Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk) luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRƢƠNG CÔNG BÌNH



PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRƢƠNG CÔNG BÌNH



PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI



HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Trƣơng Công Bình
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 9
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức 9
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức 9
1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức 25
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm
tội có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam 31
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 31
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 33
1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nƣớc trên
thế giới 34
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 34
1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ 45
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức 45
2.1.1. Những quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự
hiện hành 45
2.1.2. Văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về phạm tội có tổ
chức trong Bộ luật hình sự hiện hành 53
2.2. Thực tiễn xét xử các trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 57
2.2.1. Tình hình công tác xét xử 57
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản 67
Chƣơng 3: NHỮNG CƠ SỞ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 76
3.1. Những cơ sở hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức
trong Bộ luật hình sự Việt Nam 76
3.1.1. Cơ sở pháp lý 76
3.1.2. Cơ sở thực tiễn 81
3.1.3. Cơ sở lý luận 87
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ
chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam 90
3.2.1. Kiến nghị tại phần chung của Bộ luật hình sự 91
3.2.2. Kiến nghị tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 96
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống phạm
tội có tổ chức 97
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105














DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Thống kê các mức độ phạm tội (nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng) trong các vụ án phạm tội có
tổ chức
58
Bảng 2.2:
Số lượng vụ án và bị cáo (từ năm 2009 đến 6/2014)
60
Bảng 2.3:
Số lượng vụ án có tình tiết “Phạm tội có tổ chức” từ năm
2009 đến 6/2014
60
Bảng 2.4:
Số lượng bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm tội có
tổ chức” giai đoạn từ năm 2009 đến 6/2014
61
Bảng 2.5:

Thống kê các nhóm tội phạm được thực hiện dưới hình
thức phạm tội có tổ chức (từ năm 2009 đến 6/2014)
62
Bảng 2.6:
Thống kê về giới tính của các bị cáo trong các vụ án có
tình tiết “Phạm tội có tổ chức” giai đoạn 2009 đến 6/2014
66
Bảng 2.7:
Độ tuổi của các bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm
tội có tổ chức” giai đoạn 2009 đến 6/2014
67
Sơ đồ 1.1:
Tội phạm có tổ chức
15
Sơ đồ 1.2:
Nhóm tội phạm
21




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phần lớn các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam sử dụng
luật hình sự như là công cụ hiệu quả để đấu tranh chống tội phạm được thực
hiện dưới hình thức “có tổ chức”, tuy rằng cách quy định về dấu hiệu này ở
các quốc gia lại có những khác biệt.
Với tính chất là một dạng đồng phạm đặc biệt, thể hiện sự nguy hiểm

cao bởi một nhóm người có sự câu kết chặt chẽ thông qua chính cơ cấu tổ
chức (băng, nhóm, tổ chức, liên minh …) và sự bàn bạc, tính toán, phân công,
lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức đã xuất hiện từ khá lâu trong lịch
sử lập pháp hình sự của Việt Nam, được đề cập lần đầu tiên trong Thông tư số
442/TTG ngày 19/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số
tội phạm. Cho đến nay, phạm tội có tổ chức được ghi nhận trong Bộ luật hình
sự năm 1999 với tính chất là “hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.
Về mặt lý luận luật hình sự, còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản
chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Còn nhiều luồng quan
điểm trái chiều liên quan đến cách hiểu về dạng đồng phạm đặc biệt này –
phạm tội có tổ chức.
Về mặt lập pháp hình sự, khó khăn gặp phải là hệ thống pháp luật hiện
nay chưa bảo đảm được công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có
tổ chức, thiếu đồng bộ và việc sửa đổi bổ sung còn chậm, chưa bắt kịp với xu
thế đang diễn ra. Chính vì thế, pháp luật hình sự nước ta chưa có một cơ chế
thực sự để điều chỉnh trường hợp này
Trên phương diện thực tiễn, việc áp dụng những quy định về phạm tội

2
có tổ chức đã gặp phải những vướng mắc như thế nào là sự câu kết chặt chẽ.
Đối với công tác điều tra, phần lớn các báo cáo của cơ quan công an các tỉnh
thành, trong đó có tỉnh Đắk Lắk, thể hiện các trường hợp phạm tội có tổ chức
bằng cách diễn đạt khác, đó là tổ chức tội phạm, băng, ổ, phạm tội theo kiểu
“xã hội đen”… gây mất thống nhất với các báo cáo của các cơ quan tiến hành
tố tụng khác như Viện kiểm sát hay Tòa án. Về công tác xét xử, do nhận thức
về bản chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức còn chưa thống nhất,
nên các Tòa án nói chung và các tòa tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng, đã phạm sai
lầm khi kết luận đồng phạm có thông mưu trước thông thường là phạm tội có

