Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

THỰC TRẠNG QUAN hệ THƯƠNG mại VIỆT NAM NHẬT bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.19 KB, 111 trang )

MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
21/ 03/1973. Trong 30 năm qua, quan hệ kinh tế giữa hai nước không
ngừng phát triển trong đó quan hệ thương mại ngày càng được tăng
cường mạnh mẽ. Đặc biệt từ khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, Nhật
Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, có vai trò quan
trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Quá trình phát triển thương mại giữa hai nước có thể chia làm
ba giai đoạn ; 1973 - 1986, 1987 - 1992, 1993 cho đến nay với hai
bước ngoặt quyết định vào năm 1987 và 1992. Trước năm 1987,
quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn được duy trì nhưng nói chung
không ổn định và còn ở mức độ thấp. Trong giai đoạn này, buôn bán
giữa hai nước gia tăng từ năm 1973 đến năm 1978, sau đó giảm đi
trong những năm 1979 - 1982. Sau đó đến năm 1986, quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển trở lại. Từ năm
1987, Việt Nam bước vào một giai đoạn mới với công cuộc đổi mới
chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách
mở cửa. Đây là bước ngoặt lớn của Việt Nam trong phát triển kinh tế
cả đối nội cũng như cả đối ngoại. Quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản cũng bước vào một giai đoạn mới với hai đặc
trưng là sự tăng lên vững chắc về khối lượng buôn bán và sự quan
tâm ngày càng cao của các nhà kinh doanh và các công ty Nhật Bản
đối với thị trường Việt Nam. Năm 1992 là năm đầu tiên giá trị buôn
bán giữa hai nước đạt trên 1 tỷ USD. Từ năm 1992 cho dến naynhững năm đầu tiên của thế kỷ thứ 21, quan hệ thương mại giữa hai
nước liên tục có sự phát triển khả quan mặc dù có sự suy giảm trong
hai năm 1998 - 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ ở châu Á. Nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy
quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ là
hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực thuân lợi; công cuộc đổi
mới của Việt Nam với các chính sách kinh tế đối ngoại năng động,


phù hợp với xu thế phát triển thời đại và lợi ích của cả hai bên Nhật
-1-


Bản - Việt Nam ... Đương nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân
có tính khách quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về
phía chủ quan Nhật Bản: sự chuyển hướng chiến lược trong chính
sách đối ngoại nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng
của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói
riêng kết hợp với các sự kiện chính trị quan trọng khác như Mỹ huỷ
bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam ( tháng 2/ 1994),
Mỹ tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam( tháng 7/ 1995) và
Việt Nam gia nhập ASEAN( tháng 7 / 1995) ...
Tuy nhiên , quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong
những năm qua còn nhiều hạn chế như tỷ trọng xuất nhập khẩu trong
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước là chưa hợp lý dẫn đến
Việt Nam luôn xuất siêu, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai
nước còn nhiều bất cập ...Vì vậy nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên
cứu như : tại sao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
đã tăng lên một cách nhanh chóng nhưng tỷ trọng của nó trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất thường? Quan
hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản đã tương xứng với tiềm năng
vốn có của hai nước hay chưa? Việt Nam cần phải làm gì để thúc đẩy
và nâng cao hiệu quả của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
Mặc dù cho đến nay trong quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn
còn khó khăn, song trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương
mại, gần đây Nhật Bản cũng đã có một số động thái tích cực, đó là
liên minh tự do thương mại với một số quốc gia như Singapo,
Canađa, Chilê và Mêhicô và Nhật cũng đang nỗ lực xúc tiến việc
thành lập khối mậu dịch tự do với ASEAN, nhằm mở rộng hơn nữa

vai trò cường quốc kinh tế ở khu vực châu Á. Đây là một thay đổi
lớn trong chính sách thương mại của Nhật Bản vì cho đến tận cuối
những năm 1990, Nhật Bản vẫn cứng rắn không tham gia một thoả
thuận thương mại song phương nào mà chủ yếu chỉ dựa vào các tổ
chức đa phương như Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Chính vì
thế, hy vọng rằng trước những yêu cầu mới của bối cảnh toàn cầu
hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế, sự thay đổi chính sách
thương mại quốc tế của Nhật Bản cùng với sự kiện kỷ niệm trọng thể
-2-


30 năm ngày chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam Nhật Bản trong năm 2003, trong tương lai gần hai nước sẽ ký kết
hiệp định về thương mại song phương, khi đó quan hệ thương mại
Việt - Nhật càng có điều kiện phát triển mạnh hơn nữa. Đương nhiên
để đạt được sự phát triển như vậy, về phía Việt Nam đòi hỏi chúng ta
phải nỗ lực thực hiện có hiệu quả cao nhất các giải pháp cơ bản về
phát triển ngoại thương Việt Nam nói chung và thương mại Việt Nhật nói riêng.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ở Việt Nam từ trước đến nay các công trình của một số các tác giả
nghiên cứu liên quan đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
là :
- Đỗ Đức Định, “ Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang
phát triển”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
- Trần Anh Phương, chương 4: “ Quan hệ thương mại Việt Nam
- Nhật Bản trong những năm 1990 “ trong cuốn sách: Quan hệ
kinh tế Việt Nam- Nhật Bản trong những năm 1990 và triển
vọng ( Vũ Văn Hà chủ biên ), Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000.
- Ngô Xuân Bình - Hồ Việt Hạnh , Chương 2 - mục 2.4. “ Quan
hệ kinh tế Nhật - Việt năm 2001” trong cuốn sách “ Nhật Bản

năm đầu thế kỷ XXI ” , Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
2002.
- Nguyễn Duy Dũng , “ Năm 2002: quan hệ kinh tế Việt Nam Nhật Bản tiếp tục phát triển ổn định ”, Tạp chí Nghiên cứu
Nhật Bản và Đông Bắc Á , số 1(43) 2- 2003.
- Nguyễn Xuân Thiên, “ 20 năm quan hệ thương mại Việt Nam –
Nhật Bản ” , Tạp chí Con số và Sự kiện số 1/1995 v.v..
Các công trình trên đây đã nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản trong thời gian một số năm của thế kỷ 20 . Các công
trình nói trên đã nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt Nhật , thuân lợi và khó khăn và có đưa ra những giải pháp để giải
quyết những khó khăn, bất cập đó tuy nhiên các công trình nói trên
mới chỉ đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn trong khoảng thời gian
-3-


