Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kỹ thuật nuôi cá lăng vàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.91 KB, 12 trang )

Kỹ thuật nuôi cá lăng vàng

Cá lăng vàng là một trong những loài cá lăng hiện diện ở các thủy vực
nước ngọt và lợ nhẹ thuộc miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long.
Đây là một trong những loài cá bản địa có thịt thơm ngon và bổ dưỡng.
Hiện nay, cũng như các loài cá bản địa khác, cá lăng vàng ngày càng bị
khai thác nghiêm trọng nên sản lượng cá tự nhiên ngày một giảm thấp.
Do đó, giá cá thịt, cá lăng ngày càng cao, dao động từ 35.000 đ đến
80.000 đ/kg cá sống tuỳ thuộc vào trọng lượng cá và mùa vụ.
Vì vậy, nghề nuôi cá lăng vàng trong áo đất hứa hẹn nhiều thuận lợi về
mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Để nuôi cá lăng vàng đạt hiệu quả như
mong muốn, người nuôi có thể áp dụng một trong hai hình thức nuôi:
nuôi thâm canh hoặc nuôi bán thâm canh. Dù là hình thức nuôi nào,
người nuôi cũng nên thực hiện đúng các biện pháp kỹ thuật dưới đây.
1. Điều kiện ao nuôi:
Trong nghề nuôi cá thâm canh, điều kiện ao nuôi là một trong những
yếu tố quan trọng - quyết định đến kết quả của một vụ nuôi. Dưới dây là
những tiêu chuẩn của một ao nuôi cá lăng vàng thương phẩm.
- Diện tích ao ít nhất là 500 m2, độ sâu mực nước 1-2 m.
- Ao thoáng mát, độ che phủ mặt nước ao không quá 30% tổng diện
tích mặt nước
- Đáy ao không nhiều bùn (lớp bùn dày 10-15 cm).
- Nước có chất lượng tốt:
+ pH từ 6,5 – 7,5;
+ Ôxy hoà tan trên 3 mg/l
+ Độ trong từ 20-40 cm
+ Nước ngọt hoặc lợ nhẹ (độ mặn từ 0 đến 7%).
- Chủ động trong việc cấp và tháo nước.


2. Chuẩn bị ao nuôi:


Việc chuẩn bị ao nuôi có ý nghĩa quyết định đến kết quả nuôi. Nếu
chuẩn bị ao đúng kỹ thuật thì mầm bệnh khó có cơ hội phát triển và diệt
hết cá tạp, cá dữ. Chuẩn bị ao nuôi gồm các công việc sau:
- Tẩy dọn ao: Sau khi tháo cạn nước, dùng vôi nông nghiệp CaCO3) rãi
đều khắp đáy ao với lượng 7 -10 kg/100 m2. Nếu vùng đất nhiễm phèn,
có thể bón vôi từ 10-15 kg/100 m2.
- Ngay sau khi bón vôi, sử dụng sản phẩm chuyên dùng để thúc đẩy
việc phân huỷ vật chất hữu cơ và khử khí độc ở đáy ao để tạo môi
trường sống tốt nhất cho cá lăng như XORBS với liều 0,5 – 0,7
kg/1.000 m2 ao.
- Phơi nắng ao từ 1- 2 ngày rồi khử trùng ao bằng một trong hai loại sản
phẩm sau đây:
+ FIDIS: Lọc nước cho vào ao khoảng 10 cm rồi dùng FIDIS với liều từ
2 đến 2,5 lít/1.000 m2 phun đều khắp mặt nước và bờ ao. Một ngày sau
đó lọc nước thật kỹ cho vào ao theo yêu cầu.
+ WPLMIDTM: Liều 0,3 kg/1.000 m3. Lọc nước cho vào ao rồi phun
WOLMIDTM theo liều như trên. Từ 2-3 ngày sau mới thả cá giống.
3. Thả cá giống
- Tiêu chuẩn cá thả nuôi:
+ Khoẻ mạnh, không sây sát, mất nhớt;
+ Cỡ cá thả đồng đều và lớn (cá lồng 10);
+ Mật độ thả:
+Nuôi thâm canh: 7-8 con/m3 nước;
+ Nuôi bán thâm canh: Mật độ thả từ 4-5 con/m3 nước theo tỷ lệ:
+ Cá giống các loại: 70 -80 %
+ Cá giống lăng vàng; 20-30%
- Thời gian thả cá: tốt nhất buổi sáng ( 8-11 giờ sáng).
- Sát trùng cá trước khi thả bằng BROOTTM 5X với liều 3ppm (3cc
BROOT/m3). Hoà tan BROOT vào thau nước theo liều trên rồi nhúng
vợt có cá vào thau khoảng 5 giây.



