Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

từ xưng hô trong một số tác phẩm của anh đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.48 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

VÕ THỊ NGỌC SUYÊN
MSSV: 6076549

TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA
ANH ĐỨC
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: Ths. BÙI THỊ TÂM

Cần Thơ, tháng 5 năm 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ VÀ TỪ XƯNG
HÔ TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. Khái niệm về từ tiếng Việt
1.1.1. Các quan niệm khác nhau về từ tiếng việt


1.1.2. Đặc điểm của từ tiếng việt
1.1.3. Các loại từ tiếng việt
1.1.3.1. Theo Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt- tập một”
1.1.3.2. Theo Đinh Văn Đức trong “Ngữ pháp tiếng Việt từ loại”
1.2. Từ xưng hô
1.2.1. khái niệm về từ xưng hô
1.2.2. Các loại từ xưng hô trong tiếng việt
1.2.2.1. Các đại từ nhân xưng
1.2.2.2. Từ xưng hô dùng trong quan hệ gia đình
1.2.2.3. Từ xưng hô dùng trong quan hệ xã hội
1.2.2.4. Từ xưng hô dùng trong tình yêu
1.2.3.Một số đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt

Chương 2. KHẢO SÁT TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC
PHẨM CỦA ANH ĐỨC
2.1. Vài nét về tác giả và sự nghiệp sáng tác
2.1.1. Tác giả
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác
2.2. Từ xưng hô được sử dụng trong một số tác phẩm của Anh Đức
2.2.1. Từ xưng hô trong mối quan hệ gia đình


2.2.1.1. Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ cha mẹ - con cái
2.2.1.2. Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ vợ - chồng
2.2.1.3. Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ anh, chị - em
2.2.1.4. Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ ông bà – con cháu
2.2.2. Từ xưng hô trong mối quan hệ xã hội
2.2.3. Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ tình yêu

Chương 3. GIÁ TRỊ SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT

SỐ TÁC PHẨM CỦA ANH ĐỨC
3.1. Sử dụng từ xưng hô bộc lộ tình cảm của nhân vật trong tác phẩm
3.2. Sử dụng từ xưng hô bộc lộ tính cách của nhân vật trong tác phẩm
3.3. Sử dụng từ xưng hô bộc lộ khí phách của nhân vật trong tác phẩm
3.4. Sử dụng từ xưng hô thể hiện văn hóa của người dân Nam Bộ

PHẦN KẾT LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Anh Đức là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Cách mạng thời kì
chiến tranh vệ quốc đương đại. Trong gần nửa thế kỉ cầm súng và cầm bút, Anh Đức
đã đóng góp vào văn học nước nhà những tác phẩm có giá trị, ông có một vị trí chắc
chắn và xứng đáng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Anh Đức lớn lên trên mãnh
đất màu mỡ của miền tận cùng Tổ quốc, chứng kiến những bước đi đẫm máu nhưng
rất anh hùng của con người Nam Bộ. Chính vì thế, các tác phẩm của ông mang một
giọng điệu đằm thắm, nồng nàn tình nghĩa thủy chung, nhân hậu của con người Nam
Bộ.
Tác phẩm của Anh Đức là một trong những cuốn sử biên sinh động về giai đoạn
lịch sử ác liệt nhất, hào hùng nhất của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc; về con
người Nam Bộ đặc biệt nhân hậu, tình nghĩa thủy chung, bất khuất, kiên cường. Các
nhân vật trong tác phẩm của Anh Đức là những người dân bình thường, mỗi người có
một hoàn cảnh sống và địa vị khác nhau nhưng ở họ có một điểm chung là căm thù
giặc sâu sắc. Vì sự yên bình của quê hương, đất nước mà họ có thể hy sinh tất cả, kể cả
mạng sống của mình chứ không chịu khuất phục trước kẻ thù. Các nhân vật như chị Tư
Hậu, chị Sứ, chị Lộc, ông Tám Xẻo Đước, ông lão vườn chim,… đã trở thành những
hình tượng gây xúc động sâu sắc trong tâm trí người đọc. Chính vì viết về những
người nông dân như thế nên ngôn ngữ được Anh Đức sử dụng rất mộc mạc - giản dị,
gần gũi với lời ăn, tiếng nói hằng ngày của nhân dân miền Nam. Mỗi nhân vật trong

tác phẩm của Anh Đức đều có cách xưng hô khác nhau. Tùy theo từng hoàn cảnh giao
tiếp mà cách xưng hô có thể làm nổi bật lên những cung bậc tình cảm, khí tiết của
người dân Nam Bộ.
Từ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú và đa dạng, cả về số lượng lẫn chất
lượng. Từ xưng hô không chỉ dùng để “xưng” và “hô” nhằm thể hiện mối quan hệ giữa
các đối tượng trong giao tiếp mà còn là phương tiện để biểu đạt tình cảm. Chính vì sự
phong phú và đa dạng đó mà từ xưng hô đã cuốn hút người viết ngay từ những lần tiếp
xúc với nó trong quá trình học tập. Là một sinh viên ngành Ngữ Văn, người viết có
điều kiện tiếp xúc nhiều hơn và hiểu được tầm quan trọng của từ xưng hô trong tiếng


Việt cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, người viết chọn đề tài “Từ xưng hô
trong một số tác phẩm của Anh Đức” để làm luận văn tốt nghiệp.
Qua việc tác giả thể hiện các lớp từ xưng hô vào tác phẩm văn chương, phần nào
đã khẳng định được vị trí của Anh Đức trong việc làm phong phú thêm cho lớp từ
xưng hô của tiếng Việt nói chung và ngôn ngữ Nam Bộ nói riêng.
Người viết chọn tác phẩm của Anh Đức để nghiên cứu. Bởi vì Anh Đức là nhà
văn Nam Bộ, sử dụng từ ngữ mang đậm chất Nam Bộ làm cho người đọc dễ hiểu, dễ
tiếp nhận. Ngoài việc yêu mến và muốn hiểu rộng hơn về việc sử dụng từ xưng hô
trong tác phẩm Anh Đức, người viết cũng muốn khẳng định tầm quan trọng của từ
xưng hô trong cuộc sống thông qua việc nghiên cứu đề tài này.