mà các tác giả nghiên cứu mà khoảng thời gian đó đã qua, mặt khác
vấn đề mà các tác giả nghiên cứu chỉ là một nội dung trong công
trình mà các tác giả nghiên cứu hoặc nêú có tách riêng thì mới chỉ
dừng ở một bài báo, một chương sách... nên tính khái quát là rất cao,
không đi sâu nghiên cứu một cách sâu sắc, vì thế không thể giải
quyết được một cách căn bản các vấn đề đặt ra trong quan hệ thương
mại Việt Nam - Nhật Bản. Cho nên tác giả luận văn nghiên cứu vấn
đề này ở một phạm vi nghiên cứu rộng hơn và sâu sắc hơn của một
luận văn cao học. Hướng tiếp cận của luận văn là nghiên cứu trực
tiếp thực trạng quan hệ thương mại Việt- Nhật trong giai đoạn hiện
nay, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất những giải pháp
thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển hơn
nữa phù hợp với những lợi ích kinh tế, chính trị của Việt Nam và
Nhật Bản. Nhưng luận văn không tách rời, cô lập quan hệ thương
mại Việt Nam- Nhật Bản mà đặt trong quan hệ tác động qua lại với
các vấn đề kinh tế chính trị khác như đầu tư, ODA, hoạt động chính

trị và ngoại giao...
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt
Nam- Nhật Bản, góp phần phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước ngày càng sâu sắc hơn.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang
Nhật Bản và nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản.
- Phạm vi nghiên cứu : Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản có từ thế kỷ XVI - XVII nhưng luận văn tập trung phân
tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1976 đến
nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng rộng rãi trong việc
nghiên cứu như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá
khoa học, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích và trường hợp đặc biệt sử dụng phương pháp phân tích so
-4-


sánh, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương
mại Việt Nam - Nhật Bản.
- Làm rõ những đặc điểm nổi bật của quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản, xu hướng vận động và phát triển.
- Đề xuất những giải pháp đối với Việt Nam để thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại
Việt Nam - Nhật Bản
CHƯƠNG 2 : Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản
CHƯƠNG 3 : Những giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao
hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản

-5-


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Theo Adam Smith (1723-1790) - nhà kinh tế chính trị cổ điển
Anh cho rằng “ Sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng
hoá và dịch vụ có sẵn hơn là sự phụ thuộc vào vàng ”.
Tại sao các nước cần phải giao dịch buôn bán với nhau? Tại
sao Việt Nam (hay bất cứ một quốc gia nào khác) không bằng lòng
với hàng hoá và dịch vụ sản xuất tại nước mình?
Trong cuốn “sự giàu có của các quốc gia” xuất bản năm 1776,
Adam Smith đã nghi ngờ về chủ nghĩa trọng thương vì cho sự phồn
vinh của một nước phụ thuộc vào châu báu mà nước đó tích luỹ
được. Thay vào đó, ông cho rằng sự giàu có thực sự của một nước là
tổng số hàng hoá và dịch vụ có sẵn ở nước đó. Ông cho rằng những

quốc gia khác nhau có thể sản xuất những loại hàng hoá khác nhau
có hiệu quả hơn những thứ khác.
Adam Smith cho rằng nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi
ích của thương mại quốc tế thu được do sự thực hiện nguyên tắc
phân công. Ông phê phán sự phi lý của những hạn chế của lý tưởng
trọng thương và chứng minh rằng mậu dịch sẽ giúp ích cả hai bên
tăng gia sản - hiểu theo ý lợi tức thực sự qua việc thực thi một
nguyên tắc cơ bản : nguyên tắc phân công.
Theo cuốn “The Wealth of Nations - Sự giàu có của một quốc
gia” Adam Smith cho rằng : phương ngôn của mọi người chủ gia
đình khôn ngoan là không bao giờ tự sản xuất những gì mà nếu đi
mua sẽ được rẻ hơn. Người thợ may không khi nào hì hục đóng đôi
giày mà thường đi mua ở người thợ giày. Và người thợ giày cũng
không cần loay hoay cắt may, mà nhờ anh thợ may may hộ. Người
nông dân không tự làm lấy hai thứ trên, mà nhờ vào các tay thợ
-6-


khéo. Mọi người dân đều có lợi khi chăm chỉ làm công việc của
mình có lợi thế hơn láng giềng, và dùng một phần số sản phẩm của
mình hay tiền bán được số sản phẩm ấy để đi mua mọi thứ cần dùng
khác.
Những gì trong sinh hoạt cá nhân được coi là khôn ngoan ít khi
nào lại là một điều rồ dại đối với quốc gia. Nếu một nước ngoài có
thể cung cấp một loại hàng rẻ hơn là khi ta tự sản xuất, thì tốt hơn
hết nên đi mua loại hàng ấy, dành thì giờ chuyên chú vào một hoạt
động khác mà ta có lợi hơn, để bán lấy tiền tiêu dùng.
Theo Adam Smith, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những
ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất
sản phẩm với chi phí và hiệu quả hơn các quốc gia khác.

Nhờ sự chuyên môn hoá, các nước có thế gia tăng hiệu quả do :
1) Người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao
tác nhiều lần.
2) Người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản
xuất sản phẩm này sang sản xuất sản phẩm khác.
3) Do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nẩy sinh các
sáng kiến, đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn.
Tuy nhiên, một nước chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào?
Mặc dù Adam Smith cho rằng thị trường chính là nơi quyết định,
nhưng Ông vẫn nghĩ rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự
nhiên hay do nỗ lực của nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các
điều kiện khí hậu và tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản
xuất có hiệu quả rất nhiều sản phẩm như càfê, chè, cao su, dừa..., các
loại khoáng sản.
Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của kỹ thuật và
sự lành nghề.
Ngày nay, người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá
đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên
thiên nhiên nguyên khai hoặc sơ chế.
-7-


