Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.94 KB, 73 trang )

1

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, xu hướng “ toàn cầu hoá” đang từng ngày, từng giờ tác động
đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, hoạt động tài chính quốc tế sẽ là
hoạt động chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng nhất của xu hướng này. Bởi lẽ,
sự phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng sẽ là khâu đột
phá, mở đường cho sự phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế - quốc tế trên mọi
lĩnh vực khác, tạo đà cho sự phát triển kinh tế mỗi nước. Hệ thống ngân hàng
các nước ngày càng mở rộng hoạt động, tích cực cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không nằm ngoài sự vận động chung đó.
Hơn nữa, đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội Đảng VI (1986) như
luồng gió mát lành đầy sinh khí thổi vào bức tranh kinh tế Việt Nam. Một trong
những nội dung quan trọng của đường lối này là đổi mới nền kinh tế, thực hiện
nền kinh tế mở cửa. Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để thực hiện thành công
mở cửa nền kinh tế thì hệ thống tài chính - ngân hàng là hệ thống hỗ trợ hiệu
quả nhất.
Dưới tác động của xu hướng “ toàn cầu hoá”, và nhu cầu phát triển nền
kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện nền kinh tế mở cửa tại
Việt Nam; các ngân hàng liên doanh đã từng bước được thiết lập và phát triển.
Các ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần mở rộng
quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế. Đồng thời, các ngân
hàng liên doanh cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các ngân hàng
thương mại trong nước sẽ được tiếp cận, học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến
từ đó cải tiến, nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu về tiêu
chuẩn dịch vụ ngân hàng và kinh doanh tiền tệ.
2. Mục đích nghiên cứu
Khái niệm “ liên doanh” hiện nay được hiểu ở hai góc độ: “ liên doanh
cũ” và “liên doanh mới”. “ Liên doanh cũ” đơn thuần là sự liên doanh giữa một



2
(hoặc các bên) Việt Nam với một (các bên) nước ngoài. “ Liên doanh mới” là sự
hợp tác liên doanh theo cách thức doanh nghiệp liên doanh - doanh nghiệp Việt
Nam; doanh nghiệp liên doanh - doanh nghiệp liên doanh…Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, tôi chỉ xin phép nghiên cứu những quy
định cơ bản nhất về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh với nước ngoài
tại Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của ngân hàng
liên doanh đối với sự phát triển kinh tế, quy định của pháp luật về hoạt động của
ngân hàng liên doanh…; trên cơ sở xem xét hệ thống pháp luật thực định về
ngân hàng liên doanh và thực tiễn hoạt động của nó từ đó chỉ ra các thiếu sót,
hạn chế để có thể khắc phục, đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật về ngân hàng
liên doanh tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những chế định về quy chế pháp
lý của ngân hàng liên doanh theo các quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước,
Luật các Tổ chức tín dụng, Luật đầu tư năm 2005... và các văn bản dưới luật có
liên quan.
Với mục đích như đã đặt ra ở trên, phạm vi nghiên cứu của khoá luận
được giới hạn là những lý luận khái quát và quy chế pháp lý về ngân hàng liên
doanh với nước ngoài tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận dựa trên phương pháp luận của triết học Mác- Lênin về duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp…
Tác giả khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận gắn liền với
thực tiễn, lấy Luật đầu tư năm 2005 và Luật Các Tổ chức Tín dụng đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi là Luật các TCTD) làm cơ sở pháp lý cơ bản
cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá

luận được kết cấu thành ba chương:


3
Chương 1 đề cập những vấn đề khái quát về Ngân hàng và ngân hàng liên
doanh;
Chương 2, quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam;
Chương 3, thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh và một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng liên doanh
ở Việt Nam.


4

Chương 1
Những vấn đề khái quát về ngân hàng và
ngân hàng liên doanh
1.1. Lịch sử ra đời, phát triển của ngân hàng
Hiện nay, các nhà khoa học và các nhà kinh tế đều cho rằng: “Hoạt động
ngân hàng hình thành và phát triển cùng với sự hình thành đời sống kinh tế và
xã hội của loài người”. Ngân hàng đã bước đi từng bước cực kỳ thô sơ (như hình
thức bancus) và dưới những tác động của nhu cầu phát triển xã hội, nền kinh tế,
đã thúc đẩy ngân hàng không ngừng được hoàn thiện. Xã hội càng phát triển thì
hoạt động của ngân hàng càng trở nên đa dạng hơn.
Giai đoạn lịch sử phát triển đầu tiên của hoạt động ngân hàng được gọi là
“giai đoạn sơ khai của các ngân hàng” xuất hiện vào thời Hy Lạp, đế quốc La
Mã…Điển hình là hoạt động của các nhà đổi tiền Hy Lạp (Iraperita) nhận tiền
của giai cấp quý tộc, người giàu có…và cho các thương gia vay. Đây là hoạt
động mua bán, trao đổi vay tiền sơ khai đầu tiên. Đồng thời, nó cũng dẫn đến sự
ra đời của thuật ngữ “ ngân hàng” (xuất phát từ chữ Latinh Bancus). Giai đoạn

phát triển thứ hai của lịch sử ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ
XVII với nhiều hoạt động mới được áp dụng. Hoạt động ngân hàng tiến bộ rất
nhiều so với ngân hàng sơ khai như sự xuất hiện của nghiệp vụ áp dụng phương
pháp bù trừ trong thanh toán, nghiệp vụ chuyển ngân…Thế kỷ XVII ngân hàng
bước vào giai đoạn ba với việc mạnh dạn cho vay tạo ra những khoản tiền mới
và lưu thông, nghĩa là ngân hàng đã “tham gia vào hoạt động cung ứng tiền”.
Đồng thời là sự ra đời của một loạt các ngân hàng như ngân hàng Anh ở Luân
Đôn - Ngân hàng lớn nhất thế giới cuối thế kỷ XVII, ngân hàng Đông Phương
của Anh ở Trung Quốc, ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập tại Việt
Nam (Thế kỷ XIX)…