tổ chức hoặc ngược lại vụ án có tổ chức lại kết luận là đồng phạm thông
thường. Hoặc có những bản án tuy không có dấu hiệu sai phạm về mặt áp
dụng pháp luật, nhưng việc quy định chưa rõ nghĩa về phạm tội có tổ chức
trong Bộ luật hình sự đã cho thấy sự bất hợp lý giữa việc áp dụng pháp luật
hình sự vào thực tiễn là chưa phản ánh chính xác được “tính có tổ chức” của
vụ án, chưa rõ ràng của sự “câu kết chặt chẽ” theo tinh thần điều luật quy định
về phạm tội có tổ chức, cũng như trong nhiều trường hợp chưa phân định rõ
được vai trò trong các vụ án phạm tội có tổ chức cho nên việc quyết định hình
phạt đối với các bị cáo nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng hóa được hình
phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với từng bị cáo.
Trên phương diện thực hiện cam kết quốc tế, Việt Nam đã ký tham
gia Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
vào tháng 12 năm 2000, phê chuẩn công ước này vào ngày 29 tháng 12 năm
2011. Để bảo đảm cam kết của Việt Nam đối với Công ước, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước vào ngày 18 tháng 4
năm 2013. Những quốc gia tham gia Công ước, trong đó có Việt Nam, có
nghĩa vụ tội phạm hoá hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức. Tuy nhiên
trong Bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định về tổ chức tội phạm cũng như

3
chưa có quy định về hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức (tổ chức tội
phạm). Vì vậy, để có cơ sở pháp lý đấu tranh chống hình thức phạm tội nguy
hiểm này và thực hiện các nghĩa vụ với tư cách là thành viên của Công ước
thì việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Bộ luật hình sự, đặc biệt là các quy
định về tổ chức tội phạm và hành vi tham gia vào tổ chức này là rất cần thiết.
Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Phạm tội
có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)” là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện pháp luật hình
sự để đấu tranh chống và phòng ngừa loại tội phạm nguy hiểm này tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu

Đồng phạm cũng như phạm tội có tổ chức là những vấn đề có nội dung
phong phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm
chú ý và đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ
luật hình sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật.
Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng
phạm có tổ chức dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát
hóa đã được công bố trên các sách, tạp chí, luận văn, luận án. Nhưng tựu
chung lại thì các nghiên cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới
góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã
hội. Dưới góc độ khoa học luật hình sự đã có khá nhiều các công trình nghiên
cứu về phạm tội có tổ chức, có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu của
các tác giả như: GS.TSKH Lê Cảm với tập sách “Các nghiên cứu chuyên
khảo về phần chung Bộ luật hình sự” (NXB Công an nhân dân, 2000) đã đề
cập đến chế định đồng phạm trong đó có nói đến phạm tội có tổ chức, sách
“Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp (NXB
Tư Pháp, 2007) với nội dung trình bày về khái niệm đồng phạm, các loại
người đồng phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong

4
đồng phạm. Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường
hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như bài
“Phạm tội có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ
chức” của tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, hay đề tài luận văn cao học của
Nguyễn Minh Đức “Hình thức phạm tội có tổ chức trong chế định đồng phạm
theo pháp luật Hình sự Việt Nam”. Tiếp cận vấn đề ở góc độ tội phạm học là
một số bài viết của các tác giả nói đến vấn đề đồng phạm có tổ chức với tư
cách là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội ở những khía cạnh khác nhau.
Đó là các bài viết như: “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự
pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của GS.TS. Hồ Trọng
Ngũ đăng trên tạp chí Lập pháp số 6/2009, bài nghiên cứu “Đấu tranh phòng,

chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia trong hội nhập kinh tế
quốc tế” của PGS.TS Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí Cộng sản điện tử, hoặc
loạt bài viết của TS. Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh phòng chống tội phạm có
tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga” trong tạp chí Khoa học – Đại
học Quốc gia Hà Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ chức” (Kỷ yếu
hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã tạo ra những nhận
thức cơ bản trong việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ chức. Thêm vào đó, có
khá nhiều các nghiên cứu về đồng phạm có tổ chức với tư cách là vấn đề mới
của xã hội. Đầu tiên phải kể đến cuốn sách mang tên “Tội phạm có tổ chức –
lịch sử và vấn đề hôm nay” của GS.TS. Hồ Trọng Ngũ trả lời cho câu hỏi:
“tội phạm có tổ chức – nhận thức mới hay hiện tượng xã hội mới?”, bài viết
“Tội phạm có tổ chức và việc bổ sung chế định tổ chức tội phạm trong Bộ
luật hình sự Việt Nam” của TS. Lê Thị Sơn trong tạp chí Luật học số
12/2012, đề tài luận án của TS. Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức
trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống” đề cập chi tiết
đến trường hợp đồng phạm có tổ chức ở cả góc độ khoa học luật hình sự và

