch Aschoff-Tawara): nằm ở ngay trên lỗ nhĩ thất phải, nó hoạt động như một trạm thu
phát: nhận lệnh co cơ từ nút xoang nhĩ rồi truyền lệnh xuống hai tâm thất qua bó Hiss.
+ Bó Hiss: đi từ hạch Aschoff-Tawara tới vách liên thất thì chia đôi dọc theo hai bên của vách này xuống
dưới và chia nhiều nhánh nhỏ tạo nên mạng Pourkinger xâm nhập vào cơ ở thành tâm thất.
c. Tính trơ của tim
Đó là tính không đáp ứng đối với kích thích của cơ tim.
+ Nếu kích thích vào giai đoạn cơ tim đang co (đang hưng phấn) thì dù kích thích có mạnh trên ngưỡng

cơ tim cũng không co thêm nữa. Đó là giai đoạn trơ tuyệt đối của cơ tim. Nhờ có giai đoạn này cơ tim không
có hiện tượng co cứng như cơ vân. Nguyên nhân là do tim vừa nhận được nhịp co truyền từ nút xoang nhĩ tới
và đang co mà phải nhận thêm một kích thích khác (điện cảm ứng) thì cơ tim không thể đáp ứng được.
+ Nếu kích thích vào giai đoạn tim đang giãn, cơ tim sẽ đáp ứng lại bằng một lần co phụ gọi là co tim
ngoài hay ngoại tâm thu. Sau lần co này cơ tim nghỉ với thời gian kéo dài hơn gọi là thời gian nghỉ bù. Đó là
giai đoạn trơ tương đối của cơ tim. Nguyên nhân nghỉ bù là do nhịp co tim phát đi từ nút xoang nhĩ rơi đúng
vào pha trơ tuyệt đối của lần co phụ nên nhịp co bình thường không có nữa mà phải chờ đến nhịp co bóp tiếp
theo. Nhờ đó tim làm việc bền bỉ, dài lâu.

2. Chu kỳ tim
Tim co giãn theo từng giai đoạn nhịp nhàng đều đặn và lặp đi lặp lại gọi là chu kỳ hoạt động của tim (chu
chuyển tim). Mỗi lần tim co lại để đẩy máu đi và giãn ra để hút máu về được gọi là chu kỳ tim. Sự co tim để
đẩy máu đi được gọi là tâm thu, thời gian co tim được gọi là thì tâm thu, sự giãn tim để hút máu v ề được gọi là
tâm trương, thời gian giãn tim được gọi là thì tâm trương.
Một chu kỳ tim kéo dài 0.8s và chia làm 3 giai đoạn (fa):
+ Giai đoạn tâm nhĩ co (nhĩ thu): kéo dài 0,ls; 2 tâm nhĩ cùng co lại, hệ thống van như thất mở ra, máu từ
tâm nhĩ chảy xuống tâm thất. Lúc này tâm thất đang ở trạng thái giãn.
+ Giai đoạn tâm thất co (thất thu): kéo dài 0,3s; hai tâm thất cùng co, hệ thống van nhĩ thất đóng lại do áp
lực mạnh, áp lực của máu tiếp tục tăng cao bắt buộc các van tổ chim mở ra, máu được dồn vào lòng các động
mạch. Lúc này tâm nhĩ đang ở trạng thái giãn.
+ Giai đoạn nghỉ chung (tâm trương toàn bộ): kéo dài 0,4s ; 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất đều giãn ra (nhĩ giãn
trước). Khi đó trong hai tâm nhĩ đã chứa đầy máu (được dồn từ các tĩnh mạch về) để chuẩn bị cho một chu kỳ
tim tiếp theo. Áp suất máu trong tâm thất giảm nhanh xuống và thấp hơn so với trong các động mạch do đó hệ
thống van tổ chim đóng lại không cho máu chảy trở lại tâm thất. Phân tích một chu kỳ tim kéo dài 0,8s thì tâm
nhĩ co 0,ls; nghỉ 0,7; tâm thất co 0,3s và nghỉ 0,5s; nghĩa là thời gian nghỉ nhiều hơn thời gian làm việc.
Tiếng tim: trong mỗi chu kỳ thường có 2 tiếng tim:
+ Tiếng thứ nhất nghe trầm và dài, ứng với giai đoạn thất thu, do hệ thống van nhĩ thất rung lên khi đóng
lại và do sự co bóp của tâm thất.
+ Tiếng thứ hai nghe thanh và ngắn, ứng với giai đoạn tâm trương toàn bộ, ao các van bán nguyệt rung
lên khi đóng lại. Khi có bệnh ở các van tim, tiếng tim sẽ thay đổi.

5. Điều hoà hoạt động của tim
Hoạt động của tim được điều hoà bằng 2 cơ chế thần kinh và thể dịch.
a. Điều hoà bằng thần kinh
6


* Các xung động điều hoà nhịp tim chạy trên 2 loại dây thần kinh thuộc hệ thần kinh thực vật đó là dây phó
giao cảm và dây giao cảm.
+ Dây phó giao cảm là một nhánh của đôi X (dây thần kinh phế vị) với trung khu nằm ở hành tuỷ, từ
trung khu này xuất phát đi các sợi trước hạch tới các hạch phó giao cảm (ở ngay gần tim), từ hạch này có các
sợi sau hạch chạy tới nút xoang như và nút nhĩ thất.
Năm 1845, Weber đã chứng minh được rằng nếu dùng dòng điện kích thích dây phế vị thì làm ức chế sự
hoạt động của tim: giảm nhịp tim, lực co yếu, giảm tính hưng phấn.
+ Nhánh giao cảm: từ sừng bên của các đất tuỷ N1-N3 phát đi các sợi trước tới hạch sao (một hạch trong
chuỗi hạch giao cảm nằm ở 2 bên tuỷ sống). Từ hạch sao có các sợi sau hạch chạy tới nút xoang nhĩ, nút nhĩ
thất và bó Hiss. Pavlov cũng đã chứng minh: kích thích nhánh giao cảm đến tim thì làm tăng tần số, lực co bóp
và tính dẫn truyền hưng phấn của tim.
+ Khi bị kích thích, các đầu mút tận cùng của nhánh phó giao cảm tiết ra acetylcholin, của nhánh giao cảm
tiết ra adrenalin và noradrenalin, đó là những chất hoá học trung gian dẫn truyền hưng phấn. Acetylcholin rất
nhanh chóng bị phân huỷ còn adrenalin tồn tại lâu hơn do đó tác dụng của nhánh giao cảm đến tim được kéo
dài hơn.
* Các phản xạ cũng có tác dụng điều hoà hoạt động của tim:
+ Phản xạ giảm áp:
- Huyết áp tăng sẽ kích thích lên cơ quan thụ cảm áp lực nằm ở cung động mạch chủ làm phát sinh
xung động truyền theo nhánh Cyon (một nhánh hướng tâm của dây phế vị) (đôi X) về trung khu ức chế hoạt
động của tim nằm ở hành tuỷ.
- Huyết áp tăng còn kích thích cơ quan thụ cảm áp lực nằm ở gốc của động mạch cổ (cảnh) làm phát
sinh xung động truyền theo nhánh Hering một nhánh hướng tâm của dây lưỡi hầu (đôi IX) cùng về trung khu
ức chế. Từ trung khu này có xung động ly tâm theo nhánh phó giao cảm tới tim làm tim đập chậm lại, huyết áp
giảm xuống.

- Phản xạ Goltz (phản xạ ruột-tim): đánh mạnh vào vùng bụng làm phát sinh xung động theo dây thần
kinh tạng về trung khu ức chế của dây X ở hành tuỷ cũng làm tim đập chậm lại.
Phản xạ Asone - Dainini (phản xạ mắt - tim): ép mạnh vào 2 cầu mắt làm phát sinh xung động theo nhánh
hướng tâm của dây V về tới hành tuỷ và xung động ly tâm theo nhánh phó giao cảm tới tim làm giảm nhịp co,
hạ huyết áp.
+ Phản xạ tăng áp:
- Phản xạ Bainbridge (phản xạ tim-tim): khi chuẩn bị đổ vào tâm nhĩ phải, áp ực máu ở gốc của tĩnh mạch
chủ trên và chủ dưới tác động vào áp thụ quan làm phát sinh xung động đến trung khu giao cảm nằm ở sừng
bên của các đất tuỷ N1-N3. Nhánh giao cảm làm tâm thất tăng cường co bóp đẩy máu vào các động mạch (tức
là tăng huyết áp động mạch) để giải quyết sự ứ máu ở tĩnh mạch chủ và tâm nhĩ phải.
Khi cơ thể hoạt động, O2 trong máu giảm, CO2 tăng lên cũng kích thích cho tim đập nhanh lên và làm tăng
huyết áp.
III. SINH LÍ MẠCH MÁU
1. Tuần hoàn máu trong động mạch
Cơ tim co bóp một cách nhịp nhàng tạo nên lực đẩy máu chảy vào trong động mạch. Khi chảy, máu có sức
ép tác động lên thành động mạch, sức ép này được gọi là huyết áp. Thành động mạch cũng có sức ép ngược trở
lại (lực cản máu) gọi là thành áp. Trong hệ mạch, máu chịu sự tác động của hai lực đối lập nhau: lực đẩy máu
của tim và lực cản máu của thành mạch. Tuy nhiên lực đẩy máu của tim đã thắng nên máu chảy trong hệ mạch
với một huyết áp nhất định và tốc độ nhất định.
Huyết áp (đơn vị tính: mmHg) có các dạng sau:
+ Huyết áp tối đa (huyết áp tâm thu): được tạo nên do tim co bóp, ở người Việt Nam là 90-140 mmHg.
+ Huyết áp tối thiểu (huyết áp tâm trương) : được tạo nên do tim giãn ra (nó biểu hiện sức cản của động
mạch), đo được 50-90.
+ Huyết áp hiệu số: là độ chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu (nó biểu hiện phần nào sự
hoạt động của tim) có trị số khoảng 40mmHg.
+ Huyết áp trung bình là trị số không dao động của huyết áp (Khoảng 80-85mmHg).