2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu đề tài ‘‘Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Anh Đức” là một công
việc còn khá mới mẻ, hầu như chưa có ai thực hiện một cách toàn diện. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu về từ xưng hô trong tiếng Việt và nghiên cứu về tác phẩm của Anh
Đức thì đã có rất nhiều tác giả nói đến. Họ nghiên cứu ở nhiều góc độ và khía cạnh
khác nhau. Sau đây là một số công trình nghiên cứu về từ xưng hô trong tiếng Việt và
về tác gia - tác phẩm Anh Đức:
Trong hệ thống ngôn ngữ, từ xưng hô được xem là một bộ phận khá phong phú

và phức tạp. Ngoài việc là đối tượng chính của Ngữ pháp tiếng Việt, từ xưng hô còn
được nghiên cứu từ góc độ của hai phân môn: Ngữ dụng học và Phong cách học tiếng
Việt.
Từ góc độ Ngữ pháp tiếng Việt: hầu như không có một công trình nào nghiên
cứu riêng về từ xưng hô. Các nhà ngữ pháp học chỉ nhìn nhận và xem xét từ xưng hô
về mặt từ loại, chủ yếu là từ loại đại từ.
Trong Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban đã nhận xét: “Đại từ xưng hô dùng
thay thế và biểu thị các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp”[1;tr.111]. Ông đã chia
đại từ xưng hô ra thành đại từ xưng hô dùng ở ngôi xác định và đại từ xưng hô dùng ở
nhiều ngôi linh hoạt.
Đỗ Thị Thúy Liên trong Ngữ pháp tiếng Việt, cũng đã nhận định đại từ xưng hô
dùng để thay thế và “chỉ trỏ người khi giao tiếp.”[11;tr.58]. Tác giả có điểm khác biệt
với Diệp Quang Ban là đã chỉ ra bên cạnh đại từ xưng hô thì các danh từ thân tộc như:
ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, cô, bác cũng còn được dùng để xưng hô điển hình là


những

cặp

từ:

“anh/em,

cha/mẹ,

ông/bà,

cô/bác,


chú/thím,

ông/cháu,

bà/cháu…”[11;tr.58]. Ngoài việc sử dụng từ xưng hô trong phạm vi thân tộc thì từ
xưng hô còn được sử dụng ngoài xã hội.
Cùng chung quan điểm với hai tác giả trên là Nguyễn Hữu Quỳnh trong Ngữ
pháp tiếng Việt. Nhưng tác giả lại đặt các danh từ thân tộc vào nhóm các đại từ xưng
hô lâm thời, và theo ông thì: “Đại từ xưng hô trong tiếng Việt gồm các đại từ chuyên
dùng để xưng hô và các đại từ xưng hô lâm thời”[16;tr.151]. Theo cách nói trên thì
chúng ta có thể hiểu các đại từ xưng hô lâm thời ở đây là các danh từ thân tộc.
“Xưng hô trong giao tiếp là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều nhân
tố”[2;tr.123] là những nhận định của tác giả Lê Biên trong quyển Từ loại tiếng Việt
hiện đại. Trong quyển này, tác giả đã có những nghiên cứu khá sâu về đại từ xưng hô.
Theo tác giả thì đại từ xưng hô có thể chia thành hai lớp: đại từ xưng hô gốc đích thực
và các yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô như: những danh từ lâm thời đảm nhận
chức năng đại từ, các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp, các tên riêng của người… Ngoài
ra, ông còn chia từ xưng hô trong tiếng Việt thành hai lớp có phạm vi sử dụng khác
nhau, gồm: những từ xưng hô dùng trong gia tộc và những từ xưng hô dùng ngoài xã
hội.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt đều xem xét từ xưng hô
dưới góc độ là đại từ xưng hô, với chức năng là thể hiện vai giao tiếp.
Từ góc độ Ngữ dụng học: nổi bật là các tài liệu nghiên cứu của tác giả Đỗ Hữu
Châu.
Trong quyển Đại cương ngôn ngữ học, Đỗ Hữu Châu đã có những nghiên cứu
khá sâu sắc về từ xưng hô. “Bằng cách lựa chọn từ để tự xưng và để “hô” người giao
tiếp, người nói định một khung quan hệ liên cá nhân cho mình và cho người đối thoại
với mình”[4;tr.75]. Tác giả đã đề cặp đến vấn đề chiếu vật và chỉ xuất. Ông đã nghiên
cứu từ xưng hô trên hai bình diện: hệ thống các từ xưng hô, những nhân tố chi phối
việc dùng các từ xưng hô trong giao tiếp.

Bằng một lời đánh giá trong Cơ sở ngữ dụng học: “Xưng hô là hành vi chiếu vật,
ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn với người nói,
người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp”[3;tr.268]. Đỗ Hữu Châu đã đi vào
phân tích khá tỉ mỉ và sâu sắc hệ thống từ xưng hô, nêu lên được những đặc điểm cũng
như phạm vi, cách thức sử dụng của các từ xưng hô trong tiếng Việt.


Từ góc độ Phong cách học: các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận xét riêng
của mình trong việc nghiên cứu từ xưng hô.
Đinh Trọng Lạc trong Phong cách học tiếng Việt đã nhận xét: “Phong cách học
quan tâm chủ yếu đến cái giá trị biểu đạt, biểu cảm - cảm xúc, các giá trị phong cách
của các phương tiện ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp tiêu biểu, với những
điều kiện giao tiếp nhất định trong quá trình giao tiếp”[9;tr.10]. Theo quan điểm đó
thì từ xưng hô cũng như những phương tiện ngôn ngữ khác đều được phong cách học
nhìn nhận và xem xét dưới những phương diện: đặc điểm tu từ (bao gồm màu sắc
phong cách, sắc thái biểu cảm) và phong cách chức năng ngôn ngữ.
Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt cho rằng ngoài
các đại từ nhân xưng và các từ chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc thì còn“lấy cả tiếng
đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị) để dùng làm từ xưng hô, thậm chí còn dùng cả
cách nói trống không (từ xưng hô zero) để xưng hô” [21;tr.166]. Cuối cùng ông đưa ra
nhận xét:“Trong tiếng việt, từ xưng hô, cách xưng hô, mô hình xưng hô là phương tiện
biểu cảm, là phương tiện phong cách” [21;tr.168].
Bên cạnh đó, còn có các nhà nghiên cứu khác như: Trần Thị Ngọc Lang trong
Phương ngữ Nam Bộ đã đưa ra nhận xét về từ xưng hô trong tiếng Việt “Các từ xưng
hô tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong cái đa dạng của cách xưng
hô hằng ngày, chúng ta vẫn thấy mức độ thống nhất giữa các phương ngữ tiếng Việt
khá cao. Những khác biệt nhỏ trong cách xưng hô làm nên sắc thái riêng của các
phương ngữ” [10;tr.87]. Trong bài viết của mình thì Trần Thị Ngọc Lang đã đưa ra
vấn đề từ xưng hô trong giao tiếp hằng ngày được thể hiện ở các cấp độ và địa vị của
mỗi người khi giao tiếp với nhau. Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét chung về cách xưng

