Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.58 KB, 12 trang )

Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm
Văn học là một môn khoa học, đòi hỏi người dạy, người học phải say mê, suy ngẫm,
phải hào hứng khi tiếp cận thì chúng ta mới hiểu, mới làm rõ được vấn đề. Dạy văn, học văn
cũng là một nghệ thuật, cần đến sự sáng tạo và linh hoạt về phương pháp. Những năm gần
đây, ngành giáo dục nước ta đã có những đổi mới về mục tiêu, nội dung chương trình và
phương pháp giảng dạy nhưng những đổi mới về phương pháp dạy học vẫn chưa đáp ứng
được những yêu cầu đổi mới giáo dục.
Thực tế hiện nay chúng ta thấy rằng tình yêu Văn học trong học sinh đã giảm sút rất
nhiều. Một phần, do Văn học là môn học khó chiếm lĩnh, dù các em thích Văn nhưng không
phải em nào cũng có khả năng tiếp thu dễ dàng. Học sinh có năng khiếu học văn không
nhiều. Phần khác, do xu hướng phát triển của thời đại khoa học, nhu cầu của xã hội, yêu cầu
của nghề nghiệp, sự định hướng của gia đình... ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn môn
học của các em. Những ngành nghề các em thích, sau này có thu nhập cao, khối dự thi
thường là các ban Khoa học tự nhiên. Chính vì vậy, việc xem thường, coi nhẹ, xa lánh môn
Văn là điều dễ hiểu.
Song thực tế môn Văn vẫn là một môn quan trọng, có vị trí lớn trong trường học phổ
thông, nó giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh, giúp các em tự hoàn thiện
mình hơn trong các mối quan hệ xã hội. Là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Văn còn thể
hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Văn sẽ tác động, hỗ trợ tích cực đến
các môn học còn lại.
Văn học là món ăn tinh thần của con người, không chỉ dùng lí trí để “nhận” mà còn
phải “cảm” bằng trái tim, tâm hồn. Vì thế người dạy không thể xem học sinh là “chiếc bình”
cần được đổ đầy kiến thức mà phải thấy được rằng các em là những “ngọn đuốc” cần được
thắp sáng. Vậy làm thế nào để đánh thức khát vọng học Văn vốn đang dần tắt nguội, để thắp
sáng những niềm sai mê văn chương trong học sinh, để các em chủ động đến với Văn và yêu
Văn? Đánh thức khát vọng văn chương không phải là điều dễ dàng, giáo viên phải có sự
chuẩn bị rất chu đáo, hoàn hảo về giáo án, về các bước lên lớp và đặc biệt là tâm trạng cởi
mở, tâm hồn tràn ngập niềm yêu Văn và quý mến học trò. Cũng từ đó mà tôi phát hiện ra


rằng, để học sinh chủ động đến với giờ đọc - hiểu Văn học, ngoài sở thích, năng khiếu phải
có “tâm thế trong giờ văn”. Nghĩa là cần phải có một tâm lí thoải mái, một sự tự tin, một
cảm hứng, một tâm hồn văn chương thì mới có thể đi vào tìm hiểu, khám phá được cái hay,
cái đẹp của tác phẩm văn học.
“Tạo tâm thế” trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học cũng là cách đa dạng hoá các
phương pháp dạy và học, tạo thêm sức hấp dẫn cho môn học và thu hút học sinh đến với bộ
môn. Trong quá trình dạy học, tôi cũng đã phần nào khắc phục những khó khăn (đặc trưng
bộ môn, đối tượng HS, môi trường học tập), đồng thời phần nào đáp ứng kịp thời yêu cầu
của môn học bằng cách làm mới không khí lớp học, làm mới bài giảng, làm mới những
phương pháp lên lớp bằng các biện pháp “tạo tâm thế” cho HS trong giờ Ngữ văn. Với biện
pháp này, tôi hy vọng có thế đánh thức khát vọng học Văn vốn đang dần tắt nguội trong lòng
HS, tìm lại vị trí môn Văn trong suy nghĩ và học tập của các em.
1