5
tội phạm học. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một
số góc độ về trường hợp phạm tội có tổ chức, nhưng việc giải thích chi tiết
trường hợp phạm tội có tổ chức về mặt cơ cấu và hoạt động của nó cũng như
một số hình thức thực hiện tội phạm mới liên quan đến đồng phạm có tổ chức
vẫn đang là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Vì thế, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
đất nước nói chung và tại Đắk Lắk nói riêng xung quanh phạm tội có tổ chức
vẫn đang là điều cần được nghiên cứu để sửa đổi và hoàn thiện.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống, đầy đủ
và chi tiết về mặt lý luận hiện tượng tội phạm có tổ chức mà hình thức thể
hiện của nó là phạm tội có tổ chức, phân tích một cách khoa học và có căn cứ
những vấn đề có liên quan đến phạm tội có tổ chức để qua đó có được cái

nhìn thống nhất, toàn diện, đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần
giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra trong trường hợp đồng phạm
đặc biệt này. Từ việc phân tích những vấn đề lý luận, kết hợp với nghiên cứu
kinh nghiệm quốc tế, thực trạng pháp luật Việt nam và thực tiễn xét xử trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện những quy
định của Bộ luật hình sự về phạm tội có tổ chức.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
a. Khái niệm, các đặc điểm và lịch sử hình thành và phát triển các quy
định về phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam
b. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự của một số quốc gia trong
đấu tranh chống phạm tội có tổ chức
c. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức
d. Thực tiễn và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác xét
xử các vụ án phạm tội có tổ chức trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

6
e. Những cơ sở pháp lý và thực tiễn trong nước và quốc tế để hoàn
thiện các quy định về phạm tội có tổ chức, cũng như nâng cao hiệu quả đấu
tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa
học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội
học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh
vực triết học, thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách
chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa
học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các
văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường
hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các
văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban

hành ở các mức độ khác nhau.
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra
trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy
vật biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó
xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và
bảo vệ các quyền con người.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra.
Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích –
chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê, Đặc
biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ
thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn,

7
phương pháp xã hội học, để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học
mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp
nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến trường
hợp phạm tội có tổ chức.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Kế thừa các nghiên cứu khoa học về phạm tội có tổ chức của các học
giả luật học, luật gia trong nước và quốc tế, luận văn có những đóng góp mới
trong việc nghiên cứu, cụ thể là:
a. Làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về
trường hợp đồng phạm có tổ chức, góp phần tiếp cận khái niệm, các đặc điểm
của trường hợp phạm tội có tổ chức;
b. Nghiên cứu so sánh, đặt pháp luật hình sự Việt Nam trong mối quan
hệ với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia và pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

và Liên Bang Nga để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện;
c. Làm rõ thực tiễn xét xử các vụ án về phạm tội có tổ chức trên địa bàn
thành tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009-2014;
d. Khảo sát thực tiễn các dạng phạm tội có tổ chức của một số quốc gia;
e. Đưa ra một số đề xuất hoàn thiện những quy định về phạm tội có tổ
chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành;
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm có phần mở đầu, các chương nội dung, phần kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể các chương nội dung bao gồm:
Chƣơng 1: Các vấn đề chung về phạm tội có tổ chức
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm tội có tổ
chức trong luật hình sự Việt Nam
1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới

8
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có
tổ chức và thực tiễn xét xử
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức
2.2. Thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Chƣơng 3: Những cơ sở và một số kiến nghị hoàn thiện các quy
định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam
3.1. Những cơ sở hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong
Bộ luật hình sự Việt Nam
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức
trong Bộ luật hình sự Việt Nam
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống phạm tội
có tổ chức.



9
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC

1.1 . Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức
Về mặt lý luận luật hình sự, còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất
pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Do luật hình sự của các nước trên
thế giới quan niệm về vấn đề này khác về chất so với luật hình sự của nước ta
ngay ở tên gọi của khái niệm như Bộ luật Hình sự Cộng hòa Pháp gọi là băng
có tổ chức, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga gọi là nhóm có tổ chức mà băng,
nhóm là chủ ngữ khác hẳn với phạm tội chỉ đóng vai trò là vị ngữ. Vì vậy, ở
đây chúng tôi chỉ nêu ra một số quan điểm còn khác nhau xung quanh khái
niệm phạm tội có tổ chức ở nước ta [1, tr.168-172].
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, phạm tội có tổ chức dứt khoát phải
là hình thức đồng phạm phức tạp, tức là phải có sự phân công vai trò giữa
những người cùng thực hiện tội phạm. Nếu giữa những kẻ phạm tội đều có
vai trò thực hiện tội phạm như nhau thì đó là đồng phạm giản đơn chứ không
phải phạm tội có tổ chức.
Quan điểm này sai lầm ở chỗ, đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề
được nghiên cứu, đó là vai trò của những người đồng phạm. Thực tiễn cũng
đã chỉ ra rằng, sự phân công vai trò khác nhau giữa những người đồng phạm
tuy là dấu hiệu phổ biến của hình thức phạm tội có tổ chức nhưng không phải
là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Vì vậy, vẫn có những trường hợp
phạm tội có tổ chức, mà trong đó những người đồng phạm không những câu
kết chặt chẽ về ý thức phạm tội, mà còn có sự phối kết hợp chặt chẽ với nhau
khi thực hiện tội phạm nhưng khi thực hiện tội phạm thì mỗi người đều là
người thực hành mà không có người tổ chức, người xúi giục hoặc là người
giúp sức với vai trò rõ ràng, cụ thể.


