Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Trường ca về thời chống mỹ trong văn học hiện đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 209 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM

TRƯỜNG CA
VỀ THỜI CHỐNG MỸ TRONG
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả được trình bày trong luân án này là trung thực và chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Liên Tâm



MỤC LỤC
Trang
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Giới hạn của đề tài: đối tượng nghiên cứu - phạm vi vấn đề .................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................... 4
5. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. ...22
7. Kết cấu của luận án ............................................................................................. 23
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI
CHỐNG MỸ ...................................................................................... 24
1.1. Những nhân tố khách quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca ........................ 24
1.1.1 Sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại .................................................... 24
1.1.2. Thời đại ..................................................................................................... 32
1.1.3 Sự gắn kết giữa yếu tố thời đại và dân tộc ............................................... 35
1.2 Những nhân tố chủ quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca ............................ 39
1.2.1. Nhà thơ - người trong cuộc ....................................................................... 39
1.2.2 Nhà thơ thời hậu chiến. So sánh với nhà thơ - người trong cuộc .............. 46
1.2.3.Sự gắn kết giữa yếu tố cá nhân và yếu tố cộng đồng .............................. 60
Chương 2
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI CHỐNG MỸ
2.1. Hệ thống đề tài .................................................................................................. 70
2.1.1. Đề tài đất nước ........................................................................................... 71
2.1.2 Đề tài chiến tranh và người lính ................................................................ 76
2.1.3. Đề tài lãnh tụ ............................................................................................. 84
2.1.4. Đề tài tình yêu đôi lứa ................................................................................ 90
2.2. Sức khái quát hiện thực về địa danh và con người ........................................... 98



2.2.1. Sức khái quát hiện thực về địa danh ...................................................... 99
2.2.2. Sức khái quát về người thực, việc thực ................................................ 104
2.2.3. Sức khái quát về sự đồng hành của nhân dân ...................................... 106
2.2.4. Sức khái quát về sự hy sinh của nhân dân ............................................ 115
2.3. Đặc trưng sử thi. Sự gắn kết giữa tính chất sử thi và trữ tình ....................... 122
2.3.1. Đặc trưng sử thi .................................................................................... 122
2.3.2 Sự gắn kết giữa tính chất sử thi và trữ tình .......................................... 126
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI CHỐNG MỸ

3.1. Sự phức hợp và đa dạng về thể thơ ................................................................ 135
3.2. Tính chất đa giọng điệu. Giọng điệu sử thi…… .............................................. 142
3.3. Không gian nghệ thuật. Không gian sử thi ..................................................... 159
3.4 Sự liên tưởng .................................................................................................... 168
3.5 Chất liệu văn học dân gian .............................................................................. 173
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 181
THƯ MỤC ......................................................................................................................... 186
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 190

PHỤ LỤC .............................................................................................................. 197
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN………..204


1

DẪN NHẬP
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc chiến tranh thời chống Mỹ đã qua đi trên một phần tư thế kỷ nhưng
âm vang hào hùng của nó vẫn vọng đến tận bây giờ và mãi mãi về sau. Văn học

đã ghi lại một thời kháng chiến oanh liệt của dân tộc. Những chiến công hiển
hách; những tấm gương anh dũng; những mối tình thuỷ chung son sắt; tình yêu
quê hương, đất nước… cả những đau thương, mất mát không gì bù đắp nổi
cũng được tái hiện trong văn học. Đó chính là hơi thở của cuộc sống chân thực
đã từng diễn ra trên đất nước ta.
Hậu quả chiến tranh để lại thật tàn khốc bởi nó là những dư âm đọng lại
trong những tháng năm hòa bình. Chiến tranh không phải là định mệnh nhưng
nó đã khiến cho bao người phải chịu những số phận nghiệt ngã. Dư ba của
chiến tranh như những con sóng nối tiếp nhau cứ lan mãi đến ngày sau… Tất cả
những điều ấy được các nhà thơ thời chống Mỹ, những cây bút thời hậu chiến...
tập trung sức viết để ngưỡng vọng, đồng cảm, sẻ chia về một thời quá khứ đã in
đậm dấu ấn vào cuộc sống của dân tộc. Văn học góp phần thể hiện cuộc sống
thăng trầm của lịch sử. Sức khái quát hiện thực của thơ ca - đặc biệt là trường
ca - thật mạnh mẽ, sâu rộng, đã phản ánh lịch sử một thời mà thấm suốt không
gian, thời gian của bao thời đại sau này. Trường ca sử thi hiện đại là một thể
loại thơ ca trữ tình mang dung lượng khá đồ sộ; thể hiện cảm xúc mãnh liệt và
thường có nội dung lớn; có khả năng phản ánh, tổng kết một giai đoạn lịch sử,
những vấn đề lớn lao của dân tộc. Nền văn học Việt Nam không thể thiếu vắng
mảng trường ca về thời chống Mỹ, bởi:
- Từ khi mới xuất hiện, trường ca có giá trị xuất hiện trong thời chống Mỹ
đã có hiệu ứng xã hội tích cực, tác động sâu rộng đến tâm hồn con người Việt
Nam. Thời hoàng kim của trường ca thời chống Mỹ là vào thập niên 70. Ngày
nay, trường ca vẫn chảy miệt mài trong lòng dân tộc, vì vậy, nghiên cứu trường


2

ca về thời chống Mỹ là một công việc có hấp lực mạnh mẽ đối với người
nghiên cứu.
- Nhiều trường ca nổi tiếng từ thời chống Mỹ đã được chọn để giảng dạy

trong các trường Phổ thông, Cao đẳng, Đại học. Các trích đoạn trong: Bài ca
chim Chơ rao, Theo chân Bác, Mặt đường khát vọng, Đường tới thành phố,
Những người đi tới biển... mang chất trữ tình sâu sắc và âm hưởng sử thi hào
hùng, góp phần phản ánh hiện thực cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ngày nay, các
trích đoạn đặc sắc ấy vẫn được tiếp tục có mặt trong các chương trình văn học
đã nêu trên. Vì vậy, nghiên cứu giá trị lịch sử và giá trị văn học của trường ca
cũng góp phần nhất định vào việc giảng dạy, tiếp cận trường ca hiện đại.
- Tên gọi thống nhất; hệ thống hình tượng nhân vật; hệ thống đề tài, không
gian sử thi; giọng điệu sử thi… trong trường ca đã được chú ý nghiên cứu
nhưng vẫn còn mang tính riêng lẻ. Nhiều vấn đề khác trong trường ca vẫn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống. Giá trị lịch sử và giá trị văn học của
trường ca trong tiến trình lịch sử văn học hầu như chưa được đánh giá đúng
mức. Nhiều bài viết, bài nghiên cứu hầu như chỉ tập trung vào việc xác định tên
gọi hoặc giới thiệu tác giả tiêu biểu đã sáng tác trường ca.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Trường
ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam” để nghiên cứu trên cơ
sở tiếp thu có chọn lọc những công trình, bài viết quý báu của các nhà nghiên
cứu đi trước, từ đó góp cái nhìn bao quát hơn về trường ca sử thi hiện đại.
2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích khoa học đề ra, luận án tập trung nghiên cứu “Trường ca về
thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam”.
- Về lịch sử, thời chống Mỹ bắt đầu từ năm 1955 đến 1975. Về mặt văn học
giai đoạn này, các nhà thơ đã sáng tác trường ca (chủ yếu xuất hiện từ 1960)
với mạch cảm xúc ngợi ca và tâm thế của người trong cuộc. Nhưng từ sau