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
Từ những lí do trên, tôi thiết nghĩ rằng, để tìm lại vị trí “xứng đáng” cho môn Ngữ
văn, bồi dưỡng tình yêu văn cho học sinh, trước hết người giáo viên vừa phải tạo được tâm
thế cho mình, vừa phải đưa lại tâm thế cho học trò. Với kinh nghiệm giảng dạy còn ít ỏi, tôi
xin được mạnh dạn đưa ra một số biện pháp trong việc “tạo tâm thế” cho học sinh trong tiết
đọc - hiểu văn bản Văn học, hi vọng sẽ góp phần bổ sung làm phong phú, đa dạng phương
pháp dạy học tích cực mà những năm qua ngành giáo dục đang từng bước triển khai và hoàn
thiện.
2. Thực trạng vấn đề
Vài năm trở lại đây, trong xu thế cải cách, đổi mới chương trình sách giáo khoa,
ngành giáo dục cũng đã tổ chức rất nhiều hội thảo, nhiều đợt tập huấn, học chuyên đề cho
giáo viên nhằm triển khai và thống nhất kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học mà trọng
tâm là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học
tập. Vì vậy, ngay trong các tài liệu tập huấn cho giáo viên (từ năm 2007), Bộ Giáo dục và
Đào tạo cũng đã đề cập rất nhiều đến vấn đề “tạo tâm thế” tiếp nhận cho học sinh trong giờ

Ngữ văn, như:
Tài liệu Hướng dẫn học tập theo băng hình về đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh (theo Dự án phát triển giáo dục THPT
của Bộ Giáo dục và Đào tạo), Dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng
trong chương trình giáo dục phổ thông (Chương trình phát triển giáo dục phổ thông của Bộ
Giáo dục và Đào tạo).
Nhiều năm qua một số chuyên mục của tạp chí “Văn học và Tuổi trẻ” , báo “Giáo
dục” cũng đã có rất nhiều bài viết, nhiều ý kiến bàn về cách thức “tạo tâm thế” cho học sinh
trong giờ Ngữ văn, đáng chú ý là một số bài viết, sáng kiến của các tác giả sau: “Một cách
tạo hứng thú học tập trong giờ Ngữ văn” – Dương Thế Vinh (Báo “Văn học &Tuổi trẻ”),
“Tổ chức họat động nhóm - một cách dạy - học Ngữ văn có hiệu quả cao” - Đồng Xuân Quế
(Báo “Văn học &Tuổi trẻ”),... Nhưng nếu máy móc áp dụng thì phương pháp dạy học đổi
mới chưa thực sự trở thành một chìa khoá, một công cụ để người dạy và người học văn giải
mã tác phẩm văn học.
Một thực tế khiến cho bao người làm công tác giáo dục và giáo viên dạy Văn không
khỏi trăn trở: từ hiện tượng chán Văn, xa rời Văn dẫn đến một thực trạng đau lòng là có học
sinh đã hiểu sai, hiểu lệch, thậm chí xuyên tạc, bóp méo tác phẩm văn học để hiểu theo một
cách dung tục. Một học sinh lớp 10 khi phân tích bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
có đoạn viết :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn nói khi ông tìm nơi vắng vẻ không có người rất buồn chán,
ngồi suy nghĩ những người tìm đến chỗ đông đúc lao xao, nhộn nhịp để sinh sống. Rồi ông
mới biết là mình dại khi từ bỏ chốn quan trường náo nhiệt.
Một học sinh khác khi giáo viên cho đề: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp thiên
nhiên và tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ “Cảnh ngày hè”, lại viết mở bài: Theo qui luật tự
nhiên: xuân, hạ, thu, đông đã được xếp vào từng vị trí, và ở đó con người đã trải qua từng
khoảnh khắc khác nhau. Có lẽ do cùng một tâm trạng, một suy nghĩ mà các thi nhân xưa
luôn chọn cho mình phong cảnh ngày hè để làm đề tài và Nguyễn Trãi cũng thế.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

2


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
Đây là thời gian Nguyễn Trãi đang có những ngày hè rảnh rỗi, ông dạo trong ngôi
trường thân yêu củ mình với tiếng ve ngâm…”
Học sinh còn biến tác phẩm văn chương thành một tiểu phẩm hài để bàn tán, bình
phẩm và gắn cho nó một ý nghĩa khác. Chắc hẳn chúng ta cũng không thể quên trường hợp
của em Nguyễn Phi Khanh trường THPT Việt Đức Hà Nội. Trong kỳ thi học sinh giỏi các
trường không chuyên của Hà Nội năm 2005. Đề bài yêu cầu: Giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, thì trong bài văn của mình em cho
rằng: “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm không hay, khó hiểu, không hấp dẫn với
học sinh em không thích nó”... Nhưng điều đó lại làm cho một số người tỏ ý tán thành với ý
kiến này phải chăng chúng ta cần phải suy nghĩ lại hành động, thái độ này của em. Và tình
trạng này cũng không hề hiếm trong các kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông, đại học.
Tôi biết rằng bản thân các giáo viên bộ môn Ngữ văn cũng rất nan giải trước tình
trạng học Văn của HS như hiện nay đó cũng là nỗi lo chung các giáo viên trường THCS &
THPT Trường Xuân của bản thân tôi. Vì những em học tạm được thì các em chọn khối tự
nhiên còn không thể học được các môn tự nhiên thì các em mới chuyển sang học các môn xã
hội, học Văn một cách bất đắc dĩ. Vì vậy, để giúp HS chú tâm vào môn học đã là rất khó rồi
chứ nói gì tới việc HS yêu thích, say mê Văn học.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: lớp 10, 11, 12
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chương trình SGK Ngữ văn lớp 10, lớp 11, 12 (NXB GD năm 2007).
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thực nghiệm thông qua thực tế dạy học trên lớp, giao bài tập, củng cố bài học,
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, kết hợp với kiểm tra, đánh giá.
Phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả năm sau so với năm trước.