hô trong phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ.
Trong Cảm nhận bản sắc Nam bộ, Huỳnh Công Tín cũng khẳng định tầm quan
trọng của ngôn ngữ Nam Bộ vào kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt với nhiều từ ngữ phong
phú và đa dạng với cách xưng hô “Trong gia đình người Nam Bộ có thói quen dùng
thứ để xưng gọi: “Hai, ba, bốn, năm, sáu, út,…”, từ xưng hô “họ hàng” như:“cậu mợ;
dì dượng; chú thiếm;…” được dùng trong gia đình và cả trong hàng xóm; cách gọi
ngôi thứ có tính chất lược âm: “ổng, bả, ảnh, chỉ,…”[20;tr.263]
Trịnh Sâm trong Đi tìm bản sắc tiếng Việt, cũng có bài bàn về sự phong phú của
tiếng Việt, nó thống nhất trong thế đa dạng và có sự tồn tại của tiếng Việt địa phương


thì được xác định theo một chuẩn mực của tiếng Việt. Tác giả có sự phân định về ranh
giới của tiếng Việt từ Thuận Hải trở vào và ông đã khái quát “Nhìn chung, tiếng Nam
Bộ tương đối đơn giản. Đơn giản như một cá tính, không chỉ đúng với ngôn ngữ mà
chi phối cả nhiều loại hình nghệ thuật khác, cả những nét ứng xử thực tế của con
người.” [17;tr.100]
Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây trên diễn đàn của Ngữ học trẻ và Tạp chí ngôn
ngữ cũng đã xuất hiện khá nhiều bài viết nghiên cứu xung quanh về từ xưng hô. Nhìn
chung, từ xưng hô là vấn đề không chỉ có ý nghĩa ngôn ngữ đơn thuần mà nó còn là
vấn đề văn hóa ứng xử của con người trong quá trình giao tiếp. Với nhiều chiều hướng
tiếp cận khác nhau, các nhà ngôn ngữ học đã tạo nên sự sôi động trên văn đàn nghiên
cứu về từ xưng hô, phần nào đã làm rõ sự phong phú và đa dạng của từ xưng hô trong
tiếng Việt. Và dù là các công trình nghiên cứu trên nghiên cứu chưa sâu hay còn sơ
lược thì nó cũng trở thành nguồn tư liệu quý báo giúp cho người viết có cái nhìn rộng
và toàn diện hơn về từ xưng hô.
Anh Đức là một nhà văn tài năng đã tồn tại trong lòng người đọc cùng với nhiều
tác phẩm có giá trị. Do đó, các nhà nghiên cứu cũng có rất nhiều bài viết, nhiều công
trình nghiên cứu về tác gia - tác phẩm Anh Đức.
Phùng Quý Nhâm trong Văn học và văn hóa từ một góc nhìn có bài “Những tìm
tòi sáng tạo của Anh Đức” [13;tr.175]. Ông nhận định Anh Đức là một nhà văn có tài

năng sáng tạo nghệ thuật. Trong các tác phẩm của Anh Đức thì hình ảnh con người
Nam Bộ hiện lên với những đức tính bộc trực mà tinh tế, thẳng thắn mà chí tình, chín
chắn, sâu sắc nhưng rất cởi mở, khoáng đạt. Họ yêu tha thiết nhưng căm thù giặc cũng
cháy bỏng. Để xây dựng được những nhân vật như thế thì nhà văn cần phải có cái nhìn
tinh tế về hiện thực cuộc sống và khả năng vận dụng linh hoạt.“Trong sáng tác của
Anh Đức bút pháp hiện thực và bút pháp trữ tình xuyên thấm rất nhuần nhuyễn. Hiện
thực được lí tưởng chấp cánh vươn cao bay bổng. Xuất phát từ một thực tế đau thương
cháy bỏng căm thù, từ cuộc sống của những con người ở mỏm đất tận cùng của Tổ
quốc, phải đổi máu và mồ hôi để giành lại từng ngọn cỏ, gốc cây, từng mảnh vườn,
thửa ruộng, nhà văn dựng lên giấc mơ rất lãng mạn mà lại rất chân thực của người
nông dân Nam Bộ” [13;tr.197]. Chính những tìm tòi sáng tạo đó đã tạo nên một nhà
văn mang đậm phong cách Nam Bộ, mang dáng vẻ riêng của Anh Đức.


Trong bài viết Hòn Đất với vài nét phong cách của Anh Đức, Phương Lựu cũng
có những nhận xét tương tự như Phùng Quý Nhâm về bút pháp của Anh Đức “Bằng
bút pháp khá nhuần nhuyễn, tự nhiên và chân thật, nhà văn đã làm sống lại trong lòng
người đọc cuộc chiến đấu của Việt Nam cùng những con người Việt Nam trong chiến
đấu” [12;tr.879]
Khi bàn luận về tác phẩm Hòn Đất của Anh Đức, Hoài Thanh cũng đề cặp đến
ngòi bút của Anh Đức. Tuy ngòi bút của Anh Đức còn vụng về, không được điêu
luyện như các tác giả khác cùng thời nhưng lại rất hồn nhiên, bình dị gần gũi với khẩu
ngữ người dân Nam Bộ. Chính vì thế làm cho người đọc dễ tiếp nhận, dễ đi vào lòng
người.“Anh Đức không có cái tài điêu luyện của Nguyên Ngọc trong Đất nước đứng
lên, của Nguyễn Trung Thành trong Rừng Xà Nu. Chẳng những thế, ngòi bút của Anh
Đức còn có những lúc vụng về, còn có những chỗ rề rà, còn khá nhiều hạt sạn nhưng
ngòi bút của Anh Đức có cái hay lớn là rất hồn nhiên. Nhiều khi người đọc có cảm
tưởng như cuộc sống tự nó lên vậy thôi, không có bàn tay nào sửa sang, đẻo gọt”
[19;tr.132]. Cũng trong Hòn Đất, hòn ngọc, Hoài Thanh cho rằng dù Hòn đất còn có
những tỳ tích này nọ, chưa được hoàn chỉnh nhưng “Hòn Đất vẫn đúng là hòn ngọc, là

câu chuyện về những tâm hồn trong sáng như ngọc, giữa sóng to gió lớn vẫn sáng
ngời như ngọc” [19;tr.133].
Ở Anh Đức ta còn bắt gặp một khía cạnh khác trong sáng tác, đó là tác phẩm của
Anh Đức mang đậm màu sắc trữ tình. Qua từng tác phẩm của anh cho dù đó là truyện
ngắn hay bút kí thì chúng ta đều thấy “một cách đầy đủ nỗi lòng của người cầm bút,
anh không bỏ qua dịp nào mà không biểu hiện nỗi lòng của mình. Ở Anh Đức màu sắc
trữ tình đậm nét đến mức đã trở thành phong cách” [19;tr.200]. Chu Nga trong Phong
cách trữ tình trong sáng tác của Anh Đức, cũng cho rằng “ngòi bút Anh Đức trong
Hòn Đất, đôi khi ta cảm thấy cái gì hơi lạ, hình như trong ngòi bút ấy có xen lẫn hai
yếu tố vừa quá tỉnh táo lại vừa quá say mê. Hay nói một cách khác, ở đây Anh Đức đã
tự đặt mình vào vị trí hơi khó xử, vị trí của nhân vật trữ tình” [19;tr.207]. Khi đặt
mình vào địa vị của nhân vật thì tác giả mới hiểu và nói lên được những tâm tư tình
cảm của nhân vật.
Phan Cự Đệ cũng nhận định phong cách của Anh Đức thuộc về phong cách lãng
mạn.“Trong tiểu thuyết Hòn Đất, hình tượng chị Sứ ít nhiều được lí tưởng hóa. Đó là


