MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, nguồn
nhân lực luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu, là một
trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển kinh tế -
xã hội.
Trong xu thế mở cửa và hội nhập, với nhiều lợi thế về vị trí địa lý tự
nhiên, từ lâu Lạng Sơn đã trở thành điểm hội tụ, giao lưu kinh tế quan
trọng ở phía Bắc. Là một tỉnh biên giới có cửa khẩu quốc tế, là cầu nối
giữa Việt Nam với Trung Quốc và các nước trên thế giới cho việc hợp tác
cùng phát triển.
Tuy nhiên, để có thể phát huy hết mọi lợi thế, duy trì tốc độ phát
triển ổn định, Lạng Sơn cần phải xây dựng được nguồn nhân lực có trình
độ chuyên môn kỹ thuật, có tác phong lao động hiện đại. Có thể nói,
nguồn nhân lực là một xuất phát điểm quan trọng cho mọi hoạt động kinh
tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay.
Trung bình mỗi năm, Lạng Sơn có trên 4 nghìn người bước vào độ
tuổi lao động. Đây là nguồn lực rất lớn để phát triển, nhưng cũng là những
thách thức không nhỏ trong việc giải quyết việc làm cho người lao động.
Tình trạng lao động chưa qua đào tạo vẫn còn ở mức khá cao; tại khu vực
biên giới, tình trạng lao động lưu trú không kiểm soát được; người lao
động tiếp tay cho buôn lậu; hiện tượng người lao động tự sang nước bạn
Trung Quốc tìm việc làm... đang là những vấn đề bức xúc đòi hỏi chính
quyền địa phương phải có biện pháp giải quyết.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã chọn đề tài:
1
"Những giải pháp nhằm tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu
quả nguồn nhân lực ở vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn trong điều kiện giao
thương kinh tế "
2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nghiên cứu một số vấn đề về lý luận trong lĩnh vực quản
lý và sử dụng nguồn nhân lực.
- Phân tích thực trạng công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực ở
vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn.
- Nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở vùng biên giới của tỉnh
Lạng Sơn trong điều kiện giao thương kinh tế đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Quản lý và sử dụng nguồn nhân lực.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý và sử dụng
nguồn nhân lực ở vùng biên giới của tỉnh Lạng Sơn (bao gồm 05 huyện:
Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Văn Lãng và Tràng Định); đặt trong điều
kiện giao thương kinh tế với Trung Quốc.
Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu thực tế các năm từ 2003 đến
2005 để phân tích.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ đạo là duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử - là cơ sở chung cho mọi nhận thức trong quá
trình nghiên cứu.
Đồng thời, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp thống kê;
2
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh dựa vào tài liệu thứ cấp;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp chuyên gia.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được trình bày trong
3 chương:
Chương 1. Sự cần thiết quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực trong điều kiện giao thương kinh tế ở vùng biên giới.
Chương 2. Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực
ở vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn trong điều kiện giao thương kinh tế.
Chương 3. Giải pháp tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực ở vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn trong điều kiện giao
thương kinh tế đến năm 2010.
3
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐIỀU KIỆN GIAO
THƯƠNG KINH TẾ Ở VÙNG BIÊN GIỚI
1.1. Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực trong phát
triển kinh tế
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người, là một trong
những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. nguồn
nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất, nguồn lực công nghệ.v.v..) là ở chỗ trong quá trình vận động nguồn
nhân lực chịu sự tác động của yếu tố tự nhiên (sinh, chết...) và yếu tố xã
hội (việc làm, thất nghiệp...). Vì vậy, nguồn nhân lực là một khái niệm
khá phức tạp và được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nguồn nhân lực có thể được hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và
cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển.
Xét trên bình diện quốc gia hay địa phương, nguồn nhân lực được
xác định là "tổng thể các tiềm năng lao động ở một nước hay một địa
phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau)
sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao
động có nguồn năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng
được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá". (Phạm Minh Mạc, 2001: 269).
Theo cách hiểu này, nguồn nhân lực là nguồn lao động sẵn sàng
tham gia lao động trong phạm vi quốc gia, vùng hay địa phương.
4
Theo Viện nghiên cứu con người, nguồn nhân lực là tổng thể các
tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong
thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính
năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng,
quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con
người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển.
Một cách chung nhất, có thể hiểu nguồn nhân lực là bộ phận dân số
trong độ tuổi nhất định theo quy định của luật pháp có khả năng lao động.
Độ tuổi lao động được quy định cụ thể ở mỗi nước không giống nhau. Ở
Việt Nam hiện nay, theo quy định của Bộ luật lao động, tuổi lao động của
Nam từ 15 đến 60 và của Nữ từ 15 đến 55 tuổi.
1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh nguồn nhân lực
* Nguồn lao động:
Trên các giác độ nghiên cứu khác nhau, có nhiều khái niệm khác
nhau về nguồn lao động. Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại
học Kinh tế quốc dân Hà Nội, thì khái niệm Nguồn lao động là toàn bộ
dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
* Lực lượng lao động:
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động
(hay còn gọi là Dân số hoạt động kinh tế):
Lực lượng lao động có thể được hiểu là toàn bộ những người lao
động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có khả
năng lao động).
Lực lượng lao động cũng có thể được hiểu là số lượng và chất lượng
những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả
năng lao động có thể sử dụng.