3


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT

II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Những vấn đề chung
1.1. Quan niệm về biện pháp “tạo tâm thế”:
“Tạo tâm thế” cho học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học thực chất là việc giáo
viên tạo cho học sinh một tư thế vững vàng, một tâm lý thoải mái, một xúc cảm, hứng thú và
một tâm hồn đam mê khi tiếp cận một tác phẩm văn học cụ thể. Vì Văn học là môn học gắn
với cái đẹp. Học Ngữ văn là học cách khám phá cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội và
của con người, cái đẹp của sự sáng tạo nên không chỉ dùng lí trí mà quan trọng hơn là phải
giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn và sự rung động của trái tim.
Để tạo được tâm thế cho trò thì trước hết giáo viên phải biết tạo cho mình một tâm
trạng thoải mái, nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hoà đồng với học trò. Muốn
vậy, giáo viên vừa phải căn cứ vào mỗi bài dạy để tìm ra hình thức “tạo tâm thế” phù hợp,
phải quên đi những nỗi buồn, bỏ đi những gì phiền lòng phía sau, khi lên lớp chỉ là một tâm
trạng hứng khởi, thoải mái. Bước lên bục giảng với các em là chúng ta phải có cảm giác
bước vào một thế giới hoàn toàn mới lạ, tràn đầy hưng phấn, thiết tha với sứ mệnh thiêng
liêng, cao cả là người đưa đường, mở cửa dẫn các em hoà vào cái đẹp, để được cười, được
khóc không chỉ cho mình mà cho cả giai cấp mình, dân tộc mình, cho những thân phận, số
phận đau khổ trên trái đất:
“Giờ văn nụ cười, nước mắt
Nghẹn ngào, thanh thản đan xen
Thầy đau nỗi niềm dâu bể
Trò day dứt cùng thế nhân”.
Như thế trong suốt giờ Văn, người thầy phải biết quên mình để sống với Văn, với học
trò, để cùng các em say sưa đi vào lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. Người dạy Văn
không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là một nghệ sĩ trên bục giảng.

Thông thường trong một tiết đọc - hiểu văn bản, không phải lúc nào học sinh cũng có
thể tập trung chú tâm vào bài học, đặc biệt là những tác phẩm dài và khó. Song tôi đã thu
hút, hướng học sinh vào bài học bằng cách kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, đặt ra những
câu hỏi có vấn đề, liên tưởng, so sánh mở rộng vấn đề trong bài học, phát huy khả năng sáng
tạo của học sinh qua việc giao bài tập, trực tiếp kiểm tra, đánh giá…
1.2. Những ưu điểm và hạn chế:
1.2.1. Ưu điểm:
- Ưu điểm lớn nhất của biện pháp “tạo tâm thế” là đưa lại không khí học tập sôi nổi cho
lớp, giúp học sinh có tâm lí thoải mái, không nặng nề và các em sẽ hào hứng với bài học, yêu
cái đẹp có giá trị nhân sinh và dần dần hoàn thiện nhân cách. Đồng thời giúp các em củng
cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học một cách hiệu quả sau giờ đọc - hiểu văn
bản.
- Việc “tạo tâm thế” cũng là điều kiện để giáo viên trau dồi trình độ chuyên môn, kỹ năng
sư phạm. Đây cũng là cách thức để phát huy tính tích cực, chủ động và năng lực tìm tòi sáng
tạo của học sinh trong việc cảm thụ tác phẩm văn học, phát hiện bồi dưỡng, phát triển năng
khiếu văn chương, nghệ thuật đàm thoại, rèn luyện kĩ năng ứng xử trong giao tiếp, khả năng
4


