Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Bài viết số 2 lớp 11 đề 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.47 KB, 8 trang )

Bài vi ết s ố2 l ớ
p 11 đề 1: Hình ản h ng ườ
i ph ụn ữvi ệt nam th ờ
i xư
a wa bài bánh trôi n ướ
c tự
tình

2



th ươ
ng

Bài

vợ
.
làm

Trong kho tàng văn học Việt Nam có r ất nhi ều bài th ơ nói lên than ph ận c ủa ng ười ph ụ n ữ phong
ki ến x ưa. Đó là nh ững ng ười ph ụ n ữ chịu s ự ràng bu ộc c ủa l ễ giáo phong ki ến “Tam tòng, t ứ đức”
( t ại gia tòng ph ụ, xu ất giá tòng phu, phu t ử tòng t ử và công dung ngôn h ạnh). H ọ h ầu nh ư không có
quy ền quy ết đị nh cu ộc đời mình, ch ỉ bi ết s ống cam ch ịu và ph ục tùng. C ảm thông v ới s ố ph ận, thân
ph ận và ph ẩm ch ất c ủa ng ười ph ụ n ữ x ưa, hai nhà th ơ H ồ Xuân H ương và Tr ần T ế X ương đã thay
h ọ nói lên ti ếng lòng mình qua các bài th ơ nh ư: T ự tình, Bánh trôi n ước, Th ương v ợ…..

Th ời x ưa, d ưới ch ế độ phong ki ến suy tàn, m ục nát, s ố ph ận ng ười ph ụ n ữ luôn b ị vùi d ập vào v ũng
l ầy đau kh ổ, luôn bị trói bu ộc b ởi xã h ội b ất công, nam quy ền độc đoán, m ột xã h ội “tr ọng nam khinh
n ữ”, m ột ch ế độ đa thê…. H ọ g ặp nhi ều đau kh ổ, l ận đận, tình duyên tr ắc tr ở, ch ịu cu ộc đời làm l ẻ,


s ố ph ận h ẩm hiu, éo le.
V ới b ản lĩnh c ủa mình và c ũng là n ạn nhân trong xã h ội đó, H ồ Xuân H ương đã m ạnh d ạn nói lên
n ỗi lòng c ủa nh ững ng ười ph ụ n ữ x ưa. Đó là nh ững ng ười ph ụ n ữ duyên dáng, xinh x ắn nh ưng luôn
bị phân bi ệt đối x ử th ậm t ệ, không có quy ền l ựa ch ọn h ạnh phúc c ủa đời mình và luôn khát khao
h ạnh phúc l ứa đôi. Tr ước m ột xã h ội b ất công, c ảnh ng ộ ng ười con gái giàu s ức s ống và h ết s ức tài
hoa, nh ưng tr ớ trêu cu ộc đời th ật b ất h ạnh, s ố ph ận l ận đận gian truân:
“ Thân em v ừa tr ắng l ại v ừa tròn
Bảy n ỗi ba chìm với n ước non”
Không chỉ th ế nỗi đau thân ph ận con đượ c nh ắc đến ở bài : “T ự tình II” :
“ Đêm khuya v ăng v ẳng tr ống canh d ồn
Tr ơ cái h ồng nhan v ới n ước non(…)
V ầng tr ăng bóng x ế khuy ết ch ưa tròn”
M ột tâm tr ạng bu ồn đau, oán h ận, cô độc, trong màn đêm v ắng l ặng. S ự b ẽ bàng, t ủi h ổ, d ầu dãi
cay đắ ng là n ỗi đau c ủa H ồ Xuân H ương nói riêng và ng ười ph ụ n ữ Vi ệt Nam nói chung. Duyên
ph ận h ọ th ật h ẩm hiu, h ạnh phúc ít ỏi ( tu ổi xuân trôi qua mà h ạnh phúc không tr ọn v ẹn nh ư tr ăng x ế