5
- Theo quan niệm của ILO: Lực lượng lao động là một bộ phận dân
số trong độ tuổi quy định (tuỳ thuộc từng quốc gia) thực tế đang có việc
làm và những người thất nghiệp.
Các nước thành viên của tổ chức ILO về cơ bản đều thống nhất với
quan niệm của ILO. Giữa các nước chỉ có sự khác nhau về độ tuổi quy
định. Ở đây có hai sự khác biệt. Khác biệt trong quy định về giới hạn tối
thiểu, ví dụ: Braxin là 10 tuổi, Ôxtralia là 15 tuổi, Mỹ là 16 tuổi. Hiện nay
phần lớn các nước đã lấy tuổi tối thiểu là 15 tuổi. Khác biệt thứ hai trong
quy định giới hạn tuổi tối đa. Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước mà quy định tuổi tối đa khác nhau, ví dụ: Đan Mạch, Thuỵ
Sĩ, Na Uy quy định là 74 tuổi. Ai cập, Malaysia quy định là 65 tuổi... các
trị số tối đa về tuổi thường trùng với tuổi về hưu.
Ở Việt Nam cũng có những quan niệm khác nhau về lực lượng lao
động. Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế quốc
dân Hà Nội thì lực lượng lao động: là bộ phận của nguồn lao động, bao
gồm những người trong độ tuổi lao động đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân và những người không có việc làm song có nhu cầu tìm việc làm.
Trong cuốn thực trạng lao động việc làm 2005, lực lượng lao động
được hiểu là dân số hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người từ đủ
15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu
làm việc và sẵn sàng làm việc. Theo quan niệm này lực lượng lao động
mở rộng hơn, không giới hạn tuổi tối đa phải nằm trong độ tuổi lao động.
1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất, giữ
vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế - xã hội: Vai trò đó bắt nguồn
từ vai trò của yếu tố con người. Con người mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế xã hội.
6
Con người không những là động lực của sự phát triển mà còn là mục
tiêu, cái đích cuối cùng phải đạt được của sự phát triển kinh tế xã hội
nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người, làm cho cuộc sống
ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng phát triển, văn minh.
Nhu cầu của con người hết sức đa dạng, phong phú và không ngừng
tăng lên, bao gồm cả nhu cầu vật chất - tinh thần, điều đó đã tác động tới
quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình phát triển, con người không chỉ có mong muốn và
thực hiện được việc chế ngự tự nhiên, mà còn có mong muốn và thực hiện
được sự cải tạo, hoàn thiện bản thân. Lịch sử tiến hoá, phát triển của loài
người đã chứng minh điều này. Con người lần lượt đi qua những giai đoạn
phát triển từ thấp đến cao để trở thành con người như ngày nay. Và không
chỉ dừng lại ở đấy, qua mỗi giai đoạn phát triển, con người lại hoàn thiện
hơn về mọi mặt và theo đó là sự tăng lên của khả năng chế ngự tự nhiên,
thêm động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của nhân tố con người, Đảng
ta coi việc phát huy nhân tố con người như một nguồn lực quan trọng nhất.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tuyên bố lấy con người và nguồn nhân lực
là 1 trong 3 khâu đột phá đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
"Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001: 108 - 109).
1.1.4. Phân loại nguồn nhân lực
1.1.4.1. Căn cứ vào sự hình thành
Nguồn nhân lực được chia làm 3 loại:
- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số:
7
Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, không kể đến trạng thái làm việc hay không làm việc.
- Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế:
Bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm
hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
- Nguồn nhân lực dự trữ:
Bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, nhưng vì lý do
khác nhau, chưa có công ăn việc làm trong xã hội.
1.1.4.2. Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực
Chia ra thành 3 loại:
- Nguồn lao động chính: Đây là bộ phận nguồn nhân lực nằm trong
độ tuổi lao động và là bộ phận quan trọng nhất.
- Nguồn lao động phụ.: Đây là bộ phận dân cư nằm ngoài độ tuổi lao
động có thể và cần phải tham gia và nền sản xuất xã hội đặc biệt ở các
nước kém phát triển. Ở nước ta quy định số người dưới tuổi lao động
thiếu từ 1-3 tuổi và trên tuổi lao động vượt từ 1-5 tuổi thực tế có tham gia
lao động được quy đổi ra lao động chính với hệ số quy đổi là 1/3 và ½
ứng với người dưới tuổi và trên tuổi. Hiện nay có ý kiến cho rằng không
nên tính số trẻ em dưới tuổi lao động và nguồn nhân lực
- Nguồn lao động bổ sung:Là bộ phận nguồn nhân lực được bổ sung từ
các nguồn khác (số người hết hạn nghĩa vụ quân sự, số người trong độ tuổi
lao động thôi học ra trường, số người lao động ở nước ngoài trở về….)