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
sáng tác…. của học sinh. Từ đó giúp các em hiểu bài hơn, bồi đắp niềm hứng thú, tình yêu,
sự say mê đối với môn học.
1.2.2. Hạn chế:
- Do thời gian trên lớp ít, dung lượng tác phẩm dài, nếu giáo viên không định hướng tốt,
không chọn lọc khai thác vấn đề rất dễ đưa học sinh vào tình trạng “chạy đua với câu chữ”,
cháy giáo án, hết giờ mà bài vẫn còn.
- Các biện pháp trên không thể đem áp dụng vào tất cả các tác phẩm văn học mà giáo viên
phải linh hoạt sử dụng và tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu, sưu tầm và áp dụng trong
từng tiết học sao cho phù hợp.


5


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
2. Một số biện pháp tạo tâm thế trong giờ đọc – hiểu văn bản cho học sinh THPT
Dưới đây là một số biện pháp “tạo tâm thế” mà tôi thường áp dụng trong thực tế
giảng dạy. Trong phạm vi của đề tài này, tôi tạm phân chia chúng thành 5 hình thức và xin
trình bày sơ lược về khâu chuẩn bị, yêu cầu nội dung, cách thức thực hiện và kiểm tra đánh
giá đối với từng biện pháp cụ thể.
2.1. Kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh:
Trong khâu kiểm tra bài cũ, tôi không chỉ kiểm tra nội dung kiến thức của bài học
trước mà tôi còn kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh cho bài học mới. Những câu hỏi
kiểm tra sự chuẩn bị bài mới có thể chỉ là đọc thuộc lòng một vài câu thơ hoặc nêu lên một
hình ảnh trong bài thơ mà em mới phát hiện được (nếu là với tác phẩm thơ); có khi là về thể
loại, là một nhât vật trong tác phẩm hay tóm tắt cốt truyện…(nếu là tác phẩm văn xuôi). Đây
cũng là một cách thu hút sự chú ý, tìm hiểu của học sinh vào bài học ngay từ bước đầu.
Nhưng phần lớn tôi thường đặt câu hỏi về hoàn cảnh ra đời tác phẩm, nhất là những tác
phẩm có sự đặc biệt về hoàn cảnh ra đời.
Ví dụ 1: Để kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh cho bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn
Mặc Tử, tôi cho các em xem một bức ảnh về thôn Vĩ và đặt các câu hỏi:
1. “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc tử sáng tác ở đâu? Trong hoàn cảnh nào?
2. Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ sự kiện gì?
3. Nhà thơ sáng tác thi phẩm này trong tình trạng sức khoẻ như thế nào?
Cách sinh động hoá những câu hỏi cũng chính là cách thức kích thích trí tò mò, tìm hiểu và
hướng sự chú ý của học sinh vào bài học.
Với những câu trả lời chính xác, đầy đủ, có sự đầu tư tìm hiểu, tôi thường khuyến
khích cho điểm khá, giỏi, vừa để ghi nhận sự chăm học, sự đầu tư tìm hiểu bài của các em,
vừa để “nhắc khéo” những học sinh khác cần phải chuẩn bị bài tốt hơn.
Với cách đặt câu hỏi gợi tìm và sự nhấn mạnh, giáo viên vừa tạo được tâm thế cho học
sinh vừa thông qua bài học mà bồi dưỡng lòng yêu thương con người cho các em hướng các

em đến những giá trị nhân văn.
Ví dụ 2: Đối với truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, tôi đưa ra những câu hỏi:
1. Tên gọi đầu tiên của tác phẩm “Chí Phèo” là gì? Nhan đề “Chí Phèo” do ai đặt?
2. Vì sao tác phẩm lại có nhan đề là “Đôi lứa xứng đôi”?
3. Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao đã trải qua những tên gọi nào?
Để trả lời được những câu hỏi trên, yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, chuẩn bị bài kĩ lưỡng
ở nhà. Đây cũng chính là một cách hướng dẫn các em khi tìm hiểu một tác phẩm văn học.
Hơn nữa, khi giao quyền chủ động giới thiệu bài học cho học sinh qua những dạng câu hỏi
như thế này học sinh rất hào hứng và thích thú.
2.2. Thảo luận nhóm và kỹ năng ứng xử:
Hoạt động nhóm là một trong những PPDH phát huy tính tích cực chủ động của học sinh,
tinh thần độc lập, tự chủ cũng như tính dân chủ trong học tập. Là biện pháp giúp học sinh có
cơ hội trình bày, chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm, cũng như những băn khoăn, chính
kiến riêng của bản thân về vấn đề thảo luận, giúp các em học hỏi lẫn nhau hoặc qua trao đổi,
tranh luận mà tìm đến một sự đồng cảm, đồng điệu nào đó trong cảm nhận văn chương.
6