Quy trình sản xuất những loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc
vào ”lợi thế do nỗ lực” thường do kỹ thuật chế biến, là khả năng sản
xuất các loại sản phẩm khác nhau, khác biệt với các thứ khác. Ví dụ,
Đan Mạch sản xuất đĩa bạc không phải vì nước này có nguồn mỏ bạc
dồi dào mà do họ có thể sản xuất được những đĩa bạc thật đặc biệt.
Lợi thế về kỹ thuật chế biến là khả năng chế tạo các sản phẩm đồng
nhất có hiệu quả hơn. Ví dụ, Nhật Bản là nước phải nhập sắt và than,

là hai thành phần quan trọng và cần thiết cho quá trình sản xuất thép.
Nhưng nhờ có được quy trình sản xuất thép tiên tiến nên tiết kiệm
được nguyên liệu và lao động đã làm cho các nhà sản xuất thép Nhật
Bản rất thành công trong cạnh tranh trên thị trường.
Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có
thể được sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác
nhau. Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong
việc sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất
được nhiều sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn là nước thứ hai.
Giả sử Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so với Hàn Quốc trong
một loại hàng hoá, trong khi Hàn Quốc lại có lợi thế tuyệt đối so với
Việt Nam một loại hàng hóa khác. Đó là trường hợp lợi thế tuyệt đối
tương hỗ. Mỗi nước đều có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một loại
sản phẩm. Trong trường hợp như thế, tổng sản phẩm của cả hai nước
có thể tăng lên (so với nền kinh tế tự cung tự cấp) nếu mỗi nước
chuyên môn hoá sản xuất loại sản phẩm mà nước đó có lợi thế tuyệt
đối.

-8-


Ví dụ sau đây đưa ra tình huống giả định về sản lượng gạo và
vải vóc đều tăng lên khi mỗi nước sản xuất nhiều hơn số hàng hoá
mà nước đó có lợi thế tuyệt đối. Kết quả là sẽ có nhiều lúa gạo và vải
vóc cùng một chi phí về nguồn lực.
Bảng 1: Lượng lúa gạo và vải vóc có thể được sản xuất với một
đơn vị nguồn lực ở Việt Nam và Hàn Quốc.
Nước
Việt Nam
Hàn Quốc


Lúa gạo (tạ)
10
5

Vải vóc (m2)
6
10

Ta có thể thấy ngay Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất lúa
gạo, còn Hàn Quốc trong việc sản xuất vải.
Bảng 2: Những thay đổi xẩy ra khi chuyển một đơn vị nguồn lực
của Việt Nam sang sản xuất lúa gạo, và một đơn vị nguồn lực của
Hàn Quốc sang sản xuất vải.
Nước
Hàn Quốc
Việt Nam
Tổng số

Lúa gạo (tạ)
-5
+10
+5

Vải vóc (m2)
+10
-6
+4

Do việc chuyển đổi nguồn lực đầu vào của việc sản xuất lúa

gạo ở Việt Nam và vải ở Hàn Quốc, quá trình chuyên môn hoá sẽ
làm tăng sản lượng cả cả hai loại hàng hoá. Ví dụ này trình bày sự
thay đổi về sản lượng do chuyển một đơn vị nguồn lực từ việc sản
xuất vải sang việc sản xuất gạo (Việt Nam) và từ việc sản xuất lúa
-9-


gạo sang sản xuất vải (Hàn Quốc). Sản lượng trên thế giới tăng 5 tạ
lúa và 4m2 vải, trên toàn thế giới sẽ có lợi ích do chuyên môn hoá.
Trong trường hợp này có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản
xuất lúa ở Việt Nam và càng có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang
sản xuất vải ở Hàn Quốc thì lợi ích càng lớn.
Những lợi ích này của việc chuyên môn hoá sẽ khiến những lợi
ích của ngoại thương trở thành hiện thực. Việt Nam sẽ sản xuất nhiều
lúa gạo và Hàn Quốc thì sản xuất nhiều vải hơn so với trước khi hai
nước này còn ở tình trạng tự cung tự cấp. Như vậy, Việt Nam sẽ phải
sản xuất nhiều lúa gạo và ít vải hơn so với nhu cầu người tiêu dùng ở
Việt Nam và Hàn Quốc sẽ sản xuất nhiều vải và ít lúa gạo hơn so với
nhu cầu của người tiêu dùng ở Hàn Quốc. Nếu người tiêu dùng ở cả
hai nước có vải và lúa gạo theo một tỷ lệ mong muốn thì Hàn Quốc
cần phải xuất khẩu vải sang Việt Nam và nhập lúa gạo từ Việt Nam.
1.1.2 . Lý thuyết lợi thế so sánh
Lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi ích tuyệt
đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản
lượng kém hiệu quả để sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Hay
nói cách khác những lợi ích do chuyên môn hoá và ngoại thương
mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt
đối.
Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại
hàng hoá, lợi ích của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xẩy

ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu
hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào
-10-


cả, thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu?
hoạt động thương mại diễn ra như thế nào với những nước này?
Trên thực tế đó là một câu hỏi mà David Ricardo từ hơn 170
năm trước và chính ông đã trả lời câu hỏi đó trong các tác phẩm với
tiếng của mình “Những nguyên lý của kinh tế chính trị, 1817” trong
tác phẩm này, David Ricardo đã đưa ra một lý thuyết tổng quát chính
xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Theo
David Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là :
- Mỗi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc
tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng
của một nước : do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản
phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy
hàng hoá nhập khẩu từ nước khác.
- Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác hoặc
bị kém lợi thế tuyệt đối hơn các nước khác trong việc sản xuất
mọi sản phẩm, thì vẫn có lợi thế khi tham gia vào phân công
lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất
định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt
hàng khác. Ví dụ sau đây minh hoạ về lợi thế so sánh giữa hai
nước Việt Nam và Hàn Quốc :

Bảng 3: Năng lực sản xuất trong trường hợp lợi thế tương đối
-11-



Các giả thiết
Đơn vị nguồn lực có sẵn
Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn
lúa gạo
Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 kiện
vải
Sử dụng một nửa tài nguyên cho mỗi
loại sản phẩm khi không có ngoại
thương
Vải
Lúa gạo
Sản xuất

Việt Nam
100
3
4

Hàn Quốc
100
6
5

50
50
vải

50
50
Lúa gạo


12,5
10
22,5

16,6
8,3
24,9

Không có ngoại thương
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
6,3
24,9
Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất
20
0
toàn bộ sản lượng lúa gạo cần thiết)
26,3
24,9
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất
2,5
30
lượng vải cần thiết còn lại)
20
0