1.2. Quản lý và sử dụng nguồn nhân lực
1.2.1. Quản lý nguồn nhân lực
Quản lý nguồn nhân lực ở cấp vĩ mô hiện nay:
8
Theo Viện Nghiên cứu con người, về mặt lý thuyết, toàn bộ lực
lượng lao động trong xã hội phải là đối tượng quản lý nguồn nhân lực ở
cấp vĩ mô. Tuy nhiên, do đặc điểm của sự phát triển kinh tế từng nước mà
đối tượng quản lý nguồn nhân lực có sự khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay,
chỉ những người lao động trong khu vực chính thức mới là đối tượng tác
động và điều chỉnh của các văn bản pháp lý. Hệ thống quản lý nguồn nhân
lực ở cấp vĩ mô tại Việt Nam hiện nay bao gồm những nội dung sau:
1.2.1.1. Hệ thống pháp luật
Luật Lao động và Pháp lệnh cán bộ, công chức là những văn bản
được sử dụng làm công cụ quản lý nguồn nhân lực ở cấp vĩ mô. Ngoài ra,
các luật khác liên quan như Luật Công đoàn, Luật Đầu tư nước ngoài,
Luật Đầu tư trong nước.... có các điều khoản liên quan đến quản lý nguồn
nhân lực.
1.2.1.2. Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho nền sản
xuất tương lai là công cụ quản lý nguồn nhân lực
Kế hoạch xác định mục tiêu và các giải pháp thực hiện cho thấy cái
đích cần đạt và cách thức đạt các mục tiêu đó. Kế hoạch phát triển nguồn
nhân lực nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát
triển giáo dục, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, của tỉnh thành,
các chương trình quốc gia...
1.2.1.3. Hệ thống chính sách vĩ mô về quản lý nguồn nhân lực
Bao gồm các chính sách về việc làm như chính sách khuyến khích,
hỗ trợ tạo việc làm, đa dạng hoá việc làm, theo đó là đa dạng hoá các
nguồn vốn và chủ thể tạo việc làm, chính sách về cơ cấu việc làm; chính
sách về trả công lao động; chính sách đào tạo nguồn nhân lực như: chính
sách về quy mô đào tạo, chính sách về cơ cấu đào tạo, chính sách tài
9
chính trong phát triển đào tạo nguồn nhân lực; chính sách đặc thù, căn cứ
vào mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà nhà nước, địa phương có những
chính sách riêng đối với từng nhóm người lao động.
1.2.2. Sử dụng nguồn nhân lực
1.2.2.1. Sử dụng nguồn nhân lực
Theo từ điển Tiếng Việt [trung tâm từ điển 1998;845] "Sử dụng là
đem dùng vào mục đích nào đó".
Sử dụng nguồn nhân lực là quá trình tác động của tổ chức, nhà quản
lý lên nguồn nhân lực nhằm đạt được mục đích kinh tế - xã hội của địa
phương, vùng hay quốc gia.
Ở cấp vĩ mô, sử dụng nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động bố trí
lao động gắn với định hướng, mục tiêu của địa phương, vùng lãnh thổ hay
quốc gia nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
1.2.2.2. Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là hiệu quả của quá trình tác động
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý là nguồn nhân lực.
Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực phải xem xét đến kết
quả đạt được (đầu ra) và các mục đích của tổ chức, của nguồn nhân lực và
cùng với nó là các nguồn lực khác (đầu vào).
Ở Việt Nam hiện nay, việc đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân
lực còn gặp trở ngại do chưa có những tiêu chí thống nhất để đánh giá.
Để đưa ra những tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân
lực, cần phân biệt sự khác nhau giữa "sử dụng nhân lực" và "hoạt động
lao động của nhân lực". Chủ thể của "sử dụng nhân lực" là cơ quan, tổ
10
chức, người quản lý; còn chủ thể của "hoạt động lao động của nhân lực"
chính là nhân lực- những con người lao động cụ thể. Khách thể của "sử
dụng nhân lực" là đội ngũ những người lao động, còn khách thể của "hoạt
động lao động của nhân lực" là những nhiệm vụ lao động như sản xuất,
kinh doanh,... Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là đánh giá hiệu
quả của quá trình tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý là
nguồn nhân lực.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Một là, tỷ lệ người có việc làm:
Là phần trăm của số người có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
Hai là, tỷ lệ người đủ việc làm:
Là phần trăm của số người đủ việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
Ba là, tỷ lệ người thiếu việc làm:
Là phần trăm của số người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế.
Bốn là, tỷ lệ người thất nghiệp:
Là phần trăm của số người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế.
Năm là, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng trong 12 tháng:
Là số phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày
công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm và số ngày có nhu
cầu làm thêm trong 12 tháng tính đến thời điểm điều tra) của dân số hoạt động kinh tế
thường xuyên.
Trong điều kiện giao thương kinh tế tại khu vực biên giới, đánh giá hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực qua các chỉ tiêu như trên có ý nghĩa lớn.
11
Khu vực biên giới trong điều kiện giao thương kinh tế luôn tạo ra nhiều việc
làm đa dạng và ít mang tính thời vụ, nhu cầu về lao động là tương đối ổn định trong
các giai đoạn khác nhau trong năm. Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, tìm
ra nguyên nhân thiếu việc làm, thất nghiệp,... từ đó có thể đưa ra được các giải pháp
tận dụng tối đa quỹ thời gian của người lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập cho người lao động vùng biên giới trên cơ sở tận dụng các hoạt động kinh
tế đa dạng tại khu vực biên giới có giao thương kinh tế.
1.3. Sự cần thiết quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
1.3.1. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Hiện nay đất nước ta trong quá trình đổi mới, xây dựng phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời với việc
tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước do Đảng khởi xướng.