mà v ẫn khuy ết). Mang cho mình m ột thân ph ận l ẻ m ọn, tình yêu b ị chia n ăm x ẻ b ảy ch ỉ còn tí con
con: “Mảnh tính san sẻ tí con con”.
Đối v ới Tr ần T ế X ương, ông đứng d ưới khía c ạnh m ột ng ười đàn ông, c ảm thông th ương xót cho s ố
ph ận c ủa ng ười ph ụ n ữ bị đối x ủ b ất công, luôn ch ịu c ơ c ực gian truân nh ưng không dám ph ản
kháng. H ọ luôn s ống cam chịu, hi sinh cho ch ồng con:
“L ặn l ội than cò khi quãng v ắng
Eo sèo m ặt n ước bu ổi đò đông”
(Thương Vợ)
Câu th ơ mang ch ất li ệu ca dao, các hình ảnh “l ặn l ội”, “eo sèo”, “khi quãng v ắng”, “bu ổi đò đông” th ể
hi ện s ự t ủi thân c ủa ng ười ph ụ n ữ, tr ước s ự đơn chi ếc, chen chút làm ăn v ật lôn v ới cu ộc s ống để
m ưu sinh, nuôi ch ồng con. Ng ười ph ụ n ữ x ưa khi v ề nhà ch ồng ph ải ch ịu s ự ràng bu ộc c ủa l ễ giáo
phong ki ến, ch ấp nh ận không kêu ca, oán than (“M ột duyên hai n ợ âu đành ph ận – N ăm n ắng m ười
m ưa dám qu ản công”) m ặc dù r ất v ất v ả, kh ổ c ực. Hình ảnh bà Tú chính là chân dung c ủa m ột

ng ười ph ụ n ữ không qu ản khó kh ăn vì ch ồng vì con, là m ột hình ảnh tiêu bi ểu c ảu ng ười ph ụ n ữ
Việt Nam.
Qua đó, đã làm n ổi b ật nh ững v ẻ đẹp tâm h ồn và ph ẩm ch ất ng ười ph ụ n ữ Vi ệt Nam x ưa. Đồng th ời
phê phán cái xã h ội th ối nát, gi ận ng ười đời b ạc b ẽo vô tâm (“Sau gi ận vì duyên để m ỏi mõm mòm”
– T ự tình I c ủa H ồ Xuân H ương), gi ận cu ộc s ống đã đưa nh ững ng ười ph ụ n ữ vào ch ỗ l ẻ loi cô d ơn,
hiu hút:
“Oán h ận trông ra kh ắp m ọi chòm”
(T ự tình I – H ồ Xuân H ương)
H ọ oán h ận tr ước n ỗi đau âm ỉ, dai d ẳng đốt cháy tâm can và tê tái nh ất.
Trong th ơ H ồ Xuân H ương ta luôn b ắt g ặp nh ững hình ảnh ng ười ph ụ n ữ bi ết v ượt lên s ố ph ận,
không để n ỗi đau làm mình g ục ngã:
“Xiên ngang m ặt đất rêu t ừng đám
Đâm to ạc chân mây đá m ấy hòn”
(Tự tình II)
Qu ả th ật, h ọ không bao gi ờ chịu khu ất ph ục, luôn c ựa qu ậy. Xuân H ương l ại càng kh ẳng định”
“R ắn nát m ặc d ầu tay k ẻ n ặn
Mà en v ẫn gi ữ t ấm lòng son”
( Bánh trôi nước)


Đúng là một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ với tấm lòng thủy chung, son s ắc, quy ết gìn gi ữ
không để hoàn cảnh xã hội lam hoen ố, là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh và hãnh di ện v ề chính mình.
Và trong tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được hòa h ợp trong một tình yêu tr ọn v ẹn, mãnh
liệt:
“Chém cha cái kiếp lấy cồng chung”
Nó thể hiện một niềm khao khát chính đáng của người phụ nữ ở mọi th ời đại.
Đến với “Thương vợ” của Tú Xương nhìn với góc độ đạo lý, bà Tú đang tuân theo b ổn ph ận làm v ợ
nhưng nhìn ở góc độ tình cảm, ta thấy bà làm tất cả vì ch ồng con mà không than th ở, ở bà hi ện lên
vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, chịu thương, chịu khó và đức
hi sinh âm thầm vì chồng con.

Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận ng ười ph ụ n ữ Vi ệt Nam x ưa, ph ải ch ịu nhi ều kh ổ
cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở…
Ngày nay thân phận người phụ nữ đã chiếm một v ị trí quan tr ọng trong gia đình. B ởi l ẽ cái xã h ội
“Trọng nam khinh nữ” đã bị xóa bỏ mà thay vào đó là m ột xã h ội “công b ằng, bình đẳng, nam n ữ
bình quyền”. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi v ẻ thu ần phong m ỹ t ục v ốn
có của mình. Và vẫn giữ được phẩm chất, vẻ đẹp truyền thống của ng ười ph ụ n ữ Viêt Nam, đảm
đang

tháo

vác

Bài viết số 2 lớp 11 đề 2: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua bài Tự tình II c ủa Hồ
Xuân

Hương



Thương

vợ

của

Trần

tế

Xương


Bài làm
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi ném thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”
Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhi ều qua nh ững câu ca dao v ới
những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều có chung đức tính truy ền th ống đẹp đẽ mà
dân tộc Việt Nam đã tích luỹ được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó c ũng
được thể hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II cua H ồ Xuân H ương Và Th ương V ợ c ủa Tr ần
Tễ Xương.


Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài th ơ đó là hình t ương
người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cu ộc s ống. Đó là hình ảnh bà Tú v ất v ả,
gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu th ơ đã nói lên
một hoàn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm vi ệc v ất v ả su ốt c ả n ăm, không k ể
mưa nắng trên mom sông- cái doi đất nhô ra đầy nguy hi ểm. Th ấm thía n ỗi v ất v ả, gian truân c ủa
vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói v ề bà Tú. Có đi ều hình ảnh con cà
trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong th ơ Tú X ương con t ội nghi ệp h ơn. Con cò
trong thơ không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn là r ợn ng ợp c ủa th ời gian.
Hình ảnh thân cò như một sự sáng tạo:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm t ăng thêm n ỗi v ất v ả, gian truân c ủa
bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn:
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông n ước c ủa nh ững ng ười buôn bán nh ỏ, s ự
cạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thi ếu lời qua ti ếng l ại. Bu ổi đò đông đâu ph ải
là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng mà đó còn là sự chen l ấn, xô đẩy ch ứa đầy b ất tr ắc, nguy
hiểm. Những câu thơ đã làm nổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà Tú và người phụ nữ Việt Nam

xưa phải chịu đựng, trải qua.
Còn với bài thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương thì đó là sự khổ đau vì không làm chủ được s ố phận
của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh li ệt đến m ấy,
tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm vắng, n ếu không có nó thì đem khuya s ẽ tr ở
nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm
khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là th ời điểm hạnh phúc l ứa đôi, ấy v ậy mà l ại
có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm ng ười phụ n ữ đã không
ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một n ỗi đau? Tiếng tr ống canh
âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến một điều đáng s ợ đôí v ới một
người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: đó là tuổi già. Tuổi già càng đến g ần ngh ĩa là hi v ọng
càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô v ọng. Ti ếng tr ống d ồn d ập c ứ xoáy sâu vào


tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm vang trong suy ngh ĩ không tài nào d ứt
được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên c ả th ời gian n ữa,
và tự hỏi: đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong th ực tại hay ph ải ch ăng đó là ti ếng tr ống c ất lên
từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, ti ếng trống ám ảnh v ề m ột bi k ịch đang ngày càng đến g ần h ơn
với bà:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng nhan” ngày m ột tr ơ ra v ới đời.
“Hồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt xinh đẹp của ng ười phụ nữ. Đó là điều mà b ất c ứ ng ười
phụ nữ nào cũng hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nh ưng t ừ “cái” g ắn li ền v ới “h ồng nhan” nh ư
một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì khi n ữa đêm ph ải t ĩnh gi ấc trong cái
trống trãi, lặng lẽo đến đắng cay? “Hồng nhan” để làm gì khi nó đâu phải là v ĩnh c ữu mà s ẽ nhanh
chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn. Câu thơ nh ư lời đay nghiến, mỉa mai chính b ản thân mình,
đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức v ới nh ững th ủ t ục phong ki ến
đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan. Đó còn là n ỗi đau vì cô qu ạnh, thi ếu v ắng h ạnh