5
Trong thời đại ngày nay, hoạt động ngân hàng rất đa dạng, các thao tác
trong từng nghiệp vụ ngân hàng lại rất phức tạp và luôn biến động theo sự phát
triển chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán pháp luật của mỗi quốc gia
khác nhau nên đến nay vẫn chưa có sự đồng nhất trong khái niệm ngân hàng.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm ngân hàng được hiểu là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan (Khoản 2 Điều 20 Luật các TCTD). Từ quy định
này có thể thấy, ngân hàng tại Việt Nam có các đặc điểm sau: là loại hình tổ
chức tín dụng tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
vì mục tiêu lợi nhuận; nội dung hoạt động thường xuyên và chủ yếu của nó là
nhận tiền gửi có hoàn trả và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng; ngân hàng thực
hiện các dịch vụ thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác theo quy
định. Như vậy, khái niệm ngân hàng được sử dụng như một thuật ngữ để nói đến
các tổ chức làm chức năng thu nhận tiền gửi của công chúng và đem số tiền đó
cho người khác vay nhằm thu lợi nhuận.
Nền kinh tế của một nước càng phát triển thì vai trò của hệ thống ngân
hàng càng có tầm quan trọng đặc biệt. Vai trò của ngân hàng được xác định trên

cơ sở các chức năng và các nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn. Qua
việc nghiên cứu các chức năng của ngân hàng như chức năng trung gian tín
dụng, chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán. Ta thấy vai trò của ngân hàng được thực hiện ở hai mặt là thực thi chính
sách tiền tệ đã được hoạch định bởi Ngân hàng Trung ương và góp phần vào
hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài
chính và dịch vụ ngân hàng; thực hiện trung gian thanh toán các nguồn vốn cho
nền kinh tế thị trường; thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển; góp phần hình
thành và phát triển thị trường chứng khoán; phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại.
Như vậy, ngân hàng ra đời cùng với quá trình sản xuất kinh doanh, trực
tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh và khi ngân hàng phát triển nó
lại đóng vai trò thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển nhanh.


6
1.2. Qúa trình ra đời và phát triển của ngân hàng liên doanh
1.2.1 Sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và sự ra
đời của ngân hàng liên doanh
Xu hướng hợp tác kinh tế, quốc tế là một nhu cầu tất yếu đối với phát
triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường, đặc biệt với các nước đang phát
triển. Cách mạng công nghiệp đã cho ra đời một nền công nghiệp mới và dần
thay thế công nghệ truyền thống. Các nước phát triển đang chuyển tỷ trọng từ
công nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại, dựa vào tri thức và thông
tin. Nền kinh tế không hướng theo chiều rộng mà hướng tới phát triển theo chiều
sâu. Tình hình đó làm phát sinh nhu cầu bức thiết là đòi hỏi các nước phải mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế - quốc tế để tiếp nhận công nghệ, khoa học kỹ thuật
hiện đại, thúc đẩy sản xuất, công nghiệp hoá đất nước. Hợp tác kinh tế - quốc tế
được mở rộng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống trong đó có hợp tác kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị
trường, không một hoạt động kinh tế nào không liên quan tới hoạt động tài chính
và tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ. Ngân hàng được coi

là một bộ phận của hạ tầng cơ sở trong nền kinh tế.
Thứ nhất, để ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị
trường thì vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng hết sức to lớn. Đồng tiền
với vai trò thúc đẩy sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá phải luôn ổn định, đủ
tín nhiệm cả đối ngoại lẫn đối nội và ngân hàng cần được tổ chức thành một hệ
thống, có mặt ở khắp nơi để kế toán, kiểm soát trên phạm vi toàn quốc, thực
hiện chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng đối với quá trình sản xuất, lưu
thông, phân phối và tiêu dùng.
Thứ hai, trong nền kinh tế hướng ngoại, giao lưu và hợp tác kinh tế phát
triển thì mọi hoạt động kinh tế đối ngoại (xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài…)
đều trực tiếp phụ thuộc và liên quan mật thiết vào hoạt động của ngân hàng, đặc
biệt là quan hệ đối ngoại của ngành ngân hàng. Ngân hàng là trung tâm thanh
toán điều hoà và cho vay vốn bảo đảm khả năng chi trả cho các nhà xuất nhập


7
khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngân hàng cũng đóng vai trò là người tài
trợ cùng tham gia hợp tác kinh doanh với các nhà xuất nhập khẩu, là trung tâm
tư vấn cho các nhà xuất nhập khẩu trong quá trình hoạt động, ngân hàng là cầu
nối quan trọng giữa các nhà xuất nhập khẩu trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy
hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp, ngân
hàng tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư từ khâu hình thành
dự án đầu tư (thực hiện nghĩa vụ môi giới, tham gia thẩm định các dự án đầu tư),
đến khi dự án được triển khai (như mở tài khoản, chuyển vốn đầu tư…), xí
nghiệp đi vào hoạt động (hoạt động thanh toán, chuyển tiền…), xí nghiệp hết
thời hạn hoạt động hoặc giải thể (chuyển vốn, thanh lý tài sản xí nghiệp…).
Ngân hàng tham gia vào hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua việc tham gia vào
thị trường chứng khoán hoặc cung cấp vốn, hùn vốn đầu tư…
Từ xu thế phát triển của thế giới, vai trò quan trọng đặc biệt của ngân
hàng trong nền kinh tế; ta nhận thấy phát triển kinh tế trong điều kiện mở cửa,

giao lưu hợp tác kinh tế - quốc tế thì trước hết phải phát triển hệ thống ngân
hàng, mở rộng hoạt động của ngành ngân hàng trong đó có các hoạt động đối
ngoại và sự hợp tác kinh tế - quốc tế của ngành ngân hàng. Sự phát triển và vận
động này của ngân hàng đã dẫn đến những hình thức ngân hàng mới như chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh…
Vấn đề quan tâm đầu tiên của nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào một nước cụ thể là hệ thống ngân hàng nước đó có đủ uy tín hay
không? Ngân hàng nước họ đã xuất hiện chưa và họ sẽ được hỗ trợ gì?.. Chính
vì vậy, sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài dưới hình thức chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng trong nước với
ngân hàng nước ngoài, trong giai đoạn đầu của quá trình mở cửa, là một xu
hướng phổ biến, giải quyết được những khúc mắc của các nhà đầu tư nước
ngoài, từ đó thu hút đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển khi
bước vào thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; hệ thống
ngân hàng còn chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển


8
kinh tế. Vì thế, cần phải thực hiện hiệu quả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh được thành lập nhằm tạo ra một ngân hàng có sức mạnh
tổng hợp trên cơ sở khắc phục những yếu kém của ngân hàng trong nước, phát
huy thế mạnh của ngân hàng nước ngoài, góp phần cải thiện môi trường đầu tư
và tạo điều kiện cho việc đổi mới hệ thống ngân hàng tại các nước này.
Ngân hàng liên doanh là một loại hình ngân hàng mà trong đó có sự tham
gia hợp tác liên doanh giữa ngân hàng thương mại trong nước với ngân hàng
nước ngoài trên cơ sở góp vốn để hình thành nên một ngân hàng thương mại
mới, có tư cách pháp nhân và hoạt động theo pháp luật của nước sở tại.
Qua khái niệm trên, ta thấy ngân hàng liên doanh có những đặc điểm như:
- Ngân hàng liên doanh được ra đời trên cơ sở hợp đồng liên doanh giữa
bên ngân hàng trong nước và bên ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng liên doanh

có tư cách pháp nhân và tồn tại độc lập với ngân hàng đã tham gia liên doanh
thành lập ra nó.
- Ngân hàng liên doanh có sự hợp tác kinh tế chặt chẽ giữa bên ngân hàng
trong nước với bên ngân hàng nước ngoài nhằm tiến hành các hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Sự gắn bó chặt chẽ giữa các bên được thể
hiện qua các nội dung kinh tế như vốn, quản trị điều hành, phân chia lợi
nhuận…
- Ngân hàng liên doanh phần lớn là liên doanh hai bên trong đó một bên là
ngân hàng nước ngoài có uy tín và tầm cỡ trên thế giới với một bên là ngân hàng
thương mại trong nước có khả năng tài chính tốt nhằm tạo ra một ngân hàng có
tiềm lực tài chính và hoạt động hiệu quả ngay sau khi ra đời.
Ngay từ khi mới thành lập, ngân hàng liên doanh đã khẳng định vai trò
của mình đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Trước hết,
sự ra đời các ngân hàng liên doanh tạo điều kiện cho việc cải thiện môi trường
đầu tư tại các nước đang phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tăng cường và mở rộng các quan hệ thương mại và dịch vụ với nước
ngoài. Đồng thời, ngân hàng liên doanh cũng tạo ra khả năng tiếp cận, học tập


9
và tranh thủ kỹ thuật nghiệp vụ, công nghệ tiên tiến…của các ngân hàng nước
ngoài, từ đó góp phần cải thiện môi trường dịch vụ ngân hàng trong nước. Bên
cạnh đó, ngân hàng liên doanh còn đóng góp vai trò với tư cách là một loại hình
liên doanh của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục đích của việc liên doanh nhằm
giải quyết các nhu cầu đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế đất nước là vốn,
khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến…đều có thể đạt
được trong ngân hàng liên doanh. Ngoài ra, ngân hàng liên doanh còn là một
trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường tiền
tệ và thị trường tài chính tại các nước đang phát triển.
Như vậy, sự ra đời của các ngân hàng liên doanh mang tính tất yếu khách

quan, phù hợp với tình hình lịch sử và điều kiện kinh tế của các nước đang phát
triển. Ngân hàng liên doanh đã đóng góp những nhân tố tích cực cho sự phát
triển kinh tế tại các nước này.
1.2.2 Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước
Ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước
ngoài xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào những năm 50 tại khu vực Châu Á.
Ở Inđônêxia, ngân hàng liên doanh với nước ngoài được thành lập đầu tiên vào
những năm 1953 là ngân hàng PT Bank Perdania. Thời kỳ đầu, từ những năm
1953 khi bắt đầu cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh với nước ngoài
cho đến cuối những năm 60 và đầu những năm 70. Trong giai đoạn này, do mới
giành được độc lập, hệ thống ngân hàng Inđônêxia còn yếu kém. Để thu hút vốn
từ bên ngoài, Chính phủ Inđônêxia đã cho phép các ngân hàng nước ngoài vào
hoạt động dưới một hình thức duy nhất là ngân hàng liên doanh trên cơ sở cùng
góp vốn liên doanh giữa các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại
trong nước với tỷ lệ góp vốn khá chênh lệch bên ngân hàng thương mại
Inđônêxia 20% còn bên ngân hàng nước ngoài vào khoảng 80%. Do vậy, các
ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Inđônêxia được thành lập hầu hết vào
giai đoạn này. Từ cuối những năm 60 đầu những năm 70 cho đến cuối những
năm 80 và đến nay, nền kinh tế đã phát triển, các ngân hàng thương mại nội địa


10
Inđônênxia dần lớn mạnh, đáp ứng được nhu cầu dịch vụ ngân hàng của nền
kinh tế, Chính phủ Inđônêxia thực hiện chính sách hạn chế sự có mặt của các
ngân hàng liên doanh. Nhìn chung, sự điều chỉnh pháp luật đối với ngân hàng
liên doanh của Inđônêxia là điển hình của xu hướng “ thu hẹp dần”. Đây là xu
hướng mà ban đầu, việc cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh rất rộng
rãi với nhiều ưu đãi… nhằm khuyến khích sự có mặt của các ngân hàng nước
ngoài tại nước sở tại, góp phần đẩy nhanh thu hút vốn tạo sức bật cho nền kinh
tế. Khi hệ thống ngân hàng thương mại trong nước đã phát triển vững mạnh thì