đặt trưng của điển hình trong các tác phẩm thuộc dòng phong cách lãng mạn.”
[19;tr.223]
Khi chúng ta bàn về nghệ thuật nói chung trong tác phẩm của Anh Đức, có rất
nhiều ý kiến khác nhau. Nói về thành công nghệ thuật của nhà văn này, các nhà nghiên
cứu không chỉ đề cặp đến yếu tố trữ tình và bút pháp lãng mạn mà còn đề cặp đến việc
sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của nhà văn.
Tác giả Phan Văn Sỹ trong bài viết về Anh Đức có nhận định rằng: “Ngôn ngữ
của Anh Đức phản ánh tiếng nói và cách điệu của người Nam Bộ” [19;tr.274]. Tác giả
Phan Văn Sỹ như cảm nhận được từng câu nói, từng từ ngữ, từng hình ảnh trong tác
phẩm của Anh Đức đang “ động cựa” dưới con mắt của người đọc. Nhà văn Anh Đức
đã ghi lại được, diễn tả được chính xác cốt cách của người Nam Bộ khi nói năng.
“Cách nói của người Nam Bộ hoặc chậm rãi, điềm đạm, hoặc nồng nhiệt dồn dập, khi
nhanh khi chậm, lúc trầm lúc cao, lúc nào cũng như gắn chặt với nội dung câu

chuyện. Ít thấy sự trau chuốt bóng nhoáng và cũng ít sự tinh vi khúc mắc, vậy mà cái
cách cái điệu nói chuyện, viết văn ấy thường dẫn người nghe tới những xúc động bất
ngờ, ấy là nội dung câu chuyện mang cái thật của kinh nghiệm sống, mang cái thật
của những suy nghỉ về thế thái nhân tình” [19;tr.274]. Chính ngôn ngữ ấy, đã đem lại
cho người đọc nhiều cảm xúc bất ngờ khi đọc tác phẩm của Anh Đức. Mặc dù lối viết
văn của Anh Đức có phần phóng khoáng, không gò bó nhưng tác giả đã có những tìm
tòi, chọn lọc về từ ngữ. Để chứng minh cho điều này, Phan Văn Sỹ đã dẫn ra trường
hợp sử dụng từ “bình tỉnh” trong truyện ngắn Con chị Lộc, đây là một từ mà tác giả
Xuân Trường trong bài viết Đọc Bức Thư Cà Mau của Anh Đức nhận định là một từ
“đẹp” và “có sức nặng lớn”. Về mặt từ ngữ, ta còn thấy Anh Đức có thói quen sử
dụng nhiều “Từ ngữ hay mang dáng vẻ riêng của cách nói Nam Bộ” [19;tr.274].
Cùng với sự đánh giá về sự thành công trong cách sử dụng ngôn ngữ của Anh
Đức, Diệp Minh Tuyền trong bài viết Anh Đức và những truyện ngắn, bút ký xuất sắc
của anh, đã đưa ra nhận định: “Ngôn ngữ của Anh Đức trong sáng, chính xác, chứng
tỏ rằng nó đã được trau chuốt cẩn thận” [19;tr.251]. Bên cạnh đó, tác giả cũng quan
tâm đến vấn đề dùng từ ngữ của Anh Đức.“Anh Đức đã khéo léo sử dụng ngôn ngữ
địa phương Nam Bộ: những từ ngữ trong ngôn ngữ địa phương Nam Bộ trong tác
phẩm của anh được dùng ở mức độ cần thiết và những từ ấy thường là những từ mà


không thể có từ nào khác diễn đạt một cách thành công cái điều mà anh muốn nói.”
[19;tr.251]
Ngoài những ý kiến đánh giá cao về sự thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ
của Anh Đức, còn có một vài ý kiến chỉ ra những mặt còn hạn chế trong vấn đề sử
dụng ngôn ngữ của Anh Đức. Cụ thể như tác giả Thiếu Mai trong bài viết Về Một
truyện chép ở bệnh viện và Biển xa của Bùi Đức Ái, đã đánh giá “Về ngôn ngữ, còn
nhiều chỗ tác giả chưa được thận trọng lắm. Lắm lúc anh để cho nhân vật nói nhiều
câu quá sáo, quá văn hoa. Anh chưa chú ý tách bạch lời của tác giả và lời của nhân
vật” [19;tr.54]. Mặc khác, việc sử dụng từ địa phương trong tác phẩm của Anh Đức
“Đôi khi để tô đậm thêm màu sắc địa phương, anh có lạm dụng thổ ngữ Nam Bộ (rọ

rạy, tởn, khứng, cớn rớn) làm cho người miền khác đọc khó hiểu.” [19;tr.54]
Hoặc trong bài viết Hòn Đất - Một bức tranh chân thật về giai đoạn đầu chống
Mỹ cứu nước ở miền Nam, tác giả Phan Nhân đã chỉ ra một số thiếu sót khác của Anh
Đức trong việc sử dụng ngôn ngữ, đó là việc “Tác giả dùng hơi nhiều ngôn ngữ địa
phương, ngay cả khi tác giả trực tiếp kể chuyện” [19;tr.106].
Tuy còn một vài hạn chế nhất định nhưng Anh Đức về cơ bản đã rất thành công
trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật. Đây là phương tiện diễn đạt nội dung, tư
tưởng của tác phẩm. Đặc biệt là tác giả đã tận dụng sắc thái biểu cảm của từ địa
phương Nam Bộ để tạo ra màu sắc địa phương cho tác phẩm.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều nghiên cứu về tác phẩm của Anh
Đức ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Tuy đã có nhiều tác giả nói đến việc sử
dụng ngôn ngữ trong tác phẩm của Anh Đức, nhưng riêng vấn đề về từ xưng hô trong
tác phẩm của Anh Đức thì hầu như từ trước tới nay chưa có một công trình nghiên
cứu, khảo sát nào đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện.
Như vậy, đề tài “Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Anh Đức” là một đề tài
khá mới mẻ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là nguồn tư liệu quý báo
cho luận văn, nó sẽ giúp cho người viết tìm được hướng đi đúng đắn trong việc khảo
sát đề tài của mình.

3. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát đề tài “Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Anh Đức”, người viết
bước đầu thử vận dụng những kiến thức về ngôn ngữ vào khai thác, những nét nổi bật
về phương diện sử dụng từ xưng hô trong tác phẩm của Anh Đức. Qua việc nghiên cứu


đề tài này, giúp cho chúng ta có cái nhìn mới mẻ hơn về con người và vùng đất Nam
Bộ, thêm yêu con người nơi đây với những người chân lấm tay bùn nhưng giàu nghĩa
tình.
Qua đề tài này, một mặt người viết có thêm sự hiểu biết, nâng cao thêm kiến
thức về từ xưng hô trong tiếng Việt. Mặc khác, cũng hiểu rõ hơn về cách dùng từ ngữ

mang đậm phong vị Nam Bộ của Anh Đức. Đồng thời cũng có thể hiểu được một phần
nào những tâm tư, tình cảm mà nhà văn muốn gởi gắm qua các nhân vật của mình.
Ngoài mục đích giúp cho người viết hoàn thành luận văn tốt nghiệp trong bốn
năm trên giảng đường Đại học. Thì việc nghiên cứu đề tài “Từ xưng hô trong một số
tác phẩm của Anh Đức” còn giúp cho người viết thống kê, phân loại và chỉ ra được giá
trị sử dụng của từ xưng hô trong tác phẩm của Anh Đức; làm quen và thích ứng được
với phương pháp làm việc khoa học, độc lập và sáng tạo.

4. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài “Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Anh Đức”, trước tiên
người viết đã đi vào tìm hiểu phần lý thuyết về từ xưng hô từ các công trình nghiên
cứu của các nhà ngôn ngữ học về Ngữ pháp, Ngữ dụng và Phong cách học tiếng Việt.
Trên cơ sở đó, đưa ra một số mô hình xưng hô tiêu biểu và phân tích giá trị sử dụng từ
xưng hô thông qua ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tác phẩm của Anh Đức.
Với yêu cầu như thế, tài liệu tham khảo của người viết trước hết là các công trình
nghiên cứu, các bài viết liên quan đến từ và từ xưng hô trong tiếng Việt, kế đến là các
tác phẩm của nhà văn. Do số lượng tác phẩm của Anh Đức tương đối nhiều nên người
viết không thể nào khảo sát được hết mà chỉ chọn ra một số tác phẩm tiêu biểu. Tài
liệu cơ bản mà người viết sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu đề tài này là
2 quyển: Tuyển tập Anh Đức – tập 1 và Tuyển tập Anh Đức – tập 2, NXB văn học Hà
Nội- 1997. Bởi vì những tác phẩm trong 2 quyển này không chỉ là những tác phẩm tiêu
biểu của Anh Đức mà nó còn là những tác phẩm phản ánh được cuộc sống chân thật
của người dân Nam Bộ trong thời kì chiến tranh. Qua đó, người viết cũng so sánh
những tác phẩm đó với nhau để thấy được những nét nổi bật trong việc sử dụng từ
xưng hô trong sáng tác của nhà văn Anh Đức

5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt luận văn này, người viết luôn tìm hiểu và lựa chọn những
phương pháp nghiên cứu cơ bản, thuận tiện nhằm làm nổi bật lên nét đặc sắc trong



việc sử dụng từ xưng hô của Anh Đức. Nghiên cứu trước hết là phải có định hướng,
tìm sự hấp dẫn của đề tài, tìm hiểu những vấn đề liên quan trong quá trình nghiên cứu.
Bằng phương pháp hệ thống, tổng hợp các tài liệu, người viết đã hệ thống hóa một số
vấn đề về từ xưng hô trong tiếng Việt để làm nền tảng cho việc khảo sát “Từ xưng hô
trong một số tác phẩm của Anh Đức”.
Khảo sát bằng cách thống kê, phân loại từ xưng hô theo từng mối quan hệ, ngôi
thứ để có được số liệu chính xác và khoa học. Trên cơ sở đó, có thể phân tích và đánh
giá hiệu quả sử dụng cũng như hiểu được cái hay của Anh Đức khi vận dụng lớp từ
xưng hô vào trong tác phẩm của mình.
Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm để thấy được cái hay, cái độc
đáo của việc sử dụng lớp từ xưng hô mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm của mình. Do
thời gian có hạn và số lượng tác phẩm của Anh Đức khá nhiều nên người viết không
thể so sánh đối chiếu hết các tác phẩm mà chỉ so sánh đối chiếu trong các tác phẩm
chọn để khảo sát.


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ VÀ TỪ XƯNG HÔ
TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. Khái niệm về từ tiếng việt
Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Trong quá trình vận dụng
ngôn ngữ, các từ luôn được tái hiện với tư cách là những đơn vị có sẵn và mỗi một từ
luôn được gặp trong những trường hợp sử dụng riêng biệt khác nhau, trong mỗi trường
hợp tái hiện khác nhau. Chính vì thế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về từ
tiếng Việt. Nhưng chúng ta có thể hiểu “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập
về ý nghĩa và hình thức”.
Sau đây ,là một số quan điểm khác nhau về từ tiếng Việt mà các nhà nghiên cứu
đã đưa ra


1.1.1. Các quan điểm khác nhau về từ tiếng Việt
Theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ
nhất có ý nghĩa để tạo ra câu nói; nó có hình thức, có một âm tiết, một khối viết liền”
[8;tr.168]
Đái Xuân Ninh trong Hoạt động của tiếng Việt, cho rằng: “Từ là đơn vị cơ bản
của cấu trúc ngôn ngữ giữa hình vị và cụm từ. Nó được cấu tạo bằng một hay nhiều
đơn vị ở hàng ngay sau nó tức là hình vị và lập thành một khối hoàn chỉnh.” [14;tr.24]
Đỗ Hữu Châu thì cho rằng:“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định,
bất biến về hình thức ngữ âm theo các quan hệ hình thái học (như quan hệ về số, về
giống….) và cú pháp trong câu, nằm trong một số kiểu cấu tạo nhất định, ứng với ý
nghĩa nhất định, sẵn có đối với mọi thành viên của xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ
thống tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu.” [5;tr.29]
Quan niệm của tác giả Đỗ Thị Kim Liên trong Ngữ pháp tiếng Việt cho rằng: “Từ
là đơn vị cơ bản, là đơn vị cốt lõi để tạo nên các đơn vị lớn hơn như cụm từ, câu, văn
bản. Từ là đơn vị hết sức quan trọng, giống như viên gạch để xây dựng nên tòa lâu đài
ngôn ngữ.” [5;tr.17]


Dựa vào các quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ về từ tiếng
Việt, đã khái quát lên được phần nào sự phức tạp và đa dạng của việc nghiên cứu từ
trong hệ thống tiếng Việt. Do mỗi tác giả có cách hiểu khác nhau về khái niệm hình vị
trong ngôn ngữ học đại cương, mỗi tác giả đứng ở một góc độ nghiên cứu khác nhau
nên dẫn đến cách lựa chọn các đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt của các nhà nghiên cứu
cũng khác nhau.