3

4/1975 đến khoảng 1980, họ vẫn chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh về cuộc chiến

mới đi qua, vẫn sáng tác với tâm thế người trong cuộc, mạch cảm xúc chủ
đạo vẫn là phản ánh hiện thực cuộc chiến thời chống Mỹ. Vì thế, chúng tôi
xếp trường ca xuất hiện từ 1975 - 1980 vào nhóm trường ca 1960 - 1980 và tạm
chia đối tượng khảo sát vào hai mốc thời gian để thuận tiện cho nghiên cứu:
- Trường ca về thời chống Mỹ có giá trị ra đời từ 1960 đến 1980.
- Trường ca về thời chống Mỹ có giá trị ra đời từ 1980 đến nay (chủ yếu
thiên về cảm xúc hồi tưởng của người nhìn lại quá khứ chiến tranh).
2.2. Phạm vi vấn đề
Với khả năng có hạn, chúng tôi cố gắng tìm hiểu những công trình nghiên
cứu, phê bình để khẳng định giá trị của trường ca về thời chống Mỹ, tiếp cận
các bài nghiên cứu về tác giả để xác định những đóng góp của họ trong sự
nghiệp sáng tác trường ca. Qua đó, chúng tôi tiếp thu có chọn lọc thành tựu của
những công trình đi trước, vận dụng sự hiểu biết của bản thân để nghiên cứu
Trường ca về thời chống Mỹ. Người viết quan niệm: trường ca về thời chống
Mỹ là trường ca sử thi hiện đại và phạm vi vấn đề cần nghiên cứu là:
- Những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca.
- Các nội dung chủ yếu như: hệ thống đề tài, sức khái quát hiện thực, đặc
điểm sử thi.
- Các đặc điểm nghệ thuật như: sự phối hợp các thể thơ, không gian sử thi,
giọng điệu sử thi, sự liên tưởng, chất liệu văn học dân gian… của trường ca.
Tuy nhiên, về kết cấu luận án, sự phân chia chương II và chương III chỉ
mang tính tương đối vì khó tách bạch riêng lẻ yếu tố nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm nói chung và trường ca nói riêng.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu trường ca về thời chống Mỹ nhằm mục đích tìm hiểu:
những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca, nội dung chủ yếu, đặc điểm


4


nghệ thuật; từ đó rút ra những kết luận về sự đóng góp của tác giả và giá trị của
trường ca về thời chống Mỹ trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Luận án xác định những nội dung cơ bản, những đặc điểm quan trọng và
riêng biệt làm nên giá trị của trường ca về thời chống Mỹ; cung cấp thêm nhận
thức về lý thuyết thể loại (tên gọi trường ca sử thi hiện đại) và bước đầu giải
quyết các vấn đề đã đặt ra trên cơ sở kế thừa các công trình của những nhà
nghiên cứu đi trước.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu, người viết hy vọng góp thêm một tiếng nói,
một cái nhìn tổng hợp về giá trị của trường ca về thời chống Mỹ; cung cấp
thêm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy, học tập về trường ca hiện đại.
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhận xét mở đầu
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có một công trình chuyên
sâu, tổng hợp giá trị trường ca về thời chống Mỹ. Trong luận văn Cao học “Đặc
điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ”, chúng tôi đã tiến
hành phân loại lịch sử vấn đề theo hai nhóm:
- Những nhận xét, luận bàn về tên gọi và sự phát triển của trường ca.
- Những ý kiến nhận định về các tác giả và các trường ca có giá trị.
Tuy nhiên, trải qua mỗi chặng đường nghiên cứu, chúng tôi lại phát hiện
thêm những điều mới. Để thấy được kết quả nghiên cứu của những người đi
trước, trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi xin lược thuật lại những điểm
chính, bổ sung một số ý kiến, nhận định và cập nhật các công trình nghiên cứu
gần đây.
5.1. Những nhận xét, luận bàn về tên gọi và sự phát triển của thể loại
Đã có một số công trình nghiên cứu về thể loại trường ca; bàn luận và
phân định đâu là thơ dài, đâu là truyện thơ, xác định rõ những điều kiện cần và
đủ để được gọi là trường ca (phải mang nội dung lớn, dung lượng đồ sộ, khái



5

quát những vấn đề của lịch sử…), đồng thời nghiên cứu về sự phát triển của thể
loại đặc biệt này.
Có thể kể đến một số bài viết đăng trên các tạp chí, các sách:
- Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/1975 có bài viết bàn về thể loại trường
ca của Lại Nguyên Ân, số 1, 2. 3/1981 có bài viết của Hữu Thỉnh, Từ Sơn,
Hoài Thanh, Trần Ngọc Vương, Phạm Tiến Duật…
- Trên TC VH số 6/1982 có bài viết của Đỗ Văn Khang, Vũ Đức Phúc…
số 3/1984 có bài của Hoàng Ngọc Hiến, số 3,4/1988 của Mã Giang Lân...
- Trên GDTĐ- 2002 có bài của Đào Thị Bình; trên Tạp chí Văn nghệ QĐ,
báo Nhân Dân, Văn nghệ Trẻ năm 2007 - 2008 có bài viết của Vũ Tuấn Anh,
Nguyễn Hữu Quý... Gần đây, có bài viết của Trần Đình Sử (báo mạng- 4/2010).
Về sách đã in:
- Lại Nguyên Ân có tác phẩm Văn học và phê bình (Nxb Tác phẩm mới 1984) trong đó có nhiều trang bàn luận về trường ca.
- Vũ Văn Sỹ có tập Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 - 1995
(Nxb KHXH - 1999) đi sâu vào việc tìm hiểu thi pháp trường ca; trong tập tiểu
luận Mạch thơ trong nguồn thế kỷ (Nxb KHXH - 2005), ông cũng có bài viết
“Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” [85, tr.137].
- Phạm Quốc Ca với chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại
1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà Văn - 2003), qua bài viết: “Sự biến đổi của trường
ca” đã góp thêm tiếng nói về thể thơ ca này [11, tr.177-183].
Sau đây, chúng tôi xin được tóm lược lại những vấn đề có liên quan đến
thuật ngữ “trường ca”, sự phát triển thể loại mà các nhà nghiên cứu đã đề cập
trên cơ sở có bổ sung cẩn trọng:
Trong bài “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” (TCVH số 4/1975) sau
này in lại trong Văn học và phê bình (5), Lại Nguyên Ân đã đề nghị gọi chung
những tác phẩm thơ dài là trường ca. Quan niệm này, có người đồng ý nhưng
cũng có người không chấp nhận. Sau này, trong bài “Bàn góp về trường ca”