Các ngành sản xuất đang phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, cơ cấu kỹ
thuật đang chuyển dịch mạnh mẽ, nhiều ngành mới xuất hiện với kỹ thuật
tiên tiến, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, nhiều khu chế xuất , vùng kinh
tế trọng điểm, nhiều khu công nghiệp... ra đời. Tất cả đều đòi hỏi phải có
đội ngũ lao động đáp ứng đầy đủ cả về số lượng và chất lượng, cả về quy
mô và cơ cấu, đi kèm với nó là trình độ tổ chức quản lý lao động tương
xứng. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật bước vào giai
đoạn phát triển cao, với sự tiến bộ nhanh chóng, liên tục của các phát
minh khoa học, công nghệ mới, thế giới bước vào nền văn minh trí tuệ,
12
với sự áp dụng rộng rãi kỹ thuật tin học, tự động hoá, với sự phân công lao
động sâu sắc.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chính là quản lý, sử dụng, đào tạo,
đào tạo lại để có được một đội ngũ lao động tiên tiến bao gồm cả lao động trí
óc và lao động chân tay.
Như vậy là công tác quản lý, sử dụng người lao động phải được nâng
lên đảm bảo bồi dưỡng, xây dựng, đào tạo được một thế hệ những người lao
động kiểu mới phù hợp về mặt quy mô, chất lượng với những tiêu chuẩn giá
trị cao hơn phù hợp với những yêu cầu chuẩn mực của nền kinh tế trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự phát triển của mỗi quốc gia trước hết đều nhờ ở nội lực. Song nội
lực của một dân tộc không chỉ là tiền của hay sức lao động mà quan trọng hơn
phải phát huy được trí tuệ, tài năng sáng tạo của người lao động, nếu không sẽ
là sự lãng phí lớn. Dân tộc nào không phát huy được trí tuệ, tài năng, chất
xám của dân tộc mình, sẽ bị phụ thuộc vào dân tộc khác và dễ dàng bị nhấn
chìm trong trào lưu toàn cầu hoá đi đôi với cạnh tranh khốc liệt.
Trong một thế giới như vậy, muốn phát triển, muốn có một vị trí xứng
đáng trên trường quốc tế chỉ có một chiến lược khả dĩ là quản lý, sử dụng tốt
nhất nguồn lực mình sẵn có.
Từ sự phân tích như trên, ta thấy rằng cần thiết phải tăng cường quản lý
và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực - một trong những yếu tố quyết định
cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
13
1.3.2. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đối với sự
ổn định phát triển kinh tế xã hội
Quản lý sử dụng tiềm năng lao động xã hội không phải chỉ duy trì giá trị
sẵn có của xã hội mà còn làm gia tăng nhanh chóng tổng giá trị đó, do có giá
trị mới được tạo ra. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, bảo đảm
khả năng lao động được đáp ứng là yêu cầu quan trọng bậc nhất về mặt kinh
tế để tăng tổng sản phẩm xã hội và đạt được tăng trưởng kinh tế.
Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ có ý nghĩa về
mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội, làm giảm bớt các tệ nạn xã
hội như trộm cắp, ma tuý, mại dâm, cờ bạc... Một xã hội với nhiều người thất
nghiệp, thiếu việc làm là một xã hội tiềm ẩn những tệ nạn nảy sinh. Rõ ràng,
tình trạng không có việc làm để tạo nguồn sống đã đẩy người thất nghiệp tới
vi phạm pháp luật, để bù vào phần thiếu hụt do không tìm được việc làm hợp
pháp. Cũng có thể thấy rằng tình trạng không có những phương tiện sống do
không có việc làm hoặc không có khả năng nhận được việc làm, đặc biệt đối
với đối tượng thanh niên, có tác động tiêu cực đối với tinh thần con người do
bế tắc, chán nản. Những trạng thái này đẩy người thất nghiệp, thiếu việc làm
tới chỗ dùng ma tuý, mại dâm, cờ bạc... Từ đó, tệ nạn xã hội gia tăng ảnh
hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn xã hội thường rơi vào lứa tuổi thanh
niên chưa có việc làm và là nguyên nhân gây nên tội phạm, bệnh xã hội phát
triển lây nhiễm HIV/AIDS, gây thiệt hại về của cải vật chất, làm băng hoại
đạo đức con người; suy thoái giống nòi; làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây
mất an toàn xã hội và trật tự công cộng. Tệ nạn xã hội phát triển dẫn đến
14
những hậu quả xã hội cực kỳ nghiêm trọng. Vì vậy, quản lý và sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực là một đòi hỏi của sự ổn định xã hội, làm lành mạnh
môi trường và các quan hệ xã hội.
Đặc biệt là quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở khu vực
biên giới liên quan chặt chẽ với việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước như chính sách về an ninh quốc gia, chính sách xoá
đói giảm nghèo, chính sách dân số, giáo dục, y tế...
1.3.3. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực nâng cao
mức sống của người lao động
Nước ta là một trong những nước nghèo trên thế giới, thu nhập quốc
dân bình quân đầu người còn thấp, vấn đề tích luỹ của nền kinh tế và người
dân còn hạn chế, nếu không nói là thấp. Do vậy, số người có thu nhập thông
qua các hoạt động kinh doanh như bất động sản, kinh doanh tiền... chỉ là số ít,
đại bộ phận người lao động phải nhờ vào thu nhập từ lao động để đảm bảo
cuộc sống của bản thân và gia đình mình. Nói cách khác, chỉ có thông qua thu
nhập từ việc làm thì người lao động mới có điều kiện để đảm bảo và cải thiện
đời sống của mình, không còn con đường nào khác.