10
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, ở hình thức phạm tội có tổ chức,
những người đồng phạm phải phạm nhiều tội hoặc phạm một tội, nhưng nhiều
lần và có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong một thời gian dài. Theo quan
điểm này, phạm vi những vụ đồng phạm có được xác định là phạm tội có tổ
chức sẽ quá thu hẹp vì chỉ có một số ít các tổ chức chống chính quyền nhân
dân, tổ chức phạm tội khác mới thỏa mãn được điều kiện này. Nếu thực hiện
theo quan điểm này, công tác điều tra, truy tố, xét xử sẽ nương nhẹ nhiều
trường hợp phạm tội có đầy đủ căn cứ để xác định là hình thức đồng phạm
đặc biệt, có tính chất, mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, vì vậy sẽ giảm hiệu
quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm
được thực hiện bằng đồng phạm nói riêng.
Loại quan điểm thứ ba đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với
đồng phạm có thông mưu trước. Loại quan điểm này sai lầm ở chỗ đã đồng
nhất giữa cái chung là đồng phạm có thông mưu trước với cái riêng là hình
thức phạm tội có tổ chức. Thực ra, đồng phạm có thông mưu trước và hình
thức phạm tội có tổ chức là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng nhất:
phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng kèm
theo nó là những dấu hiệu đặc trưng khác. Theo logic hình thức thì ngoại diên
của khái niệm phạm tội có tổ chức nằm trong ngoại diên của khái niệm đồng
phạm có thông mưu trước. Xét về mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, thì
phạm tội có tổ chức có mức độ tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm
có thông mưu trước. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga cũng đã thể hiện quan
điểm này khi xác định đồng phạm có thông mưu trước và nhóm có tổ chức
đều là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều điều luật, nhưng
nhóm có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cao hơn.
Ví dụ: Điều 203 - Tội bắt cóc con tin, quy định đồng phạm có thông
mưu trước là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của khoản 2 với mức

11

hình phạt từ 5 năm đến 15 năm tù thì nhóm có tổ chức được quy định là tình
tiết tăng nặng định khung hình phạt của khoản 3 Điều này với mức hình phạt
từ 8 năm đến 20 năm tù.
Từ đó cho thấy, nếu thực hiện như quan điểm này, sẽ dẫn tới xét xử,
trừng trị người phạm tội thiếu chính xác, khách quan.
Phạm tội có tổ chức với tính chất là đồng phạm đặc biệt mà định
nghĩa pháp lý của nó được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận trong pháp
luật hình sự hiện hành. Tuy nhiên phạm tội có tổ chức vẫn còn nhiều cách
hiểu khác nhau do sự ghi nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự
“câu kết chặt chẽ”. Có quan điểm cho rằng phạm tội có tổ chức là hình
thức phạm tội đặc biệt có sự câu kết chặt chẽ của những người cùng tham
gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc của các thành viên cùng một tổ chức
tội phạm [2, tr.460-461]. Sự câu kết chặt chẽ của những người đồng phạm
chính là đặc điểm chủ yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội cao hơn cả của hình thức đồng phạm này và nó thường có các dấu
hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan.
Cũng có quan điểm nhận diện phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng
phạm đặc biệt – đó chính là đồng phạm có tổ chức. Tính “có tổ chức” được thể
hiện có sự bàn bạc, phân công vai trò người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc
thực hiện hành vi phạm tội, có kỷ luật, có quy ước hoạt động trước khi thực
hiện tội phạm có vạch kế hoạch, có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng, có đề ra các
tình huống xấu khi xảy ra … để cùng thống nhất hành động [3, tr. 61].
Theo tính chất tồn tại, phạm tội có tổ chức gồm: phạm tội có tổ chức
một lần và phạm tội có tổ chức kéo dài. “Phạm tội có tổ chức một lần (hoặc
một số lần) là hình thức phạm tội có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người phạm tội trong thời gian tương đối ngắn để cùng nhau thực hiện
một tội phạm hoặc một số tội phạm” [4, tr.12]. Ở trường hợp này, những