6

(4), ông cho rằng “hình như ai cũng đúng cả”. Thực sự, đề nghị của ông về
cách gọi tên chung như thế không phù hợp với đặc trưng riêng của thể loại
trường ca vì thơ dài khác với trường ca, thơ dài không cần thiết chứa đựng
nội dung lịch sử, cảm hứng sử thi, không gian sử thi... Những nghiên cứu của
Lại Nguyên Ân là một đóng góp thiết thực cho việc nhận định về con đường
phát triển của trường ca.
Từ Sơn, trong bài “Về khái niệm trường ca” (TCVNQĐ số 1/1981) cho
rằng trường ca "là thơ chứ không phải là ca" [80, tr.120]. Theo ông, nên dùng
thuật ngữ trường ca cho những bài thơ dài có cốt truyện tự sự trên 500 câu và
nên gọi chung là truyện thơ. Cách lý giải của Từ Sơn nghiêng về việc lấy
nghĩa gốc của thuật ngữ “trường ca” để đặt tên cho thể loại.
Cũng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 5/1981, Hoài Thanh có bài "Thơ
và chuyện trong thơ". Ông cho rằng: Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non
ngàn dặm, Theo chân Bác của Tố Hữu và cả Trường ca Nguyễn Văn Trỗi của
Lê Anh Xuân đều là truyện thơ. Như vậy, theo Hoài Thanh, "truyện thơ" và
"trường ca" cũng chưa được phân định cụ thể như quan niệm hiện nay.
Trần Ngọc Vượng, trong bài “Về thể loại trường ca và tính chất của nó”
(Tạp chí VNQĐ số 5/1981), đã đưa ra những nhận định tinh tế, phân biệt sự
khác nhau giữa trường ca và truyện thơ, thơ dài. Theo ông "trường ca của ta
bây giờ không phải cùng khuôn với các thể loại đã từng có mặt trong lịch sử
văn học" [11, tr.129]. Những lập luận để phân biệt trường ca với khúc ngâm,
truyện thơ, thơ dài mà ông đưa ra khá hợp lý: trường ca phân biệt với thơ dài
trước hết ở dung lượng cảm hứng, “cảm hứng đó là linh hồn của trường ca", và
chỉ có thể xuất hiện ở một thời đại cách mạng [114, tr.129]. Đây là một nhận
định khá sâu, góp phần xác định đặc điểm thể loại và lý giải vì sao giai đoạn
này trường ca nở rộ.

Năm 1982, Mã Giang Lân đã góp tiếng nói bàn về thể loại trường ca trong
bài "Trường ca, vấn đề thể loại" đăng trên TCVH số 6. Ông nhận xét rằng:


7

"Lâu nay các nhà nghiên cứu phê bình văn học thường dùng thuật ngữ "trường
ca" để chỉ về một thể loại văn học thời kỳ thượng cổ như trường ca Đăm San,
trường ca Xing Nhã... của đồng bào Tây Nguyên; trường ca Đẻ đất đẻ nước
của người Mường… hoặc tuỳ tiện cho tất cả những sáng tác thơ dài đều là
trường ca cả” [45, tr.104]. Sau khi dẫn ra một số tác phẩm thơ dài và trường ca
để phân tích, lý giải về mặt thể loại, Mã Giang Lân đi đến khẳng định: "Thơ dài
và trường ca có những nét tương đồng như sử dụng tổng hợp nhiều thể thơ,
thay đổi không khí cảm xúc, hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu, thường khai thác
và biểu hiện cái đẹp cái cao cả, cái anh hùng. Nhưng ở trường ca bộc lộ rõ
nội dung ca ngợi, hào hùng, nên cảm hứng anh hùng phải là mạch cảm xúc
chủ đạo” [45, tr.108-109].
Cuối cùng tác giả đưa ra kết luận có tính khái quát: “Đường đi của sử
thi… là đến tiểu thuyết. Còn thơ trữ tình là cái nôi của trường ca và thơ dài.
Trường ca đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo trên các yếu tố cơ bản của thơ trữ
tình và sử thi nghĩa là kết hợp cả hai phương thức biểu hiện: trữ tình và tự sự"
[45, tr.152]. Nghiên cứu của Mã Giang Lân đã giúp cho chúng tôi có một sự
phân định về trường ca và thơ dài khá rõ ràng.
Vũ Đức Phúc cũng rất quan tâm đến thể loại trường ca nên trên Tạp chí
Văn học số 6/1982, ông có bài viết “Chung quanh vấn đề trường ca". Cũng
như Từ Sơn, ông nhận xét về nghĩa và cách dùng thuật ngữ "trường ca". Theo
ông: "trường ca là một thuật ngữ văn học mới, chưa chính xác, chưa ổn định,
để chỉ các sáng tác thơ dài" [73, tr.93] "khoảng từ bốn, năm trăm câu trở lên
[72, tr.94] và phải có sức "lay động được con tim người đọc” một cách mạnh
mẽ, "thời đại ta đòi hỏi phải có trường ca anh hùng" [72, tr.99]. Ông cho rằng:

khi viết trường ca, nếu viết bằng một thể thơ thì “trường ca dễ đơn điệu” [72,
tr.101-102]. Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với nhận xét trên. Theo ông: "Theo
chân Bác là một thiên trường ca" [72, tr.100], và Tố Hữu đã phối hợp giữa anh
hùng ca với trữ tình trên cái nền gợi lại sự kiện lịch sử. Nhìn chung bài viết của


8

Vũ Đức Phúc đã khẳng định lại những vấn đề mà một số nhà nghiên cứu trước
đó nêu ra: trường ca phải được xây dựng trên nền sự kiện lịch sử, độ dài cần
vừa phải, cần có sự pha trộn, thể loại và yếu tố trữ tình rất quan trọng. Đặc biệt,
ông cho rằng yếu tố tự sự chỉ là phần độn thêm, điều này đối lập với ý kiến
của Đỗ Văn Khang khi cho rằng các trường ca đều cố gắng lấy tự sự làm chính.
Trên Tạp chí Văn học số 6/1982, trong bài “Từ ý kiến về trường ca sử
thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta", Đỗ Văn Khang đã dẫn ra ý kiến
của Hêghen viết về trường ca sử thi (Mỹ học Hêghen - 1836) để làm nền tảng
cho những lập luận của mình về “trường ca hiện đại Việt Nam"; cụ thể là về:
nguồn gốc sử thi, sức khái quát của trường ca sử thi, xung đột sử thi, tính cách
sử thi, chi tiết trong trường ca sử thi. Căn cứ vào công trình nghiên cứu sử thi
của Hêghen, ông xem xét trường ca ở các điểm sau đây:
+ "Chất khái quát tổng thể lịch sử, phong cách đồ sộ" [38, tr.87], trong đó
chú ý đến tính chất xung đột mang tính lịch sử.
+ "Các cá tính của trạng thái thế giới dân tộc rất mãnh liệt được biểu hiện
qua cái tôi nhà thơ" [38. tr.87].
+ "Vai trò của chi tiết trong trường ca… Cách tổ chức liên chương, liên
đoạn” [38, tr.90].
+ "Trường ca hướng về các biến cố trung tâm” [38, tr.91 cố gắng lấy tự sự
làm chính, "hình thức kể" là nhân tố quan trọng góp phần làm nên trường ca.
Đây là những ý kiến, những lập luận cơ bản dựa vào Mỹ học Hêghen.
Ông cũng không loại trừ hoàn toàn sự biến dạng của thể loại trường ca trong

quá trình vận động của lịch sử xã hội và thực tiễn đời sống văn học nước ta. Từ
những lập luận nêu trên, Đỗ Văn Khang đề nghị nên gọi những bài thơ đúng
bản chất, có ý nghĩa mỹ học đầy đủ là "trường ca sử thi hiện đại". Bản thân
người viết cũng đồng quan điểm về tên gọi trường ca sử thi hiện đại và rất
quan tâm đến “trạng thái dân tộc rất mãnh liệt biểu hiện qua cái tôi nhà thơ, cái
tôi chứng nhân lịch sử” mà Đỗ Văn Khang đã nghiên cứu.