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
Thảo luận nhóm là một phương pháp đạt hiệu quả cao trong dạy học nhưng lại rất khó
tổ chức trong sự hạn hẹp của một tiết học, phòng học không có sự cách âm. Vì vậy, trong các
tiết đọc - hiểu văn bản Văn học, tôi chủ yếu áp dụng ở phần củng cố, đôi khi ngay trong tiết
học nhưng những vấn đề được bàn luận (có thể chỉ là một chi tiết, một hình ảnh, một nhân
vật, một vấn đề lớn về nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm...) phải là những kiến thức,
những tình huống có “vấn đề”, đa nghĩa, có khả năng gây ra những ý kiến tranh luận khác
chiều, thậm chí trái chiều nhằm tạo không khí sôi nổi, hào hứng cho quá trình thảo luận, đặc
biệt có điều kiện định hướng, uốn nắn những suy nghĩ lệch lạc của học sinh về vấn đề nêu ra.
Đây cũng là một cách rèn luyện kỹ năng ứng xử (kỹ năng nghe, nói) cho học sinh.
Ví dụ 1: Trong phần củng cố bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ, tôi
thường giao câu hỏi thảo luận cho HS theo 4 nhóm:

1. Quan niệm của em về thái độ sống “ngất ngưởng”?
2. Thái độ sống “ngất ngưởng” (trong bài thơ) là quan niệm sống hay là một phản ứng có
tính chất nhất thời?
3. Hãy liên hệ, so sánh với một số nhà văn, nhà thơ có thái độ sống “ngất ngưởng” mà em
biết?
4. Đối với xã hội ngày nay, thái độ sống đó có phù hợp hay không? Vì sao?
Để những cuộc tranh luận của học sinh thực sự bổ ích, tôi thường “định” cho HS
“hướng” thảo luận phù hợp. Mỗi nhóm sẽ đưa ra ý kiến bàn luận về một vấn đề và có nhiệm
vụ nhận xét, đặt câu hỏi phản biện cho các nhóm còn lại.
Ví dụ 2: Trong khi phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, tôi
cho HS thảo luận theo các dạng câu hỏi:
1. Đâu là nguyên nhân giúp Chí Phèo hồi sinh?
2. Vì sao sau khi giết Bá Kiến, Chí Phèo lại tự sát?
3. Có ý kiến cho rằng cái chết của Chí Phèo là “cái chết mở ra ý nghĩa sống”? Ý kiến của
em?
Sau mỗi lần thảo luận của học sinh, tôi tổng kết, nhận xét và khuyến khích cho điểm
đối với những trường hợp học sinh lập luận tốt hoặc nêu ra được cách cảm thụ độc đáo, mới
mẻ. Với cách thức này, giáo viên vừa tạo được bầu không khí hăng say, thân thiện trong học
tập, vừa giúp HS tự tin trả lời các câu hỏi, đưa ra những thắc mắc và mạnh dạn trình bày
chính kiến chủ quan của mình. Qua đó phát huy được tính chủ động của học sinh, rèn luyện
kỹ năng nói trước đám đông, kỹ năng ứng xử trước một vấn đề cuộc sống. Bởi văn học là
nhân học, qua văn học mà dần hoàn thiện nhân cách.
2.3. Mở rộng vấn đề bằng những bài viết đồng sáng tạo
Học văn dễ, nhưng dạy văn giỏi thì rất khó, đây là cả một vấn đề lớn. Làm sao để
truyền tải cho học sinh một tác phẩm văn học hay, nhiều khi một truyện ngắn, truyện dài,
truyện vừa hay cả một trích đoạn thơ dài? Trong khoảng thời gian ấy, chúng ta còn phải làm
nhiều việc khác như: ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, rồi đọc văn bản hoặc đọc một số đoạn
quan trọng trong tác phẩm đã mất 1/3 thời gian tiết học, lại còn mở rộng vấn đề. Cũng có
nhiều ý kiến cho rằng dạy làm sao cho nó hết bài đã khó, chứ còn thời gian đâu mà mở rộng.
Tôi nghĩ, nếu chúng ta biết cách đan xen vẫn có thể mở rộng bằng cách đọc những câu thơ

vào bài học để bài giảng thêm sinh động, ấn tượng.
Trong những giờ giảng văn, giáo viên không chỉ dạy những gì trong sách giáo khoa vì
dạy trong SGK mới chỉ đúng nhưng chưa đủ. Vì khi giảng một tác phẩm văn học, ít nhiều
7