7



Huy
ết áp ở
động
mạch
thì cao
còn ở
các
mao
mạch
và tĩnh
mạch
thì thấp,
động
mạch
chủ:
120
-140,
động
mạch
lớn:
110-120, động mạch nhỏ: 40- 60, mao mạch: 20-40, tĩnh mạch lớn: 10-15. Nhờ sự chênh lệch huy ết áp này mà
máu chảy liên tục từ tim ra động mạch tới mao mạch qua tĩnh mạch rồi về tim. Trước khi máu dồn về tâm nhĩ
phải, huyết áp ở tĩnh mạch chủ dưới chỉ bằng không nên hiệu số Pđm-Ptm càng lớn.
Huyết áp phụ thuộc và các yếu tố sau:
+ Lứa tuổi: huyết áp tối đa ở trẻ sơ sinh: 40, trẻ một tháng tuổi: 80, trẻ 15 tuổi
đến người 50 tuổi: 100-120. Tuổi càng cao huyết áp càng có chiều hướng tăng lên.
+ Trạng thái: khi lao động, lúc luyện tập thể tha0, huyết áp tâm thu tăng tới 200
hoặc hơn nhưng huyết áp tối thiểu ít thay đổi.
+ Thần kinh: bị kích động, cảm xúc mạnh...đều làm tăng huyết áp. Khi huyết áp động mạch tăng thì sự
cung cấp máu cho các cơ quan cũng được tăng cường.

2. Tuần hoàn máu trong mao mạch
Mao mạch dẫn máu từ động mạch nhỏ sang tĩnh mạch
bé nghĩa là trong một mao mạch, dòng máu được
chảy từ tiểu động mạch sang tiểu tĩnh mạch. Thành của
mao mạch chỉ có một lớp tế bào rất mỏng, màng của các tế
bào này có nhiều lỗ màng, qua đó nước và các chất hoà tan
đi từ mao mạch tới dịch mô vào tế bào do huyết áp thuỷ
tĩnh của tiểu động mạch cao: Ptt=35mmHg. Huyết áp này ở
tiểu tĩnh mạch giảm xuống còn 10mmHg làm cho nước từ
dịch mô trở lại về mao mạch, trong nước chứa sản phẩm
của quá trình trao đổi chất.
Nghĩa là trong điều kiện bình thường có bao nhiêu lượng nước đi từ mao mạch tới dịch mô thì cũng có bấy
nhiêu lượng nước đi từ dịch mô trở lại mao mạch. Tuy nhiên trong hai dòng nước chảy theo hai hướng ngược
chiều nhau ấy có mang theo các chất khác nhau tạo nên sự trao đổi chất.
Protein trong huyết tương của mao mạch tạo nên áp suất keo (Pk) và khoảng 25mmHg, áp suất này có xu
thế giữ nước, protein và các chất có kích thước lớn hơn lỗ màng ở lại trong mao mạch.
Trong cơ thể người, số lượng mao mạch rất lớn khoảng 160 tỷ với tổng thiết diện cũng rất lớn nên tốc độ
máu chảy trong mao mạch lại rất chậm, 0,3- 0,5 mm/s; điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi chất
giữa máu và tế bào. Số lượng, kích thước của các mao mạch trong các cơ quan khác nhau tuỳ theo mức độ trao
đổi chất của từng cơ quan. Ví dụ: số mao mạch/mm2 cơ tim nhiều gấp 2 lần so với cơ vân. Không phải tất cả
các mao mạch lúc nào cũng có máu chảy qua. Ví dụ trong 1mm2 cơ vân có khoảng 3000 mao mạch, lúc nghỉ
ngơi chỉ 30-300 mao mạch là có máu chảy qua, lúc cơ hoạt động thì số này tăng lên 2500.
4. Tuần hoàn máu trong tĩnh mạch
So với động mạch, tĩnh mạch có số lượng nhiều hơn, thành mỏng hơn, có nhiều xoang chứa máu, tiết diện
rộng hơn nên tốc độ máu chảy trong tĩnh mạch tương đối chậm. Máu chảy trong tĩnh mạch về được đến tim là
do các nguyên nhân sau:
+ Sức đẩy của cơ tim: sức đẩy này gây ra huyết áp để dồn máu vào lòng mạch. Huyết áp này giảm dần từ


động mạch

mao mạch tĩnh mạch. Ra khỏi mao mạch, huyết áp chỉ còn 15-30mmHg nhưng vẫn cao hơn
các đoạn tiếp theo và cao hơn tâm nhĩ.
+ Lực hút của tim: khi tim giãn, huyết áp trong tâm thất giảm xuống thấp tạo nên lực hút từ nhĩ xuống
thất (máu chảy từ nhĩ xuống thất), từ tĩnh mạch vào tâm nhĩ (máu chảy từ tĩnh mạch vào tâm nhĩ).
8


+ Sức hút của lồng ngực: khi hít khí vào, lồng ngực được giãn rộng ra, huyết áp tĩnh mạch khi đó giảm
xuống thấp (0mmHg) tạo điều kiện cho máu được chảy qua tĩnh mạch về tim.
+ Sự co bóp của các cơ bắp: lực hút của trái đất làm cho máu khó chảy ngược theo phương pháp thẳng
đứng. Trong lòng các tĩnh mạch ở tay, thân và chi dưới có nhiều van bán nguyệt làm nhiệm vụ giữ máu lại. Khi
các cơ bắp ở quanh các tĩnh mạch đó co lại sẽ ép lên các van đó làm cho máu được đẩy lên các đoạn tĩnh mạch
phía trên theo hướng về tim.
4. Sự điều hoà vận mạch
a. Điều hoà bằng thần kinh
* Điều hoà bằng dây thần kinh: Trung tâm vận mạch nằm ở phần mái (sau) của hành tuỷ gồm trung khu co
mạch và trung khu giãn mạch. Bình thường trung khu co mạch ở trạng thái hưng phấn nhẹ giữ cho mạch máu
có thể co hoặc giãn dưới ảnh hưởng của các xung động do các dây thần kinh vận mạch chuyển đ ến. Các dây
này gồm:
+ Dây thần kinh co mạch: thuộc hệ thần kinh giao cảm, nó.chịu sự
điều khiển của trung khu co mạch ở hành tuỷ và trung khu giao cảm ở sừng
bên của tuỷ sống. Khi cắt dây giao cảm thì các mạch máu do dây này chi
phối mới bị giãn ra.
Thí nghiệm của Claude- Bemard (1851): cắt dây giao cảm ở một bên
cơ thể, lập tức mạch máu tai
thỏ ở bên đó giãn ra, máu dồn về nhiều làm tai thỏ nóng và đỏ lên. Khi
kích thích đầu ngoại vi của dây bị cắt ấy thì mạch máu co lại và tai thỏ
nhợt đi.
+ Dây thần kinh giãn mạch: thuộc hệ phó giao cảm và cả hệ giao
cảm.

- Dây giãn mạch thuộc hệ phó giao cảm làm giãn mạch ở khoang
ngực, khoang bụng.
- Dây giãn mạch thuộc hệ giao cảm làm giãn mạch hệ cơ vân (cơ
bắp).
* Điều hoà bằng phản xạ:
+ Các phản xạ giảm nhịp tim thường có tác dụng làm giảm mạch: khi huyết áp tăng ở quai động mạch
chủ sẽ làm xuất hiện xung động về hành tuỷ gây ức chế trung khu co mạch, hưng phấn trung khu giãn mạch
nên nhịp tim giảm xuống và giãn mạch ở các nội quan. Huyết áp tăng ở xoang động mạch cảnh cũng làm giảm
nhịp tim và giãn mạch ở thận. Nếu kích thích lạnh ngoài da gây ra phản xạ co tiểu động mạch và mao mạch da,
khích thích đau đớn gây phản xạ co các mạch máu cơ quan khoang bụng.
+ Các phản xạ tăng nhịp tim thường đi kèm với sự co mạch: khi huyết áp giảm, các thụ quan về áp lực ở
quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh sẽ ít bị kích thích hơn lúc bình thường làm tim tăng nhịp và
mạch máu co lại.
b. Điều hoà bằng thể dịch
Sự vận mạch được điều hoà bởi các chất có trong máu và bao gồm:
+ Các chất làm co mạch:
- Adrenalin: do tuỷ tuyến thượng thận tiết ra, làm co tiểu động mạch vừa, tiểu động mạch của da, phổi,
cơ bắp, nội quan.
- Vasopresin (ADH) do vùng dưới đồi tiết ra, làm co tiểu động mạch, mao mạch và tăng huyết áp.
- Renin: do thận tiết ra, gây co mạch và tăng huyết áp toàn thân.
- Serotonin: được tạo nên khi tiểu cầu bị vỡ, làm co mạch nơi bị đứt ngăn máu chảy qua vết thương.
- Ngoài ra còn có chất nicotin làm co tĩnh mạch, nồng độ CO 2 tăng trong máu cũng gây co mạch, khi
trời lạnh cũng làm các tĩnh mạch ngoại vi co lại.
+ Các chất làm giãn mạch:
- Acetylcholin: do đầu mút của các sợi thần kinh phó giao cảm tiết ra, làm giãn mạch cục bộ tại nơi tiết
ra.
- Histamin: được dạ dày, ruột tiết ra, làm giãn tiểu động mạch và mao mạch.
- Cocain, cafein làm giãn các tĩnh mạch riêng amyl nitrit làm giãn các động mạch nhỏ nên thường được
dùng trong điều trị co thắt động mạch vành tim.
9



- Ngoài ra, nồng độ O2 giảm trong máu làm giãn các tĩnh mạch ngoại vi.