phúc lứa đôi, không người yêu thương, thông cảm.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi ni ềm tác gi ả. M ột ng ười ph ụ
nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cô đơn với đêm khuya, v ới vầng tr ăng l ạnh. Câu th ơ là ngo ại
cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên s ự đồng nhất giữa trăng v ới ng ười. Khi mu ốn quên s ầu là lúc
người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có ai để có th ể chia s ẽ n ỗi ni ềm và
ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong men rượu, m ột mình. Nh ưng li ệu chén r ươu có th ể làm quen
đi bảo nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương u ống r ượu mà nh ư u ống đi bao gi ọt s ầu
mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có thể lặng lẽ, âm thầm nu ốt vào cổ h ọng, để đau kh ổ
cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính trong tâm trí mình. Ở đây c ảnh tình Xuân H ương được th ể
hiện chứa đựng bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không được tr ọn v ẹn.Tr ăng v ốn là
biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước m ơ và hi v ọng. Nh ưng h ạnh phúc c ủa H ồ
Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn”- một hạnh phúc không h ề trọn v ẹn, một cuộc đời
còn dang dở, éo le với những trắc trở trong tình duyên. H ạnh phúc c ủa bà ch ỉ nh ư v ầng tr ăng
khuyết mà bà không thể biết trước ngày mai trăng sẽ khuyết ti ếp hay tròn. Ánh tr ăng sáng mà l ạnh
lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong đó một nỗi cô đơn, trống vắng. Và bóng x ế đi kèm v ới trăng l ại g ợi nên
một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi xuân đang m ất đi. Tr ăng đã x ế mà v ẫn khuy ết
chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang mất đi mà tình duyên chu ă được tr ọn v ẹn.
Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng


sinh động ngoại cảnh mà cũng bộ lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm t ư đang hi ện h ữu trong
bà.
Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì ng ười phụ n ữ Vi ệt Nam x ưa v ẫn là
những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn là ở tình yêu
thương , lòng nhân hậu, một lòng, một dạ vì chồng, vì con:
“Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh n ăm ch ẳng n ề hà nh ư v ậy là để nuôi
cả nhà. Đông con, nuôi lũ con đông ấy đã đành, bà còn phải nuôi ch ồng. N ăm con v ới m ột ch ồng là

sáu người. Một phải gánh sáu, thế là nặng, ph ải gánh và gánh được, th ế là đảm đang. Nh ưng nuôi
đủ vẫn hiểu là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng th ừa. Vất vả quanh n ăm đến
vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy m ới thật là v ất v ả, đã g ắng h ết s ức r ồi. V ậy m ới
thật là đảm, nặng đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn. Câu th ơ th ể hi ện s ự v ất
vả, gian lao đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con c ủa bà Tú nói riêng và c ủa
người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Còn với Tự Tình II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù y ếu ớt đến đâu c ũng
loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không ch ịu khuất ph ục mà mu ốn vùng lên đấu tranh thay đổi
cuộc sống của mình:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động nh ư tính cách bu ớng b ỉnh, không ch ịu khu ất ph ục
điều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao gi ờ c ũng g ợi nên nh ững
phản ứng tích cực, bà không buông xuôi, đầu hàng mà luôn c ố g ắng tìm cách thay đổi v ận m ệnh,
cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy ngh ĩ. Hai câu th ơ t ưởng nh ư ch ỉ miêu t ả c ảnh
vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm cuả cảnh vật đó đã được dùng để b ộc l ộ tâm tr ạng
của con người. Hàng loạt những động từ mạnh đầy sắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên
đầu câu. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn, còn hèn mọn h ơn cả “n ội c ỏ hoa hèn” nh ư đám rêu kia
mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà là “xiên ngang m ặt đất”. Đá đã r ắn ch ắc l ại
phải rắn chắc hơn, nó phải “đâm toạc chân mây”. Bi ện pháp ngh ệ thu ật đảo ng ữ trong hai câu dã
làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là s ự ph ẫn u ất c ủa tâm tr ạng. Ch ỉ
những cảnh vật bình thường không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cách nhìn đấy bất mãn,
ấm ức của tác giả, chúng trở nên vô cùng sống động. Cự động, n ổi lo ạn, phá phách, mu ốn đập tan
những gì gò bó đẻ dược tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hoà h ợp v ới con ng ười, đặc đi ểm


thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm nhân vật. Và ta cũng th ấy được tâm tr ạng c ủa H ồ Xuân H ương
phẫn uất trước những tục lệ phong kiến, cũng như những số phận hẩm hiu đang tàn nh ẫn ra tay
bóp chết hạnh phúc của bà; những uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến m ức không ch ịu
nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn đập tung t ất c ả, mu ốn đập đổ m ọi th ứ, mu ốn t ự do bi ết

nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng chỉ là một người ph ụ n ữ phong ki ến, m ột thân ph ận n ữ nhi cô
độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn t ừ. Bà không th ể làm gì
hơn được nữa.............. Mặc dù vậy, ta phải công nhận đay là m ột cách suy ngh ĩ vô cùng m ới m ẻ,
một tư tưởng đi trứoc thời đại, một tính cách hoàn toàn khác biệt so v ới ng ười ph ụ n ữ lúc b ấy gi ờ.
Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân H ương ngán l ắm r ồi n ỗi đời éo le, b ạc b ẽo. Xuân đi r ồi
xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ xuân mang hai ngh ĩa, v ừa là mùa xuân, v ừa là tu ổi
xuân. Mùa xuân đi rồi, mùa xuân tr ở lại với thiên nhiên, v ới muôn nghìn hoa c ỏ, lá cây, nh ưng v ới
con người tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang
hai ý nghĩa khác nhau. Từ lại thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai nghĩa là trở lại. Sự tr ở lại
của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng ti ến làm cho ngh ịch c ảnh
càng éo le hơn: Mảnh tình-san sẻ-tí con con. Mảnh tình đã bé l ại còn san s ẻ ra thành ít ỏi, ch ỉ còn tí
con con nên càng xót xa, tội nghi ệp. Câu th ơ được vi ết ra có th ể là tâm tr ạng c ủa ng ười mang thân
đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ được chia n ăm x ẻ b ảy, nh ận d ược duy nh ất
một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không tr ọn v ẹn mà còn nh ỏ bé, ít ỏi đến m ức
độ tội nghiệp. Tình duyên như thế có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Cách dùng t ừ
giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. H ồ Xuân H ương ngang tàng,
thách thức đầy nổi loạn trên là thế, nhưng cuối cùng tất cả vẫn ch ỉ chìm vào vô v ọng trong s ự b ất
lực tột cùng và chán chường, mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy c ủa bà ch ỉ là vô ích, b ởi ph ận c ủa
bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là bi kịch mà thôi. Có lẽ trong gi ờ phút ấy, bà đã muốn buông
xuôi, muốn bỏ mặc cho tất cả số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hi vọng............ “Gi ọt n ước m ắt
em..........âm thầm buông rơi, đêm sầu đơn côi...........trong tim em ôm tr ọn m ột n ỗi sàu b ơ
vơ................đành khóc vậy thôi............... Liệu Hồ Xuân H ương có th ể v ượt qua t ất c ả để tr ở l ại là
một người phụ nữ yêu đời mạnh mẽ, không sợ gì cả như ngày nào? Đó vẫn là câu h ỏi còn d ở dang
của người phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nh ỏ
nhoi như mảnh gương vỡ......... Câu thơ diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi k ịch của Hồ Xuân H ương và
cũng là của người phụ nữ thời bấy giờ.
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã h ội x ưa, đồng th ời là k ết tinh c ủa

những đức tính tốt đẹp của ngưòi phụ nữ Việt Nam qua hàng th ế kỉ. Trong cả hai bài th ơ là hình


tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nh ưng ở h ọ toát
lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làn tốt b ổn phận c ủa m ột ng ười ph ụ n ữ trong gia
đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát.



×