thắt chặt dần các quy định đối với ngân hàng liên doanh.
Ngược lại với xu hướng “thu hẹp dần” là xu hướng “ mở rộng dần”. Điển
hình của xu hướng này là Trung Quốc. Ngân hàng liên doanh với nước ngoài
xuất hiện tại Trung Quốc cùng với công cuộc mở cửa và được đánh dấu bằng Bộ
luật đầu tư và hợp tác giữa Trung Quốc và nước ngoài ngày 1/7/1979. Để
khuyến khích sự có mặt các ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc, ngay từ đầu
Chính phủ Trung Quốc cho phép các ngân hàng nước ngoài được hoạt động
dưới nhiều hình thức khác nhau, ngân hàng nước ngoài độc lập 100% vốn; chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh…Dưới những hình thức
này, đến nay tại Trung Quốc đã có mặt nhiều ngân hàng lớn có tầm cỡ của các
nước như: Mỹ, Anh…Ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Trung Quốc
được thành lập là liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại Trung Quốc
có khả năng tài chính tốt và một bên là các ngân hàng có uy tín và tầm cỡ quốc
tế. Khác với Inđônêxia, Trung Quốc luôn đề cao vai trò ngân hàng thương mại
nội địa trong việc liên doanh. Trung Quốc mở rộng dần mạng lưới và địa bàn
hoạt động của các ngân hàng liên doanh tương ứng với sự lớn mạnh của các
ngân hàng thương mại trong nước và sự hoàn thiện của chính sách tiền tệ.
Tóm lại, sự hiện diện của ngân hàng liên doanh đã đóng góp nhiều nhân
tố tích cực cho sự phát triển nền kinh tế thị trường. Và xuất phát từ những hoàn
cảnh kinh tế - xã hội khác nhau mà sự ra đời, phát triển và sự điều chỉnh của
pháp luật đối với ngân hàng liên doanh mỗi nước là khác nhau.


11
1.3. Sự hình thành của ngân hàng liên doanh và vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trường tại Việt Nam
1.3.1 Sự hình thành ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta bắt đầu đổi mới cơ chế kinh tế,
trong đó quan hệ thị trường dần được củng cố và phát triển. Trên cơ sở đổi mới
trong quan hệ kinh tế đối ngoại, cuối năm 1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam ra đời đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của đời sống kinh tế đất nước.
Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm khai thác có hiệu quả
mọi tiềm năng đất nước (về tài nguyên và lao động) để tăng tích luỹ, tăng nguồn
hàng về xuất khẩu, giải quyết tình trạng thiếu công ăn việc làm và phát triển
ngoại thương, mở rộng hợp tác quốc tế qua đó phát triển nền kinh tế cho theo
kịp thời đại. Nó đã tạo ra một kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tài chính…Lĩnh vực tài chính - ngân hàng
không nằm ngoài dòng đầu tư đó.
Trong báo cáo của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) 1990 đã
nhận xét: “ Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần giải quyết tốt khâu ngân hàng
vì không một dự án nào không liên quan đến việc giải quyết vốn và tín dụng,
giám sát và điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ, những nhược điểm hiện nay của
ngân hàng nước ta cũng như sự vắng mặt của các ngân hàng nước ngoài đã trở
thành cản trở đối với nhiều dự án”. Trước yêu cầu đó, Hội đồng nhà nước đã ban
hành Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính tháng 5 năm 1990. Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã
tín dụng và công ty tài chính 1990 (sau đây gọi là Pháp lệnh Ngân hàng năm
1990) đã đưa ra mục tiêu cải cách hệ thống ngân hàng, định hướng rõ chính sách
và cơ chế nghiệp vụ cũng như về cơ cấu tổ chức của hệ thống ngân hàng, tạo lập
môi trường pháp lý cho hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Một trong những mục tiêu của cải cách hệ thống ngân hàng là làm cho hệ
thống ngân hàng ngày càng đa dạng hơn để các tổ chức tín dụng đáp ứng được
tốt hơn với môi trường và hoàn cảnh kinh tế mới. Đây là cơ sở pháp lý và điều


12
kiện nền tảng cho sự ra đời của ngân hàng liên doanh. Lần đầu tiên khái niệm
“ngân hàng nước ngoài” và “ngân hàng liên doanh” được đưa ra trong Pháp lệnh
Ngân hàng năm 1990. Pháp lệnh này cũng dành toàn bộ chương V để điều chỉnh
những vấn đề cơ bản nhất đối với ngân hàng liên doanh với nước ngoài hoạt

động tại Việt Nam, phù hợp với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp
với các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong Luật đầu tư. Sau khi ban
hành Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, ngày 15 tháng 6 năm 1991 Chính phủ
Việt Nam đã ban hành Quy chế về chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh hoạt động tại Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 189/HĐBT
ngày 15/6/1991) đã quy định chi tiết về việc cấp phép, khai trương nội dung và
phạm vi hoạt động, tài chính và hoạch toán, thay đổi gia hạn chấm dứt hoạt động
và thanh lý. Để chi tiết hoá hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư
178/NH-TT ngày 5/10/1991 hướng dẫn thực hiện quy chế về chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam.
Có thể nói, Luật đầu tư và Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 là hai văn bản
pháp quy quan trọng nhất chi phối sự thành lập và hoạt động của ngân hàng liên
doanh giữa Việt Nam với nước ngoài tại Việt Nam.
Tháng 1 năm 1991, ngân hàng liên doanh đầu tiên được thành lập tại Việt
Nam là ngân hàng liên doanh IndoVina (viết tắt là IVB). Ngân hàng IVB ra đời
trên cơ sở liên doanh giữa ngân hàng Công thương Việt Nam và ngân hàng
Summa Handel Bank Inđônêxia với giấy phép đầu tư số 135/GPĐT của Uỷ ban
Nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) cấp ngày 21/11/1990 và đã khai trương
hoạt động từ ngày 21/01/1991. Tuy nhiên, sau khi ban hành Nghị định
189/HĐBT ngày 15/6/1991 và thực hiện theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990
thì ngân hàng liên doanh IVB đã được Ngân hàng Nhà nước cấp lại giấy phép
hoạt động số 08/NH-GP ngày 29/10/1992. Đây là ngân hàng liên doanh giữa hai
bên trong đó phần vốn góp của mỗi bên ngân hàng là 50% trong tổng số 10 triệu
USD vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. Các đối tác tham gia ngân hàng liên
doanh:


13
- Bên ngân hàng Việt Nam là ngân hàng Công thương Việt Nam - một
trong những ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất và giữ vị trí quan trọng

trơng hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
- Bên đối tác nước ngoài là ngân hàng Summa của Inđônêxia, là ngân
hàng thuộc tập đoàn Soeryadjaya đăng ký kinh doanh tại Đức, có trung tâm
quản lý tại Inđônêxia và văn phòng đại diện tại nhiều nước trên thế giới như Mỹ,
Hồng Kông. Sau nhiều biến động của tình hình kinh doanh tháng 8/1993, ngân
hàng IVB thay đổi đối tác mới là ngân hàng Dagang Natinonal. Đến ngày
14/6/2000 Ngân hàng thương mại Thế Hoa, một trong ba ngân hàng thương mại
lớn nhất Đài Loan đã tham gia liên doanh trong ngân hàng IVB thay thế ngân
hàng Dagang Natinonal.
Từ đó đến nay, ở nước ta đã có 5 ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với
nước ngoài được thành lập: ngân hàng liên doanh Shinhanvinabank (đầu tiên là
ngân hàng liên doanh First Vina); ngân hàng liên doanh Indovinabank, ngân
hàng liên doanh Vidpublicbank, ngân hàng liên doanh Vinasiam (Việt - Thái),
ngân hàng liên doanh Việt Nga.
Ngân hàng liên doanh Việt - Nga là ngân hàng liên doanh được thành lập
mới nhất trong gần 10 năm trở lại đây. Ngân hàng liên doanh Việt - Nga là ngân
hàng liên doanh giữa ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và ngân hàng
Ngoại thương của Nga với số vốn điều lệ là 10 triệu USD, trong đó ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam đóng góp 51% số vốn. Số vốn điều lệ dự kiến sẽ
được tăng lên 30 triệu USD. Ngân hàng liên doanh Việt - Nga đã khai trương
hoạt động vào ngày 19/11/2006, trụ sở chính được đặt tại Hà Nội.
Nhìn chung, sự ra đời của các ngân hàng liên doanh là hoàn toàn phù hợp
với đặc điểm kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, qua đó thực hiện mục
tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng
Việt Nam nói riêng dần hoà nhập vào thị trường thế giới và thị trường tài chính
quốc tế.
1.3.2 Vai trò của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam


14

Sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh có ảnh hưởng quan trọng đến
việc phát triển kinh tế hàng hoá, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế, quốc tế.
Trước hết, sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh đã góp phần tạo ra môi
trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngày nay, khi đầu tư
vào một nước cụ thể các nhà đầu tư quan tâm đầu tiên là ở nước đó hệ thống
ngân hàng có đủ mạnh không? hỗ trợ gì cho họ? ngân hàng của nước họ đã có
mặt chưa? Môi trường đầu tư hấp dẫn sẽ thu hút được nguồn vốn ngoại tệ từ
nước ngoài, đáp ứng một phần nhu cầu vốn phát triển kinh tế trong nước. Sự có
mặt ngân hàng liên doanh với nước ngoài là đánh dấu một bước khởi đầu của
thời kỳ tăng cường hợp tác kinh tế - quốc tế; tăng cường hợp tác kinh tế đối
ngoại.
Trong ngân hàng liên doanh, do bản chất là sự góp vốn kinh doanh tiền tệ
giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài nên ngân hàng trong nước
cũng được trực tiếp tham gia vào quản lý kinh doanh cùng bên nước ngoài, vì
vậy ngân hàng nước sở tại có điều kiện để học tập kinh nghiệm, quản lý, nghệ
thuật kinh doanh, tiếp thu công nghệ ngân hàng tiên tiến từ đó hoàn thiện và
phát triển công nghệ ngân hàng trong nước. Ngân hàng liên doanh là nơi đào tạo
ra một đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và quản lý trong nền kinh tế thị trường do các
cán bộ nước sở tại làm việc tại các ngân hàng liên doanh, được học hỏi tác
phong, nghiệp vụ của bên nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh còn tăng cường đáp ứng các dịch vụ ngân hàng với
nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, góp phần cải thiện hoạt động dịch vụ
ngân hàng, tạo ra nhiều kênh để thu hút vốn cho sự phát triển kinh tế.
Ngân hàng liên doanh thành lập tại nước sở tại với tư cách là một loại
hình tổ chức tín dụng trong hệ thống ngân hàng nước sở tại. Hơn nữa, ngân hàng
thương mại trong nước không còn được sự bảo hộ như trước, qua đó thúc đẩy
cạnh tranh, trao đổi kinh nghiệm hoạt động ngân hàng, tạo ra một môi trường
cạnh tranh lành mạnh, cải thiện môi trường dịch vụ ngân hàng nước sở tại.



15
Có thể nói với ngân hàng liên doanh, các mục tiêu cơ bản đối với các
nước đặc biệt là các nước đang phát triển đặt ra về vốn, kỹ thuật, công nghệ và
kinh nghiệm quản lý kinh doanh ngân hàng tiên tiến, đào tạo sử dụng cán bộ
ngân hàng đều có thể đạt được nhất là trong việc tiếp cận công nghệ mới.