Trong điều kiện là một nước có dân số trẻ, tỷ lệ phụ thuộc của dân số
còn cao, cho nên để góp phần cải thiện đời sống của người dân cần phải tăng
năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả nền kinh tế để trên cơ sở đó
nâng cao tiền lương, tiền công, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao
động và giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống mức hợp lý. Trong số các giải
pháp để nâng cao đời sống của nhân dân thì giải pháp quản lý tốt từ đó sử
15
dụng hiệu quả nhất nguồn lao động hiện có là giải pháp tích cực và có ý nghĩa
về nhiều mặt.
Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, tạo ra nhiều việc làm
cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo khổ, nâng
cao thu nhập và mức sống của các gia đình, làm mức tiêu dùng tăng lên, từ đó
làm tăng mức cầu về hàng hoá và dịch vụ kích thích sự tăng trưởng về kinh tế,
tăng thu cho ngân sách, góp phần làm giảm tội phạm, tệ nạn xã hội.
1.3.4. Giao thương kinh tế với quản lý và sử dụng nguồn nhân
lực ở vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, ngay từ trước công
nguyên, giữa hai nước đã có mối quan hệ lịch sử và chính trị, giao lưu
kinh tế và văn hoá với nhau. Do đó "giao thương kinh tế" đã có từ rất lâu
đời, nhưng trải qua những bước thăng trầm, do biến động lịch sử trong
mối quan hệ giữa hai nước, cũng như những biến động trong chính sách
kinh tế đối ngoại của Việt Nam và Trung Quốc, trong từng thời kỳ mức độ
quan hệ ở các cấp độ có sự khác nhau.
Khu vực biên giới Việt Nam và Trung Quốc có hoàn cảnh văn hoá,
xã hội và tự nhiên tương tự nhau, nhân dân biên giới hai nước có ngôn
ngữ, văn hoá, tập quán sinh sống, truyền thống, tôn giáo tín ngưỡng gần
giống nhau hoặc tương tự nhau, có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Mặc dù cư dân biên giới hai nước chịu sự tác động của các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, nhưng trên thực tế họ đã có mối
quan hệ giao lưu trong lịch sử lâu đời, với tiềm thức trong anh có tôi,
trong tôi có anh, cùng nhau tồn tại, hỗ trợ lẫn nhau.
Tính khác biệt về phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới giữa
hai nước chính là một động lực kinh tế, thúc đẩy xu hướng dựa vào nhau,
bổ sung cho nhau để phát triển.
16
Khu vực biên giới là phần đất liền kề giữa hai quốc gia. Nhu cầu
khác nhau giữa các địa phương, giữa hai nước được phản ánh trực tiếp ở
khu vực biên giới. Giao thương kinh tế ở khu vực biên giới sẽ tạo điều
kiện khai thác các ưu thế địa phương hai nước và ở cấp độ cao hơn nó trở
thành trung gian liên kết nội địa với nước bạn và với quốc tế.
Thực chất giao thương kinh tế khu vực biên giới là sự trao đổi, bổ
sung giữa khu vực biên giới của 2 quốc gia, về hàng hoá, sức lao động, tài
nguyên vốn, kỹ thuật... trên nguyên tắc các quốc gia tôn trọng chủ quyền
của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Giao thương kinh tế là điều kiện phát huy lợi thế tương đối của 2
quốc gia. Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá về thị trường, sản xuất, vốn và
kỹ thuật làm cho mức độ phụ thuộc lẫn nhau của các nước ngày càng
tăng, vì vậy giao thương kinh tế tại khu vực biên giới cần được mỗi quốc
gia tận dụng khai thác.
Tóm lại, giao thương kinh tế ở khu vực biên giới là hiện tượng
khách quan giữa hai nước có chung đường biên, nó tồn tại và phát triển
gắn với mối quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao của các nước láng
giềng, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân
lực. Đòi hỏi khi đưa ra các chính sách về quản lý, sử dụng nguồn nhân lực
phải đảm bảo đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội, phát huy tối đa những lợi
thế do khu vực biên giới mang lại như khả năng hợp tác đào tạo, thuê
mướn chuyên gia của nước bạn; sử dụng hợp lý nguồn nhân lực tại chỗ
vào các lĩnh vực kinh tế đa dạng nơi biên giới, xuất khẩu lao động trên cơ
sở nắm bắt đặc thù địa phương bên kia biên giới... song một vấn đề hết
sức quan trọng là phải gắn với việc giữ vững an ninh quốc phòng, giữ
vững toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
17
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ
DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VÙNG BIÊN GIỚI
TỈNH LẠNG SƠN TRONG ĐIỀU KIỆN GIAO
THƯƠNG KINH TẾ
2.1. Một số đặc điểm kinh tế xã hội vùng biên giới tỉnh Lạng
Sơn ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng nguồn nhân lực
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên địa lý
Biên giới phía bắc Việt Nam liền kề với Trung Quốc kéo dài từ
Đông sang Tây khoảng 1.350km, qua 6 tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu. Phía Trung Quốc giáp biên giới
với Việt Nam có 2 tỉnh Quảng Tây và Vân Nam. Nhìn chung vùng biên
giới phía bắc Việt Nam có địa hình phức tạp, hiểm trở. Kết cấu hạ tầng
thấp kém, giao thông đi lại khó khăn, điện nước cho sinh hoạt rất thiếu.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, nằm ở phía đông bắc của Tổ quốc.