10


CHƯƠNG III: SINH LÍ HÔ HẤP
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Ý nghĩa sinh học của hô hấp
Hệ hô hấp của động vật bậc cao gồm 2 phần: đường dẫn khí và nơi trao đổi khí. Đường dẫn khí có khoang
mũi, hầu, thành quản, khí quản và phế quản còn nơi trao đổi khí là phổi.
Hô hấp là quá trình trao đổi khí không ngừng giữa cơ thể động vật với môi trường bên ngoài vì động vật
luôn cần lấy O2 và luôn cần thải CO 2. Nhờ lấy được O 2 qua hô hấp mà trong cơ thể động vật quá trình oxy hoá
các chất dinh dưỡng luôn được diễn ra để tạo nên năng lượng và nhiệt độ cho cơ thể sử dụng. Một trong những
sản phẩm của sự oxy hoá là CO 2 loại khí độc hại mà cơ thể phải thải qua hô hấp ra môi trường ngoài. Vì vậy,
hô hấp là một nhu cầu không thể thiếu được của động vật, sự gián đoạn về hô hấp trực tiếp gây ảnh hưởng xấu
đến chức năng của tế bào. Ví dụ: sau khi thiếu O2 vài phút, tế bào thần kinh hoạt động không bình thường.
Hô Hấp thực chất gồm hai quá trình phức tạp:
+ Hô hấp ngoài: là quá trình đưa O2 qua cơ quan hô hấp vào máu và thải CO 2 từ máu ra môi trường
ngoài. Sự vận chuyển các chất khí trong hô hấp ngoài là do máu đảm nhận.
+ Hô hấp trong: là quá trình oxy hoá các hợp chất hữu cơ trong tế bào để giải phóng năng lượng và tạo ta
CO2. Hô hấp trong là quá trình sinh hóa diễn ra ở mức độ tế bào (nên chương này không đề cập đến).
2. Mối quan hệ giữa hệ hô hấp với các hệ cơ quan khác
Với da: Kích thích các cơ quan thụ cảm ở da có thể làm thay đổi tần số hô hấp.
Với hệ xương: Các xương sườn, xương ức, các đất sống ngực gắn với các cơ hô hấp sẽ tham gia vào các cử
động hô hấp.
Với hệ cơ: Hệ hô hấp thải khí CO2 mà chất khí này được tạo ra từ co cơ.
Với hệ thần kinh: Não bộ kiểm soát sự hoạt động của hệ hô hấp còn hệ hô hấp lại giúp kiểm tra độ pH của
môi trường trong.

Với hệ nội tiết: Hormone được coi là những chất kiểm soát sự sản xuất hồng cầu mà hồng cầu lại vận
chuyển khí O2 và CO2.
Với hệ tiêu hoá: Hệ hô hấp và hệ tiêu hoá cùng được mở thông ra ngoài và cùng bài xuất chất thải.
Với hệ tiết niệu: Thận và phổi cùng phối hợp hoạt động để duy từ độ pH của máu. Thận có thể bù lại lượng
nước đã bị mất qua sự thở ra.
Với hệ sinh dục: Tần số hô hấp được tăng cường trong quá trình hoạt động sinh dục.
II. HÔ HẤP NGOÀI
Hô hấp ngoài bao gồm quá trình cơ học lấy O2 vào phế nang gọi là sự hít vào và đẩy CO2 ra khỏi phổi gọi
là sự thở ra. Hít vào và thở ra là hai quá trình diễn ra có chu kỳ và liên tục vì mao mạch phổi bao quanh ph ế
nang luôn thu nhận CO2 từ phế nang và thải CO2 trở ra phế nang.

11


1. Cơ chế hô hấp
Cơ chế hô hấp được thực hiện nhờ cột sống, lồng ngực và các cơ hô hấp: cơ hoành, các cơ ngực, các cơ
liên sườn, các cơ thành bụng.
Như đã học ở phần giải phẫu: các xương sườn được khớp với đoạn ngực ở phía sau và với xương ức ở phía
trước tạo thành lồng ngực. Trong động tác hô hấp: chỏm sườn được quay trong ổ khớp với các đốt sống ngực,
IV. SỰ TRAO ĐỔI KHÍ Ở PHỔI VÀ Ở MÔ.
1. Trao đổi khí ở phổi.
Thành phần của không khí liên quan đến hô hấp bao gồm: O2, CO2, Nitơ và các khí khác. Các thành phần
này có tỷ tệ khác nhau ở trong khí hít vào khí thở ra và khí phế nang:

Khí hít vào tương đương với khí trời. Khí phế nang khác với khí hít vào vì tỷ lệ O2 thấp hơn, CO2 nhiều
hơn và bão hoà hơi nước. Áp suất khí trời là 760mmHg, phân áp hơi nước trong phế nang là 47mmHg, do vậy
phân áp hỗn hợp khí trong phế nanglà: 760-47=713mmHg. Từ đó tính ra phân áp của riêng từng loại khí trong
phế nang là:

Áp dụng công thức trên người ta cũng tính được phân

áp của từng loại khí trong máu tĩnh mạch đến phổi (máu ở
mao mạch bao quanh phế nang):
Sự chênh lệch Po2 giữa phế nang và máu tĩnh mạch đến phổi
là: 102- 40=62mmHg, còn sự chênh lệch Pco 2 giữa máu tĩnh
mạch đến phổi và phế nang là 46-40=6mmHg.
Theo định luật khí động học, ở phổi:
- O2 khuếch tán từ phế nang qua màng phế nang, thành
mao mạch phổi vào máu (hồng cầu). Trên thực tế chỉ cần chênh
lệch Po2=35mmHg là đủ để mỗi phút có 6,7ml khí O 2 khuếch tán
qua mỗi cm2 của tế bào phế nang.
- CO2 khuếch tán từ máu qua thành mao mạch phổi, thành
phế nang ra phế nang. Trên thực tế chỉ cần sự chênh lệch Pco 2 =
0,03mmHg là cũng đủ để mỗi phút có 256 ml khí CO2 khuếch tán qua mỗi cm2 tế bào phế nang vì khuếch tán
của CO2 nhanh gấp 25-36 lần so với O2
Bề mặt tiếp xúc của mao mạch và phế nang rất lớn nên thời gian máu chảy qua mao mạch phổi là đủ để O 2
và CO2 khuếch tán cho đến khi đạt cân bằng phân áp giữa phế nang và máu.
2. Sự trao đổi khí ở mô
Đó là sự trao đổi khí O2 và CO2 giữa máu động mạch tới mô và tế bào chất của mô. Áp dụng công thức trên
người ta cũng tính được phân áp riêng của từng loại khí ở mô.

12


Bảng trên cho thấy phân áp của khí O2 và CO2 ở trong máu động mạch tới mô và trong nguyên sinh chất
của tế bào sự chênh lệch lớn. Do đó ở mô:
- O2 từ mao mạch mô khuếch tán qua lỗ màng mao mạch
vào dịch gian bào rồi qua màng tế bào tới nguyên sinh chất để tham
gia vào qua trình oxy hoá các chất hữu cơ
(chính là quá trình hô hấp trong).
- CO2: sản phẩm được tạo thành từ quá trình oxy hoá, do có

phân áp cao trong nguyên sinh chất đã khuếch tán từ tế bào qua,lỗ
màng ra dịch gian bào qua thành mao mạch mô vào máu làm máu
này trở thành máu tĩnh mạch.
2. Cơ chế điều hoà hô hấp
a. Cơ chế điều hoà bằng thần kinh (bằng phản xạ)
Khi hít vào, do phổi căng phồng đã kích thích các đầu mút thần kinh cảm giác trong phổi làm phát sinh
xung động theo nhánh hướng tâm của dây X (dây phế vị) về trung khu thở ra ở hành tuỷ. Từ đó sẽ có các xung
động ly tâm xuống tuỷ sống tới các cơ thở ra làm các cơ đó giãn ra.
Khi thở ra, lồng ngực bị ép lại, phổi xẹp xuống cũng kích thích lên các cơ quan thụ cảm ở lồng ngực, ở
phổi làm phát sinh xung động hướng tâm truyền lên trung khu hít vào ở hành tuỷ. Từ đó lại có các xung động
ly tâm xuống tuỷ sống tới các cơ hít vào làm các cơ đó co lại. Do đó có thể nói rằng: sự hít vào đi ều hoà phản
xạ thở ra và sự thở ra điều hoà phản xạ hít vào. Trong nhưng trường hợp cần thiết (lao động, thể dục thể thao.),
vỏ bán cầu đại não sẽ làm thay đổi tần số thở (nhịp thở) và độ sâu hô hấp.
b. Cơ chế điều hoà bằng thể dịch
+ Ảnh hưởng của nồng độ CO 2: vai trò CO2 đối với hô hấp được
chứng minh trong thí nghiệm tuần hoàn chéo của Frederic trên đối tượng
chó thí nghiệm: nối hai động mạch cổ của chó A và chó B với nhau sao
cho đầu chó A được nuôi bằng máu của thân chó B và ngược lại. Nếu kẹp
khí quản của chó A lại để ngăn cản sự trao đổi khí thì nồng độ CO 2 trong
máu chó A tăng lên, máu này theo tuần hoàn chéo sang đầu chó B, kích
thích trung khu hô hấp của chó B làm chó B thở nhanh hơn và sâu hơn.
Vai trò của nồng độ CO2 đối với hô hấp còn được chứng minh bằng
"tiếng khóc chào đời" của đứa trẻ lọt lòng mẹ. Chứng tỏ nồng độ CO 2 cao trong máu làm tăng cường hoạt động
hô hấp.
+ Ảnh hưởng của nồng độ O 2: nếu nồng độ O2 trong máu đến não giảm cũng kích thích trung khu hô hấp
và làm tăng nhịp hô hấp.
+ Ảnh hưởng của nồng độ H+: sự tăng nồng độ H+ trong máu cũng kích thích các tế bào của trung khu hô
hấp tăng cường hoạt động. Việc tiêm dung dịch H2CO2 hoặc axit khác vào động mạch lên não cũng làm tăng
cử động hô hấp. Tuy nhiên cùng một nồng độ H + thì H2CO2 kích thích trung khu hô hấp mạnh hơn so với các
axit khác.