16

Chương 2
Quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh
ở Việt Nam
2.1. Khái niệm về ngân hàng liên doanh
2.1.1 Khái niệm ngân hàng liên doanh
Trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, pháp luật nước ta chưa có
quy định về ngân hàng liên doanh. Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 đã đánh dấu
một nấc thang pháp lý mới trong đổi mới hệ thống ngân hàng nước ta và sự ra
đời của ngân hàng liên doanh. Trong Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, khái niệm
ngân hàng liên doanh được hiểu là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của
Bên ngân hàng Việt Nam và Bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở tại Việt Nam,
hoạt động theo pháp luật Việt Nam (Điều 1); quy chế pháp lý về ngân hàng liên
doanh được quy định tại chương V: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân
hàng liên doanh tại Việt Nam.
Để cụ thể hơn các quy định pháp lý về ngân hàng liên doanh và khắc phục
những hạn chế không phù hợp của Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, Nhà nước ta
đã ban hành Luật các TCTD để chỉnh sửa, bổ sung và phát triển thêm một bước
tiến mới các quy định về hệ thống ngân hàng. Luật các TCTD không trực tiếp và
chính thức đưa ra khái niệm về ngân hàng liên doanh mà chỉ gián tiếp thông qua
các nội dung của khái niệm ngân hàng, và định nghĩa tổ chức tín dụng, tổ chức
tín dụng nước ngoài.

Luật các TCTD quy định: Theo nhu cầu cần thiết cho sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước, Nhà nước cho phép thành lập tổ chức tín dụng liên doanh
(Khoản 2 Điều 12).
Theo Điều 20 của Luật các TCTD thì:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm


17
dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán;
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan;
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp
luật nước ngoài;
Nghị định 13/1999/ NĐ-CP ngày 17/3/1999 về tổ chức hoạt động của Tổ
chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài
tại Việt Nam đã có những quy định cụ thể về khái niệm ngân hàng liên doanh.
Gần đây nhất, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 22/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng
2 năm 2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức
tín dụng nước ngoài tại Việt Nam thay thế Nghị định 13 nói trên, quy định chi
tiết về ngân hàng liên doanh tại chương III. Nghị định 22/2006/ NĐ-CP đã có
những bổ sung chi tiết hơn thay thế Nghị định 13 về khái niệm ngân hàng liên
doanh tại khoản 5 Điều 7: “Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập
tại Việt Nam, bằng vốn góp của Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng
Việt Nam) và Bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên
cơ sở hợp đồng liên doanh. Ngân hàng liên doanh được thành lập dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt
Nam”.

Qua khái niệm nêu trên ta thấy, ngân hàng liên doanh có một số đặc điểm
như sau:
Cơ sở pháp lý để hình thành ngân hàng liên doanh là hợp đồng liên doanh.
Một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam hợp tác kinh doanh với một hoặc nhiều
ngân hàng nước ngoài. Bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam để hoạt
động ngân hàng là các tổ chức tín dụng nước ngoài chứ không phải bất kỳ tổ
chức, cá nhân nước ngoài nào.


18
Vốn pháp định của ngân hàng liên doanh; ngân hàng liên doanh được
thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng nước ngoài và bên ngân hàng Việt
Nam. Đặc điểm của ngân hàng liên doanh là sự hợp tác kinh tế chặt chẽ dựa trên
cơ sở cùng sở hữu tài sản nên nghĩa vụ hàng đầu của bên liên doanh là phải
đóng góp vốn theo đúng cam kết thành lập ngân hàng liên doanh. Theo Nghị
định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục vốn pháp định
của các tổ chức tín dụng thì mức vốn pháp định của ngân hàng liên doanh đến
hết ngày 31/12/2007 phải đạt 1000 tỷ đồng Việt Nam, đến năm 2010 tăng lên
3000 tỷ đồng Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn điều lệ do các bên thoả thuận và phải
được ghi rõ trong Điều lệ. Mức góp vốn của Bên nước ngoài tối đa không quá
50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh, trừ những trường hợp đặc biệt do
Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 46 Nghị định 22/2006/NĐ-CP). Tỷ lệ
góp vốn của các bên liên doanh xác định trách nhiệm và lợi ích của mỗi bên
trong ngân hàng liên doanh.
Tính chất sở hữu vốn của ngân hàng liên doanh, ngân hàng liên doanh là
một pháp nhân hoạt động và hạch toán độc lập nên ngân hàng liên doanh hoạt
động và chịu trách nhiệm về rủi ro trong phạm vi số vốn điều lệ tự có, mà không
phụ thuộc vào các ngân hàng tham gia thành lập ra nó. Các bên trong liên doanh
cùng sở hữu tài sản, cùng quản lý, phân chia lợi nhuận và cùng mạo hiểm rủi ro.
Tổ chức quản trị điều hành; ngân hàng liên doanh chịu sự quản lý và giám

sát của Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng liên doanh có bộ máy quản lý chung
trong đó cơ quan lãnh đạo cao nhất là Hội đồng quản trị, tiếp theo là bộ máy
điều hành như Tổng giám đốc (Giám đốc), Ban kiểm soát…
Thời hạn hoạt động tối đa của ngân hàng liên doanh không quá 99 năm.
Khi có nhu cầu gia hạn thời hạn hoạt động, ngân hàng liên doanh nộp hồ sơ xin
gia hạn cho Ngân hàng Nhà nước trước khi thời hạn hoạt động kết thúc tối thiểu
là 180 ngày. Mỗi lần gia hạn tối đa bằng thời hạn hoạt động trước đó được quy
định trong giấy phép (Điều 11,12 Nghị định 22/2006/NĐ-CP).


19
Từ những phân tích trên đây có thể định nghĩa ngân hàng liên doanh tại
Việt Nam như sau: Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam hiện nay là liên doanh
giữa ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam và ngân hàng nước ngoài trên
cơ sở góp vốn để hình thành nên một ngân hàng thương mại mới, có tư cách
pháp nhân và hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích
lợi nhuận, góp phần phát triển hệ thống ngân hàng trong nước, thúc đẩy các
quan hệ kinh tế - thương mại phát triển.
2.1.2 Tính chất pháp lý đặc thù của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam
Ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù: kinh doanh tiền tệ. Do vậy, ngân hàng
liên doanh ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh đồng thời của hai hệ thống văn bản
pháp luật: Các văn bản pháp luật về đầu tư và các văn bản pháp luật về ngân
hàng.
Trước hết, ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, thành lập và hoạt động trên cơ sở Luật đầu tư. Vì vậy, ngân hàng liên
doanh chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về đầu tư, đặc biệt là các
văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài khác. Tuy vậy, xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ, ngân hàng liên doanh có sự khác biệt với các doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài khác. Hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng đòi hỏi phải có sự quản lý trực tiếp và tập trung của một cơ quan Nhà
nước. Tại Việt Nam, tất cả các tổ chức tín dụng trong đó có ngân hàng liên
doanh chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Như vậy, ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nhưng không chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan
quản lý chuyên trách về hoạt động đầu tư tại Việt Nam mà ngân hàng liên doanh
chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