9

Cũng trong năm 1982, Lại Nguyên Ân có bài "Thể trường ca trong thơ
gần đây" in ra trong Văn học và phê bình (5). Theo ông, trong phạm vi thơ hiện
đại ở ta, vẫn còn đủ thận trọng để “coi trường ca như là một thể loại đang hình
thành và phát triển với yếu tố trữ tình là yếu tố chủ đạo” [5, tr.8]. Ông nhận
định: "Thể tài trường ca là biểu hiện cụ thể của xu hướng sử thi hóa" [5, tr.22].
Ý kiến này giúp người viết tìm hiểu sâu về vấn đề thể loại và tính chất sử thi,
trữ tình trong trường ca về thời chống Mỹ.
Phạm Huy Thông, nhà thơ nổi danh với Tiếng địch sông Ô - phỏng tích
Trương Lương dùng tiếng địch làm tan nát hàng ngũ quân sỹ Hạng Võ; đã có
báo cáo tại hội nghị khoa học về Trường ca do Khoa Văn Đại học Tổng hợp tổ
chức (1983). Trong phần II mang tựa "Trường ca", Phạm Huy Thông đã khẳng
định “độ dài của trường ca là một yếu tố thuận. Độ dài góp phần cấp trọng
lượng cho chất tráng của thi ca" [98, tr.12]. Phương châm của Huy Thông là
"linh hoạt để sát hợp" [98, tr.17]. Bản thân người viết đồng tình với quan điểm:
độ dài cần linh hoạt, độ dài là yếu tố thuận, mà điều này thơ ngắn khó đạt
được khi cần khái quát vấn đề lớn lao của lịch sử, phản ánh cảm xúc mãnh liệt
của cái tôi chứng nhân lịch sử.
Hoàng Ngọc Hiến có những ý kiến được trình bày khá rõ trong bài "Về
đặc trưng của trường ca” (TCVH số 3/1984), đặc biệt là những nhận định
quan trọng về đặc trưng thể loại trường ca của Biêlinxki, của giáo sư A.N.Sôkô-lôv chuyên nghiên cứu về trường ca [28, tr.116]. Đồng thời, ông cũng giới

thiệu một số thành tựu về trường ca của nền văn học Xô viết và cuộc thảo luận
về trường ca kéo dài trên ba tháng đăng ở báo Văn học Liên Xô [28, tr.110].
Ông hoàn toàn nhất trí với ý kiến của Biêlinxki: "Trường ca chỉ là một thể loại
tác phẩm thơ đặc biệt... có nội dung lớn và dung lượng lớn”, "tương quan giữa
nguyên tắc trữ tình và nguyên tắc tự sự là một vấn đề trung tâm của thi pháp
trường ca; trong trường ca hiện đại, xu thế trữ tình lấn át tự sự” [28, tr.111110]. Cách lập luận và giải quyết vấn đề của ông dễ hiểu, phù hợp với cách


10

hiểu hiện nay về thể loại trường ca, nhất là nhận định: xu thế trữ tình trong
trường ca hiện nay lấn át tự sự. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ có trường ca
viết ở thời gian sau này như Những cánh đồng dưới lửa của Văn Lê, Đi trong
sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh lại thiên về xu hướng tự sự.
Vấn đề phân định thể loại trường ca và thơ dài đã khiến Mã Giang Lân
trăn trở và viết tiếp bài “Thử phân định giữa ranh giới trường ca và thơ dài"
(Tạp chí Văn học số 5,6/1988). Trong cuốn “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam”,
ở phần "Xu hướng mở rộng dung lượng phản ánh" [47, tr.356], ông cũng tập
trung đi sâu vào việc tìm sự giống nhau và khác nhau của hai loại này. Theo
ông, “trường ca có kết cấu rõ và hoàn chỉnh hơn; thể thơ đa dạng; nhân vật có
đường nét, tâm trạng hơn; nhịp điệu, nhạc điệu trong trường ca sôi nổi, hào
hùng hơn; yếu tố tự sự và trữ tình bổ sung cho nhau; đề tài: thuộc về hiện tại
mà tác giả từng sống, chứng kiến”. Đây là một sự nghiên cứu khá công phu,
giúp ta thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa trường ca và thơ dài.
Sự ra đời mạnh mẽ của trường ca đã trở thành một hiện tượng văn học nổi
bật trong đời sống thơ ca. Tháng 3/2002, trên Tạp chí Giáo dục số 26, Đào Thị
Bình có bài "Góp phần tìm hiểu trường ca viết về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước". Đây là một bài viết có giá trị, tổng kết lại một số ưu điểm nổi
trội của trường ca; giúp ta có một cái nhìn bao quát về thể loại; mở ra hướng
mới khi nghiên cứu, nhất là "chất suy nghĩ và triết lý", "chất trí tuệ chính luận"

[10, tr.30-31] trong trường ca.
Phạm Quốc Ca, trong chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại
1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà Văn - 2003) đã dành nhiều trang để viết về thể loại
trường ca. Ông nhận định “về tên gọi thể loại trường ca đã có sự không rạch
ròi… Do sự thâm nhập, hòa trộn giữa các thể loại... người ta đã gọi các tác
phẩm khá khác nhau bằng một cái tên chung là trường ca” [11, tr.178]. Theo
ông: có sự khác nhau khá rõ, chủ yếu là ở phương thức sáng tác; truyện thơ gắn
với nhân vật và kết cấu, cốt truyện; thơ dài gắn với cảm xúc trữ tình; trường ca


11

phân biệt ở chỗ dù có cốt truyện hay không, nó phải mang cảm hứng lớn về
nhân dân, về tổ quốc, về thời đại [11, tr.179]. Đây là những nhận xét khá thống
nhất với nhận định của các nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Vũ Đức Phúc, Mã
Giang Lân, Trần Ngọc Vượng… về cảm hứng sử thi, kết cấu, cái tôi trữ tình…
trong trường ca.
Tuy nhiên, cuối cùng, trong cách lập luận của tác giả vẫn có một vài điểm
chưa thống nhất khi nói rằng: “cho đến nay, vẫn rất khó phân biệt giữa trường
ca, truyện thơ, và thơ dài” [11, tr.178]. Về vấn đề này, người viết đã trình bày
trong phần mở đầu luận văn Cao học “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến
tranh thời chống Mỹ ”: trường ca hiện đại có thể có cốt truyện hoặc không cần
cốt truyện như truyện thơ nhưng phải mang cảm hứng lớn về nhân dân, tổ quốc,
thời đại (cảm xúc trữ tình dễ lẫn với thơ dài). Đặc trưng nổi bật của trường ca
giai đoạn 1960 - 1980 biểu hiện xu hướng sử thi hóa, âm điệu hào hùng, giọng
điệu ngợi ca. Trường ca ra đời sau 1980 thường đậm chất hồi tưởng, trăn trở, bi
tráng.
Vũ Văn Sỹ, trong phần thứ nhất của tập Mạch thơ trong nguồn thế kỷ [85]
đã cho in lại một số tiểu luận có liên quan đến trường ca như: “Hiện tượng đối
thoại với quan niệm nghệ thuật sử thi trong thơ” (TCVH số 4/1990, tr 98);