1.1.2. Đặc điểm của từ tiếng Việt
Qua các quan niệm về từ của các tác giả trên cho thấy đặc điểm chung của từ: Từ
là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa, mang tính cố định, có sẵn; Từ là đơn vị
nhỏ nhất để tạo nên câu. Từ đó, chúng ta có thể khái quát các đặc điểm cơ bản của từ

tiếng Việt:
- Từ tiếng Việt có thể đơn âm tiết hoặc đa âm tiết.
- Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa nhưng không có biến
thể hình thái học.
- Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau, do đó từ tiếng
Việt thường có tính trừu tượng và khái quát cao.

1.1.3. Các loại từ tiếng Việt
Có các ý kiến khác nhau về sự phân chia từ loại trong tiếng Việt. Tuy có sự phân
chia theo nhiều cách khác nhau nhưng nhìn chung thì các loại từ tiếng Việt đều giống
nhau. Ở đây, người viết chỉ đưa ra 2 ý kiến khác nhau cơ bản nhất về sự phân chia các
loại từ tiếng Việt:

1.1.3.1. Theo Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt- tập một”
Hệ thống từ loại tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm bao gồm các loại từ
như sau:
 Nhóm 1:
Danh từ
Ý nghĩa từ vựng khái quát hóa thành đặc trưng ngữ pháp của danh từ là ý nghĩa
thực thể. Ý nghĩa thực thể là ý nghĩa chỉ sự vật, chỉ khái niệm về sự vật và những gì
được “sự vật hóa”.
Danh từ có khả năng kết hợp với đại từ chỉ định: “này, kia, ấy, nọ,…”. Ngoài ra,
danh từ còn khả năng kết hợp trực tiếp hay gián tiếp với số từ.


Danh từ có đầy đủ chức năng cú pháp học của thực từ. Danh từ được chia thành
hai lớp: danh từ riêng và danh từ chung.
Ví dụ: Trường, lớp, văn chương,…
Động từ
Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình. Ý nghĩa quá trình thể

hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thực thể.
Về khả năng kết hợp: động từ thường có các phụ từ đi kèm để biểu thị các ý
nghĩa quan hệ có tính chất tình thái. Ngoài ra, động từ còn kết hợp được với thực từ
nhằm phản ánh nội dung vận động của quá trình.
Động từ có khả năng đảm nhận nhiều chức năng cú pháp khác nhau. Động từ
cũng được chia thành hai lớp: động từ độc lập và động từ không độc lập.
Ví dụ: Đi, đứng, chạy, nhảy,…
Tính từ
Tính từ là từ chỉ ý nghĩa đặc trưng. Ý nghĩa đặc trưng được biểu hiện trong tính
từ thường có tính chất đối lập phân cực (thành cặp trái nghĩa) hoặc có tính chất mức độ
(so sánh và miêu tả theo thang độ).
Tính từ có khả năng kết hợp với phụ từ nhưng không kết hợp được với “hãy”,
“đừng”, “chớ”, có thể kết hợp với thực từ đi kèm (bổ nghĩa cho tính từ).
Chức năng chính của tính từ là làm vị ngữ trong câu. Tính từ chia thành hai lớp:
lớp từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ và lớp từ chỉ đặc trưng xác định thang
độ.
Ví dụ: Đẹp, xấu, hiền lành,…
Số từ
Số từ là những từ biểu thị ý nghĩa số.
Về khả năng kết hợp của số từ phổ biến là được dùng kèm với danh từ được biểu
thị số lượng sự vật được nêu ở danh từ.
Số từ có khả năng đảm nhận một số chức năng cú pháp: làm chủ ngữ, vị ngữ
nhưng lại bị hạn chế trong những điều kiện nhất định của kết cấu câu trong văn bản.
Số từ được chia thành hai lớp: số từ xác định và số từ không xác định.
Ví dụ: Một, hai, ba,…
Đại từ
Đại từ là lớp từ dùng để thay thế và chỉ trỏ.


Về khả năng kết hợp, đại từ không chỉ thay thế cho một thực từ (danh từ, động từ,

tính từ) mà còn có thể thay thế cho kết hợp từ (cụm từ), câu, đoạn văn.
Đại từ có thể đảm nhận các chức năng cú pháp của thực từ được thay thế. Đại từ
cũng chia ra thành hai lớp: đại từ xưng hô và đại từ chỉ định.
Ví dụ: Mày, tao, chúng mày,….
Vị từ
Vị từ biểu thị quá trình và biểu thị đặc trưng và có quan hệ thông báo với chủ thể
của quá trình hay đặc trưng đó.
Vị từ có khả năng kết hợp phổ biến với phụ từ, đại từ chỉ định.
Vị từ có quan hệ thông báo với chủ thể trong chức năng vị ngữ, thường đứng trực
tiếp sau vị ngữ.
Ví dụ: Đang làm, đang đứng,….
 Nhóm 2: bao gồm các loại từ
Phụ từ: có 2 loại
- Định từ
Định từ là từ biểu thị quan hệ về số lượng với sự vật được nêu ở danh từ.
Số lượng định từ không nhiều nhưng có tác dụng dạng thức hóa một số ý nghĩa
ngữ pháp quan trọng của từ loại danh từ. Định từ được chia thành các nhóm:
Nhóm những, cái, một.
Nhóm mỗi, từng, mọi
Nhóm cái, mấy
Ví dụ: Làm ăn mỗi năm một phất lên.
- Phó từ
Phó từ là hư từ thường dùng kèm với thực từ (động từ, tính từ). Chúng biểu thị ý
nghĩa về quan hệ giữa quá trình và đặc trưng với thực từ, đồng thời cũng biểu hiện ý
nghĩa về cách nhận thức và phản ánh quá trình và đặc trưng trong hiện thực.
Phó từ không có khả năng làm trung tâm ngữ nghĩa - ngữ pháp trong kết hợp thực
từ và rất ít có khả năng làm thành phần chính trong câu. Phó từ cũng được chia thành
các nhóm nhỏ sau:
Nhóm phó từ chỉ thời gian: đã, từng, mới, sẽ,…
Nhóm phó từ so sánh và phó từ chỉ tiếp diễn: cũng, vẫn, đều, chứ,…