- Ngay sau đó, thả cá vào ao nuôi. Không nên thả cá giống nhiều lần
trong cùng một ao.
4.Thức ăn cho cá:
- Có thể cho cá ăn bằng thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế phụ thuộc
vào hình thức nuôi.
+ Nuôi thâm canh:
Cho cá ăn bằng thức ăn viên có độ đạm ít nhất 25%.
Khẩu phần ăn 2-5% tổng trọng lượng cá nuôi
Một ngày cho ăn ba lần (sáng, chiều, tối). Cữ tối chiếm khoảng 60%
tổng lượng thức ăn trong ngày.
+ Nuôi bán thâm canh (ghép với loại cá khác):
Cho cá ăn bằng thức ăn tự chế (tận dụng nguyên liệu tại chỗ).
Khẩu phần ăn 2-4% tổng lượng cá trong ao.
Một ngày cho ăn hai lần (sáng và chiều)
Thả cá rô phi GIFT thường, tép, cá tạp để chúng sinh sản nhằm làm
mồi cho cá lăng vàng.
Nguồn: Trại Thực nghiệm Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học
Nông Lâm T.p Hồ Chí Minh

Cho cá lăng vàng (Mystus nemurus) đẻ quanh năm


Thay vì thời gian có khả năng sinh sản chỉ khoảng 2-3 tháng/năm ở môi
trường tự nhiên, giờ đây cá lăng vàng - Mystus nemurus - có thể “khai
hoa nở nhụy” quanh năm... Thành công này nhờ bàn tay khéo léo của
thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (khoa thủy sản ĐH Nông lâm TP.HCM). Kết quả
này cũng xứng đáng được trao huy chương vàng tại chợ công nghệ
thiết bị quốc gia 2003...

Có lẽ vì gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ
Ngọc rất am hiểu nhu cầu thực tiễn và triển vọng của nhiều loài thủy
sản nước ngọt. Và cá lăng vàng là một trong những đối tượng nghiên
cứu được nhà khoa học này đánh dấu ưu tiên. Ông cho biết đây là loài
cá trơn, giá trị kinh tế cao, thịt trắng, thơm ngon và đặc biệt loài cá này
vốn là món khoái khẩu của biết bao thực khách sành ăn uống.
Cũng chính vì sự ưa chuộng của rất nhiều người, thêm vào đó bán
được giá cao (35.000-45.000 đồng/kg), mà số lượng loài cá lăng vàng
ở sông, suối, ao hồ... ngày một cạn dần, thậm chí đứng trước nguy cơ
tuyệt diệt. Làm thế nào để bảo vệ loài cá này trong môi trường tự
nhiên? Trước hoàn cảnh như thế, dường như không có lựa chọn nào
khác hơn hướng nghiên cứu nhắm đến việc “sinh sản nhân tạo cá lăng
vàng” - một lựa chọn mà nhiều nhà khoa học đã gặt hái thành công đối
với nhiêu loài thủy sản nước ngọt khác.
Ngay lập tức mục tiêu của hướng nghiên cứu này được thạc sĩ Ngọc
xác lập: tạo giống cá lăng vàng nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi và
bảo vệ loài cá này ngoài tự nhiên; đồng thời xây dựng qui trình sản xuất
con giống, đáp ứng nhu cầu nuôi cá thương phẩm đối với người dân.
Thời điểm tháng 3-2002, khuôn viên trại thực nghiệm thủy sản - ĐH
Nông lâm TP.HCM rộn ràng công tác chuẩn bị “sinh sản nhân tạo cá
lăng vàng”. Bước đầu tiên - thuần dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ - của qui
trình này được triển khai thực hiện. Loạt cá lăng vàng (bố mẹ) đầu tiên
gồm 300 cá cái và 200 cá đực được đưa về từ hồ Sông Mây và Trị An
(tỉnh Đồng Nai) để thuần dưỡng trong ao đất. Khá nghiêm ngặt, cá
được chọn làm bố mẹ phải qua vòng sơ khảo về “ngoại hình”: không dị
tật, ngoại hình cân đối, trọng lượng từ 300g/con trở lên...
Việc thuần dưỡng được thực hiện từng bước, từng bước một. Trong
thời gian đầu thức ăn cho cá lăng vàng gồm 50% cá tạp tươi sống, 50%
cám gạo. Đồng thời tập cho cá dùng thức ăn dạng viên nổi để cá dần
quen với thức ăn công nghiệp; đến lúc thích hợp thì chuyển hẳn sang