“Thành tựu và giới hạn lịch sử” (TCVH số 6/1990, tr 85): “Trường ca trong hệ
thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” (TCVH số 137/2000)... Trong đó, ông đã
có những nhận định, đánh giá rất khách quan và sâu sắc về thể loại trường
ca, thiên về ý kiến cho rằng trường ca là một hiện tượng thâm nhập của thể loại.
Nhưng ông cũng không tránh khỏi băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: “Liệu có
những nguyên tắc cho sự mềm dẻo của kết cấu trường ca? và phải chăng
trường ca đã thay thế cho truyện thơ” [85, tr.138-139]. Sau đó, chính ông cũng
đã lý giải: “Trường ca kế thừa truyện thơ nói riêng và những kinh nghiệm tự sự
của thơ ca nói chung... Chính vì thế, về bản chất, trường ca khác với truyện thơ
truyền thống, khác với truờng ca cổ điển nhưng lại gần gũi với thơ trữ tình”.


12

Theo ông, trường ca lấy sự trưởng thành của ý thức làm thước đo các biến cố
và sự kiện, là căn cứ để phân biệt bản chất giữa trường ca và truyện thơ truyền
thống. Đây là vấn đề mà luận án chúng tôi tập trung nghiên cứu.
Lê Thành Nghị, tác giả của tập Tiểu luận Trước đèn... thơ có những lập
luận tương đồng ý kiến Vũ Văn Sỹ khi cho rằng: “sự khác nhau giữa thơ dài và
trường ca, có thể dễ nhận thấy qua kết cấu của tác phẩm. Trường ca đòi hỏi
một kết cấu chặt chẽ, hợp lý, các chương đoạn có thể không theo qui luật thời
gian, không gian, có thể kết cấu theo tuyến sự kiện hoặc tuyến nhân vật...
trường ca khác hẳn một bài thơ dài ở tính chặt chẽ của kết cấu” [58, tr.178].
Vũ Tuấn Anh, trong bài “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ
hiện đại” [1], cũng đã trình bày những luận điểm sau:
+ Thơ ca chống Mỹ có cốt cách và tầm vóc của một nền thơ lớn, trước hết
là do tính quần chúng sâu rộng… Một nền thơ trữ tình - sử thi, giàu tính chính
luận và chất trí tuệ.
+ Thời đại lịch sử đã khai sinh một mô hình thơ ca mới, một kiểu nhà thơ
mới, một cái Tôi trữ tình công dân, một cái Ta dân tộc.

+ Nền thơ chống Mỹ làm phong phú rất nhiều khả năng biểu hiện của thơ
ca: từ việc sử dụng linh hoạt các thể thơ cho đến cấu trúc thơ, ngôn ngữ thơ.
Những vấn đề được tác giả nêu ra mặc dầu còn mang tính khái quát về thơ
chống Mỹ nói chung; nhưng lại là những vấn đề rất đáng quan tâm, sát hợp với
nội dung nghiên cứu để giúp người viết phân tích, tổng hợp các vấn đề từ thể
loại trường ca hiện đại viết về thời chống Mỹ nói riêng.
Chúng tôi cũng sử dụng các luận văn, luận án sau đây trong quá trình
nghiên cứu: + Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh
chống Mỹ” (2002) của Nguyễn Thị Liên Tâm.
+ Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca Thu Bồn” (2005) của
Nguyễn Xuân Cổn. Ngoài ra, chúng tôi có tham khảo thêm Luận án Tiến sĩ của
Mai Bá Ấn (10/2008) viết về Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn và Thanh Thảo.


13

Nhìn một cách tổng quát; các nhận định, công trình nghiên cứu nêu trên
đã giúp chúng tôi có một cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm... sâu sát về trường ca.
Ở giai đoạn đầu, khi trường ca mới xuất hiện, tính chất tự sự đóng vai trò chủ
yếu (khiến dễ lẫn với truyện thơ). Càng về sau 1975, yếu tố tự sự càng kết hợp
chặt chẽ với trữ tình, nhưng vai trò của yếu tố trữ tình bộc lộ mạnh mẽ, rõ nét
hơn (khiến dễ lẫn với thơ dài, thơ trữ tình).
Để kết thúc phần nhận định về thể loại trường ca, trên cơ sở đã trình bày ở
trên kết hợp với ý kiến mang tính tổng hợp của Đào Thị Bình, người viết cũng
cho rằng: "Trường ca hiện đại là một thể loại văn học thuộc hệ thống thơ ca
hiện đại Việt Nam, ra đời và phát triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến
cố lịch sử lớn lao, có dung lượng khá đồ sộ, cảm hứng mãnh liệt, nội dung
hoành tráng chứa đựng những sự kiện lịch sử phong phú, âm điệu hào hùng,
hình thức thể loại hiện đại, phốí hợp đa dạng các thể thơ, đậm tính trữ tình,
giàu chất suy nghĩ, triết lý” (TCGD số 26/2002). Đồng thời, người viết cũng bổ

sung ý kiến của ĐàoThị Bình: “trường ca hiện đại không chỉ ra đời và phát
triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến cố lịch sử trọng đại, lớn lao mà còn
ra đời cả trong thời bình”. Vì thực tế, sau 1975, trong thời bình không có biến
cố lịch sử lớn lao nhưng vẫn có hàng loạt trường ca ra đời hưởng ứng các cuộc
vận động sáng tác về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ và đa phần
được viết bằng thủ pháp “hồi tưởng”.
5.2 Những ý kiến phê bình, nhận định về các tác giả và các trường ca
tiêu biểu
Hầu hết đây là những bài phê bình nhận định về một tác giả, về một
trường ca cụ thể.
Bích Thu có bài viết “Thu Bồn”, đăng trong Phê bình bình luận Văn học do Vũ Tiến Quỳnh chủ biên [78], trích từ Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Nxb
KHXH - 1884). Tác giả nhận định ngòi bút Thu Bồn có khả năng mở rộng sự
sáng tạo ở nhiều lãnh vực, thể loại, đặc biệt là ở thể loại trường ca. Là một