13


CHƯƠNG III: SINH LÍ TIÊU HÓA
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Ý nghĩa sinh học
Tiêu hoá là một quá trình biến đổi phức tạp thức ăn từ những chất khó tiêu thành những chất đơn giản, hoà
tan và hấp thụ được. Thức ăn gồm những phần tử lớn, cấu tạo phức tạp nên cơ thể không sử dụng ngay được
mà phải trải qua các quá trình biến đổi lý học, hoá học và sinh học trong ống tiêu hoá. Mặt khác thức ăn tự
nhiên có nguồn gốc động vật hay thực vật vốn mang tính đặc trưng của loài, nhất là thức ăn protein. Nếu đưa
nguyên vẹn vào cơ thể không qua con đường tiêu hoá sẽ gây phản ứng chống lại do tính chất bất đồng sinh
học. Ví dụ nước mắm là nước chấm hàng ngày nhưng nếu đem tiêm thẳng vào tĩnh mạch sẽ gây choáng và có
thể tử vong. Sự tiêu hoá được thực hiện nhờ các hoạt động sau:
+ Hoạt động cơ học: chủ yếu là do sự co bóp của các cơ ở ống tiêu hoá với các dạng :
- Nhào trộn, nghiền nát thức ăn thành những phần nhỏ để tăng diện tích tiếp xúc giữa thức ăn với dịch
tiêu hoá.
- Vận chuyển thức ăn theo chiều dài của ông tiêu hoá.
+ Hoạt động hoá học: được thực hiện chủ yếu nhờ các enzym của các tuyến tiêu hoá. Thực chất của hoạt
động này là sự phân huỷ thức ăn với xúc tác của các loại enzym có trong dịch tiêu hoá dưới sự chi phối của
thần kinh và thể dịch.
+ Hoạt động hấp thu: vận chuyển các sản phẩm tiêu hoá như axit amin, glucose, axit béo, vitamin.. từ
niêm mạc ruột non vào mạch máu và mạch bạch huyết.
2. Tiêu hoá hoá học
Sự tiêu hoá này được thực hiện nhờ các enzym có trong nước bọt của tuyến nước bọt. Ở người, các tuyến
nước bọt gồm 2 tuyến mang tai, 2 tuyến dưới hàm và 2 tuyến dưới lưỡi.
Enzym có amilase và maltase:
Amilase xúc tác cho sự phân giải tinh bột chín thành dextrin và biến dextrin thành đường maltoze:
Maltase xúc tác cho sự biến đổi maltoze thành đường đơn glucose:


III. TIÊU HÓA Ở DẠ DÀY
Dạ dày chứa đựng và tiêu hoá thức ăn với thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc vào bản chất và trạng thái thức
ăn. Đại đa số động vật bậc cao có dạ dày đơn, một số động vật có dạ dày nhi ều ngăn (động vật nhai lại) nên sự
tiêu hoá thức ăn ở các dạ dày có khác nhau.
1. Tiêu hoá ở dạ dày đơn
Ở dạ dày này, do sự co bóp của các tầng cơ trơn ở thành dạ dày mà thức ăn được nhào trộn để ngấm dịch
vị, do tác dụng hoá học của dịch vị mà thức ăn được phân huỷ.
a. Tiêu hoá cơ học
Mỗi vùng của dạ dày có những hoạt động cơ học khác nhau:
+ Hoạt động của vùng tâm vị: tâm vị là chỗ thông giữa thực quản với dạ dày. Tâm vị có van đóng mở,
van này được tạo bởi sự dày lên của tầng cơ vòng và sự đội lên của lớp niêm mạc. Khi xuống đến cuối thực
quản, thức ăn kích thích gây phản xạ mở tâm vị, qua đó thức ăn bị dồn ép xuống dạ dày. Khi có thức ăn, độ
axit của dạ dày giảm dần, sự giảm này lại kích thích cho tâm vị tự đóng lại.
+ Hoạt động của vùng thân vị và hang vị: vùng thân vị (thượng vị) có khả năng đàn hồi lớn vì vậy khi thức
ăn xuống càng nhiều nó càng phình to ra. Lượng thức ăn đến trước bị đẩy ra xung quanh, lượng đến sau thì
nằm ở giữa. Sau khi có thức ăn, ơ thân vị và hang vị (hạ vị) xuất hiện các nhu động: cứ 15- 20s lại có một nhu
động. Đó là những làn sóng cơ bóp được thực hiện bởi các tầng cơ dọc, cơ vòng, cơ chéo thành dạ dày làm cho
thức ăn được nhuyễn ra, được ngấm đều dịch vị và được đưa dần xuống hang vị. Ở hang vị, thức ăn đã nhuyễn
hoàn toàn và được gọi là vị đáp.
+ Hoạt động của vùng môn vị: môn vị là lỗ thông giữa dạ dày và tá tràng. Môn vị cũng có van đóng mở,
van này cũng được tạo bởi sự dầy lên của tầng cơ vòng. Nhu động của hang vị đẩy vị đáp hướng v ề tá tràng lại
kích thích cho van môn vị đóng lại.
14


b. Tiêu hoá hoá học
Sự tiêu hoá này được thực hiện nhờ các enzym tiêu hoá có trong dịch vị.
* Dịch vị: Đó là một chất lỏng, không màu, quánh, độ pH: 0,9-1,5 do các tuyến hình ống của dạ dày tiết ra,
số lượng khoảng 14 triệu tuyến. Các tuyến này nằm ở lớp niêm mạc dạ dày và bao gồm các loại tế bào sau: tế
bào chính tiết ra enzym tiêu hoá, tế bào viền tiết HCL, tế bào nhầy tiết các chất nhầy, NaHCO3

+ Các enzym tiêu hoá:
- Pepsin: được tiết ra dưới dạng chưa hoạt động - pepsinogen, dạng này được HCL trong dạ dày hoạt
hoá thành pepsin:

Enzym này xúc tác cho sự phân cắt protein thành những chuỗi polypeptid với kích thước khác nhau trong
môi trường có độ pH<4:
Pepsin còn có tác dụng làm tan ra các sợi collagen-một thành phần của mô liên kết nằm xen giữa các tế bào
thịt.
- Chimozin = prezua (enzym sữa): có trong dịch vị trẻ em, hoạt đông trong môi trường axit, xúc tác cho sự
phân giải cazeinogen (protein của sữa) hành cazeinatca kết tủa:

Lipase: Hoạt động trong môi trường có độ pH=6, chỉ xúc tác cho sự phân giải các lipit đã được nhũ tương
hoá thành glyxerin và axit béo.
+ Các chất vô cơ: trong dịch vị có nhiều chất vô cơ như Na+, K+, H+, Cl-, SO42- nhưng quan trọng nhất là
HCL với tác dụng:
- Hoạt hoá cho pepsinogen chuyển thành dạng hoạt động- pepsin.
- Sát khuẩn: tiêu diệt các vi khuẩn có trong thức ăn làm cho môi trường dạ dày
trở nên môi trường vô khuẩn.
- Thuỷ phân xenluloza của tế bào thực vật.
- Tham gia vào việc mở, đóng van môn vị.
+ Các chất nhầy: gồm glicoprotit, mucopolysacarit- chúng tan trong dịch vị trung hoà một phần HCL và
tạo nên màng bao phủ lên niêm mạc dạ dày thống sư ăn mòn của HCl và pepsin.
* Sự điều hoà bài tiết dịch vị:
Bài tiết dịch vị được điều hoà bởi cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch:
+ Cơ chế thần kinh: thức ăn và thành phần hoá học trong thức ăn kích thích niêm mạc dạ dày làm xuất
hiện luồng thần kinh cảm giác theo nhánh hướng tâm đến đám rối Meissner của thần kinh ruột, đám rối này có
các nhánh của dây thần kinh X đi đến. Từ đám rối này có luồng thần kinh theo sợi ly tâm đến các tuyến dạ dày
làm tăng tiết dịch vị.
+ Cơ chế thể dịch: sự bài tiết dịch vị còn được điều hoà bởi các hormone sau:
- Gastrin: do tế bào hang vị tiết ra, nó kích thích các tuyến tăng tiết HCl và pepsinogen nhưng lượng

HCl được tiết nhiều gấp 3-4 lần lượng pepsinnogen.
- Histamin: cũng do niêm mạc dạ dày tiết ra với lượng nhỏ, nó có tác dụng tăng bài tiết dịch vị.
- Adrenalin và noradrenalin của tuỷ tuyến thượng thận làm giảm bài tiết dịch vị.
- Cortizol: làm tăng tiết HCL và pepsinogen nhưng giảm tiết chất nhầy. Vì vậy nếu điều trị bằng
cortizol kéo dài có thể gây loét hoặc chảy máu dạ dày.

15


2. Tiêu hoá ở dạ dày nhiều ngăn (dạ dày kép)
Dạ dày của các động vật nhai lại (trâu, bò....) có 4 ngăn: dạ cỏ,
dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế, trong đó chỉ dạ múi khế là có
các tuyến tiết dịch tiêu hoá như dạ dày đơn. Thể tích của dạ dày
này: 120-240 lít. Ngoài 4 ngăn ra, dạ dày này còn có rãnh thực
quản: hình lòng máng, đi từ thượng vị đến lỗ thông giữa dạ tổ ong
vú dạ lá sách. Đối với gia súc non, trong thời kỳ bú, sữa và thức ăn
lỏng kích thích lưỡi, họng gây phản xạ khép lòng máng thành ống
cho thức ăn chạy thẳng tới dạ múi khế.
a. Tiêu hoá ở dạ cỏ
Dạ cỏ có độ pH= 6,5-7,4; nó vận động yếu nên thức ăn ở lại đó
lâu. Dạ cỏ có hệ vi sinh vật rất phát triển và quá trình tiêu hoá thức
ăn rất phức tạp.
* Hệ vi sinh vật:
+ Hệ vi thực vật (microflora): có trên 200 loài với số lượng
1010 vi khuẩn/gam chất chứa trong dạ cỏ, bao gồm:
- Nhóm vi khuẩn phân giải chất xơ-xenluloz, hemixenluloz.
- Nhóm vi khuẩn phân giải gluxit.
- Nhóm vi khuẩn phân giải protein và tổng hợp protein.
+ Hệ vi động vật (microfauna): với số lượng: 0,6-1,8 triệu/ gam chất chứa, chủ yếu là nguyên sinh động
vật-protozoa, quan trọng nhất là thảo trùng.