Nhóm phó từ phủ định, khẳng định: không, chẳng, chưa, có,…


Nhóm phó từ trình độ: rất, lắm, quá,…
Nhóm phó từ sai khiến: hãy, đừng, chớ,…
Nhóm phó từ chỉ kết quả: mất, được,…
Nhóm phó từ chỉ tác động: cho, biếu,…
Nhóm phó từ chỉ các ý nghĩa tình thái chủ quan hoặc khách quan: chợt, bỗng
dưng, đột nhiên,…
Ví dụ: chúng em đã rãi bao nhiêu đá mà đường còn ra thế.
Kết từ
Kết từ là dấu hiệu biểu thị các quan hệ cú pháp giữa các thực từ một cách tường
minh.
Khả năng kết hợp và chức năng cú pháp, kết từ được dùng kết nối các từ, các kết
hợp từ, các câu và đoạn văn có quan hệ cú pháp. Kết từ có 2 lớp: kết từ chính phụ và
kết từ đẳng lặp.
Tiểu từ
Tiểu từ là những từ biểu thị ý nghĩa quan hệ giữa chủ thể phát ngôn và nội dung
phản ánh. Ý nghĩa quan hệ của tiểu từ là ý nghĩa quan hệ có tính tình thái.
Tiểu từ không có khả năng kết hợp như thực từ và phần lớn các từ loại hư từ.
Chúng chỉ được dùng trong câu với chức năng biểu thị các ý nghĩa quan hệ có tính tình
thái ở bậc câu và ở văn bản. Tiểu từ cũng có 2 loại: trợ từ và tình thái từ.

1.1.3.2. Theo Đinh Văn Đức trong “Ngữ pháp tiếng Việt từ loại”
Hệ thống từ loại tiếng Việt chia ra thành ba loại từ: Thực từ, hư từ và tình thái từ.
 Thực từ
Các từ loại trong thực từ giống như sự phân chia từ loại theo nhóm 1 của Diệp
Quang Ban.
Danh từ
Danh từ là từ loại quan trọng bậc nhất trong số các từ loại của ngôn ngữ nói

chung và của tiếng Việt nói riêng.
Ví dụ: Nhận thức, thắng lợi,…
Động từ
Động từ là một trong hai loại từ cơ bản, động từ gắn với các khái niệm thuộc
phạm trù vận động.
Ví dụ: Ăn, uống, cày, cuốc,…


Tính từ
Tính từ là từ loại có ý nghĩa chỉ tính chất rộng lớn, chỉ các đặc trưng nói chung.
Ví dụ: tốt, đẹp, xấu,…
Đại từ
Đại từ là từ loại có quan hệ chặt chẽ với thực từ nhưng không phải là thực từ.
Ví dụ: mày, nó, chúng mày,…
Số từ
Số từ trong tiếng Việt là một tập hợp kỳ thực không thuần túy là thực từ trên
nhiều phương diện (cả về số lượng và chất lượng theo tiêu chuẩn phân định).
Ví dụ: một trăm, hai,…
 Hư từ
Hư từ là một tập hợp không lớn về số lượng của các từ, bản chất của ý nghĩa hư
từ là tính chất ngữ pháp, là phương tiện biểu đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong
tư duy theo cách thức phản ánh bằng ngôn ngữ của bản ngữ. Hư từ có 2 loại là: từ phụ
và từ nối.
Tình thái từ
Tình thái từ là một tập hợp rất nhỏ về mặt số lượng từ, nhưng tập hợp ấy có mặt
đặc trưng riêng về bản chất ngữ pháp. Tình thái từ tuy ít về số lượng, nhưng căn cứ
vào bản chất ngữ pháp có thể vạch được đối lập giữa một bên là các tiểu từ tình thái và
một bên là các trợ từ.

1.2. Từ xưng hô

1.2.1 Khái niệm về từ xưng hô
Tiếng Việt là tiếng có từ xưng hô rất phong phú và đa dạng, có thể dùng nhiều
cách khác nhau để xưng gọi. Do đó, cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau về từ xưng
hô trong tiếng Việt.
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong Cơ sở ngữ dụng học, đã đưa ra khái niệm “Xưng hô
là hành vi chiếu vật, ở đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn
ngôn với người nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp” [3;tr.264].
Trong Đại từ điển tiếng Việt thì lại đưa ra một định nghĩa khác về từ xưng hô là
“Tự xưng mình và gọi người khác trong giao tiếp hoặc trong thực từ” [22;tr.1880].
Còn ở Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Tự xưng và gọi người khác là ai đó với nhau
nhằm làm rõ mối quan hệ giữa hai bên” [18;tr.1872]


Từ những định nghĩa trên, cho ta thấy có rất nhiều cách nói khác nhau cũng như
khái niệm khác nhau về từ xưng hô. Tùy thuộc vào sự tiếp nhận của mỗi người mà có
cách hiểu khác nhau về từ xưng hô.
Còn trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Văn Nở định
nghĩa từ xưng hô như sau: “Từ xưng hô là lớp từ dùng để tự xưng và gọi đối tượng khi
giao tiếp.” [13;tr.49]
Để thực hiện hành động xưng hô thì người nói cần có một phương tiện biểu đạt
mà phương tiện đó chính là từ xưng hô. Thế nhưng khác với định nghĩa về xưng hô,
định nghĩa về từ xưng hô ít được đề cặp đến. Nhìn chung, từ xưng hô là những từ dùng
để tự xưng và gọi đối tượng khi giao tiếp.

1.2.2. Các loại từ xưng hô trong tiếng Việt
Từ xưng hô là một bộ phận trong hệ thống từ loại tiếng Việt nên chúng ta có thể
phân chia từ xưng hô theo từ loại. Do tính chất đặc thù của từng loại phân môn khác
nhau nên các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã có những nghiên cứu về các loại từ xưng hô
trong tiếng Việt ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau.