Tăng sản xuất lúa gạo
22,5
30
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
Dù Việt Nam có lợi thế tuyệt đối cả hai loại sản phẩm, nhưng
Việt Nam lại có lợi thế tương đối trong việc sản xuất lúa gạo. Cũng
một nguồn lực, Việt Nam có thể sản xuất lúa gạo gấp hai lần so với
-12-


Hàn Quốc, còn về sản xuất vải thì Việt Nam lại chỉ có gấp hơn một
lần.
Cho dù Hàn Quốc bất lợi về sản xuất cả hai loại sản phẩm
nhưng Hàn Quốc vẫn có lợi thế tương đối về vải. Do sản xuất lúa gạo
của Hàn Quốc chỉ bằng 50% so với Việt Nam, còn sản xuất vải chỉ
bằng 75% so với Việt Nam.
Chúng ta giả thiết mỗi quốc gia đang có 100 đơn vị nguồn lực.
Nếu mỗi nước dùng một nửa đơn vị nguồn lực cho việc sản xuất mỗi
sản phẩm thì Việt Nam có thể sản xuất được 12,5 kiện vải (50/4) và
16,6 tấn lúa gạo (50/3), còn Hàn Quốc được 10 kiện vải (50/5) và 8,3
tấn gạo (50/6).
Nếu không có ngoại thương, sản lượng lúa gạo tổng cộng là
24,9 tấn (Việt Nam 16,6 tấn; Hàn Quốc 8,3 tấn) và 22,5 kiện vải
(Việt Nam 12,5 kiện; Hàn Quốc 10 kiện) .
Nhờ mở cửa buôn bán mà sản lượng lúa gạo và vải hay tổng
cộng cả hai loại sản phẩm có thể tăng thêm.
Nếu ta tăng sản xuất vải, mà không thay đổi sản xuất lúa gạo
như trước khi ta trao đổi, thì Việt Nam có thể sản xuất tất cả 24,9 tấn

lúa gạo bằng cách sử dụng 74,7 đơn vị nguồn lực (74,7/3) với 25,3
đơn vị nguồn lực còn lại, Việt Nam có thể sử dụng để sản xuất 6,3
kiện vải (25,3/4). Hàn Quốc trong trường hợp này sử dụng toàn bộ
nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải. Sản lượng lúa gạo tổng
cộng là 24,9 tấn, nhưng sản lượng vải tăng lên từ 22,5 kiện lên 26,3
kiện.
Nếu ta tăng sản xuất lúa gạo tại Việt Nam, và vẫn giữ nguyên
sản lượng vải như trước khi có buôn bán giữa hai nước, Hàn Quốc có
thể sử dụng toàn bộ nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải, Việt
Nam có thể sản xuất 2,5 kiện vải còn lại với 10 đơn vị nguồn lực
(10/4); 90 đơn vị nguồn lực còn lại Việt Nam có thể sản xuất 30 tấn
lúa gạo (90/3) không cần phải hy sinh lượng vải có sẵn trước khi có
ngoại thương, lượng lúa gạo vẫn tăng lên từ 24,9 tấn lên 30 tấn.

-13-


Xét cho kỹ thì lý luận của David Ricardo chỉ là mở rộng
nguyên tắc phân công. Một cách khái quát, cho cả quốc gia cũng như
cá nhân, chuyên môn hoá phải dựa theo khả năng.
Chúng ta thấy lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo đã đi
xa hơn quan điểm của Adam Smith về căn bản của mậu dịch quốc tế,
khắc phục được những hạn chế của lý thuyết thương mại dựa trên lợi
thế tuyệt đối của Adam Smith.
1.1.3. Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tương quan của cầu
Lý thuyết của David Ricardo mới chỉ đề cập đến yếu tố cung,
chưa chú ý tới yếu tố cầu. Để bổ sung cho khiếm khuyết này, J.Stuart
Mill đã bàn đến vấn đề giá trị quốc tế hay tỷ lệ trao đổi giữa các sản
phẩm. Ông là một trong những nhà kinh tế học của thế kỷ XIX ủng
hộ lợi ích của ngoại thương. J.Stuart Mill cho rằng “sự mở rộng của

ngoại thương... đôi khi là một kiểu cách mạng công nghiệp ở một
nước mà các nguồn lực của nó trước đó chưa được phát triển".
Thay vì so sánh phí tổn nhân công của quốc gia khi sản xuất ra
một sản phẩm ngang nhau, ông lại so sánh các sản phẩm sản xuất ra
của hai quốc gia khi sử dụng đầu vào nhân công ngang nhau.
Lý thuyết của S.Mill dựa trên năng xuất tương đối của nhân
công chứ không phải phí tổn của nhân công như D.Ricardo. Cấu trúc
của S.Mill như sau:
Bảng 4: Đầu vào và đầu ra hai sản phẩm ở hai quốc gia
Đầu vào
nhân công (số
ngày)
300
300

Quốc gia

Đầu ra
Rượu (thùng)
Vải (kiện)

Bồ Đào
100
75
Nha
50
60
Anh
Chúng ta thấy, cùng một nguồn lực (đầu vào) là nhân công, Bồ
Đào Nha có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai thứ hàng,

nhưng có lợi thế tương đối hơn về rượu (100/50=2/1 so với
-14-


75/60=5/4) . Ngược lại, Anh lại có lợi thế tương đối hơn về vải
(60/75=4/5 so với 50/100=1/2).
Một cách tổng quát, có thể phát triển nguyên tắc lợi thế tương đối
như sau:
Nếu với cùng một điều kiện đầu vào, người ta có thể sản xuất
được a1 và b1 lượng hàng A và B ở quốc gia I, và a 2 và b2 ở quốc gia
II thì quốc gia I sẽ xuất khẩu A để nhập B nếu a 1/b1>a2/b2, nghĩa là so
với quốc gia II, tương đối quốc gia I có khả năng sản xuất A nhiều
hơn B (hoặc có thể a1/a2>b1/b2) và ngược lại b2/b1>a2/a1 thì quốc gia
II sẽ xuất khẩu sản phẩm B và nhập khẩu sản phẩm A.