+ Nấm fungi.
* Quá trình tiêu hoá:
Tiêu hoá cơ học: do thảo trùng cắt xé thức ăn thành những mảnh nhỏ tạo điều kiện cho vi khuẩn phân giải
tiếp.
Tiêu hoá hoá học: do enzym của hệ vi sinh vật phân giải. Tiêu hoá này diễn ra như sau:
+ Phân giải chất xơ-xenluloz, hemixenluloz và pectirl thành monosacarit và cuối cùng tạo thành axit béo:
axit axetic, axit propionic, axit butyric... phần lớn các axit này được hấp thu trong dạ cỏ.
+ Phân giải gluxit: tinh bột và đường được streptococus biến đổi thành monosacarit, đường đơn này lại
được lên men bởi vi khuẩn lactic.
+ Phân giải và tổng hợp protein:

Các hợp chất Ncũng bị enzym của VSV thuỷ phân tạo thành amoniac:

phi protein (như ure chẳng hạn)

Sản phẩm cuối cùng của sự phân giải protein và các hợp chất N-phi protein là amoniac- NH3 Vi sinh vật sử
dụng NH3 để tổng hợp axit amin và protein của bản thân chúng bằng cách chuyển NH3 cho một xetoaxit để
tạo một axit amin mới: axit amin này nhường nhóm amin-NH2 cho một xetoaxit khác và một axit amin

16


Sự tổng hợp protein của vi sinh vật liên quan rất mật thiết với sự phân giải chất xơ và gluxit vì có được
xetoaxit là do 2 quá trình phân giải trên. Protein do các vi sinh vật tổng hợp chứa đầy đủ các axit quản không
thay thế nên giá trị sinh học rất cao: 80% và đáp ứng được khoảng 1/3 nhu cầu protein hàng ngày
của động vật nhai lại.
* Sự sinh hơi và ợ hơi: quá trình lên men thức ăn trong dạ cỏ tạo ra một hướng lớn các chất khí:
1000lít/ngày trong đó CO2: 50-70%, CH4: 20-45% và một ít N2, O2, H2 các khí (hơi) này được thải ra ngoài
thông qua phản xạ hơi. Nếu sự ợ hơi bị ức chế thì tạo nên hiện tượng đầy hơi chướng bụng.
b. Tiêu hoá ở dạ tổ ong

Dạ tổ ong có nhiều gờ giống như tổ ong. Có khoảng 50% thức ăn thô từ dạ cỏ được chuyển sang dạ tổ ong.
Khi dạ tổ ong co bóp, phần thức ăn thô quay lại dạ cỏ, phần thức ăn lỏng được chảy vào dạ lá sách.
c. Tiêu hoá ở dạ lá sách
Dạ lá sách có rất nhiều lá, nó được coi là một dụng cụ lọc. Khi dạ này co bóp, phần thức ăn lỏng chảy vào
dạ múi khế, phần thức ăn thô được giữ lại giữa các lá để tiếp tục tiêu hoá. Quá trình tiêu hoá diễn ra giống như
ở dạ cỏ. Nước và axit béo được hấp thu mạnh.
d. Sự tiêu hoá ở dạ múi khế (dạ dày chính)
Dạ múi khế có thân vị và hạ vị với nhiều tuyến tiêu hoá tiết ra dịch vị nên quá trình tiêu hoá ở đây cơ bản là
giống dạ dày đơn. Dạ múi khế của bò tiết liên tục 100 lít dịch vị/ ngày do thức ăn và sản phẩm phân giải của nó
không ngừng đi vào dạ múi khế khích thích tiết dịch vị.
Thành phần dịch vị có HCL: 0,12-0,46%; độ pH=2,7-3,14; các enzym: pepsin, chimozin, lipase.
Các vi sinh vật từ dạ dày trước (dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách) đi vào dạ múi khế do pH thấp bị tiêu diệt đã
trở thành nguồn thức ăn giàu protein của động vật nhai lại.
IV. TIÊU HOÁ Ở RUỘT NON
1. Tiêu hoá cơ học
Thức ăn trong ruột non (gọi là nhũ trấp) vận chuyển được là nhờ sự co giãn phối hợp của các tầng cơ vòng
và dọc thuộc lớp cơ trơn thành ruột non với các loại hình cử động sau:
+ Co thắt: do tầng cơ vòng gây nên, khi co thắt từng đoạn ruột non bị thu hẹp tiết diện, nhờ đó dịch tiêu
hoá thấm sâu vào thức ăn.
+ Cử động lắc: do tầng cơ dọc của ruột thay nhau co giãn làm cho các đoạn ruột lật bên này, lắc sang bên
nọ, do đó dịch tiêu hoá được trộn đều với thức ăn.
+ Nhu động xuôi: do sự có thắt của tầng cơ vòng ở một đoạn ruột này kèm theo sự giãn nở tầng cơ dọc ở
đoạn tiếp theo. Cứ như thế nhu động được chuyển theo kiểu làn sóng về phía cuối ruột non nên thức ăn được
dồn về ruột già.
+ Nhu động ngược: cũng là những để co giãn lan truyền theo kiểu làn sóng nhưng ngược chiều với nhu
động xuôi có tác dụng dồn ngược thức ăn do đó kéo dài thời gian tiêu hoá và hấp thu thức ăn.
2. Tiêu hoá hoá học
Đổ vào ruột non có 3 loại dịch tiêu hoá: dịch tuỵ, dịch mật và dịch ruột.
a. Dịch tuỵ
Dịch tuỵ do tuyến tuỵ tiết ra qua ống dẫn tuỵ chảy vào tá tràng, đó là một chất lỏng không màu, có độ pH =

7,8-8,4. Lượng dịch tuỵ tiết ra ở bò: 6- 81ít/ngày, lợn: 101ít/ngày.
Dịch tuỵ chứa nhiều enzym tiêu hoá :
+ Các enzym tiêu hoá protein.
- Tripsin: tiết dưới dạng chưa hoạt động - tripsinogen, dạng này được hoạt hoá bởi enterokinase. Tripsin
xúc tác cho sự biến đổi protein thành các chuỗi Polypeptit.

17


- Chymotripsin: tiết dưới dạng chưa hoạt động- chymotripsinogen nó được tripsin hoạt hoá thành
chymotripsin dạng hoạt động này phân cắt chuỗi polypeptit thành các đoạn peptit ngắn: di, tri, tetra peptit:

- Cacboxypolypeptidase: phân giải polypeptit, giải phóng axit amin có nhóm cacboxyl tự do (-COOH).
- Nuclease: gồm ribonuclease phân giải ARN và dioxyribonuclease phân giải ADN, chúng đều cho
nucleotit và axit photphoric Dipeptidase: phân giải dipeptit thành 3 axit amin.
+ Nhóm enzym tiêu hoá gluxit:
- Amilase: phân giải gluxit thành dextrin và maltose.
- Maltase: thuỷ phân maltose cho ra glucose.
- Lactase: thuỷ phân lactose cho glucose và galactose.
- Sacarase: thuỷ phân sacarose cho glucose và fructose.
+ Nhóm enzym tiêu hoá lipit:
- Lipase: hoạt động ở pH=6,8; nó phân giải lipit đã được muối mật nhũ tương hoá thành axit béo và
glixerin. Photpho lipase: phân giải photpholipit thành photphat và diglixerin sau đó được lipase phân giải tiếp.
Sự bài tiết dịch tuỵ được điều hoà bởi:
+ Cơ chế thần kinh: dây thần kinh phế vị điều hoà quá trình tiết dịch tuỵ vì dây này có sự phân nhánh đến
các tế bào chế tiết của tuyến tuỵ.
+ Cơ chế thể dịch: do các hormone sau đây điều hoà:
- Secretin: do niêm mạc tá tràng và đoạn đầu ruột non tiết ra khi có HCl từ dạ dày xuống. Hormone này
theo máu đến tuyến tuỵ kích thích các tế bào tuyến tiết ra H2O Và NaHCO2
- Pancreozymin: do niêm mạc của đoạn đầu ruột non tiết ra khi bị kích thích bởi các sản phẩm tiêu hoá