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
chúng ta phải mở rộng vấn đề vừa để khắc sâu, vừa liên hệ so sánh khẳng định, đặc biệt là
cung cấp cho các em thấy được vòng đời của tác phẩm và vị trí của nhà văn trong lòng độc
giả, trong dòng văn học.
Ví dụ 1: Trong phần củng cố bài học “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”,
sau khi cho học sinh thảo luận về chi tiết “ngọc trai - giếng nước”, tôi đã mở rộng bài học
bằng cách đọc cho các em nghe bài thơ của tác giả Anh Ngọc:
Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình.
Mước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường cùng cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.
Giá như trên đời còn có một Mị Châu
Vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ.
Thì hẳn Mị Châu không sống đến bây giờ
Để chung thủy với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
Như anh với em dẫu yêu nhau chung thủy
Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.
Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
Vẫn không thể cứu Mị Châu khỏi chết
Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp

Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.
Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào.
Anh cũng như em muốn nhắn Mị Châu
Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình.
Ví dụ 2:
Khi đọc - hiểu tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Đây là một tác phẩm nổi tiếng của nền
văn học nước nhà, là kiệt tác của tác giả. Những gì mà chúng ta đang nghiên cứu, đang
chứng minh cho thấy giá trị đích thực của nó. Khi dạy, tôi đã hướng dẫn cho học sinh nắm
được nội dung truyện, song đồng thời cũng cho các em thấy được “chỗ đứng” của tác phẩm
trong lòng bạn đọc qua các bài viết mà tôi sưu tầm được:
“Chí Phèo vốn điển trai khoẻ mạnh
Hiền lành như hạt lúa, củ khoai
Tuổi hai mươi cũng mộng ước như ai
Mội mái nhà tranh xum vầy chồng - vợ”.

8


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
Học sinh chăm chú nghe và các em rất tâm đắc, các em thấy được sự ra đời, lớn lên và
những khao khát tuổi trẻ của Chí cũng giống như mọi người đàn ông lương thiện khác. Và
dẫn dắt học sinh đến nguyên nhân tha hoá của Chí bằng chính những câu thơ:
“Cướp của, giết người, đốt phá rạch thịt da
Vũ Đại quay lưng không thừa nhận hắn ta
Đã xếp hắn đứng vào hàng “quỷ dữ”.

Còn khi phân tích nhân vật Thị Nở - người được Nam Cao ví như nửa người nửa ngợm, như
“một bức hoạ trớ trêu của tạo hoá” ấy lại chính là người cao vời vợi trong văn học Việt Nam:
“Thị nở đó!
Người xấu xa đần độn nhất một thời
Lại là người một thời đẹp hơn tất thảy
Tình yêu dẫu không nồng nàn bỏng cháy
Vẫn sáng ngời qua những trang văn” .
2.4. Thử tài chắp bút
Học văn không chỉ là tìm hiểu, nắm bắt giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn
học mà đôi khi đòi hỏi người học phải đồng sáng tạo cùng tác giả. Để làm được điều đó, tôi
thường tạo điều kiện để các em thử tài đóng vai nhà văn qua phần củng cố cho đề học sinh
viết ở nhà hoặc kiểm tra 15 phút ngay sau khi học xong tác phẩm.
Ví dụ 1: Sau khi chết, Trọng Thuỷ đã đi tìm gặp Mị Châu. Em hãy tưởng tượng và viết lại
cuộc gặp gỡ giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ dưới thuỷ cung? Học sinh đã viết như sau:
1. Mỵ Châu chết, Trọng Thuỷ đau xót vô cùng, vì nhớ thương nàng mà Trọng Thuỷ lao
đầu xuống giếng tự vẫn. Sau khi xuống long phủ, Trọng Thuỷ vượt qua bao vất vả, trở ngại
để tìm gặp Mị Châu. Bao ngày trôi qua, tin tức của Mị Châu vẫn bặt vô âm tín. Trọng Thuỷ
không buông xuôi bỏ cuộc mà càng quyết tâm hơn. Ông trời không phụ lòng người, cuối
cùng Trọng Thuỷ cũng gặp được Mị Châu. Trước sự hối hận, van xin, khẩn cầu chân thành
của Trọng Thủy, Mị Châu đã tha thứ và hai người sống hạnh phúc bên nhau.
2. Sau khi chết, linh hồn của Trọng Thủy đi lang thang tìm kiếm Mị Châu để xin nàng tha
thứ. Chàng đi và dò hỏi khắp nơi nhưng vẫn không gặp được Mị Châu. Một ngày kia tình cờ
chàng biết được Mị Châu giờ đã trở thành con gái nuôi của Long Vương. Trọng Thủy vui
mừng khôn xiết, vượt qua bao trắc trở đến thủy cung xin gặp Mị Châu. Gặp Mị Châu, Trọng
Thủy giãi bày, ân hận, đau đớn van xin nhưng Mị Châu cũng không tha thứ vì nàng không
thể quên được sự phản bội của Trọng Thủy khiến cha nàng phải chết, nước mất nhà tan.
Ví dụ 2: Học sinh không hài lòng với kết thúc truyện “Tấm Cám”, tôi ra đề viết như sau:
Em hãy viết lại phần kết thúc cho truyện “Tấm Cám”? Một số học sinh đã viết:
1. Sau khi đưa Tấm về cung, vua ra lệnh trừng trị mẹ con Cám. Nhưng Tấm đã tha cho họ.
Mẹ con Cám xấu hổ, bỏ chạy vào rừng sâu. Từ đó, không ai thấy họ nữa. Tấm và vua sống