nuôi vỗ bằng 100% thức ăn công nghiệp. Cá đực và cái được sống


chung một ao, với diện tích phù hợp, độ sâu 1,2-1,4m. Cứ định kỳ bảy
ngày kiểm tra tốc độ tăng trưởng một lần. Và chỉ khoảng bốn tháng nuôi
vỗ cá cái đã thành thục sinh dục và có thể tiêm kích dục tố để chúng
sinh sản; cá đực cũng được thuần dưỡng tương tự.
Sau khi tiêm kích dục tố cho cá đẻ, trứng được ấp ở nhiệt độ trung bình
29-30OC trong bể composite (hoặc bình weis) liên tục 20 giờ liền thì
trứng nở thành cá bột, tỉ lệ nở đạt trên 80%. Đặc biệt, theo kết quả
nghiên cứu cho thấy sức sinh sản thực tế của cá lăng vàng dao động từ
126.364-142.000 trứng/1kg cá mẹ. Kết quả sản xuất cá giống trong
thực tế cho thấy cứ 1kg cá mẹ thì có thể sản xuất được 10.000-15.000
cá giống. Qui trình sản xuất con giống cá lăng vàng do thạc sĩ Ngọc
công bố có thể sản xuất và cung cấp giống quanh năm.
Theo kết quả nghiên cứu, một năm có thể cho cá lăng vàng đẻ 4-5 lần
(giữa hai lần sinh sản cách nhau 2,5-3 tháng). Tuy nhiên để giữ sức
cho cá bố mẹ chỉ nên cho đẻ khoảng 2 lần/năm là vừa. Chưa dừng lại,
công trình nghiên cứu còn bố trí các thí nghiệm để đúc kết ra qui trình
nuôi ương cá bột thành cá giống. Theo đó, chỉ cần chăm sóc cẩn thận
trong một tháng cá bột sẽ phát triển thành cá giống với chiều dài đạt 55,5cm, có thể thả nuôi làm cá thịt.
Chắc chắn kết quả nghiên cứu sẽ rất có ý nghĩa nếu qui trình sản xuất
giống cá lăng vàng bằng phương pháp sinh sản nhân tạo được chuyển
giao đến tay nhiều nông dân, ở nhiều địa phương trên khắp đất nước.
“Chúng tôi đã sẵn sàng chuyển giao qui trình sản xuất giống và nuôi cá
lăng vàng cho những đơn vị, cá nhân có nhu cầu”- thạc sĩ Ngọc vui vẻ
thông báo.
QUỐC THANH (Trung tâm Thông tin Khoa học Công nghệ Quốc gia)

Cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo thành công: Bảo vệ được loài

cá có giá trị kinh tế cao


Cá lăng vàng có tên khoa học Mytusnemurus, là loài cá bản địa được
phân bố, rộng trong các thủy vực nước ngọt và nước lợ nhạt như sông,
suối, ao, hồ vùng cửa sông thuộc vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long. Là một loài cá trơn cho thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế
cao (với giá thịt tươi sống 30.000 - 36.000 đồng/kg), cá lăng vàng bị
khai thác quá mức nên sản lượng suy giảm nghiêm trọng trong tự
nhiên...
Đứng trước tình hình đó, thạc sĩ Ngô Văn Ngọc và nhóm nghiên cứu
thuộc Khoa Thủy sản Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí
Minh đã tiến hành nghiên cứu cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo và
ương nuôi thành cá giống nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng
thủy sản phát triển bền vững. Đến nay, công trình nghiên cứu này đã
thành công tại trại thực nghiệm thủy sản của Trường Đại học Nông
Lâm. Về sinh sản nhân tạo, theo thạc sĩ Ngô Văn Ngọc, các công đoạn
được tiến hành như sau: Cá lăng vàng hậu bị thu từ hồ Trị An (huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai) được nuôi vỗ trong ao đất có diện tích 300m2
với độ sâu mực nước 1,2m, trong 5 tháng. Sau khi thành thục sinh dục,
cá bố mẹ được chọn cho đẻ dựa vào các tiêu chuẩn ngoại hình và màu
sắc, kích thước trứng. Trong đợt sinh sản này, 3 con cá cái được chọn
cho sinh sản có trọng lượng từ 0,35kg đến 0,8kg/con. Chất dùng kích
thích sinh sản cho cá lăng vàng là LH-RHa với liều lượng tiêm cho cá
đực bằng 1/3 liều của cá cái. Ở nhiệt độ nước 29,5 - 30oC, thời gian
hiệu ứng của LH-RHa trên cá dao động 11 - 12 giờ và tỷ lệ cá rụng
trứng hoàn toàn đạt 100%. Sức sinh sản thực tế từ 126.364 - 142.000
trứng/kg.
Sau khi gieo tinh, trứng được khử dính và ấp bằng bình Weis. Ở nhiệt
độ nước 30oC, thời gian phát triển phôi cá lăng vàng là 20 giờ tính từ