thoát và lipit. Hormone này theo máu đến tuyến tuỵ làm tiết ra các loại enzym tiêu hoá và đến gan gây tiết dịch
mật.
b. Dịch mật
Mật là dịch lỏng chứa trong túi mật, vị đắng, tính kiềm có độ pH= 7-7,7. Thành phần dịch mật: 90% là
nước, 10% là chất khô trong đó quan trọng nhất là axit mật và sắc tố mật.
+ Axit mật: axit colic, axit deoxycolic, axit glycocolic, chúng thường tồn tại dưới dạng muối như Na
glucocolat, Na taurocolat. Muối mật được tạo nên từ nguyên liệu do máu mang đến là cholesterol.
+ Sắc tố mật: bilirubin và biliverdin. Khi hồng cầu bị phân huỷ thì tạo ra bilirubin, khi bilirubin bị oxy
hoá thì tạo thành biliverdin. Mật của động vật ăn cỏ màu xanh vì chứa sắc tố biliverdin còn của động vật ăn thịt
thì có màu vàng vì chưa sắc tố bilirubin.
Tác dụng của dịch mật:
+ Nhũ tương hoá thức ăn lipit thành những hạt mỡ nhỏ < 0,5μ để tăng diện tích tiếp xúc của chúng với
enzym.
+ Hoạt hoá enzym protease, amilase, lipase.
+ Tạo phức chất hoà tan với axit béo. Axit béo không hoà tan trong nước nên khó hấp thụ. Khi axit mật
kết hợp với axit béo thì tạo nên phức chất hoà tan nên dễ hấp thu. Thúc đẩy quá trình hấp thu các chất hoà tan
trong lipit như vitamin A, D, E, K.
+ Trung hoà axit từ dạ dày xuống vì dịch mật có tính kiềm.
+ Làm tăng nhu động của ruột.
Sự bài tiết dịch mật được điều hoà bởi:
+ Cơ chế thần kinh: thức ăn kích thích trực tiếp vào thụ quan trong dạ dày và ruột non làm xuất hiện
hưng phấn theo sợi cảm giác về trung khu thần kinh. Từ đó, luồng thần kinh qua sợi phó giao cảm tới gan làm
co cơ túi mật, giãn cơ vòng của ống mật nên dịch mật chảy theo ống mật chủ xuống bầu Vater qua vòng cơ
Oddi chảy vào tá tràng cùng dịch tuỵ. Nếu kích thích sợi giao cảm thì sự thải dịch mật sẽ bị ức chế.
+ Cơ chế thể dịch: colexistokinin do tá tràng tiết ra, HCl của dạ dày và sản phẩm phân giải của thức ăn
đều có tác dụng tăng tiết dịch mật. Do đó phối hợp thức ăn cho vật nuôi có ý nghĩa rất quan trọng.
18


c. Dịch ruột

Các tế bào của tuyến Brunner ở tá tràng và tuyến Liberkuhn ở hồng tràng hồi tràng tiết ra dịch ruột. Đó là
chất lỏng có tính kiềm với độ pH:8,2-8,7: chứa 97%.nước; chất khô: 3% trong đó chứa các muối vô cơ như
cacbonat, bicacbonat, clorua, photphat của Na, K, Ca và các enzym tiêu hoá thức ăn.
+ Các enzym phân giải protein:
- Amynopeptidase: cắt mạch peptit, giải phóng axit amin có gốc amin (NH2) tự do.
- Dipeptidase: cắt mạch dipeptit thành 3 axit amin.
- Nuclease: phân giải axit nucleic thành các lucleotit.
+ Các enzym phân giải lipit có lipase, photpholipase, colesteroesterase.
+ Các enzym phân giải gluxit có amilase, maltase, lactase, sacarase có tác dụng giống enzym của dịch
tuỵ.
Sự bài tiết dịch ruột được điều hoà bởi:
+ Cơ chế thần kinh: các thành phần của thức ăn kích thích vào đầu tận cùng của dây thần kinh ruột làm
tăng tiết dịch ruột theo cơ chế phản xạ đặc biệt là có sự tham gia của nhánh thần kinh phó giao cảm thuộc dây
phế vị.
+ Cơ chế thể dịch: HCL, sản phẩm phân giải của thức ăn đều có tác dụng kích thích các tế bào tuyến của
ruột non tiết dịch tiêu hoá.
VI. SỰ HẤP THU CÁC CHẤT
1. Cơ quan hấp thu
Hệ tiêu hoá có các cơ quan hấp thu các chất như miệng, dạ dày, ruột non, ruột già.
a. Khoang miệng
Đây là cơ quan không hấp thu thức ăn, chỉ có thể hấp thu lượn.
b. Dạ dày
Dạ dày đơn có thể hấp thu được rượu, glucose, axit amin...nhưng không nhiều.
Sự hấp thu các chất trong dạ múi khế của động vật nhai lại tương tự như dạ dày đơn.
c. Ruột non
Đây là cơ quan hấp thu các chất quan trong nhất của cơ thể đặc
biệt là các chất dinh dưỡng như axit amin, glucose, axit béo,
glyxerin...để thực hiện được chức năng, thành của ruột non có những
đặc điểm cấu tạo như sau:
- Lớp niêm mạc có nhiều nếp gấp ngang gọi là van tràng, phủ

lên mỗi van tràng là một lớp tế bào biểu bì hình trụ gọi là lông ruột
(nhung mao, mao tràng). Số lượng nhung mao rất lớn: 2500/cm 2
niêm mạc do đó bề mặt hấp thu tăng lên nhiều lần. Ở màng đỉnh của
mỗi tế bào nhung mao có tới 600 vi nhung mao làm cho bề mặt của
ruột non tăng lên 600 lần và diện tích hấp thu rộng tới 500m 2. Xen kẽ
giữa các tế bào nhung mao có những sợi trơn.
- Bên ngoài mỗi một nhung mao có tiểu động mạch vào, tiểu
tinh mạch ra, chúng bao quanh một mạch bạch huyết. Tiểu tĩnh mạch
và mạch bạch huyết tiếp nhận các chất đi từ lòng ruột non qua tế bào
nhung mao ra.
d. Ruột già
Cơ quan hấp thu chủ yếu là nước còn các chất khác thì không đáng kể.
2. Cơ chế hấp thu
Các chất được vận chuyển từ các cơ quan tiêu hoá vào máu và bạch huyết theo các phương thức sau đây:
a. Hấp thu bị động
Sự hấp thu này được tuân theo các quy luật lý, hoá học thông thường và bao gồm:
+ Cơ chế lọc qua: khi áp lực của các chất có trong ruột tăng lên 8-10 mmHg thì quá trình hấp thu tăng
cường. Tuy nhiên nếu áp lực tăng cao quá: 80- 100mmHg thì áp lực này lại ép vào thành mạch máu và bạch
huyết gây cản trở cho hấp thu.
+ Cơ chế thẩm thấu: nước từ dung dịch nhược trương (ruột có áp lực thẩm thấu cao) được thấm sang
dung dịch ưu trương (máu: nơi có áp lực thẩm thấu thấp hơn) nhờ sự chênh lệch áp lực thẩm thấu.
19


+ Cơ chế khuếch tán: các ion có nồng độ cao ở ruột sẽ khuếch tán vào mạch máu nơi có nồng độ thấp
hơn. Sự khuếch tán này sẽ dừng lại khi tích số nồng độ lớn ở 2 bên bằng nhau.
c. Ẩm bào
Cơ chất còn được hấp thu bằng cách khi chúng tiếp cận màng tế bào thì màng này lõm vào tạo thành các
hốc. Khi cơ chất được nằm gọn trong hốc thì màng tế bào liền lại như cũ.
Ruột non của gia súc sơ sinh có thể ẩm bào cả phân tử γ-globulin của sữa đầu nhất là trong khoảng 24-36

giờ sau khi đẻ vì thế chúng thu được kháng thể từ mẹ truyền sang. Điều này nói lên sự cần thiết cho con bú sữa
đầu.

20


CHƯƠNG VIII: SINH LÝ NỘI TIẾT
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Khái niệm về nội tiết
Cơ thể các động vật đa bào càng lớn, khoảng cách giữa các nhóm tế bào, các mô, cơ quan càng tăng thì sự
liên hệ giữa chúng càng trở nên khó khăn. Để đảm bảo tính thống nhất, trong quá trình phát triển chủng loại
của sinh giới, có thể động vật đã hình thành hai hệ thống điều hoà hoạt động đó là hệ thần kinh thông qua cơ
chế phản xạ và hệ nội tiết thông qua cơ chế thể dịch.
Về khái niệm, hệ nội tiết là những tuyến không có ống dẫn, chất tiết của chúng được đổ vào môi trường
trong của cơ thể (máu, dịch ngoại bào, dịch não tuỷ...) Khái niệm trên vừa có thể coi là định nghĩa vừa có thể
coi là đặc điểm để phận biệt tuyến nội tiết với tuyến ngoại tiết.
Hệ thống nội tiết bao gồm: tuyến tùng, tuyến yên, tuyến ức, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến trên thận.
Ngoài ra còn có tuyến tuỵ và tuyến sinh dục là những tuyến kép mang cả những chức năng nội tiết và ngoại
tiết.
Chức phận của các tuyến nội tiết là sản xuất ra chất tiết gọi chung là hormone. Theo tiếng Hy Lạp,
hormone có nghĩa là kích thích nên nó còn được gọi là kích thích tố, gọi tắt là kích tố hay nội tiết tố. Danh từ
hormone hiện nay còn được dùng để chỉ cho một số chất không do tuyến nội tiết tạo ra nhưng chúng có tác
dụng tương tự, ví dụ: niêm mạc tá tràng tiết ra secretin, colesistokin, tiểu cầu tiết ra serotonin, tế bào thần kinh
tiết ra neurotransmiter (chất truyền đạt thông tin).
2. Các phương pháp nghiên cứu nội tiết
Để nghiên cứu tác dụng của hormone và chất tiết cũng như hoạt động của các tuyến nội tiết, thường sử
dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp cắt bỏ: cắt bỏ một tuyến nội tiết nào đó rồi theo dõi hoạt động của con vật để đoán chức
năng của tuyến bị cắt. Ví dụ: năm 1899, Vonmering và Minkovski đã cắt bỏ tuyến tuỵ của chó, thấy trong nước
tiểu xuất hiện hàm lượng đường, cho chó nhịn ăn vẫn có đường trong nước tiểu. Sau này qua nghiên cứu đã