hạnh phúc bên nhau.
2. Sau khi trở lại hoàng cung, Tấm ra lệnh bắt giam hai mẹ con Cám. Quá tức tối nhưng
không làm gì được, hai mẹ con Cám đã cắn lưỡi tự vẫn. Từ đó, Tấm và vua sống hạnh phúc
bên nhau.
3. Tấm đã trở về từ cõi chết, mẹ con Cám vô cùng sợ hãi, đưa nhau đi trốn. Dọc đường hai
mẹ con mụ dì ghẻ bị sét đánh chết. Vậy là hết đời những kẻ độc ác.
Những kết thúc tự tác này, tôi thường chọn và đọc điển hình một vài bài cho cả lớp nghe.
9


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
2.5. “Em là họa sĩ”
Đọc một tác phẩm văn học, dù ở mức độ nào thì cuối cùng vẫn phải đi đến mục đích
chung là hiểu văn. Khái niệm “hiểu” ở đây không chỉ là nhận ra kí hiệu và nghĩa của kí hiệu
mà còn phán đoán ra ý muốn biểu đạt của tác giả, tức là đồng cảm và nắm được những thông
điệp nghệ thuật mà nhà văn muốn nói, muốn gửi gắm tới người đọc. Đọc - hiểu văn bản là
quá trình đối thoại giữa học sinh, giáo viên với văn bản đó là cuộc đối thoại vượt thời gian,
vượt không gian, vượt chênh lệch lứa tuổi để đến với cái thật, cái đẹp, cái thiện. Và để cho
các em đến gần hơn với tác phẩm tôi sẽ cho các em tái hiện những hiểu biết, cảm xúc của
mình về tác phẩm bằng cách vẽ tranh.
Ví dụ 1:
Sau khi học xong bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, tôi sẽ cho các em về nhà
(làm việc theo nhóm) vẽ bức tranh câu cá đó dựa vào cảm nhận hình ảnh, ý thơ đã học.
Ví dụ 2:
Vẽ tranh cổ động phòng chống AIDS trong bài Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống
AIDS, 1-12-2003.
Với các bức tranh này tôi sẽ cho các em chuẩn bị ở nhà và đến tiết học sau các em sẽ
trình bày sản phẩm trước lớp. Chính các học sinh trong lớp sẽ là giám khảo cho tranh. Với
các bức tranh cảm xúc nhất, phù hợp với tinh thần bài học nhất sẽ được điểm cộng.