14

người lính gắn bó với chiến trường miền Nam, Thu Bồn đi nhiều, viết khỏe.
Ngòi bút sáng tạo kết hợp hài hòa cảm xúc và trí tuệ, khái quát mà không tách
rời hiện thực. Bên cạnh mảng thơ trữ tình, Thu Bồn tập trung sức sáng tác
trường ca. Sau khi ra mắt Bài ca chim Chơrao (1964), ông viết tiếp Vách đá Hồ
Chí Minh (1972), Quê hương mặt trời vàng, Chim vàng chốt lửa (1975),
Badankhát (1977), và Campuchia hy vọng (1979). Theo Bích Thu, Thu Bồn là
người sáng tác trường ca hiện đại với số lượng khá nhiều, gắn với thời kỳ
hoàng kim của thể loại. Và sau 1975, Thu Bồn vẫn say viết trường ca, nhất là
viết về Tây Nguyên. Bài ca chim Chơrao có kết cấu theo cốt truyện, được đánh
giá là tác phẩm thành công, đưa ông đến với độc giả trong và ngoài nước (giải
Bông sen - tại Đại hội các nhà văn Á Phi họp tại Liên Xô 1973). Bích Thu cho
rằng: “Trường ca của Thu Bồn thường có tính chất thời sự. Song từ điểm mạnh
này, thơ anh cũng bộc lộ một số hạn chế. Chất liệu hiện thực trong thơ… nhiều

khi còn bề bộn, ngổn ngang…, có cảm giác Thu Bồn còn cầu kỳ, chuộng lạ
trong cách đặt tên cho các tiêu đề của trường ca” [78, tr.66-68]. Qua nghiên
cứu, chúng tôi cũng khẳng định rằng: sự xuất hiện rầm rộ của trường ca, trong
đó có sự đóng góp chủ lực của Thu Bồn, là một hiện tượng văn học nổi bật
trong đời sống thơ ca những năm chống Mỹ.
Tố Hữu, cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đã được
rất nhiều nhà phê bình như Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ, Phong Lan… nghiên
cứu và Theo chân Bác được đánh giá là một thiên trường ca viết về Hồ Chí
Minh. Nguyễn Văn Hạnh có tiểu luận “Theo chân Bác - một thành công mới
của Tố Hữu”, in trong cuốn “Tố Hữu về tác gia và tác phẩm” do Phong Lan
chủ biên. Theo ông, ngay việc đặt đầu đề cho trường ca, Tố Hữu đã thể hiện kín
đáo ý đồ nghệ thuật: “Theo chân Bác” để làm sống lại trước mắt những chặng
đường Bác đã đi qua. Trong trường ca, lịch sử và cảm xúc, tự sự và trữ tình, thủ
pháp kể chuyện và miêu tả, biểu hiện xen kẽ… Nguyễn Văn Hạnh cũng ca
ngợi: “Theo chân Bác với những thành công nổi bật của nó về nhiều mặt… Bài


15

thơ viết với một cảm hứng lớn, công phu và với một trình độ già dặn… đã gửi
vào bản trường ca tất cả tâm huyết, tất cả sức mạnh nghệ thuật của anh và bài
thơ đã làm“nhiệm vụ lịch sử” của nó một cách xứng đáng” [43, tr. 670, 674,
675]. Tuy vậy, ông cũng chỉ ra những hạn chế của trường ca: có những đoạn
không hay, dễ dãi, dàn trải… có đoạn nặng tưởng tượng, một số hình ảnh trùng
lặp, ít có sức nặng (ngẩng đầu cao, vỗ cánh bay…). Những nhận định của ông
giúp chúng tôi có cơ sở nghiên cứu giá trị văn học, giá trị lịch sử, cảm hứng sử
thi của trường ca về thời chống Mỹ.
Tôn Phương Lan đã đánh giá cao về tài năng Nguyễn Khoa Điềm trong
bài viết “Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng" (TCVH số
5/1976): “Một điểm đáng chú ý trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những liên

tưởng độc đáo, kết quả của một sự am hiểu cuộc sống và một cảm quan nhạy
bén” [44, tr.110]. Tôn Phương Lan cũng khái quát về giá trị phản ánh của tác
phẩm: “góp cho văn học một phong cách mới... những khái quát thơ sâu sắc
với bút pháp hiện thực và lãng mạn quyện chặt vào nhau [44, tr.112]. Cuộc
sống chiến đấu vĩ đại của toàn dân là cơ sở hiện thực cho những dòng suy tư
cuộn chảy” [44, tr.115]. Tuy nhiên, Tôn Phương Lan cũng cho rằng chất suy
tưởng đằm sâu của Nguyễn Khoa Điềm nhiều khi khiến cho thơ ít chất hồn
nhiên tươi tắn: "Lắm khi nó trở nên rắc rối, cầu kì, chữ nghĩa" [44, tr.112].
Những nhận định chính xác của tác giả giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về
sức khái quát hiện thực của tác phẩm và phong cách chính luận của Nguyễn
Khoa Điềm.
Trong bài viết “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ hiện đại”
Vũ Tuấn Anh cũng nhận xét: “Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn
Khoa Điềm mở ra cuộc đối thoại thảo ngay… Phương thức chính luận mở ra
nhiều bình diện, đi sâu vào nhiều khía cạnh của nội dung lịch sử - dân tộc, thời
đại, tạo nên tính thuyết phục trí tuệ của thơ ca, mở rộng những khả năng mới
cho thơ trữ tình” [1]. Nhận xét trên góp phần khẳng định giá trị của Mặt đường


16

khát vọng, tài năng của Nguyễn Khoa Điềm, mở ra hướng nghiên cứu về nội
dung lịch sử - dân tộc, thời đại, biểu hiện qua phương thức chính luận giàu chất
trữ tình, giúp người viết đánh giá về sự đóng góp của tác giả và tác phẩm.
Trong bài viết “Nguyễn Khoa Điềm với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa
ấm” (TCVH số 4/1988) Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng “Triết lý và trữ tình cuộn
chảy và lắng đọng, sự già dặn của suy nghĩ đan lẫn nét tinh tế và tài hoa - sự
hợp chuyển hài hòa những yếu tố ấy là kết quả của nhận thức lý trí, của sự mẫn
cảm của thơ với nhịp đập thời đại mà đời và thơ anh nhập cuộc”.
Vũ Văn Sỹ, trong tiểu luận “Thơ Nguyễn Khoa Ðiềm - một giọng trữ

tình giàu chất sử thi” [85, tr.290] đã ca ngợi: “Với Đất ngoại ô và Mặt đường
khát vọng có thể khẳng định Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ đặc sắc của
thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Một tiếng nói trẻ trung, có cá tính, vừa “đồng
thanh”, vừa đại diện cho một thế hệ trực tiếp cầm súng và vào trận”. Những
đánh giá của Vũ Văn Sĩ và Vũ Tuấn Anh về tác giả khá cụ thể, nhất là về sự
tinh tế, tài hoa, nhận thức thời đại, sự kết hợp giữa tính triết lý và trữ tình.
"Thanh Thảo, thơ và trường ca" (TCVH số 2/1980) là bài nhận định của
Thiếu Mai về một cây bút bộ đội viết về người lính Trường Sơn thời chống Mỹ.
Theo Thiếu Mai: "Ngòi bút Thanh Thảo tinh tế mà thanh thoát, phong phú mà
nhẹ nhõm… lời thơ đẹp, không dễ dãi, buông thả” [52, tr.102]… là thơ của một
tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ. Thơ Thanh Thảo có chiều sâu…, bao giờ
anh cũng muốn vượt qua những hiện tượng bên ngoài để tìm đến cái đích thực,
cái bản chất của sự vật” [52, tr.99]. Bài viết đã dành nhiều trang nhận định về
giá trị của Những người đi tới biển, giúp người viết có thuận lợi ban đầu trong
việc nghiên cứu về tác giả và đặc biệt là giọng điệu và sức khái quát hiện
thực của trường ca.
Trong bài "Thanh Thảo, một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau
1975" đăng trên TCVH số 5, 6/1985, Bích Thu nhận xét: Thơ anh “hướng ngòi
bút vào chân dung người lính, vào hiện thực chiến trường, vào đời sống nhân