1.1.4. Quan điểm của Các Mác về ngoại thương
Trong học thuyết của mình, Các Mác chưa trình bày một cách
hệ thống các quan điểm về lý luận ngoại thương. Tuy nhiên trong
học thuyết kinh tế của CácMác, nhất là trong bộ “ Tư bản ” trong khi
phân tích về nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, quan điểm của
Các Mác về ngoại thương được hình thành. Lý luận về ngoại thương
của Các Mác có thể nói được tập trung ở những điểm sau đây:
Thứ nhất nguyên tắc chi phí ngoại thương là bình đẳng, cùng
có lợi. Sự phân tích của ông về ngoại thương là dựa trên quy luật giá
trị, Các Mác cho rằng chi phí về lao động là cơ chế cho trao đổi,
buôn bán hàng hoá giữa các nước, theo đó hạ thấp được chi phí lao
động thì hoạt động ngoại thương tất yếu là có lợi. Điều có nghĩa là
chi phí lao động là nguồn lực quan trọng nhất, là cơ sở quan trọng
nhất để phân tích lợi ích của ngoại thương. Trong mậu dịch quốc tế,
nguyên tắc trao đổi hàng hoá phải tuân theo nguyên tắc ngang giá.

Ông đã phê phán gay gắt quan điểm sai lầm, thô thiển của chủ nghĩa
trọng thương cho rằng “Trọng thương mại sở dĩ là một bên có lợi là
vì đã làm thiệt hại bên kia”.
Thứ hai, sự hình thành và phát triển của ngoại thương là tất yếu
khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế
-15-


thị trường tư bản chủ nghĩa là một nền kinh tế hàng hoá luôn đòi hỏi
thị trường ngày càng mở rộng, không chỉ là thị trường tiêu thụ sản
phẩm mà còn là thị trường cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Và
điều quan trọng hơn hết, ngoại thương xuất hiện là một tất yếu do sự
chi phối của quy luật giá trị thặng dư tối đa.
1.2. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.2.1. Xu hướng chung của quan hệ thương mại quốc tế
* Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là từ
đầu những năm 1990 đến nay đã có tác động rất lớn đến quan hệ
kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản. Bước vào thập kỷ 90, xu hướng
hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành chủ đề chính của thời đại.
Hình thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế đã chuyển từ chạy đua vũ
trang thời kỳ chiến tranh lạnh sang cạnh tranh kinh tế. Có thể nói
rằng, kể từ sau chiến tranh thế giới hai, dưới sự tác động của quốc tế
hoá sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát
triển, tính tuỳ thuộc lẫn nhau và bổ sung cho nhau của nền kinh tế
các nước vốn đã khá phát triển lại càng gia tăng mạnh mẽ trong xu
thế của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Và chính quá trình
toàn cầu hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày
càng chặt chẽ đã làm cho các hoạt động hợp tác và cạnh tranh giữa

các quốc gia cũng như giữa các công ty trên thế giới ngày càng phức
tạp và đa dạng. Đặc biệt là xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư
của các quốc gia và các công ty trong khu vực ngày càng mang tính
quy định và bổ sung cho nhau như một chính thể thống nhất. Không
phải ngẫu nhiên mà người ta thường cho rằng các trung tâm kinh tế
buôn bán của thế giới như Mỹ, Nhật Bản và EU đang dẫn dắt quá
trình tự do hoá và toàn cầu hoá hiện nay, đặc biệt trong việc chi phối
Quỹ tiền tệ quốc tế( IMF), Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
-16-


Thứ nhất, có thể nói xu thế toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế
đối ngoại của các nước nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế
quốc tế mới và đang thay đổi. Dù biện minh dưới hình thức nào và
thay đổi hoạt động theo cách thức gì thì mục tiêu cuối cùng của các
quốc gia cũng như các nhà kinh doanh cũng là lợi nhuận, thị phần,
và những ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình. Để đạt
được những mục đích cần thiết này, các quốc gia phải bắt kịp, thích
ứng, và thậm chí phải đón đầu được với cả những triển vọng phát
triển mới của nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói
chung, đặc biệt là sự bùng nổ của cuộc cách mạng tin học trong
những năm gần đây đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế
giới. Đây là nhân tố nổi bật giúp cho việc điều hành một cách dễ
dàng các hoạt động kinh tế phân tán ở nhiều nơi khác nhau trên thế
giới bằng sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, nhờ đó các quốc gia
phát triển và các nhà kinh doanh không những có thể mở rộng các
hoạt động kinh tế về quy mô ra nước ngoài mà còn có thể tăng cường

các hoạt động về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ chức và quản
lý... Theo sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự trao đổi
và thông tin lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên rõ ràng và
thuận tiện. Chính vì thế, hoạt động thương mại và đầu tư không
những đã có thể phát triển rộng khắp đến những khu vực và các nền
kinh tế trên khắp thế giới mà còn có thể tiến sâu hơn vào những vùng
sâu, vùng xa và những nơi hẻo lánh mà trước đây không thể có điều
kiện vươn tới được.
Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học,
các quá trình liên kết khu vực và toàn cầu cũng đang diễn ra mạnh
mẽ đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội
nhập có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc
tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa
các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ, đẩy mạnh tự do
hoá thương mại bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
-17-


quan giữa các quốc gia... Các nước phát triển có điều kiện thực hiện
các chiến lược đầu tư và thương mại mà trước đó luôn bị các hàng
rào bảo hộ phong toả thông qua việc đặt các chi nhánh ở nước ngoài
và cho phép các chi nhánh đó thực hiện đầu tư trực tiếp và mở rộng
buôn bán sang các nước thứ ba.
Vâỵ thực chất của toàn cầu hoá kinh tế là gì và những đặc trưng
cơ bản của quá trình này là như thế nào? thực chất của toàn cầu hoá
về kinh tế: “ là sự tự do hoá kinh tế và hội nhập kinh tế và hội nhập
quốc tế, mà trước hết là về thương mại đầu tư, và dịch vụ..v...v. Tự
do hoá kinh tế cũng có các mức độ khác nhau, từ giảm thuế quan đến
xoá bỏ thuế quan; từ tự do hoá thương mại đến tự do hoá về hàng
hoá và dịch vụ, từ tự do hoá về kinh tế trong quan hệ đôi bên đến

nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến toàn cầu. Hội nhập kinh tế
cũng vậy, cũng có những thứ bậc cao thấp khác nhau, song các quốc
gia dù muốn hay không dần dần đều phải hội nhập vào các tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu, cần phải có chiến lược và có chính sách
để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá”1
Cùng với sự phát triển không ngừng của toàn cầu hoá, sự dựa
vào nhau, tác động và ảnh lẫn nhau của kinh tế các nước ngày càng
sâu sắc, trách nhiệm của chính phủ các nước đối với sự phát triển
kinh tế toàn cầu ngày càng lớn, các nước phát triển trên cơ sở tinh
thần cùng gánh chịu trách nhiệm và sự rủi ro (nếu có) để tiến hành
hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và hiệu quả thiết thực. Cùng với
xu thế này các nước đang phát triển cần phải áp dụng các chính sách
có hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Nói cách
khác, cần tiến hành sự hợp tác và phát triển sao cho có thể thu được
lợi ích tối đa và thiệt hại ở mức thấp nhất.
Một trong những mốc đánh dấu tiến trình toàn cầu hoá kinh tế
tăng nhanh là sự luân chuyển nhanh chóng tiền vốn với quy mô ngày
càng lớn. Nguồn vốn với quy mô lớn với tốc độ luân chuyển nhanh
đã trở thành một lĩnh vực mạo hiểm và sôi động nhất của kinh tế thế
Võ Đại Lược - Toàn cầu hoá. Những tác động và đối sách của Việt Nam, Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, số 1(22), 3-1999, trang 3.
1

-18-


giới hiện nay. “Theo số liệu thống kê, mỗi ngày mức giao dịch ngoại
hối trên phạm vi toàn cầu đạt 1500 tỷ đô la Mỹ (USD), nếu tính theo
250 ngày làm việc thì một năm mức giao dịch ngoại hối toàn cầu đạt
tớí 375.000 tỉ USD, trong đó, 98% chủ yếu dùng để mua bán có tính

chất đầu tư với nhiều hình thức”.2
Toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi nguồn vốn (một yếu tố quan trọng
của sản xuất ) cũng phải được toàn cầu hoá. Lưu động vốn còn là
biện pháp hữu hiệu nhằm vượt qua hàng rào thuế quan để chiếm lĩnh
thị trường các nước. Tính đến cuối năm 1996, tổng giá trị vốn lưu
động trong thị trường cổ phiếu thế giới là 20.200 tỉ USD, trong đó
tổng giá trị của 70 thị trường cổ phiếu mới thành lập đã chiếm gần
1600 tỉ USD (khoảng 11% tổng số vốn). Nhờ có biện pháp áp dụng
cao trong nghiệp vụ tiền tệ mà tốc độ lưu chuyển vốn toàn cầu đã
được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Từ năm 1980 đến nay, trong khi tốc
độ tăng bình quân hàng năm của mậu dịch thế giới là 5,5 - 6% thì
lượng lưu thông tiền vốn đã tăng bình quân lên 20%/năm. Hiện nay,
kim ngạch trao đổi ngoại tệ hàng ngày lên tới 1200 - 1300 tỉ USD.
Những con số đã chứng tỏ sức sống của toàn cầu hoá kinh tế, mặt
khác cũng phản ánh kinh tế đang mở rộng theo cơ cấu tiền tệ tăng
lên. Chính vì thế những rủi ro liên quan đến tiền tệ cũng ngày càng
gia tăng đòi hỏi công tác quản lý và giám sát thị trường ngày càng
phải chặt chẽ.
Một trong những lực lượng chủ yếu thúc đẩy sự phân công
quốc tế và quá trình toàn cầu hoá là các công ty xuyên quốc gia thực
hiện phương châm lấy thế giới làm nhà máy và lấy các nước làm
phân xưởng của mình nhằm thông qua phân công quốc tế để lợi dụng
ưu thế về kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước,
thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất nhanh chóng. Tổng giá trị sản xuất của
những công ty xuyên quốc gia chiếm tới 40% GDP của thế giới, tổng
kim ngạch mậu dịch chiếm 50% giá trị mậu dịch của thế giới và tổng
2

Toàn cầu hoá kinh tế và đối sách của các nước đang phát triển, Tạp chí tri thức thế giới, số 16,1999.


3. Bùng nổ nguồn vốn đầu tư, Báo Đầu tư, số 513, ngày 17-1-2000.

-19-


vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chiếm tới 90% đầu tư trực tiếp của
thế giới. Hơn nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty
xuyên quốc gia chủ yếu là đầu tư qua lại lẫn nhau. Theo số liệu thống
kê, 82% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty ở 29 nước
thành viên thuộc tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế là đầu tư lẫn
nhau giữa các nước. Năm 1999, tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn
thế giới đã lên tới 648 tỉ USD, tăng 34,6% so với năm 1998 và gấp
rưỡi so với 1997. Trong đó, các công ty xuyên quốc gia là đầu tư ra
nước ngoài lớn nhất, đã rót vào các nền kinh tế khoảng 441 tỉ USD
và các nước dang phát triển 165 tỉ USD. 3 Đánh giá về tình hình kinh
tế trên thế giới năm 1999, phần đông các nhà phân tích kinh tế cho
rằng, các công ty xuyên quốc gia hiện chiếm một lượng nguồn vốn
đầu tư vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước Châu Á.
Điều này cho thấy, các nước đang và sẽ phụ thuộc nhiều vào các
công ty xuyên quốc gia.
Sự phụ thuộc này vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực,
bởi vì nó vừa hỗ trợ các nước đang phát triển, vừa buộc các nước đi
theo hướng do các công ty xuyên quốc gia đưa ra. Theo phân loại
của ngân hàng thế giới, trong số 25 quốc gia và vùng kinh tế có môi
trường đầu tư hấp dẫn nhất trong năm 1999 thì có tới 10 quốc gia và
vùng lãnh thổ các nước phát triển và đang phát triển châu Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hồng Kông,
Singapo, Philippin, Đài Loan và Malaixia.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ, nhiều nền kinh tế châu
Á đã lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư trong đó, Nhật Bản là một