20
2.1.3 Phân biệt ngân hàng liên doanh với một số loại hình doanh nghiệp khác
như: chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác…
2.1.3.1 Ngân hàng liên doanh trong mối tương quan với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài khác
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân theo pháp luật Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam và được tổ
chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài. Như vậy, khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một
khái niệm rộng. Trong khi đó, khái niệm ngân hàng liên doanh là một khái niệm
có tính chất hẹp hơn nhưng vẫn nằm trong nghĩa chung của khái niệm doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn có sự tham gia đầu tư
trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài có thể là tổ chức
kinh tế, cá nhân nước ngoài. Trong ngân hàng liên doanh nhà đầu tư nước ngoài
chỉ có thể là ngân hàng nước ngoài, chứ không phải bất kỳ một cá nhân, tổ chức
nào.
Việc hợp tác kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài được thực hiện trên tất cả các mặt kinh tế nhằm mục tiêu lợi
nhuận. Hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng liên doanh là hoạt động ngân
hàng, hoạt động huy động vốn để cho vay.
Cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài là Bộ kế hoạch và đầu tư. Do tính chất đặc thù của ngân hàng liên
doanh nên cơ quan quản lý nhà nước đối với ngân hàng liên doanh là Ngân hàng
Nhà nước.
2.1.3.2 Sự khác nhau giữa ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài


21
Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng
liên doanh, bằng vốn góp của bên Việt Nam (gồm 1 hoặc nhiều ngân hàng nước
ngoài) và bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài).
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước
ngoài, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và được ngân hàng mở chi nhánh
bảo đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh.
Trong ngân hàng liên doanh mối quan hệ giữa ngân hàng nước ngoài và
ngân hàng Việt Nam rất chặt chẽ gắn bó trong một pháp nhân chung. Giữa
những ngân hàng tham gia liên doanh nảy sinh những ràng buộc về vốn, phân
chia kết quả kinh doanh và quản lý hoạt động ngân hàng, chịu trách nhiệm về rủi
ro. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với tư cách là đơn vị phụ thuộc của ngân
hàng nước ngoài nên không có tư cách một chủ thể độc lập mà theo chế độ ủy
quyền của ngân hàng nước ngoài. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
nước sở tại không phải bỏ vốn, không phải chia sẻ rủi ro. Do các khoản rủi ro
của chi nhánh ngân hàng nước ngoài được bảo đảm bằng ngân hàng mẹ cho nên
trong chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có sự ràng buộc chặt chẽ giữa
nước sở tại và nước ngoài. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tác dụng tăng
cường thu hút vốn từ các tổ chức kinh tế và tài chính quốc tế.

Qua sự so sánh giữa các hình thức pháp lý của doanh nghiệp với ngân
hàng liên doanh, ta nhận thấy sự ra đời của ngân hàng liên doanh dựa trên cơ sở
sự kết hợp những lợi thế so sánh của các bên tham gia liên doanh. Vì vậy, trong
ngân hàng liên doanh luôn có sự cộng hưởng của những ưu thế của các bên tham
gia liên doanh, tạo ra một động năng cho sự phát triển.
2.2. Một số nội dung cơ bản về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh ở
Việt Nam
2.2.1 Quy chế pháp lý về thành lập, quản trị điều hành, kiểm soát ngân hàng
liên doanh
2.2.1.1 Trình tự, thủ tục thành lập


22
Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam, bằng
vốn góp của Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và Bên
nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng
liên doanh (Khoản 5 Điều 7 Nghị định 22/2006/NĐ-CP). Như vậy, chủ thể được
phép tham gia thành lập ngân hàng liên doanh bao gồm Bên Việt Nam là “một
hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam” và Bên nước ngoài là “một hoặc nhiều ngân
hàng nước ngoài”. Điều đó cho thấy, chủ thể được phép tham gia thành lập ngân
hàng liên doanh là khá hạn chế, chỉ bao gồm các ngân hàng thương mại Việt
Nam và các ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh là pháp nhân Việt Nam, hoạt động theo pháp luật
Việt Nam. Do vậy, theo Nghị định 22/2006/NĐ-CP thì Ngân hàng Nhà nước là
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên
doanh (Điều 5).
Do tính phức tạp, đặc thù của nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng và sự cần
thiết phải bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng liên doanh nên ở nước
ta các quy định của pháp luật về điều kiện thành lập một ngân hàng liên doanh
được quy định khá chặt chẽ. Trước khi Luật các TCTD có hiệu lực thi hành thì

quy trình thành lập một tổ chức tín dụng ở nước ta có sự tách biệt giữa hai khâu:
cấp giấy phép thành lập và cấp giấy phép hoạt động. Để đơn giản hoá các thủ
tục hành chính, tránh sự chồng chéo phiền hà trong việc cấp phép thành lập, giấy
phép hoạt động cho các tổ chức tín dụng, đồng thời nâng cao vai trò và trách
nhiệm quản lý của Ngân hàng Nhà nước, Luật các TCTD đã quy định thống
nhất thành một khâu cấp phép là cấp giấy phép thành lập và hoạt động.
Theo Nghị định 22/2006/NĐ-CP quy định các điều kiện để được cấp giấy
phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh (Khoản 1 và 3 Điều 8) là:
- Ngân hàng nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng các quy định về
hoạt động ngân hàng và các quy định pháp luật khác của nước nguyên xứ trong
vòng 3 năm gần nhất liền kề trước khi xin cấp giấy phép;