lúc trứng đã được thụ tinh. Cá bột 1 ngày tuổi bắt đầu biết bơi. Ở khâu
ương nuôi từ cá bột lên cá hương, với nhiệt độ nước 29,5 - 30oC, sau
khi nở khoảng 60 giờ, ấu trùng cá lăng vàng bắt đầu biết ăn Moina cỡ
nhỏ, dù lúc này cơ thể vẫn còn noãn hoàng. Sau khi nở 72 giờ (3 ngày
tuổi), cá đã tiêu hết noãn hoàng và bắt mồi rất mạnh. Khi được 4 ngày
tuổi, cá ăn được trùn chỉ (Tubifex). Ở giai đoạn này, cá lăng vàng có tốc
độ tăng trưởng khá nhanh và sự phân đàn không đáng kể (kích thước
cá hương khá đồng đều): 14 ngày tuổi, cá có chiều dài 2,7 - 2,9cm. Qua
kết quả thu được trong đợt nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo này, có
thể khẳng định cá lăng vàng là một đối tượng nuôi quan trọng vì có sức
sinh sản cao, ăn tạp, có thể nuôi mật độ dày và tăng trưởng nhanh.


Thạc sĩ Ngô Văn Ngọc cho biết nhóm nghiên cứu đang tiếp tục nâng
cao hiệu quả sinh sản hơn nữa, hoàn thiện quy trình sản xuất giống
nhân tạo cá lăng vàng và quy trình nuôi cá thương phẩm nhằm nhanh
chóng ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần bảo vệ và phát triển
loài cá bản địa có giá trị kinh tế cao này.
Theo SGGP - 05 (/12/2002)

Lưu ý khi ương nuôi cá lăng vàng
Sau một thời gian nghiên cứu, thử nghiệm ương nuôi giống cá lăng
vàng, khoa Thuỷ sản (Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh đã
đưa ra được quy trình nuôi, thuần dưỡng giống này. Theo những kinh
nghiệm đúc kết thì:
- Trong quá trình ương nuôi cá bột lên cá giống (chia làm 2 giai đoạn:
giai đoạn đầu 7 ngày tuổi, giai đoạn sau 30 ngày tuổi) muốn sản xuất
giống hàng loạt, phải áp dụng kỹ thuật gieo tinh nhân tạo với điều kiện
đàn cá đực có chất lượng tuyến sinh dục cao (cá phải 2-5 năm tuổi);
với cá lăng vàng cái trong điều kiện nuôi ao, giai đoạn thành thục phải

là 1 năm.
- Giống cá lăng vàng ương trong ao đất luôn luôn lớn nhanh hơn cá
ương trong bể vì môi trường ao đất rộng rãi, phù hợp. Cá ít bị bệnh. Cá
quen ăn thức ăn viên.
- Nên thực hiện gieo tinh nhân tạo và sinh sản nhân tạo ở nhiệt độ 2831oC thì thời gian hiệu ứng chỉ chừng 5-6 giờ và phát triển phôi từ 1822 giờ.
- Tốc độ tăng trưởng của cá ương trong ao đất nhanh hơn.
- Tỉ lệ cá sống khi ương trong bể composit cao hơn trong ao đất (68%
so với 52%) nhưng mức độ rủi ro bệnh tật khi ương lại cao hơn, có khi
cá bị chết toàn bộ nếu sơ sẩy về kỹ thuật một chút.
Khoa Thuỷ sản (Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh) có thể
cung cấp giống cá lăng vàng và hướng dẫn quy trình ương nuôi, thuần
dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ theo yêu cầu của bà con nông dân.