12
người đồng phạm mới chỉ thực hiện tội phạm được một lần hoặc một số lần

thì bị phát hiện, bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng có thể thời
gian câu kết để chuẩn bị phạm tội đã diễn ra trong thời gian tương đối dài.
Phạm tội có tổ chức dạng này thông thường xuất hiện ở các tội xâm phạm an
ninh quốc gia, khủng bố, bạo loạn, phá hoại cơ sở vật chất kĩ thuật, trốn khỏi
trại giam, thậm chí xâm hại đến đối tượng được bảo vệ nghiêm ngặt hoặc
đặc biệt nghiêm ngặt chẳng hạn như tài sản có giá trị lớn, rất lớn hay những
nhân vật giữ vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
Để tiếp cận khái niệm phạm tội có tổ chức với tính chất là một hình
thức phạm tội có tính nguy hiểm cao, trước hết cần làm rõ đến khái niệm tội
phạm có tổ chức bởi tội phạm có tổ chức chính là hiện tượng tiêu cực mà
trong đó những hoạt động phạm tội có tổ chức (hay còn gọi là đồng phạm có
tổ chức) được thực hiện bởi một nhóm người có cơ cấu nhất định (câu kết với
nhau) nhằm mục đích lợi nhuận hay các mục đích khác.
Không giống như những người phạm tội ở đường phố hay thậm chí
người phạm tội chuyên nghiệp, những người phạm tội có tổ chức làm việc với
nhau trên cơ sở có tính liên tục trong các lớp vỏ bọc khá đa dạng với những
hoạt động bất hợp pháp. Có một nhóm tội phạm nòng cốt và một nhóm lớn hơn
nhiều là các cá nhân vệ tinh làm việc với họ, thực hiện nhiệm vụ cụ thể và cung
cấp dịch vụ cụ thể, nhưng những cá nhân này chủ yếu là những tác nhân kinh tế
và chính trị hợp pháp. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các chuyên gia máy tính
và tư vấn tài chính là những nhân tố quan trọng đối các nhóm tội phạm có tổ
chức không kém những người bán ma túy, môi giới cá cược hay chăn dắt gái
mại dâm. Những cá nhân này được đưa vào một mạng lưới tội phạm bởi những
dịch vụ của họ là cần thiết. Sự kết hợp này rất tiện dụng. Nó làm cho việc thực
thi pháp luật trở nên hết sức khó khăn để theo dõi và truy ngược lại các hoạt
động cụ thể của những người nòng cốt của nhóm tội phạm.

13
Một vấn đề dai dẳng và kéo dài liên quan đến cấu trúc của nhóm tội
phạm là việc sử dụng cấu trúc tương tự như của công ty để mô tả cấu trúc ra

quyết định tổ chức tội phạm. Ấn tượng còn lại tương tự như của công ty là tổ
chức tội phạm có nhóm điều hành và cấu trúc phân cấp thứ bậc kiểm soát hoạt
động và truyền lệnh cho nhân viên cấp dưới. Định nghĩa truyền thống này nhấn
mạnh vai trò của ông chủ, tương tự như giám đốc điều hành của công ty, một
ủy ban, tương đương với ban giám đốc; các trưởng ban (đội trưởng) là những
người quản lý trung gian của bộ máy và những người lính là những công nhân
thực sự thực hiện các hoạt động bất hợp pháp. Như chúng ta đã thấy, một cái
nhìn truyền thống về tổ chức tội phạm như vậy là sai lầm cơ bản.
Quan điểm mới về tội phạm có tổ chức đưa ra bởi cơ quan thực thi
pháp luật châu Âu bác bỏ hoàn toàn cách nhìn nhận này về tội phạm có tổ
chức. Cách nhìn mới này giúp chúng ta nhận ra một thực tế là hình thức
truyền thống cũ của tội phạm có tổ chức, chẳng hạn như những loại tổ chức
Mafia truyền thống trước đây đã từng tồn tại, thì bây giờ không còn lợi hại
trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa. Cũng giống như các công ty hợp
pháp, các nhóm tội phạm có tổ chức ngày nay đã mở rộng mạng lưới theo một
cách thức linh hoạt và hiệu quả hơn. Thời đại của thông tin liên lạc nhanh
chóng tiện lợi, các hình thức rườm rà của một tổ chức theo thứ bậc không
những không còn cần thiết mà còn cản trở kinh doanh bất hợp pháp. Điều này
đồng nghĩa với việc là họ dễ bị cảnh sát thâm nhập hơn là là mạng lưới mở
rộng với tính năng linh hoạt và năng động. Với dịch vụ chuyển tiền nhanh, sự
hỗ trợ của công nghệ như điện thoại di động và mạng internet, bất cứ nhóm
nhỏ nào cũng có thể mua và phân phối ma túy bất hợp pháp rất nhanh chóng
và tiện lợi. Sự cần thiết của một ông chủ đã qua rồi [12, p.7-8].
Tổ chức vì lợi nhuận. Giống như các doanh nghiệp hợp pháp, tội phạm
có tổ chức tồn tại là vì mục đích chính: để tạo ra lợi nhuận. Tội phạm có tổ chức