17

dân… để khám phá ra chân dung tinh thần của một thế hệ người lính trong giai
đoạn chiến tranh khốc liệt mà hào hùng… là tiếng nói thâm trầm, thấm thía về
hiện thực chiến tranh, về trách nhiệm và số phận của thế hệ mình trước Tổ
quốc, nhân dân” [99, tr.67]. Đánh giá về Những người đi tới biển, Bích Thu
khẳng định so với nhiều trường ca xuất hiện rầm rộ vào những năm 70, tác
phẩm thực sự gây ấn tượng đẹp đối với người đọc về thể thơ này vì: “Cái tôi
trong trường ca. là cái tôi từng trải, cái tôi chứng kiến... mang đậm dấu vết cá

nhân, không lập lại bất cứ ai, lý giải được những vấn đề sinh tử của một giai
đoạn lịch sử, chất liệu hiện thực đi vào thơ Thanh Thảo, vừa bình dị, đời
thường vừa lung linh, huyền ảo…” [99, tr.70-71]. Như vậy, Bích Thu đã điểm
qua về vấn đề xây dựng cái tôi của nhà thơ, nhận xét về chất liệu cuộc sống
trong trường ca và có nhận định rất khách quan rằng: “Thanh Thảo có những
tìm tòi mới trong hành trình sáng tạo [99, tr.69], nhưng "Thơ Thanh Thảo giàu
chất suy tư, hơi quá trí thức mà thành ra khó hiểu" [99, tr.72].
Tuy nhiên, cuối cùng, Bích Thu vẫn khẳng định Thanh Thảo xứng đáng là
một gương mặt thơ tiêu biểu [99, tr.73]. Những nhận xét của Bích Thu và Thiếu
Mai giúp chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về giá trị phản ánh hiện thực thời chống
Mỹ, cái tôi và cái ta trong trường ca của Thanh Thảo, những đóng góp của nhà
thơ đối với dòng văn học thời chống Mỹ để thực hiện việc nghiên cứu chương
II của luận án.
Lại Nguyên Ân cũng đã viết về Thanh Thảo trong bài "Dấu chân và
người lính trẻ trong thơ Thanh Thảo”, [5, tr.45]. Ông đã nhận định: “Thanh
Thảo… đi vào chiến trường cuối những năm 60, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu
chân người lính trẻ... Và tâm trạng người lính, đời sống, chiến đấu của người
lính, đời sống nhân dân trong vùng sát nách giặc đã dội vào thơ các anh với
những âm điệu và màu sắc có khác”. Thơ Thanh Thảo viết về cuộc chiến đấu ở
dọc Trường Sơn và đồng bào Nam Bộ, cố gắng phác họa chân dung tinh thần
của những người lính bình thường, vô danh nhưng rất có ý thức về vận mệnh


18

Tổ quốc. Thơ anh không thiếu cái cụ thể... mà “vẫn giàu khái quát” [5, tr.52].
Nhận định trên đã khẳng định sức khái quát hiện thực của Những người đi tới
biển và ngòi bút Thanh Thảo mà chúng tôi sẽ nghiên cứu ở chương II.
Đánh giá về bút pháp xây dựng trường ca Những người đi tới biển, Lại
Nguyên Ân cho rằng: “Thanh Thảo chính đã thành công ở phần chân thật

trong cảm quan về thực tại chiến đấu, có hy sinh mất mát, có chiến thắng lạc
quan; sắc thái bi hùng, trữ tình… hòa hợp ở mức khá cao với tính sử thi, điều
này đem lại thành công cho anh” [5, tr.55]. Ý kiến của Lại Nguyên Ân tạo
thêm cơ sở để chúng tôi nghiên cứu sức khái quát hiện thực; yếu tố sử thi,
trữ tình trong trường ca cũng như bút pháp hiện thực của Thanh Thảo.
Mai Hương rất tâm đắc với phong cách viết trường ca của Hữu Thỉnh một nhà thơ bộ đội thời chống Mỹ. Trên TCVH số 3/1980, với bài "Đọc
Đường tới thành phố”, Mai Hương cho rằng: "Ngòi bút Hữu Thỉnh thật tỉnh
táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu dễ dãi... khi viết về cuộc hành
trình vĩ đại của cả dân tộc” [35, tr.109]. Trong những trang viết khá cẩn thận,
Mai Hương đã nhận xét khái quát từng chương của trường ca: cách khai thác
chủ đề, cách chọn vấn đề của tình cảm, chọn tình huống gây cấn để mô tả, từ đó
đưa người đọc đến với “sự tinh tế trong đời sống” tình cảm vốn đẹp và trong
lành của con người Việt Nam, đặc biệt là sự hoà quyện giữa cá nhân và cộng
đồng [35, tr.110]. Mai Hương cũng cho rằng: "Khi tác giả cố chỉ thuần lao tìm
về mặt hình thức, ở những chỗ ấy... khó đọc, khó nhớ và có phần nặng nề" [35,
tr.112]. Nhưng cuối cùng, tác giả vẫn khẳng định Đường tới thành phố đã thu
hút được sự chú ý, tin yêu của đông đảo bạn đọc. Điều này đã giúp người viết
khẳng định thêm giá trị của trường ca và bút lực của Hữu Thỉnh.
"Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo" là bài viết của Lưu Khánh
Thơ, đăng trên TCVH số 2/1988. Trước hết, Khánh Thơ đã giới thiệu sự thành
công của Đường tới thành phố (giải ba báo Văn nghệ 1972 - 1973, giải nhất
báo Văn nghệ 1975 - 1976, tặng thưởng của Hội Nhà Văn 1980). Theo Khánh
Thơ: "trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính. Hình tượng người


19

lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã
trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các sáng tạo của anh” [95, tr.75]. Như
vậy, “người lính và hiện thực cuộc cách mạng lớn lao của dân tộc” là nội dung