tìm ra hormone insulin của tuyến tuỵ có tác dụng điều hoà đường huyết.
+ Phương pháp ghép tuyến: ghép một tuyến tương tự lấy từ một động vật khác vào một động vật đã bị
cắt bỏ tuyến và theo dõi sự thay đổi sự hoạt động của con vật.
+ Phương pháp chiết xuất: chiết lọc lấy hormone từ tuyến cần nghiên cứu xác định cấu trúc hoá học rồi
tiêm vào cơ thể động vật mất tuyến (hoặc cho ăn) để xem tác dụng của hormone đó.
II. ĐẠI CƯƠNG VỀ HORMONE
1. Định nghĩa
Theo định nghĩa kinh điển của E.Starling: hormone là những chất được các tế bào của một bộ phận có thể
tiết ra, được máu vận chuyển đến một cơ quan khác để điều hoà hoạt động hay thúc đẩy quá trình sinh trưởng
của cơ thể.
2. Đặc tính sinh học của hormone
Homlone có các đặc tính sinh học sau đây:
+ Có hoạt tính sinh học rất cao: gây tác dụng rõ rệt nên cấu tạo và chức năng của một cơ quan nào đó. Ví
dụ: 1g adrenalin có thể làm tăng cường hoạt động của 100 triệu quả tim ếch đã tách khỏi cơ thể, 1g insulin có
thể làm hạ đường huyết của 125.000 con thỏ. Chính vì hoạt tính sinh học của hormone rất cao mà nó chỉ được
tuyến nội tiết sản xuất ra với liều lượng rất thấp vài g hoặc mg. Điều này lại gây khó khăn cho việc chiết xuất
hoặc tạo hormone tổng hợp. Ví dụ: Để thu được vài mg oestradiol tinh khiết người ta phải điều chế dịch chiết
lấy từ 2 tấn buồng trứng lợn nái.
+ Chỉ có tác dụng đặc hiệu đối với từng cơ quan, bộ phận. Ví dụ: hormone FSH do tuyến yên tiết ra chỉ
có tác dụng làm cho bào noãn của trứng phát triển và chín, còn homlone progesteron do thể vàng ti ết ra chỉ có
tác dụng làm biến đổi lớp niêm mạc tử cung.
+ Hormone không có tính đặc trưng cho loài. Ví dụ: thyroxin do tuyến giáp của lợn tiết ra cũng có thể
làm tăng cường sự trao đổi chất và thân nhiệt của chó hay của mèo.
+ Mọi hormone đều rất cần thiết với lượng vừa đủ, nếu thừa - ưu năng, hoặc thiếu - nhược năng đều đưa
đến các trạng thái bệnh lý khác nhau.
3. Cấu tạo hoá học của hormone
Hormone có cấu tạo hoá học rất đa dạng
+ Hormone có thể là axit amin hoặc là dẫn suất của axit amin. Ví dụ: noradrenalin và adrenalin.
21



+ Hormone có thể là những peptit ngắn. Ví dụ: oxitoxin và vasopresin đều tạo được nên từ 9 axit amin
trong đó có 7 axit amin giống nhau, nối giữa hai sistein có một cầu disunfit s - s.

+ Hormone có thể là những peptit dài. Ví dụ:
- Insulin gồm hai mạch: mạch một chứa 21 axit amin, mạch 2 có 30 axit amin, hai mạch nối với nhau
nhờ cầu disunfit s - s.
- Glucagon được tạo bởi 29 axit amin.
- Secretin có 27 axit amin trong đó 10 axit amin có trình tự sắp xếp giống như glucagon.
+ Hormone có thể là các protein.Ví dụ:
- STH (Kích sinh trưởng tố) chứa tới 188 axit amin tạo thành một chuỗi polypeptit có phân tử lượng
25.000.
- Prolactin có đến 205 axit amin cũng tạo thành một chuỗi polypeptit.
+ Hormone có thể là các steroit. Ví dụ: cortizol, testosteron, oestrogen đều là những steroit được tổng
hợp từ colesterin và gồm 18, 19 hoăc 21 nguyên tử C kết thành 4 vòng nối với nhau trong đó có 3 vòng 6 cạnh
và một vòng 5 cạnh.

III. CÁC TUYẾN NỘI TIẾT CHỦ YẾU
1. Tuyến tùng (tuyến trên não, tuyến mấu não trên)
Đó là một tuyến nhỏ nằm trên và sau đồi thị giữa hai bán cầu đại não. Tuyến tùng tiết ra melatonin, đó là
hormone được tổng hợp từ tritophan qua dạng serotonin, chức năng của melatonin là ức chế sự hoạt động của
buồng trứng.
Ánh sáng chiếu nhiều vào mắt thúc đẩy tuyến tùng sản xuất ra melatonin cho nên những cô gái bị mù loà từ
nhỏ thường hay dậy thì sớm hơn các cô gái cùng lứa tuổi có lẽ một phần là do thiếu melatonin nên buồng trứng
phát triển nhanh hơn.
2. Tuyến yên (tuyến dưới não, tuyến mấu não dưới)
Đây là tuyến nhỏ, nặng 0,5g nằm ở hố yên thuộc thân xương bướm thuộc nền hộp sọ. Sự tiết các hormone
của tuyến này được điều khiển bởi các tế bào thần kinh vùng dưới đồi. Về cấu tạo, tuyến này có 3 thuỳ trong
đó thuỳ trước thuỳ sau lớn, thuỳ giữa nhỏ, mỗi thuỳ tiết các honnone khác nhau.
a. Thuỳ trước (tiền yên)

Dựa vào chức năng người ta chia hormone của thuỳ này thành hai nhóm: nhóm hormone phát triển cơ thể:
STH, TSH, ACTH và nhóm hormone hướng tuyến sinh dục: FSH, LH, LTH.
* Nhóm hormone phát triển cơ thể:
22


+ STH (Somato Tropin Hormone) hay GH (Grow Hormone) - kích sinh trưởng tố, hormone này có nhiều
tác dụng:
- Kích thích sự sinh trưởng của cơ thể bằng cách tăng tổng hợp protein tăng hấp thụ Ca, P làm cho sụn
hoá thành xương để bộ xương phát triển.
- Làm tăng hàm lượng đường trong máu gây bệnh đái tháo đường (do tuyến yên) bởi STH ức chế
enzym hexokinase - xúc tác cho quá trình chuyển hoá glucose thành glycogen dự trữ.
- Làm giảm sự tổng hợp lipit bằng cách huy động mỡ dự trữ để oxy hoá tạo năng lượng cần thiết cho sự
tổng hợp protein.
- Kích thích sự tạo huyết tương và hồng cầu non, nếu ưu năng tuyến yên trước tuổi dậy thì thì gây bệnh
khổng lồ, sau tuổi dậy thì gây bệnh to đầu ngón ở các chi. Còn nhược năng trước tuổi dậy thì bị bệnh lùn (cơ
thể cân đối) sau tuổi dậy thì bị bệnh Simmond (rối loạn sinh dục).
+ TSH (Thyroid Stimulating Hormone) - kích giáp tố: cơ quan đích của TSH là tuyến giáp, kích thích
cho tuyến giáp hoạt động vì vậy nếu tuyến yên bị cắt bỏ thì tuyến giáp cũng bị teo đi.
- Thúc đẩy sự hấp thụ iod vào tuyến giáp để tổng hợp thyroxin.
- Tăng cường huy động glycogen từ gan và tăng oxy hoá glucose.
+ ACTH (Adreno Corticotropin Hormone) - kích vỏ thượng thận tố:
- Cơ quan đích của ACTH là tuyến vỏ tuyến trên thận, kích thích vỏ thượng thận hoạt động vì vậy nếu
cắt bỏ tuyến yên thì phần vỏ tuyến trên thận cũng bị teo lại.
- Làm tăng tổng hợp gluxit tạo glycogen.
- Tăng huy động lipit, giảm sự tổng hợp protein.
- Tăng giữ nước và Na, tăng đào thải K.
Nếu nhược năng ACTH thì bị bệnh Addison: có thể suy nhược, mất năng, lực huyết áp thấp, da sậm màu.
Nếu ưu năng hàm lượng ACTH thì bị bệnh Cushing: béo mặt, thân và chân tay gầy, xốp xương.
* Nhóm hormone hướng tuyến sinh dục:

+ FSH (Follicule Stimulating Hormone) - Prolan A - kích nang tố.
- Đối với nữ giới và động vật cái, nó kích thích nang (bao) trứng phát triển, kích thích buồng trứng tiết
hormone oestrogen.
- Đối với nam giới và động vật đực nó kích thích sự phát triển của tinh hoàn, ống sinh tinh, kích thích
sự tạo tinh trùng.
+ LH (Luteinising Hormone) - Prolan B - kích sinh hoàng thể tố.
- Ở nữ giới và động vật cái nó làm cho bao noãn đã phát triển chuyển sang gia đoạn chín, gây rụng
trứng. Sau khi trứng rụng, LH kích thích bao noãn (nang De Graaf) biến thành thể vàng (hoàng thể) rồi kích
thích thể vàng tiết hormone progesteron.
- Ở nam giới và động vật đực, LH duy trì sự hoạt động của ống sinh tinh, kích thích t ế bào kẽ (tế bào
Leydig) của ống sinh tinh tiết ra hormone giới tính testosteron.
+ LTH (Lu teo Tropin Hormone) - prolactin - kích nhũ tố: trước đây gọi là LTH vì cho rằng nó hướng về
thể vàng nhưng không phải như vậy mà chức năng chính của prolactin là kích thích sự phát triển của tuy ến vú
và làm tăng sự tiết sữa ở nam giới prolactin kích thích sự phát triển của tuyến tiền liệt.
b. Thuỳ giữa
Đây là thuỳ rất nhỏ, tiết MSH (Melanocyte Stimulating Honnone) - kích hắc tố - kích sắc tố.
Đối với động vật bậc thấp (cá, lưỡng cư, bò sát) nó có tác dụng kích thích tế bào sắc tố tổng hợp sắc tố
melanine và phân bố đều sắc tố trên bề mặt da làm da có màu tối thích nghi với môi trường. Động vật bậc cao
và người, MSH tác dụng không rõ ràng, làm da, tóc, mắt có màu.
c Thuỳ sau (Hậu yên)
Thực chất đây không phải là thuỳ tuyến mà là một thuỳ thần kinh được liên hệ với vùng dưới đồi và chứa 2
hormone do vùng dưới đồi tiết ra:
+ Vasopresin (ADH: Anh Diuretic Hormone) - homlone chống bài niệu:
- Tăng qua trình tái hấp thu nước ở ống thận nhỏ hạn chế bài xuất nước tiểu vì vậy nếu thiếu nó sẽ tăng
bài niệu gây ra bệnh đái tháo nhạt (201/ngày) - diabet không đường.
- Làm co cơ trơn của các động mạch nhỏ, tăng huyết áp vì thế nó còn được gọi là vasopresin.
+ Oxitoxin (hormone thúc đẻ):
23