NTNN, 7/7/2004

Nhân giống và nuôi cá lăng thương phẩm
Cá lăng vàng có tên khoa học Mytusnemurus, sống trong các vùng nước ngọt và
nước lợ thuộc vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Là một loài cá da
trơn cho thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao, trong những năm gần đây cá lăng
vàng bị khai thác quá mức nên sản lượng suy giảm nghiêm trọng trong tự nhiên.
Hiện nay, với thành công về lai tạo giống, việc nuôi cá thương phẩm đang tiến triển
rất tốt.
Gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (Khoa Thủy
sản Trường Đại học Nông Lâm TPHCM) rất am hiểu nhu cầu thực tế và triển vọng của
nhiều loài cá nước ngọt. Cá lăng là loại cá ngon thịt, giá cao mà lại “trên bờ tuyệt chủng”
là một trong những đối tượng nghiên cứu được thạc sĩ Ngọc ưu tiên. Sau cả năm trời lùng
mua cá lăng về để nghiên cứu, nhân giống, thạc sĩ Ngô Văn Ngọc và nhóm nghiên cứu
thuộc Khoa Thủy sản Trường ĐH Nông Lâm TPHCM đã hoàn thành đề tài khoa học
nghiên cứu cho cá lăng vàng sinh sản nhân tạo và ương nuôi thành cá giống nhằm góp

phần thúc đNy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.
Quy trình sinh sản nhân tạo cá lăng vàng có thể tóm tắt như sau: bắt cá từ hồ Trị An
(huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng N ai) về nuôi vỗ trong ao đất có diện tích 400m2 với độ sâu
mực nước 1,2m, trong 5 tháng. 3 con cá cái được chọn cho sinh sản có trọng lượng từ
0,35kg đến 0,8kg/con. Dùng chất LH-RHa tiêm vào cá đực với liều lượng bằng 1/3 liều
của cá cái. Ở nhiệt độ nước khoảng 300C, thời gian dao động 11-12 giờ, tỷ lệ cá rụng
trứng đạt 98%. Sức sinh sản thực tế từ 126.364 đến 142.000 trứng/kg. Sau khi gieo tinh,
trứng được khử dính và ấp bằng bình Weis. Ở nhiệt độ nước 300C, thời gian phát triển
phôi cá lăng vàng là 20 giờ tính từ lúc trứng đã được thụ tinh. Ở khâu ương nuôi từ cá bột
lên cá hương, sau khi nở khoảng 60 giờ, ấu trùng cá lăng vàng bắt đầu biết ăn. Sau khi nở
72 giờ (3 ngày tuổi), cá ăn mồi rất mạnh. Khi được 4 ngày tuổi, cá ăn được trùn chỉ. 14
ngày tuổi, cá có chiều dài 2,7 - 2,9cm.
Hiện nay quy trình sản xuất giống nhân tạo cá lăng nha được hoàn chỉnh và trại thực
nghiệm thủy sản ĐH N ông Lâm TPHCM có thể chuyển giao cho bà con hay các cơ sở
kinh doanh giống có nhu cầu. N goài ra, nơi nghiên cứu này cũng có thể chuyển giao quy
trình sản xuất giống cá lăng vàng và cá lăng hầm.
Cá lăng có khả năng thích nghi môi trường nước lợ, ngọt và cho hiệu quả kinh tế
cao. Hiện phong trào nuôi loài cá này đang phát triển mạnh tại các tỉnh ĐBSCL, vùng
Đông N am bộ và có thị trường tiêu thụ thuận lợi. Cuối năm 2006, tại huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng N ai lần đầu tiên xuất “chuồng” 10 ngàn tấn cá thương phNm trị giá hàng tỷ
đồng.


Sau 5 tháng triển khai, thạc sĩ N gô Văn N gọc và Khoa Thủy sản, Trường ĐH N ông Lâm
TPHCM đã chuyển giao thành công quy trình sản xuất cá lăng nha cho Trung tâm N ghiên
cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang. Bà N guyễn Thị N gọc Trinh, Giám đốc Trung
tâm N ghiên cứu và sản xuất giống thủy sản An Giang, cho biết, hiện nay, trung tâm đã
chuyển giao cho bà con nông dân xuống giống nuôi thử nghiệm 100 ngàn con cá (cá cỡ
từ 5-6cm) thương phNm. N hững con giống này có chất lượng và thích nghi rất tốt trong
điều kiện nuôi ao và nuôi bè tại An Giang. Có thể khẳng định cá lăng vàng có sức sinh

sản cao, ăn tạp, có thể nuôi mật độ dày và tăng trưởng nhanh. Theo bà, đợt này nuôi
thành công với giá 83.000-85.000 đồng/kg, sắp tới trung tâm sẽ triển khai nuôi đại trà
trong dân.
VŨ HÙNG - SGGP, 07/02/2007