quan trọng trong Đường tới thành phố. Cảm hứng, phong cách sáng tạo của tác
giả cũng là vấn đề được tập trung nghiên cứu ở chương II.
Lúc bấy giờ, Lưu Khánh Thơ đã đánh giá khá dè dặt:“Hữu Thỉnh đã
khẳng định mình là một trong những nhà thơ có thành công khi viết về đề tài
chiến tranh chống Mỹ". Tác giả nhận xét trường ca có khá nhiều những đoạn
thơ cảm động, những câu thơ sắc nhọn, phản ánh sâu sát hiện thực của một thời
chiến, hơn hẳn những tác phẩm ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, Khánh Thơ cũng
chỉ ra những hạn chế: "chất lượng các chương không đồng đều... ở đoạn cuối
không giấu nổi tình trạng hụt hơi... có khi không làm chủ được ngòi bút của
mình, thơ bị rơi vào tình trạng lan man" [95, tr.81-82].
Như vậy, cả hai bài viết đều đánh giá cao bút lực của Hữu Thỉnh, nhưng
Lưu Khánh Thơ đi sâu về tính chất văn chương, nghệ thuật biểu hiện nhân vật ở
những câu thơ minh họa. Giá trị của Đường tới thành phố cũng được Mai
Hương và Lưu Khánh Thơ khẳng định. Ngày nay, lời nhận xét ấy vẫn được trân
trọng và là cơ sở để giúp người viết thực hiện việc nghiên cứu giá trị tác phẩm
và vai trò của tác giả trong dòng văn học hiện đại Việt Nam.
Nhận định khái quát về giá trị tư tưởng của Mặt trời trong lòng đất, Dục
Tú cho rằng: “Tác phẩm ngợi ca sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của cuộc
chiến tranh chính nghĩa" [79, tr.146]. Thành công của Mặt trời trong lòng đất
(Trần Mạnh Hảo) chính là nhờ sự phản ánh trung thực cuộc sống chiến đấu của
nhân dân Củ Chi và bút pháp lãng mạn bay bổng. Tuy nhiên, người viết cũng
nhận thấy trong trường ca này, những đoạn triết lý nhiều là những đoạn tối
nghĩa, có những mạch liên tưởng thiếu lô-gic [101, tr.152].
Hồng Diệu với bài viết "Những chặng đường thơ Anh Ngọc" (TCVH số
6/1987), đã nhận xét bút pháp và đánh giá Sông núi trên vai: “Cùng với tuổi tác


20

và sự từng trải, nhà thơ có ý thức sâu sắc hơn về con người và cuộc đời”. Thơ

Anh Ngọc có bản sắc riêng của lớp nhà thơ trẻ mặc áo lính, thường đặt yêu cầu
cao về tư tưởng, đồng thời chú trọng tính chân thực trong thơ. Tại hội thảo về
Trường ca do Tạp chí Văn nghệ tổ chức (1980), Anh Ngọc có bài phát biểu
nhan đề “Hãy đưa tôi một tư tưởng”, ở dòng chữ ghi cuối trường ca Sông núi
trên vai (1983), anh cũng nêu rõ điều này. Hồng Diệu cho rằng: "Anh Ngọc tập
trung nhiều và thành công… rõ hơn là ở trường ca Sông núi trên vai...”. Ca
ngợi như thế nhưng Hồng Diệu cũng không bỏ qua những nhược điểm mà
Anh Ngọc mắc phải: "Có những câu thơ trong Sông núi trên vai còn công thức
và nhạt lắm”. Tuy nhiên, bài phê bình này còn khá chung chung, chưa đào sâu
giá trị hiện thực của Sông núi trên vai, mặc dù đây là vấn đề quan trọng nhất
làm nên sự thành công cho tác phẩm (vì thực tế, các cô gái trong đoàn Vận tải
H 50 ở mảnh đất cực Nam Trung bộ, ngày nay vẫn còn lại một số các chị quá
lứa, lỡ thì, đơn lẻ... nhưng lòng không quên những niềm vui; những nhọc nhằn,
khốn khó mà họ đã từng trải qua).
Vũ Duy Thông, trong lời giới thiệu Lửa mùa hong áo, đã bày tỏ suy nghĩ:
“Không biết có lầm không nhưng các nhà thơ nữ hình như rất ít viết trường ca,
bởi đây là lần đầu tôi đọc trường ca của một cây bút khác giới… chúng tôi đã
quen nghĩ trường ca đòi hỏi vóc dáng vạm vỡ, mạch thơ dài hơi, bố cục lớp
lang, bài bản… không hợp lắm với phụ nữ”. Nhưng đọc Lửa mùa hong áo của
Lê Thị Mây, Vũ Duy Thông không chỉ thấy đậm chất nữ rất riêng mà còn thấy
bút lực của người viết trên những trang thơ.
Hồng Diệu, trong “Thêm vài suy nghĩ” (TCVN số 5/1981) đã có một
nhận xét (theo ông là một nhận xét vui): “Trong bao nhiêu trường ca in ra mấy
chục năm nay, chưa có một trường ca nào mà tác giả của nó là nữ mặc dầu các
bạn gái làm thơ của chúng ta khá nhiều. Và nếu có trường ca của một bạn gái
thì “chất” trường ca ở đó có gì đặc biệt?”. Thật sự, từ sau năm 2000, đã có vài
trường ca của các nhà thơ nữ ra đời và chất lượng hầu như không lệ thuộc nhiều


21


vào vấn đề nhà thơ là nam hay nữ mà phụ thuộc ở vốn thực tế, sức viết, cảm
xúc và tài năng của họ. Chúng ta có thể kể đến Lửa mùa hong áo của Lê Thị
Mây, Bà mẹ Quảng Nam của Trần Thị Thắng, Mẹ của Phạm Thị Bảo... Nhưng
có thể thấy rằng Lửa mùa hong áo được độc giả chú ý nhiều hơn.
- Trong sách Phê bình, bình luận văn học - Nxb Văn nghệ (1998) do Vũ
Tiến Quỳnh chọn và giới thiệu cũng có một số bài viết về các tác giả và phân
tích một số trường ca tiêu biểu được khẳng định giá trị, chẳng hạn như:
+ Nguyễn Viết Lãm có "Bài ca chim Chơ rao, một bản trường ca hay,
viết về Thu Bồn và tác phẩm, đã đăng trên TCVH số 5/1965 [78, tr.196-209].
+ Hoài Thanh với bài "Tấm lòng của một thanh niên trên tiền tuyến
lớn”, viết về nhà thơ Lê Anh Xuân, đã in trong TCVH số 10/1968 [78, tr.93].
+ Phạm Văn Sỹ với bài "Thơ ca chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam 1954
- 1970 [78, tr.34] đã có những lời nhận định về Hưởng Triều, Giang Nam, Lê
Anh Xuân, Thu Bồn…
- Mã Giang Lân có bài "Anh Ngọc, tình yêu và người lính" in trong tập
Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, [47, tr.558-564] Nxb Giáo Dục - 2000.
- Nguyễn Hữu Quý có bài “Cổ tích về sự hồi sinh” viết về các trường ca
sáng tác từ cuộc phát động viết về Bác Hồ của báo Văn nghệ (TC VNQĐ số
617/2004.Trần Đình Sử có bài “Tản mạn về trường ca” trên báo mạng (4/2010).
Những công trình nghiên cứu, những bài phê bình, những bài viết trên đã
tạo cơ sở, tiền đề cơ bản quan trọng cho chúng tôi thực hiện công trình này.
Ngoài ra, cũng cần nhắc đến một số công trình khác, tuy không trực tiếp liên
quan đến trường ca hiện đại, nhưng cũng gợi ý cho chúng tôi có những hiểu
biết sâu sắc hơn về tính chất sử thi anh hùng hiện đại. Đó là:
+ Bài "Mấy ý kiến về anh hùng ca - bài ca Đăm San” của Lê Văn Khoa
(TCVH số 6/1982).
+ Luận án Tiến sĩ: “Thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây
Nguyên” của Võ Quang Nhơn, có trích đăng trên Tạp chí Văn nghệ (4) 1987.



×