Là một trong những tỉnh có đường biên giới khá dài với Trung Quốc
(253km). Dọc biên giới là các đồi núi với hai cửa khẩu quốc tế, hai cửa
khẩu quốc gia và 7 cặp chợ đường biên là những điểm giao lưu theo
đường bộ rất thuận lợi sang Trung Quốc (và tới các nước Châu Á và Châu
Âu khác).
Với vị trí biên giới có nhiều cửa khẩu quan trọng và thuận tiện cho
việc buôn bán, giao lưu, lại nằm trên đường giao thông ngắn nhất nối
Trung Quốc với Thủ đô Hà Nội, trên đường ra cảng biển Hải Phòng hoặc
Quảng Ninh, hàng năm Lạng Sơn thu hút một khối lượng hàng hoá lớn ra
vào các cửa khẩu.
18
Tỉnh Lạng Sơn bao gồm 10 huyện và 01 thành phố, trong đó có 05
huyện biên giới; với 226 xã, phường, thị trấn, trong đó có 21 xã, thị trấn
biên giới.
Vùng biên giới của tỉnh Lạng Sơn trải dài trên địa bàn 05 huyện là
Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Văn Lãng và Tràng Định, với chiều dài
khoảng 253km, dọc biên giới là núi cao (tuy vậy, nhìn chung thuận lợi
hơn các tỉnh khác có biên giới đường bộ với Trung Quốc).
Lạng Sơn nằm ở đầu mối của những tuyến giao lưu kinh tế và văn
hoá có tính nổi trội. Một trong số đó là tuyến nối liền giữa hai miền châu
thổ rộng lớn, phì nhiêu và dân cư đông đúc; châu thổ sông Hồng ở Bắc bộ
nước ta và châu thổ sông Tây Giang (Quảng Tây, Trung Quốc). Theo các
nhà nghiên cứu người Pháp thì vị trí địa lý, kinh tế của Lạng Sơn được đặt
trong mối quan hệ tổng thể giữa các vùng, có điều kiện địa lý, kinh tế
khác nhau, trước hết là châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Tây Giang
Trung Quốc. Hai châu thổ này không đơn thuần là hai vùng dân cư đông
đúc, đồng ruộng phì nhiêu và là những vựa thóc lớn mà còn là hai nền văn
minh có ưu thế không giống nhau. Như vậy, Lạng Sơn còn có thể được
xem như là đầu mối của 2 nền văn minh, điều vượt xa hơn nhiều so với
các quan hệ giữa các điều kiện địa lý, kinh tế của hai vùng nói trên.
Trên thực tế, từ đầu thế kỷ XVIII thương mại Châu Âu đã qua biên
giới Lạng Sơn và vào bắc Bộ nước ta (tất nhiên còn rất hạn chế). Từ
những lợi thế về vị trí địa lí, tự nhiên của vùng biên giới, Lạng Sơn dần
trở thành đầu mối ít nhất là của 5 con đường huyết mạch về kinh tế:
đường lên Cao Bằng, xuống Thái Nguyên, xuống Hà Nội, xuống Quảng
Ninh và sang Trung Quốc (Bản đồ hành chính tỉnh Lạng Sơn).
19
2.1.2. Đặc điểm kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra trên tất cả các lục
địa, sự hợp tác kinh tế trên thế giới hiện nay phát triển hơn bao giờ hết. Hợp
tác khu vực để liên kết kinh tế cùng phát triển và khu vực hoá, là nhịp cầu
cần thiết để đi tới toàn cầu hoá. Việt Nam - Trung Quốc nằm trong khu vực
ổn định nhất, và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới.
Hơn nữa, một trong những ưu điểm trong chính sách kinh tế đối
ngoại của Trung Quốc là xây dựng các vành đai mở, tạo ra các thị trường
chung trên tuyến biên giới đất liền, đẩy mạnh các hoạt động trao đổi mua
bán qua biên giới.
Về phía Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện đường lối
kinh tế mở và hội nhập kinh tế với thế giới.
Thực tế đó đã mang lại những ưu thế rất rõ ràng đối với khu vực
biên giới của tỉnh Lạng Sơn trong điều kiện phát triển kinh tế.
Kể từ năm 1991, sau khi Chính phủ hai nước ký: "Hiệp định tạm
thời về giải quyết các công việc trên biên giới..." Chính quyền tỉnh Lạng
Sơn đã tổ chức nhiều cuộc hội đàm để cụ thể hoá những vấn đề qua lại
biên giới, trao đổi hàng hoá, hợp tác đầu tư kinh tế - kỹ thuật.