Nhân giống thành công một loài cá lăng hiếm
Ngày 1/7, tại trại thực nghiệm thủy sản trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, ThS Ngô Văn Ngọc,
giảng viên chính Khoa Thủy sản đã nghiên cứu, ấp nở thành công khoảng 5.000 con cá
lăng nghệ con.
Do không đủ số lượng định danh đến loài, ông tạm đặt cho cặp cá có lớp da màu vàng tươi như
nghệ này là cá lăng nghệ khi bắt gặp chúng vào năm 2001 tại lòng hồ Trị An.

ThS Ngô Văn Ngọc đang điều chỉnh van của thiết bị bình ấp nhân tạo Weis dùng để ấp
trứng cá lăng.

Hiện tại, tại trại thực nghiệm có 4 loài cá lăng: cá lăng vàng (Mystus nemurusValenciennes,
1839), cá lăng hầm (Mystus filamentusChang và Faux, 1949), cá lăng nha đuôi đỏ (Mystus
wyckioidesChang và Faux, 1949) và cá lăng nghệ (Mystus sp). Chúng tập trung sống và phát
triển trong các thủy vực nước ngọt và nước lợ nhẹ ở miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông


Cửu Long, thuộc khu hệ cá nhiệt đới. Trong đó, nguồn cá lăng nha giống và cá thương phẩm chủ
yếu thu ngoài tự nhiên (lòng hồ Trị An) nhưng sản lượng ngày càng hiếm, không đủ đáp ứng cho
nhu cầu nuôi và tiêu dùng.
Theo FAO (1996), cá lăng nha thường hiện diện trong những con sông thuộc lưu vực sông
Mekông và Salween; đôi khi chúng được tìm thấy ở vùng Biển Hồ (Tonlé Sap) và vùng hạ lưu
sông Mekông. Đây là loài cá có kích thước cơ thể lớn hơn nhiều so với cá lăng vàng và lăng
hầm. Ngoài tự nhiên, cá trưởng thành thường dài khoảng 50cm, đôi khi bắt gặp những cá thể dài
đến 70cm. Theo kết quả điều tra của đề tài “Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá lăng nha”,
ĐH Nông Lâm TP.HCM (2002), trong lòng hồ Trị An (Đồng Nai) thỉnh thoảng ngư dân bắt được

những cá thể có trọng lượng đến 10kg. Vào cuối tháng 04/2005, một ngư dân đã bắt được một
cá cái nặng 18kg trong lòng hồ Trị An.

Theo ThS Ngọc, khi bán thịt cá lăng nghệ
sẽ có giá trị gấp 3 lần cá lăng nha đuôi đỏ
(Red tail catfish).

Cá lăng bố mẹ trong độ tuổi sinh sản,
nặng từ 1,5 - 4,5kg là tốt nhất.

5000 cá con lăng nghệ vàng đã nở sau hơn một ngày
được thụ tinh.

Khi cá lăng con được ba ngày tuổi đã bắt
đầu biết ăn thức ăn ngoài.


Cặp bố mẹ cá lăng hầm: bên trái là con
đực với đầu vòi màu trắng dài hơn.

Có thể cho cá ăn trùng chỉ. Mỗi ngày cho ăn
3 lần. Cữ tối chiếm 50-60% tổng lượng thức
ăn trong ngày.

Từ 8 tháng trở đi, cá lăng nha đuôi đỏ tăng trọng rất
nhanh. Khi thu hoạch, con thịt cho khoảng 90.000
đồng/kg.

Thụ tinh nhân tạo cá lăng nha đuôi đỏ. Cá lăng nha
cái có đặc tính hút nước từ môi trường ngoài vào

xoang bụng với nhiều mức độ khác nhau tùy theo
từng cá thể. Những cá cái có mức độ hút nước thấp
trong quá trình rụng trứng sẽ cho tỷ lệ thụ tinh rất cao
(87,8%) và ngược lại.


Trứng được ấp trong bình weis. Đường
kính trứng cá lăng nha lớn hơn đường
kính trứng cá lăng vàng rất nhiều (1,92,1mm so với 1-1,1mm).

Sát trùng cá bằng Broot TM 5X khoảng 3 5 giây trước khi thả cá vào ao, bè. Thời
gian thả tốt nhất buổi sáng (8-11h)



×