trường hợp điển hình. Trong quý III năm1999, Nhật Bản đã thu hút
hơn 10 tỉ USD đầu tư nước ngoài. Đây được coi là một mức vốn đầu
tư cao nhất trong một quý kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đối
với các nước ASEAN sau khi giảm xuống mức thấp khoảng 17 tỉ
USD vào năm 1998, năm 1999, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào các nước ASEAN đã tăng lên đáng kể. Theo dự báo của
công ty tư vấn quốc tế (PERG) PERG dự tính, từ nay đến năm 2005,
khu vực Đông Bắc Á và ASEAN cần khoảng 1500 tỉ USD đầu tư
-20-


cho phát triển cơ sở hạ tầng. PERG ước tính, kế hoạch của các nước
ASEAN về hệ thống đường xuyên Á, hệ thống viễn thông chung...
cần từ 200 tỉ đến 500 tỉ USD vốn đầu tư. Và để thực hiện “tầm nhìn
2020” đưa các nước ASEAN trở thành các nước công nghiệp hoá và
phát triển đồng đều, Hiệp hội các nước này cần khoảng 1000 tỉ USD
vốn đầu tư, chủ yếu từ các nguồn vốn bên ngoài.
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, tốc độ tăng trưởng của
mậu dịch thế giới cũng vượt ra xa tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo
các số liệu thống kê, trong nhiều năm nay, tốc độ tăng trưởng mậu
dịch thế giới thường cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế 1 đến 1,5 lần
Đây là kết quả của sự phân công lao động quốc tế không ngừng
sâu sắc và cũng là một trong những tiêu chí quan trọng của toàn cầu
hoá.
Toàn cầu hoá cũng thúc đẩy quá trình hợp tác trong lĩnh vực kinh tế
không ngừng phát triển. Sự hợp tác này được mở rộng từ lĩnh vực
mậu dịch hàng hoá hữu hình và lĩnh vực mậu dịch dịch vụ vô hình.
Đầu tư quốc tế và thị trường tiền tệ quốc tế cũng phát triển với tốc độ
ngày càng cao đòi hỏi phải có các văn bản quy định, giám sát và điều
hoà. Việc chuyển nhượng và bảo vệ bản quyền tri thức tiếp tục phát

triển, việc di chuyển sức lao động trên phạm vi thế giới đã được đưa
vào nghị trình hợp tác toàn cầu. Có thể nói rằng các khâu trong hoạt
động kinh tế đối ngoại của các nước, thậm chí việc định ra chính
sách kinh tế trong nước của mỗi nước như bảo vệ môi trường, dân
số, chính sách tiền tệ... đều đã trở thành những chủ đề hợp tác kinh tế
toàn cầu đòi hỏi phải có các văn bản quy định và điều phối. Chính vì
thế, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã lan đến mọi quốc gia trên thế
giới, từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển. Và chỉ có
thể đi theo xu hướng lịch sử này, các nước mới có thể giành chiến
thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt hiện nay.
Đối với nước ta, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế cũng có tác động hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực.
Về khía cạnh tích cực, với thế mạnh về con người, vị trí địa lý
chiến lược, tài nguyên đa dạng, nếu chúng ta thực hiện thành công
-21-


quá trình hội nhập quốc tế thì chắc chắn chúng ta sẽ phát huy được
các lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được vốn đầu tư của nước
ngoài, tiếp cận được với khoa học và công nghệ tiên tiến để có thể
đối mới công nghệ, nâng cao được năng lực cạnh tranh trên trường
quốc tế, góp phần mở rộng thị trường trong nước, tạo điều kiện cho
sự khai thông giao lưu các nguồn lực trong nước với các nước trên
thế giới và trong khu vực.
Về khía cạnh tiêu cực, có thể nhiều hay ít phụ thuộc vào các
chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta
có phù hợp hay không phù hợp. Một số khía cạnh tiêu cực của hội
nhập kinh tế quốc tế mà một số người Việt Nam lo ngại có thể kể ra
như: thứ nhất, do tham gia vào các tổ chức quốc tế, nước ta phải
giảm dần các thuế quan và bỏ các hàng rào phi thuế quan. Điều này

sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ nước ngoài ồ ạt đổ vào, bóp chết các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Thứ hai, do hội nhập kinh
tế quốc tế mà chấn động tiêu cực trong hệ thống kinh tế toàn cầu (ví
dụ như tiền tệ, tài chính, giá cả nguyên vật liệu...) cũng sẽ ảnh hưởng
đến nước ta. Thứ ba, tham gia vào các qúa trình toàn cầu hoá không
chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ mà còn có cả các thế lực phản
động....
Tuy nhiên những tác động tiêu cực này có thể từ nhỏ đến lớn
đến đâu, điều đó cũng còn phụ thuộc vào các chính sách hội nhập
của chúng ta. Nếu chúng ta có các chính sách hội nhập kinh tế đúng
đắn và thích hợp, thì tác hại của những mặt tiêu cực sẽ bị hạn chế và
ngược lại.
Hiện nay, với một xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn
thấp, còn một bộ phận kinh tế chưa thật sự thoát khỏi sản xuất hàng
hoá nhỏ, các yếu tố đồng bộ của một nền kinh tế thị trường chưa phát
triển đầy đủ, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường
lao động... chưa hoàn thiện.
Để chuẩn bị đầy đủ hành trang cho cuộc hội nhập kinh tế quốc
tế có hiệu quả, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách
hành chính tương đối toàn diện để đáp ứng các yêu cầu toàn cầu hoá
-22-


và hội nhập, đặc biệt là nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của hàng
hoá sản xuất trong nước... Trong đó, có một số lĩnh vực đặc biệt cần
được chú trọng trong quá trình cải cách như: cải cách hệ thống thuế,
chính sách thương mại, đầu tư, các thủ tục thuế quan, tự do hoá lĩnh
vực dịch vụ, tài chính, bảo hiểm, hàng không, viễn thông, sở hữu trí
tuệ... Nếu không kịp thời cải cách và nâng cao năng lực cạnh tranh
trên quy mô nền kinh tế nói chung, cũng như sản phẩm của từng