14
cần và sử dụng sức mạnh kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu này. Sự phân
biệt truyền thống từ trước tới này của tội phạm có tổ chức và các doanh nghiệp
hợp pháp chính ở chỗ tội phạm có tổ chức sử dụng các phương tiện và cách thức

bất hợp pháp để nâng cao quyền lực và lợi nhuận. Trong khi nhiều học giả cho
rằng sự khác biệt này ngày nay ít quan trọng hơn so với trong quá khứ, thì việc
sử dụng các phương thức phạm tội để đạt được mục tiêu lợi nhuận vẫn là một
thuộc tính quan trọng của định nghĩa tội phạm có tổ chức. Các phương thức
phạm tội có thể từ tống tiền và tham nhũng tới các hành vi bạo lực.
Doanh nghiệp vì lợi nhuận của tội phạm có tổ chức. Kinh tế toàn cầu
đã thay đổi tội phạm có tổ chức sâu sắc nhất ở chỗ nó đã làm tăng rất mạnh số
lượng và loại hình doanh nghiệp mà tổ chức tội phạm có thể khai thác lợi nhuận.
Theo truyền thống, khi nghĩ đến các nhóm tội phạm có tổ chức là hình dung đến
việc cung cấp những dịch vụ bất hợp pháp liên quan đến tệ nạn xã hội hay bảo
kê cho nó ở vùng đó. Sản xuất và phân phối các ấn phẩm khiêu dâm và ma túy,
các cung cấp các dịch vụ mại dâm, cờ bạc, cho vay nặng lãi, và các dịch vụ bảo
vệ truyền thống được xem là cốt lõi của hoạt động phạm tội có tổ chức.
Toàn cầu hóa đã thay đổi tất cả. Trong một thị trường quốc tế rộng lớn,
tội phạm có tổ chức có thể thẩm thấu vào bất kỳ doanh nghiệp nào. Tất nhiên,
các tổ chức tội phạm vẫn thống trị ngành công nghiệp tình dục và buôn bán ma
túy. Dân nhập cư được đưa trái phép qua biên giới để làm việc trong các nhà
thổ, câu lạc bộ thoát y và quán massage thuộc sở hữu của đám ma cô, nhưng họ
cũng bị buôn bán để làm việc trong các ngành sản xuất, nông nghiệp và công
nghiệp. Sự đa dạng trong việc buôn bán ma túy đã trở nên dễ dàng hơn với sự
hỗ trợ hiệu quả của giao thông và tài chính. Buôn bán vũ khí bất hợp pháp cùng
với buôn bán ma túy là nguồn cung tài chính trên diện toàn cầu cho tội phạm có
tổ chức. Xe ô tô sang trọng đang bị đánh cắp và vận chuyển trên toàn thế giới
để bán lại. Ngà voi, đá quý, thực vật quý hiếm, động vật hoang dã được bán
trên thị trường toàn cầu. Thậm chí những hình thức doanh nghiệp đơn giản của

15
tội phạm có tổ chức, chẳng hạn như tống tiền và bảo kê, chiếm một tầm quan
trọng mới trong nền kinh tế toàn cầu. Thay vì tống tiền các quán bar và nhà
hàng của khu phố, tổ chức tội phạm thời nay được thuê bởi các doanh nghiệp

hợp pháp để quấy rối đối thủ cạnh tranh, tiến hành các hoạt động gián điệp
công nghiệp, đe dọa trả lương thấp những người lao động bất hợp pháp.
Tội phạm có tổ chức là một hiện tượng xã hội tiêu cực phản ánh việc
các cá nhân liên kết với nhau trong một cơ cấu bền vững hoặc linh hoạt để
thực hiện hoạt động phạm tội nhằm đạt được mục đích kinh tế, chính trị,
tôn giáo hoặc mục đích khác.
Sơ đồ 1.1: Tội phạm có tổ chức





















(Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội).