10


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT
III. KẾT LUẬN
1. Những kết quả ban đầu
Để thành công trong một tiết đọc - hiểu văn bản Văn học, còn phụ thuộc vào nhiều
nguyên nhân, nhiều yếu tố khác nữa. Song, sau một thời gian áp dụng các biện pháp “tạo
tâm thế” trong giờ Văn nói trên, dù chưa thật đồng đều ở các lớp, các đối tượng học sinh
nhưng tôi cũng đã bước đầu thu được những kết quả khả quan:
Các em không còn “sợ” Văn, không bị động, gò bó theo khuôn mẫu của tiết học mà rất cởi
mở, hứng thú, có khả năng độc lập sáng tạo tư duy và mạnh dạn thảo luận để cùng nhau giải
quyết vấn đề. Nhiều em từ chỗ thờ ơ với môn học đã chịu khó học bài, chủ động soạn bài và
cũng phát biểu trong các giờ học hơn đặc biệt là các em học sinh được xem là lười, cá biệt.
Áp dụng những biện pháp trên để “tạo tâm thế” cho học sinh trong giờ đọc - hiểu Văn học,
vốn kiến thức Ngữ văn cơ bản của các em được khắc sâu, các em hiểu và ham học hơn. Hơn
nữa, các em cũng có thêm những kiến thức mới, say sưa sưu tầm, tìm hiểu những bài viết
đồng sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức trong bài làm của học sinh có nhiều tiến bộ.
Nhiều khi trong vài phút cuối tiết học các em thường đề nghị tôi đọc lại những bài thơ tôi đã
đọc, vận dụng để mở rộng vấn đề trong những tiết giảng văn mà các em chưa kịp để ghi vào
vở. Làm giáo viên dạy văn khi các em yêu thích và đồng cảm với mình về tác phẩm văn học
thấy được sự hứng thú của các em thì tất cả các thầy cô đều rất vui và không thể nào từ chối
những đề nghị say mê ấy của các em.
Cũng chính vì vậy, qua mỗi tiết học tôi thấy mình gần gũi với các em hơn, thân thiện
hơn trong giao tiếp ứng xử. Qua đó, góp phần tạo nên môi trường thân thiện và tạo cho các
em niềm tin yêu vào cuộc sống. Từ khi áp dụng các biện pháp tạo tâm thế trên tôi đã thấy
nhiều sự tiến bộ trong kết quả học tập, kĩ năng ứng xử của học sinh cụ thể trong lần kiểm tra
học kì vừa rồi. Trong bài viết của các em có sự đối chiếu so sánh với các bài viết cùng chủ
đề, có cái tôi riêng cách cảm nhận riêng trong bài viết của mình, có nhiều bài đạt điểm 8; 8,5
đây là những con điểm ít thấy ở năm học trước.

2. Một số bài học kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy và thử nghiệm những biện pháp trên, tôi đã rút ra một số kinh
nghiệm quý báu cho việc “tạo tâm thế” trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học như sau:
Giáo viên phải chuẩn bị cho tiết dạy của mình một cách chu đáo từ thiết kế giáo án, các
bước lên lớp, tiến trình bài học đến tâm trạng, cảm xúc. Dạy văn không thể dùng lí trí mà
phải cảm nhận và truyền giảng bằng tâm hồn.
Văn học là một môn khoa học mang đặc thù riêng, đòi hỏi người thầy phải thường xuyên
học hỏi, trau dồi, tích luỹ, mạnh dạn đổi mới về phương pháp, làm mới mình bằng những
bài giảng, những dẫn chứng gợi mở sinh động cho bài học. Cần phải chọn được những tình
huống, chi tiết, sự việc “có vấn đề” để phát huy tính tích cực, chủ động và khả năng cảm thụ
vấn đề của học sinh.
Các biện pháp “tạo tâm thế” này, cần phải áp dụng linh hoạt ở các khối, lớp, đối tượng
học sinh khác nhau. Ban đầu khi mới tiếp xúc với phương pháp học sinh còn xa lạ, rụt rè
nhưng sau một thời gian ngắn các em sẽ thích nghi và tự chủ động trong việc học. Đồng
thời, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải gần gũi, tìm hiểu, phát hiện để động viên
và đánh thức những khát vọng văn chương trong tâm hồn học sinh.
11


Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ Đọc – hiểu văn bản Văn học cho học sinh THPT

MỤC LỤC

I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm....................................................................................1
2. Thực trạng vấn đề............................................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu................................................................3
II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Những vấn đề chung…………………………………………………………………….4
1.1. Quan niệm về biện pháp “tạo tâm thế”…………………………………………….....4

1.2. Những ưu điểm và hạn chế……………………………………………………………4
2. Một số biện pháp tạo tâm thế trong giờ đọc – hiểu văn bản cho học sinh THPT
2.1. Kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh………………………………………………..6
2.2. Thảo luận nhóm và kỹ năng ứng xử..............................................................................6
2.3. Mở rộng vấn đề bằng những bài viết đồng sáng tạo.....................................................7
2.4. Thử tài chắp bút……………………………………………………………………….9
2.5. Em là họa sĩ…………………………………………………………………………..10
III. KẾT LUẬN
1. Những kết quả ban đầu…………………………………………………………………11
2. Một số bài học kinh nghiệm……………………………………………………………11

12



×