doanh nghiệp nói riêng, của từng ngành, hàng, dịch vụ... thì nước ta
không những không mở rộng được thị trường mà còn có thể dẫn đến
nguy cơ bị thu hẹp thị trường (kể cả trong nước và nước ngoài).
Trong bối cảnh năng động của tình hình kinh tế quốc tế hiện nay,
dưới sự chi phối của môi trường tự do buôn bán, tự do đầu tư, nước
ta có thể sẽ biến thành thị trường tiêu thụ hàng hoá cho các hãng, các
công ty và quốc gia bên ngoài. Hơn thế nữa, nếu hàng sản xuất ra
vừa đắt, vừa chất lượng thấp, không tiêu thụ được, đầu tư không đem
lại hiệu quả mong muốn, lao động không có việc làm... thì hậu quả
xã hội sẽ rất nặng nề, thậm chí khó tránh khỏi khủng hoảng.
*Xu hướng khu vực hoá được đẩy mạnh
Một xu hướng kinh tế lớn trong nền kinh tế thế giới từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ
sự hợp tác và liên kết kinh tế khu vực. Khái niệm khu vực hoá về
mặt kinh tế đại thể được hiểu là một nhóm nước liên hợp với nhau
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, các bên tự nguyện hạn chế một
phần quyền lợi kinh tế của mình, thậm chí nhượng bộ một phần chủ
quyền theo nguyên tắc đối đẳng; xây dựng cơ cấu chấp hành tương
ứng theo quy định nghiêm ngặt, cùng nhau quy định điều kiện lưu
thông tự do của các yếu tố sản xuất hoặc toàn bộ các yếu tố sản xuất
như hàng hoá, vốn, lao động, dịch vụ giữa các nước thành viên, từ đó
làm cho nguồn vốn của các nhóm nước này không chịu sự hạn chế
của các nước thành viên và được sự ưu tiên, sắp xếp lại trong không
gian kinh tế chung của một nhóm nước, khiến cho các nước thành
viên có thể thực hiện được sự bổ sung kinh tế cho nhau, để đạt được
mục đích cùng phồn vinh.
-23-


Khu vực hoá về kinh tế có thể được thực hiện qua các tổ chức

có tính khu vực. Căn cứ vào các mức độ liên kết khác nhau, người ta
có thể chia các tổ chức kinh tế khu vực thành 6 loại bao gồm: khu
thuế quan ưu đãi, khu mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị
trường chung, liên minh kinh tế, khu vực hoá toàn bộ.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, quá trình khu vực hoá diễn ra đặc
biệt mạnh mẽ trong thời đại ngày nay. Hiện nay, trên thế giới, có rất
nhiều tổ chức kinh tế khu vực, điển hình có thể kể ra như: Khu mậu
dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC); Liên minh châu Âu (EU); Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN)...
Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế là lưu thông tự do hàng và
yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Nhưng trong tương lai gần,
mục tiêu này chưa thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc từng nhóm
nước liên kết với nhau, cùng nhau đưa ra những ưu huệ cao hơn
những ưu huệ quốc tế hiện hành, loại bỏ các hàng cao ngăn cách lưu
thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất giữa các nước, tạo điều kiện
cho việc lưu thông tự do một vài loại hoặc toàn bộ các yếu tố sản
xuất giữa các nước là một khâu quan trọng đặt nền móng cho quá
trình toàn cầu hoá về kinh tế. Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực
hoá và hợp tác kinh tế toàn cầu không mâu thuẫn với nhau, thúc đẩy
lẫn nhau, bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nẩy sinh trong bối cảnh
toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định nhưng
trình độ hợp tác của khu vực lại cao hơn so với toàn cầu hoá kinh tế.
Khu vực hoá phát triển rộng rãi trên toàn thế giới sẽ lại giúp cho hợp
tác kinh tế toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế nên,
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn khi hiện nay Việt Nam và Nhật Bản đều là thành viên chính
thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC). Tính đến thời điểm năm 1999, APEC là một tổ chức hợp
tác kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất thế giới với : dân số 2.165,5
triệu người (chiếm khoảng 42,5% dân số toàn thế giới ); tổng sản

phẩm quốc dân (GDP) 15.526,23 tỷ USD (chiếm khoảng 55,8%
-24-


GDP của toàn thế giới) và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ USD
(chiếm khoảng 43,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới ). Với
mục tiêu là tự do hoá đầu tư và mậu dịch với nguyên tắc hiệp thương
nhất trí tự nguyện, cân bằng lợi ích, không phân biệt đối xử và nhất
trí cho rằng cần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ quốc tế và
khu vực để ngăn ngừa rủi ro và bảo vệ sự ổn định của thị trường.
Chính vì thế, mô hình hợp tác kinh tế châu Á về kinh tế - kỹ thuật
của APEC đã và đang cuốn hút sự chú ý của toàn thế giới. Thế kỷ 21
chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực châu Á Thái Bình Dương và APEC là tổ chức hạt nhân.
Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò
quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ đối ngoại của
Việt Nam và Nhật Bản là ASEAN. ASEAN được thành lập vào ngày
8 tháng 8 năm 1967 chỉ có 5 nước thành viên Đông Nam Á, hiện nay
đã phát triển và mở rộng ra toàn bộ các nước Đông Nam Á bao gồm
10 nước, trong đó có Việt Nam. Ngay trong ngày đầu tiên thành lập,
ASEAN đã long trọng tuyên bố mục tiêu hàng đầu của Hiệp hội là “
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá
trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng,
hợp tác nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho một cộng đồng các nước
Đông Nam Á hoà bình và thịnh vượng”. Kể từ ngày đó đến nay, các
nước ASEAN luôn coi hợp tác kinh tế là một trong những nội dung
chủ yếu trong hoạt động của mình. Hiện nay, sự hợp tác kinh tế trong
ASEAN được đẩy mạnh trên những lĩnh vực chủ yếu như: thương
mại, công nghiệp, vận tải, thông tin, du lịch, tài chính - ngân hàng,
nông - lâm - ngư nghiệp, năng lượng và khai thác khoáng sản.
Những sự hợp tác này được thực hiện trên nguyên tắc chung là bình

đẳng và cùng có lợi.
Thương mại là lĩnh vực hợp tác quan trọng của ASEAN được
thực hiện theo hướng chủ yếu là khuyến khích và tăng cường buôn
bán trong nội bộ các thành viên và phối hợp hành động trong các vấn
đề thương mại quốc tế. Các nhóm chuyên gia của ASEAN đã được
thành lập để nghiên cứu, đánh giá tác động của thương mại quốc tế
-25-


×