TỘI PHẠM CÓ TỔ CHỨC
CƠ CẤU
HOẠT ĐỘNG
PHẠM TỘI
MỤC ĐÍCH
SỰ LIÊN KẾT
CỦA CÁC CÁ NHÂN
(TÍNH CÓ TỔ CHỨC)

- Kinh tế
- Chính trị
- Tôn giáo
- Mục đích khác
- Buôn bán ma túy
- Buôn bán vũ khí
- Buôn bán người
- Khủng bố
- Rửa tiền
- Trốn thuế
- Chiếm đoạt tài sản
- Cá độ
- Hối lộ
- Các hoạt động khác

1. Nhóm hệ thống phân
cấp tiêu chuẩn
2. Nhóm hệ thống phân
cấp khu vực
3. Nhóm hệ thống phân
cấp liên minh

4. Nhóm nòng cốt
5. Mạng lưới tội phạm

16
Tội phạm có tổ chức là một hình thức thực hiện các hoạt động phạm tội
có hiệu quả cao với sự tham gia của nhiều cá nhân cho nên khi tội phạm được
thực hiện bằng hình thức này thì tính chất nguy hiểm của các tội phạm sẽ tăng
lên đáng kể. Sự liên kết - tính có tổ chức - của các cá nhân thể hiện trong một
cơ cấu bền vững hoặc linh hoạt nhằm tiến hành những hoạt động phạm tội để
đạt được mục đích của nhóm người đó. Như vậy tính có tổ chức liên quan đến
không chỉ việc thực hiện những hành vi cụ thể, mà còn ở chính cơ cấu tội
phạm, sự tồn tại và những hoạt động phạm tội của nó.
Cơ sở xã hội của tội phạm có tổ chức và phạm vi năng lực của nó trong
mỗi giai đoạn có sự khác nhau cơ bản. Trong nền kinh tế mệnh lệnh hành
chính, tội phạm có tổ chức ký sinh vào nền kinh tế kế hoạch hóa, được đơn
giản hóa và phụ thuộc bộ máy hành chính. Trong giai đoạn đổi mới, chuyển
đổi nền kinh tế, tội phạm có tổ chức trở nên phức tạp và đa dạng hơn, tự chủ
hơn. Đến giai đoạn hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, với tác động của
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như của khoa học và công
nghệ, tội phạm có tổ chức đã hình thành những hệ thống phức tạp, tinh vi,
linh hoạt và sử dụng thành thạo những thành tựu của khoa học công nghệ. Về
cấu trúc, tội phạm có tổ chức thậm chí còn phản ánh phạm vi của hoạt động
phạm tội, đặc điểm về dân tộc, tôn giáo và truyền thống của nơi sinh sống.
Có quan điểm cho rằng cần phải liệt kê các điều luật, có đặc trưng gần
nhất với tội phạm có tổ chức như trộm cắp, buôn lậu ma túy, buôn lậu, tống
tiền v.v. và chính như vậy sẽ loại bỏ việc mở rộng việc giải thích khái niệm
“hoạt động có tổ chức” [7, c.267]. Phương pháp tiếp cận này có thể hợp lý khi
sử dụng trong luật hình sự để xác định tội phạm nghiêm trọng, tái phạm đặc
biệt nguy hiểm, nhưng lại không thành công khi áp dụng với tội phạm có tổ
chức, bởi lẽ nếu vậy thì sẽ liên tục phải bổ sung những tội phạm mới vào danh

sách. Tội phạm có tổ chức luôn hướng tới những hành vi phạm tội mang lại

17
lợi nhuận cao với ít rủi ro. Do vậy có thể liệt kê hầu hết các hành vi phạm tội,
được quy định trong Bộ luật hình sự của các quốc gia khác nhau, thực hiện
“công việc” của những tên tội phạm có tổ chức: một mặt (buôn bán ma túy,
vũ khí…) được coi là những hoạt động chính, mặt khác (giết người, khủng
bố…) được coi là cách thức để loại bỏ đối thủ, tiếp đến (đút lót, hối lộ…) là
xây dựng hệ thống phòng thủ và bảo vệ, rồi đến (trốn thuế, rửa tiền…) cách
thức tích lũy quỹ tội phạm, và rồi (thành lập các doanh nghiệp giả…) hợp
pháp hóa những hoạt động của mình.
Tất cả những hoạt động phạm tội có tổ chức đều có tính chất và mức độ
nguy hiểm cao cho xã hội. Những tội phạm được thực hiện dưới cách thức có
tổ chức – phạm tội có tổ chức – đều được coi là những tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng tùy theo quy định trong
pháp luật của từng quốc gia. Trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, những tội phạm được thực hiện bởi nhóm
tội phạm có tổ chức đều được coi là tội phạm nghiêm trọng. Khoản a Điều 2
của Công ước quy định:
Nhóm tội phạm có tổ chức là một nhóm có cơ cấu gồm từ ba
người trở nên, tồn tại trong một thời gian và hoạt động có phối hợp
nhằm mục đích thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hoặc
các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước này, nhằm đạt
được, trực tiếp hoặc gián tiếp, lợi ích về tài chính hay vật chất khác.
Nhóm cơ cấu nghĩa là một nhóm không phải được hình thành một
cách ngẫu nhiên để thực hiện một hành vi phạm tội tức thời và không
nhất thiết vai trò của các thành viên trong nhóm phải được xác định
một cách rõ ràng, quan hệ giữa các thành viên phải được duy trì hoặc
cơ cấu của nhóm phải được phát triển (khoản c, Điều 2).
Tội phạm nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 2 của Công ước quy định:


18
“Là một hành vi vi phạm có thể bị trừng phạt theo khung hình phạt tù ít nhất
là 4 năm hoặc theo một hình phạt nặng hơn. Bản hành động chung của Hội
đồng châu Âu cũng đưa ra một hình phạt tương tự như vậy, tại Điều 1 của
Bản hành động chung này, một hành động phạm tội “có thể bị phạt tù giam
hoặc tước quyền tự do từ ít nhất 4 năm trở lên”.
Những quy định của Công ước về tội phạm có tổ chức là rất cụ thể và
chỉ rõ được các đặc điểm tội phạm học của loại tội phạm này. Về chủ thể,
khoản a Điều 2 đã đưa ra một quan niệm mới về tội phạm có tổ chức, khắc
phục sự thiếu thống nhất trong các quy định hiện hành, lượng hoá số lượng
thành viên của một nhóm tội phạm có tổ chức là ba người. Điều này giúp cho
chúng ta có một cách hiểu thống nhất về tội phạm có tổ chức, tạo thuận lợi
cho công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp tại các quốc gia thành viên [7].
Về mục đích, các liên kết tội phạm có tổ chức có những hoạt động
phạm tội rất đa dạng, phong phú và là cách thức để đạt được mục tiêu đã đề
ra. Một trong những mục đích nổi bật của rất nhiều liên kết tội phạm có tổ
chức là lợi nhuận (kinh tế). Hiện nay có nhiều liên kết tội phạm có tổ chức đã
có không chỉ một mục đích do yêu cầu khách quan, mà thông thường là mục
đích chính trị, tôn giáo xen lẫn với mục đích kinh tế. Trước đây các tổ chức
khủng bố được tài trợ để hoạt động, tuy nhiên đứng trước rào cản của cộng
đồng quốc tế và nhiều quốc gia trong phòng, chống khủng bố và tài trợ khủng
bố bằng các biện pháp khác nhau, trong đó có cả biện pháp pháp lý, các tổ
chức khủng bố đã phải tự mình tiến hành các hoạt động phạm tội khác như
buôn bán người, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy… để có quỹ xây dựng và
duy trì hoạt động của tổ chức. Dần dần những hoạt động này đã trở thành một
trong những mục đích của những tổ chức này với phương châm đặt vấn đề lợi
nhuận lên hàng đầu.
Tội phạm có tổ chức là một hiện tượng độc đáo và năng động lan tỏa


19
hầu như tất cả các tầng lớp xã hội. Nó khác với các loại hoạt động tội phạm
khác. Các loại hành vi phổ biến nhất liên quan đến hoạt động phạm tội có
tổ chức bao gồm việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp và hàng hóa bất
hợp pháp, âm mưu phạm tội, sự xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp, tống
tiền và tham nhũng.
Cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp
Việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp là một trong những công việc
kinh doanh chính của các tổ chức tội phạm. Dịch vụ bất hợp pháp là những
dịch vụ mà kinh doanh hợp pháp không cung cấp và bị pháp luật cấm. Những
dịch vụ bất hợp pháp bao gồm: (1) hoạt động cờ bạc được tiến hành ngoài
vòng pháp luật, (2) bảo kê - một hình thức tống tiền mà theo đó các thành
viên tổ chức tội phạm tiếp cận chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhỏ và đề
nghị cung cấp cho họ sự bảo vệ cho các doanh nghiệp trong trường hợp không
may mắn “bất ngờ” xảy ra, chẳng hạn như cháy hoặc bị phá hoại, (3) cho vay
nặng lãi, cho vay tiền bất hợp pháp ở mức giá lấy lãi cắt cổ, mà việc trả nợ bị
ép thông qua bạo lực và đe dọa, và (4) kinh doanh mại dâm là một trong
những dịch vụ mang lại lợi nhuận lớn cho các tổ chức tội phạm.
Việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp là một dạng hoạt động phạm
tội tạo ra tiền để giúp cho tổ chức đạt được mục đích. Ngoài ra, trong nhiều
trường hợp các dịch vụ bất hợp pháp được cung cấp cùng với hàng hóa bất
hợp pháp.
Cung cấp hàng hoá bất hợp pháp
Giống như dịch vụ bất hợp pháp, một dấu hiệu thứ hai của tổ chức tội
phạm là việc cung cấp các hàng hóa bất hợp pháp, thứ không có từ các doanh
nghiệp hợp pháp. Đặc biệt là các loại ma túy bất hợp pháp chính là cho một
sản phẩm chính trong nhu cầu đáng kể trên thị trường chợ đen. Các loại ma
túy bất hợp pháp bao gồm cần sa, cocaine và heroin, các loại ma túy tổng hợp

×