Đến nay, tỉnh Lạng Sơn đã có 2 cửa khẩu quốc tế là Đồng Đăng và
Hữu Nghị (thuộc huyện Cao Lộc); 2 cửa khẩu quốc gia là Chi Ma (thuộc
huyện Lộc Bình), Bình Nghi (thuộc huyện Tràng Định), và 7 cặp chợ
vùng biên là Bản Chắt- Nà Nùng (thuộc huyện Đình Lập); Pò Nhũng- Ái
Dầu, Co Sau- Pắc Sắn, (thuộc huyện Cao Lộc); Nà Hình- Kéo Ái, Cốc
Nam- Lũng Nghịu, Tân Thanh- Pò Chài (thuộc huyện Văn Lãng); Nà
Nưa- Nà Xa (thuộc huyện Tràng Định) (Bảng 2.1.).
20
Bảng 2.1. Danh sách các cửa khẩu và cặp chợ biên giới
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
STT Tên Địa bàn Việt Nam
I Cửa khẩu quốc tế
1 Đồng Đăng Huyện Cao Lộc
2 Hữu Nghị Huyện Cao Lộc
II Cửa khẩu quốc gia
1 Chi Ma Huyện Lộc Bình
2 Bình Nghi Huyện Tràng Định
III Cặp chợ biên giới
1 Bản Chắt- Nà Nùng Huyện Đình Lập
2 Pò Nhũng- Ái Dầu Huyện Cao Lộc
3 Co Sau- Pắc Sắn Huyện Cao Lộc
4 Nà Hình- Kéo Ái Huyện Văn Lãng
5 Cốc Nam- Lũng Nghịu Huyện Văn Lãng
6 Tân Thanh- Pò Chài Huyện Văn Lãng
7 Nà Nưa- Nà Xa Huyện Tràng Định
Từ năm 1991, số doanh nghiệp tham gia buôn bán với Trung Quốc
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ngày càng tăng lên. Đến nay, đã có hàng ngàn
đơn vị và hộ tư nhân tham gia kinh doanh buôn bán biên giới bao gồm
nhiều loại hình: Doanh nghiệp nhà nước (một số đang trong quá trình cổ
phần hoá), các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty tư
nhân, và các hộ buôn bán, có cả các thương gia bên ngoài đến từ Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan... Từ đây xuất hiện rất nhiều các hình thức buôn
bán, kinh doanh: Từ các hình thức xuất nhập khẩu, liên doanh, liên kết...
đến các giao dịch buôn bán trao đổi giữa cư dân hai vùng biên giới. Lực
lượng lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế vùng biên giới cũng
không đồng đều, từ đội ngũ cán bộ được đào tạo nghiệp vụ bài bản đến
các tư thương vốn chỉ sử dụng kinh nghiệm trong buôn bán, đến các lực
lượng "cửu vạn" khuôn vác, vận chuyển hàng hoá... chủ yếu sử dụng sức
21
mạnh cơ bắp. Tình hình đó dẫn đến những khó khăn nhất định đối với
việc quản lý các lực lượng lao động trên địa bàn.
2.1.3. Đặc điểm văn hoá - xã hội
Những năm vừa qua nhờ chính sách cải cách, mở cửa và hội nhập,
cộng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng, nỗ lực của
chính quyền địa phương, đời sống của người dân tỉnh Lạng Sơn nói chung
và nhân dân vùng biên giới nói riêng, được từng bước cải thiện.
Hoạt động buôn bán qua biên giới đã tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho người dân nơi đây. Các ngành sản xuất phát triển và mở rộng cần
tăng thêm nhân công, các ngành nghề mới ra đời, buôn bán mở rộng cần
đội ngũ lao động tăng lên, kéo theo những người làm dịch vụ kinh doanh
ăn uống, đi lại và vận tải hàng hoá.
Thực tế đó làm thay đổi rất lớn đời sống văn hoá - xã hội của người
dân vùng biên giới.
Nếu như trước đây họ chỉ quen với đồi rừng, quen với nền sản xuất
tự cung tự cấp thì nay đất rừng, tài nguyên rừng đã được phát huy như
một lợi thế đóng góp vào nền sản xuất, gắn với thị trường cả nước và khu
vực. Người dân quen dần với những ngành nghề mới với những đòi hỏi
khắt khe của cơ chế thị trường, bước đầu có ý thức học tập để nắm bắt
kiến thức, giành lợi thế trong sản xuất, kinh doanh.
Sự sôi động của các hoạt động kinh doanh vùng biên giới cũng làm
nảy sinh vấn đề nhức nhối, tình trạng buôn bán người qua biên giới, dân
lưu trú, buôn bán, tệ nạn nghiện hút, tiêm chích ma tuý... đã ảnh hưởng rất
nhiều đến đời sống của nhân dân vùng biên giới. Các dân tộc vùng biên
giới vẫn đi chợ phiên, họ vẫn mang những sản vật nuôi được, trồng được,
hay hái được ở trên rừng ra chợ phiên, song đã có nhiều lời cảnh báo về
22
sự mai một của các phiên chợ truyền thống. Nét văn hoá cộng đồng cũng
đã có dấu hiệu mai một, đâu đó rất hiếm tìm được những câu hát sli, hát
lượn, cảnh các đôi trai gái hẹn tìm nhau khi đi chợ...
Như vậy, các chính sách ban hành phải chú ý tới yếu tố văn hoá
trong cộng đồng các dân tộc vùng biên giới. Sự phát triển phải gắn với
bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc nơi đây.