- Làm co cơ trơn ở tử cung nhất là trong kỳ động dục hoặc khi đẻ, nó còn được dùng để thúc đẻ khi cơ tử
cung co yếu.
- Kích thích sự co bóp của các ống sữa làm tăng sự bài tiết sữa. Nếu ít sữa sau khi sinh có thể tiêm
oxitoxin.
3. Tuyến giáp
Đó là một tuyến nhỏ, nặng 20 - 25g nằm trước sụn giáp có 2 thuỳ bên nối với nhau nhờ một eo hẹp ở giữa.
Tuyến giáp tiết ra 2 hormone.
* Thyrosin (kích tố giáp): do tế bào nang tuyến tiết ra.
+ Quá trình tạo thyroxin:
- Nguyên liệu chính để tạo thyroxin là iod và axit amin tyrozin (quá trình iod hoá tyrozin) vì vậy cung
cấp iod cho cơ thể là rất quan trọng.
- Iod ở dạng muối iodua (I) được oxy hoá nhờ xúc tác của peroxydaxe chuyển thành I2:
- Một iod được gắn vào tyrozin tạo thành monoiodothyrozin (MIT) gắn tiếp 2 iod vào tyrozin tạo ra
diodothyrozin (DIT).
- Ngưng tụ MIT và DIT để tạo nên triodothyrozin (T3) rồi cho ngưng tụ DIT với DIT tạo thành thyroxin
(T4). Hàm lượng T3 < T4 khoảng 20 lần nhưng hoạt lực T3 > T4 khoảng 5 lần. T3 và T4 ở trong bao tuy ến kết
hợp với globulin và albumin khi đến cơ quan thì thyroxin lại được tách ra.
+ Chức năng của thyroxin:
- Làm tăng sự trao đổi năng lượng: tăng cường sự oxy hoá và sự photphoryl hoá các chất dinh dưỡng P,
G, L, để phát nhiệt đo vậy 40% nhiệt lượng sản sinh trong cơ thể là do tuyến giáp chi phối.
- Thúc đẩy quá trình hấp thụ glucose từ ruột, tăng chuyển hoá glycogen thành glucose, tăng dị hoá
protein dẫn tới cân bằng N âm, ức chế sự tái hấp thụ nước ở ống thận dẫn đến đi tiểu nhiều.
- Đối với sự sinh trưởng và phát triển: thyroxin kích thích sụn chuyển thành xương, tăng sinh trưởng
của bào thai.
- Đối với sinh sản: thyroxin ảnh hưởng đến chu kỳ động dục, rụng trứng và thụ thai. Nếu thiếu nó, động
vật sẽ ngừng động dục, rụng trứng và bào thai thì chết đưa đến xảy thai. Cùng với hormone sinh dục duy trì
hoạt động sinh dục của cơ thể trưởng thành.
- Đối với hệ thần kinh: thyroxin làm tăng tính mẫn cảm của các tế bào thần kinh, bình thường hoá hoạt
động thần kinh và trí óc.
- Đối với động vật bậc thấp (lưỡng cư): thyroxin tác động đến quá trình biến thái. Nếu tuyến giáp bị cắt

bỏ thì nòng nọc không tiêu biến được đuôi để biến thành ếch nhái được.
+ Rối loạn chức năng do thyroxin.
- Ưu năng: nếu nhiều thyroxin thì gây bệnh basedow với biểu hiện trao đổi chất tăng lên 20% làm cơ
thể sút cân, tim đập nhanh, chân tay run, hưng phấn thần kinh tăng cao nên dễ cảm xúc hay cáu gắt nhưng
nhanh mệt mỏi, đặc biệt là mắt lồi ra do tích nước ở tổ chức đệm của phần sau cầu mắt, còn cổ thì hơi to.
- Nhược năng: nếu cơ thể còn non thì ngừng phát triển, các chi ngắn, đầu to, thân nhiệt giảm, trí tuệ
chậm phát triển, cơ quan sinh dục kém phát triển. Ở cơ thể trưởng thành, do thiếu iod mà tuyến giáp nở to tạo
nên bướu cổ địa phương kèm theo là bệnh đần độn do giảm hưng phấn của hệ thần kinh, trương lực cơ yếu, cử
động và lời nói chậm chạp.
* Calcitonin do các tế bào C ở xung quanh nang tuyến tiết ra. Nó có tác dụng làm giảm Ca, P trong máu
bằng cách ức chế quá trình chuyển Ca từ xương vào máu. Vì mới được phát hiện vào 1963 nên chưa rõ hết
chức năng của calcitonin, nó thường hoạt động mạnh ở cơ thể còn non, ở người và động vật thì ít hoạt động.
4. Tuyến cận giáp
Tuyến này bao gồm 4 tuyến nhỏ nằm ở 2 cực trên và dưới của 2 thuỳ tuyến giáp, nặng khoảng 0,3g. Chất
tiết của tuyến là parathyroxin với các chức năng sinh lý:
- Đối với máu: làm tăng lượng Ca huyết, làm giảm lượng P trong máu do ức chế sự tái hấp thụ P.
- Đối với xương: nó tăng sự phân giải Ca và đẩy Ca vào máu dẫn đến tăng Ca huyết. Đối với gia cầm
nó tăng Ca để tạo vỏ trứng.
- Đối với thận: parahormone làm tăng sự tái hấp thu Ca từ các ống sinh niệu vào mao mạch máu nên
hàm lượng Ca huyết tăng. Trạng thái bệnh lý của tuyến cận giáp có các dạng:
24


- Nếu ưu năng: Ca bị huy động từ xương vào máu rất nhiều làm hàm lượng Ca ở xương giảm mạnh gây
nên bệnh loãng xương, nhuyễn xương và dễ gẫy.
- Nếu nhược năng: Ca lại bị điều từ máu vào xương làm Ca trong máu giảm mạnh gây ra cơn co giật vì
lúc đó K làm tăng hưng phấn của cơ bắp nên dù kích thích nhẹ cũng gây co giật toàn thân.
- Nếu cắt bỏ tuyến này trong vòng 2 - 5 ngày sẽ gây co giật và tử vong.
5. Tuyến tuỵ nội tiết
Tuyến tuỵ là một tuyến kép với chức năng ngoại tiết và nội tiết, có 2 loại mô tiết nằm xen kẽ nhau. Các tế

bào nang tuyến tiết ra dịch tuỵ chứa các enzym chảy theo ống dẫn tuỵ vào tá tràng để tiêu hoá thức ăn. Giữa
các tế bào đó còn có nhiều tế bào đặc biệt tập trung thành đám do Langethans tìm thấy vào năm 1869 nên được
gọi là đảo Langethans với số lượng khoảng 1 triệu đảo và tiết các hormone:
+ Insulin: do tế bào β của đảo tuỵ tiết ra và có chức năng:
- Hoạt hoá hexokinase (enzym này vẫn bị STH của tuyến yên ức chế) để chuyển glucose thành Gluco 6.P do đó thúc đẩy quá trình tổng hợp glycogen dự trữ hoặc dị hoá glucose vào chu trình Krebs.
- Từ sản phẩm trung gian của glucose còn tổng hợp nên protit và lipit.
- Đối với lipit nó làm tăng axit béo và mỡ trung tính.

- Đối với protein, nó làm giảm nồng độ axit amin trong máu tăng tổng hợp protein. Đối với muối
khoáng, nó giúp ion K+, Na+ qua màng dễ dàng hơn. Nếu thiếu
insulin việc tổng hợp glucogen gặp khó khăn, nồng độ của glucose
tăng cao trong máu dẫn đến bệnh đái đường (diabet). Nếu nhiều
insulin thì hạ đường huyết kéo dài làm cơ bị yếu.
+ Glucagon: do tế bào của đảo tụy tiết ra với các chức năng
sau:
- Hoạt hoá enzym photphorylase để chuyển hoá ngược glycogen dự trữ thành glucose.
- Tăng phân giải lipit, tăng dị hoá thoát nên urê trong máu tăng.
- Kích thích phần tuỷ tuyến trên thận tăng tiết adrenalin, kích thích tế bào β của đảo tụy tăng tiết insulin
nhằm duy trì cân bằng đường huyết.
6. Tuyến trên thận
Tuyến này gồm 2 tuyến nhỏ úp lên cực trên của 2 quả thận. Mỗi tuyến đều có 2 lớp: vỏ và tuỷ tiết ra nhiều
hormone khác nhau.
a. Phần vỏ tuyến trên thận
Phần này có nguồn gốc từ lá phổi giữa, tiết ra nhiều hormone quan trọng được gọi chung là corticosteroit và
chia làm 3 nhóm sau:
+ Nhóm mineralocorticoit (nhóm điều hoà chất khoảng): aldosteron, dezoxycorticosteron trong đó
aldosteron làm tăng quá trình tái hấp thu Na+, Cl- trong ống thận, làm huyết áp tăng lên.
+ Nhóm glucocorticoit (nhóm điều hoà gluxit): làm tăng lượng glucose từ các nguyên liệu là thoát và
lipit. Nhóm này có cortizon, hydrocortizon corticosteron.
Cortizon tạo glucose bằng cách khử nhóm quan (NH2) của axit quản ở gan và biến phần không chứa nitơ

thành glucose. Các hormone của nhóm này có tác động chống viêm nhiễm dị ứng.
+ Nhóm sexualcorticoit (nhóm điều hoà sinh dục): có tác dụng tương tự như các hormone sinh dục, bao
gồm: androgen, oestrogen, progesteron.
25


×