23
- Ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động quốc tế, được các tổ
chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam
kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế
biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi;
- Ngân hàng nước ngoài đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, các tỷ lệ bảo
đảm an toàn theo thông lệ quốc tế;
- Cơ quan giám sát, thanh tra có thẩm quyền của nước nguyên xứ có khả
năng giám sát toàn bộ hoạt động của ngân hàng nước ngoài trên cơ sở tổng hợp
theo thông lệ quốc tế; có cam kết hợp tác quản lý, giám sát hoạt động và trao đổi
thông tin với Ngân hàng nhà nước;
- Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn xin hoạt động;
- Có vốn quy định tại Điều 83 Luật các TCTD (Điều 83: Mức vốn pháp
định do Chính phủ quy định. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006
về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng; mức vốn
pháp định của ngân hàng liên doanh đến năm 2008 phải là 1000 tỷ đồng Việt
Nam)

- Thành viên sáng lập là tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính;
- Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ
chuyên môn phù hợp với từng loại hình tổ chức tín dụng;
- Có điều lệ tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của Luật các TCTD
và các quy định khác của pháp luật;
- Có phương án kinh doanh khả thi;
- Ngân hàng nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước nguyên
xứ cho phép tham gia thành lập ngân hàng liên doanh, thành lập ngân hàng
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
- Ngân hàng nước ngoài có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 10 tỷ đô
la Mỹ vào năm trước năm xin cấp giấy phép;
- Ngân hàng nước ngoài phải có văn bản cam kết với Ngân hàng Nhà
nước về việc sẵn sàng hỗ trợ về tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành hoạt


24
động cho ngân hàng liên doanh; đảm bảo duy trì giá trị thực có của vốn điều lệ
không thấp hơn mức vốn pháp định và đáp ứng đầy đủ các quy định về an toàn
hoạt động theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Các bên liên doanh phải nộp đủ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt
động gồm có: Đơn xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động; Dự thảo điều lệ;
Phương án hoạt động 3 năm đầu trong đó nêu rõ hiệu quả và lợi ích kinh tế của
hoạt động ngân hàng; Danh sách, lý lịch, các văn bằng chứng minh năng lực,
trình độ chuyên môn của thành viên sáng lập, thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc); Mức vốn góp, phương án góp vốn, và
danh sách những tổ chức cá nhân góp vốn; Tình hình tài chính và những thông
tin liên quan về cổ đông lớn; Ý kiến chấp nhận của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nơi đặt trụ sở của tổ chức tín dụng; Điều lệ của tổ
chức tín dụng nước ngoài; Giấy phép hoạt động của tổ chức tín dụng nước
ngoài; Văn bản của cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cho phép tổ chức tín

dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; Bảng cân đối tài chính, bảng kết quả
lãi, lỗ đã được kiểm toán và báo cáo tình hình hoạt động 3 năm gần nhất của tổ
chức tín dụng nước ngoài; Hợp đồng liên doanh đối với tổ chức tín dụng liên
doanh; Họ tên của Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng liên doanh
(Khoản 1 Điều 108 Luật các TCTD). Hồ sơ xin cấp giấy phép của ngân hàng
nước ngoài, tổ chức tín dụng nước ngoài phải lập thành 2 bộ, 1 bộ bằng tiếng
Việt và 1 bộ bằng tiếng nước ngoài thông dụng. Bộ hồ sơ bằng tiếng nước ngoài
thông dụng phải được hợp pháp hóa lãnh sự. Các bản sao tiếng Việt và các bản
dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt phải được cơ quan công chứng Việt Nam
xác nhận theo quy định của pháp luật về công chứng (Khoản 1 Điều 9 Nghị định
22/2006/NĐ-CP).
Các quy định của pháp luật về điều kiện được cấp giấy phép và hồ sơ xin
cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh được quy định ngày
càng chặt chẽ, khoa học hơn nhằm mục đích bảo đảm an toàn trong hoạt động
kinh doanh cho các ngân hàng liên doanh, hạn chế những nguy cơ tiềm ẩn gây


25
thiệt hại đến lợi ích của xã hội, gây mất an toàn đối với hệ thống các tổ chức tín
dụng và có ảnh hưởng nhất định đến chính sách tiền tệ quốc gia đồng thời vẫn
đảm bảo vai trò quản lý của các cơ quan Nhà nước.
Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy
phép, Ngân hàng Nhà nước cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trong trường hợp từ
chối cấp giấy phép, Ngân hàng Nhà nước có văn bản giải thích lý do. Ngân hàng
liên doanh sau khi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải nộp lệ phí
cấp giấy phép theo quy định của Bộ Tài chính.
Sau khi được cấp giấy phép, ngân hàng liên doanh phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật. Nếu như việc cấp giấy phép thành lập và
hoạt động là xác nhận sự ra đời của ngân hàng liên doanh thì việc đăng ký kinh
doanh chính là thủ tục pháp lý xác nhận ngân hàng liên doanh là chủ thể pháp lý

độc lập có đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Về phần vốn pháp định: Theo quy định tại Mục c Khoản 1 Điều 28 Luật
các TCTD, trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày phần vốn pháp định góp bằng
tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không được hưởng lãi mở tại Ngân
hàng Nhà nước. Số vốn này chỉ được giải toả sau khi tổ chức tín dụng hoạt
động.
Trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp giấy phép, ngân hàng liên
doanh phải khai trương hoạt động. Ngân hàng liên doanh chỉ được khai trương
hoạt động sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong trường
hợp không thể khai trương hoạt động trong thời hạn quy định nêu trên, các bên
trong liên doanh, tổ chức tín dụng nước ngoài phải có văn bản đề nghị xin gia
hạn thời hạn hoạt động gửi Ngân hàng Nhà nước trước khi thời hạn này kết thúc
tối thiểu 30 ngày. Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét việc gia hạn thời hạn
khai trương hoạt động nhưng thời hạn gia hạn không quá 6 tháng. Tối thiểu 30
ngày trước ngày dự kiến khai trương ngân hàng liên doanh phải đăng báo ba số
liên tiếp trên một tờ báo của Trung ương và một tờ báo địa phương nơi đặt trụ sở
(Điều 14,16 Nghị định 22/2006/NĐ-CP).


×