2.1.4. Đặc điểm nguồn nhân lực
Dân số tỉnh Lạng Sơn có trên 70 vạn người, trong đó có gần 60 vạn
người sống ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Giống như các
tỉnh miền núi phía bắc, Lạng Sơn là tỉnh có các dân tộc ít người chiếm số
đông. Theo số liệu điều tra, tính đến thời điểm 01/7/2005, tổng số nhân
khẩu thực tế thường trú của tỉnh là 734.002 người, trong đó Nữ có
370.594 người chiếm 50,5%; số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên có
543.692 người, chiếm 74,1%; số nhân khẩu trong độ tuổi lao động (Nam
từ đủ 15 - 59 tuổi, Nữ từ đủ 15 - 54 tuổi) có 467.426 người chiếm 63,7%
trong tổng số nhân khẩu thực tế thường trú của tỉnh.
Với đặc thù là tỉnh miền núi biên giới, dân tộc ít người chiếm số
đông, nên các hoạt động kinh tế thương mại... không thể chỉ lấy kinh
doanh lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu, mà một điều hết sức quan trọng
là phải kết hợp kinh doanh với việc thực hiện tốt chính sách kinh tế - xã
hội miền núi của Đảng và nhà nước.
Nguồn nhân lực vùng biên giới của tỉnh Lạng Sơn mang những đặc
điểm chung của tỉnh, với cơ cấu dân số trẻ và có tiềm năng bổ sung nguồn
lao động khá lớn. Khi số dân dưới 55 tuổi chiếm tới 87,4% tổng số dân.
Tỷ lệ lao động trẻ rất cao: 22,14% lao động dưới 25 tuổi và 76,43% dưới
45 tuổi (Bảng 2.2.).
23
Bảng 2.2. nguồn nhân lực vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn năm 2005
chia theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Số lượng (người) Tỷ lệ (%)
15 - 24 33.729 22,14
25 - 44 82.702 54,29
45 - 49 30.386 19,95
60 tuổi trở lên 5.511 3,62
Nguồn: Thực trạng Lao động - Việc làm
tỉnh Lạng Sơn, UBND tỉnh LS (2005)
Hiện nay, dân số sống ở nông thôn chiếm tới 80% và chủ yếu là hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp. Những tập quán và kinh nghiệm sản
xuất của người nông dân có giá trị và ý nghĩa rất lớn. Họ đã rèn luyện,
hoàn thiện và tích lũy được nhiều hiểu biết, kinh nghiệm từ những năm
tháng lao động.
Tại khu vực thành thị, lao động ngày càng tập trung vào khu vực
dịch vụ của nền kinh tế, chiếm tới 64,33% lực lượng lao động khu vực
này. Nếu như trước kia lao động ở khu vực thành thị chủ yếu làm việc
trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước thì ngày nay có tới 75% lao động ở
đây là tự tạo việc làm, chỉ có 21,3% lao động làm việc trong khu vực nhà
nước và 1,3% trong khu vực tập thể.
Tuy vậy, một khó khăn lớn của lao động khu vực biên giới tỉnh Lạng
Sơn là trình độ dân trí còn thấp, ảnh hưởng tới việc đưa tiến bộ khoa học -
kỹ thuật vào đời sống và sản xuất. Theo số liệu điều tra của Ban điều tra
lao động việc làm tỉnh thì năm 2005 vùng biên giới của tỉnh có:
19,8% lao động tốt nghiệp Trung học phổ thông, thấp hơn tỷ lệ này
của vùng Đông Bắc 1,62% và thấp hơn tỷ lệ này của cả nước là 2,26%;
24
31,1% lao động tốt nghiệp Trung học cơ sở, thấp hơn tỷ lệ của vùng
Đông Bắc 6,32% và thấp hơn tỷ lệ này của cả nước là 2,2%;
Trong khi có tới 15,8% lao động mù chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học
cao hơn tỷ lệ của vùng Đông Bắc 0,42% và cao hơn tỷ lệ này của cả nước
là 0,22% (Bảng 2.3.).
Bảng 2.3. nguồn nhân lực vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn chia theo
trình độ văn hóa năm 2005
Trình độ văn hoá
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Mù chữ,
Chưa TN tiểu học
24.068 15,8
Tốt nghiệp tiểu học 50.725 33,3
Tốt nghiệp THCS 47.374 31,1
Tốt nghiệp THPT 30.161 19,8
Nguồn: Thực trạng Lao động - Việc làm
tỉnh Lạng Sơn, UBND tỉnh LS (2005),
Tuy chất lượng của lao động khu vực biên giới của tỉnh Lạng Sơn thuộc
loại thấp so với nhiều địa phương khác, vả cả nước, song đối với khu vực biên
giới của một tỉnh miền núi, đa số là đồng bào dân tộc thiểu số, thì đội ngũ lao
động này, một khi được đào tạo, huấn luyện, có thể tiếp cận, đáp ứng được
các yêu cầu của nền sản xuất có kỹ thuật ngày càng cao.
Tóm lại, với nguồn lao động trẻ dồi dào và tiềm năng tự nhiên
phong phú, lợi thế của khu vực có cửa khẩu giao thương kinh tế, nếu được
tổ chức quản lý, sử dụng tốt nguồn lao động này, cùng với việc nâng cao
trình độ văn hoá và chuyên môn của họ, thì đây có thể được xem là một
thế mạnh của khu vực biên giới để phát triển các tiềm năng của tỉnh, tạo
công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho người dân.
25