1.2.2.1. Các đại từ xưng hô
Đại từ xưng hô dùng để thay thế và biểu thị các đối tượng tham gia quá trình giao
tiếp. Đối tượng tham gia quá trình giao tiếp (người, vật) được chỉ ra một cách chung
nhất ở cương vị ngôi trong ý nghĩa của đại từ. Vì vậy, đại từ xưng hô có thể dùng ở
một ngôi xác định hay ở nhiều ngôi khác nhau đều được.
Theo quan điểm Ngữ pháp học truyền thống thì thường đồng nhất từ xưng hô với
đại từ xưng hô. Các tác giả nghiên cứu về Ngữ pháp học cho rằng có thể chia từ xưng
hô thành lớp: Lớp đại từ xưng hô chuyên dụng và lớp đại từ xưng hô lâm thời.
 Lớp 1
Lớp đại từ xưng hô chuyên dụng là các đại từ xưng hô gốc đích thực và nó có số
lượng khá ít. Các đại từ như: Tao, ta, mày, nó, hắn chỉ xuất hiện ở những sắc thái biểu
cảm không lịch sự (thân mật, suồng sã, thô tục, khinh thường).
Lớp đại từ chuyên dụng có các đặc điểm sau:
Những từ tôi, tao, tớ, chúng tôi, chúng tớ là những từ chuyên dùng làm lời
“xưng” cho người nói.
Những từ mày, bay, cậu,…(tớ - cậu), (tao - mày) là những từ dùng cho người
nghe.


Ngoài ra, còn có những từ dùng gộp cho cả người nói và người nghe như: ta,
chúng ta, chúng mình,…
Đại từ “mình” có thể chỉ người nói, là đại từ tự xưng. Có thể chỉ người nghe khi
dùng trong sự đối xứng với đại từ “ta”. Chỉ có thể chỉ người được nói đến trước đó ở
trong câu, tức là tự xưng của ngôi 1, ngôi 2, ngôi 3.
Đại từ “nó” chưa được dùng rộng rãi và phổ biến, còn là một trở ngại cho giao
tiếp xã hội.
Đại từ “tôi” dùng để “xưng” trong giao tiếp xã hội thì có khác hơn trong quan hệ
thân thuộc.
Dựa vào các đặc điểm đó, có thể tóm tắt các đại từ xưng hô qua bảng sau:


Số

Số ít

Ngôi gộp

Số nhiều

Các biến thể

hỗn số
Ngôi

Ngôi thứ

Tao

Ta

Chúng tao

Tau (tao)

nhất (người

Tôi

Mình

Chúng tôi


Tui (tôi) (1)

nói)

Tớ

Chúng ta

Chúng tớ

……………

Mình

Chúng mình

Chúng mình

Tôi (choa)

Ta

Chúng ta

Min, Qua (2)

Ngôi thứ

Mày


Chúng mày

Mi (mày)

hai (người

Bay (mi)

Chúng bay

Bây (bay) (1)
Mày (bậu) (2)

nghe)
Ngôi thứ



Chúng nó

ba (người,

Hắn

Họ

Nó (va)

vật được


Y

Chúng

Nghỉ (2)

nói đến)

Thị

BẢNG ĐẠI TỪ XƯNG HÔ
(1). Biến thể ngữ âm
(2). Biến thể từ vựng (phương ngữ)


 Lớp 2
Lớp đại xưng hô lâm thời là những “yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô”
[2;tr.123]. Bao gồm những từ nguyên là danh từ chuyển sang đại từ, thực từ: tôi, tớ,
mình, người ta,…
Một số từ vừa được dùng để xưng và vừa được dùng để hô có nguồn gốc vay
mượn:
Từ gốc Hán: Y, thị, chúng (đại từ).
Huynh, đệ, đại ca, tiên sinh,…(danh từ)
Từ gốc Pháp: Moa, toa,…
Bên cạnh các đại tư nhân xưng: tôi, tao, ta, chúng tôi, chúng ta, chúng tao, chúng
ông, chúng anh, chúng chị (ngôi 1); mày, bay, chúng mày, chúng bay (ngôi 2); nó,
hắn, y, va, nghỉ, chúng nó (ngôi 3). Tiếng Việt còn lấy tất cả các từ chỉ quan hệ họ
hàng thân thuộc dùng để làm từ xưng hô như: Cụ, ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, cô, dì,
anh, chị, em,… Những từ này gọi chung là từ xưng hô trong gia đình.


1.2.2.2. Từ xưng hô dùng trong gia đình.
Theo quan điểm của các nhà Ngữ dụng học từ xưng hô dùng trong gia đình là các
từ xưng hô chỉ quan hệ thân tộc (gọi tắt là từ thân tộc). Điển hình là Đỗ Hữu Châu cho
rằng: “Từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Việt là những từ chỉ người trong gia đình,
họ tộc có quan hệ huyết thống nội ngoại xa gần với nhau” [3;tr.274]. Còn trong Đại
cương ngôn ngữ học, ông lại chia từ thân tộc trong tiếng Việt thành ba nhóm: nhóm
thứ nhất bao gồm những từ như: U, bầm, tía, ba, má,…; nhóm thứ hai bao gồm các từ
như: anh, chị, em, chú, bác, cha, mẹ, cháu, con,…; nhóm thứ ba bao gồm các từ như:
anh họ, ông nội, chị họ, dâu, rể,… Mỗi một nhóm điều có đặc điểm riêng.
Những từ thuộc nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai mới được dùng để xưng hô với
nhau được, còn nhóm thứ ba không thể dùng để xưng hô với nhau được.
Nhóm thứ nhất chỉ dùng để xưng hô không dùng để miêu tả quan hệ, còn nhóm
thứ ba dùng để miêu tả quan hệ chứ không dùng để xưng hô. Đặc biệt hơn hết là nhóm
thứ hai vừa dùng để miêu tả vừa dùng để xưng hô đều được.
Theo Lê Biên, trong quan hệ gia tộc, thân tộc “Chủ yếu dùng các danh từ thân
thuộc, rất ít dùng đại từ xưng hô gốc, theo một tôn ti chặt chẽ, tương đối ổn định”
[2;tr.127]. Như những khuôn hình có sẵn, ràng buộc mọi người phải chấp nhận, tuân
theo, các từ xưng hô phản ánh các quan hệ: thứ bậc (trên/dưới), tuổi tác, giới tính, địa


vị xã hội,… Trong đó, quan hệ thứ bậc dùng trong gia tộc quyết định và chi phối các
quan hệ khác.
Trong gia đình, họ tộc xưng hô bằng từ thân tộc luôn luôn thể hiện sự đối lập
trên, bậc dưới. Tuy nhiên, sự đối lập theo bậc này chỉ chặt chẽ khi người bậc dưới còn
nhỏ tuổi, chưa gia đình, chưa con cái và chưa có định danh phận. Ngoài ra, trong gia
đình còn sử dụng lối thay ngôi theo ngôi con, cháu để xưng hô với nhau. Cách gọi thay
ngôi này chỉ dùng trong ngữ vực cực thân tình và hoàn toàn trong không khí gia đình,
không có sự có mặt của những người ngoài gia đình, họ hàng.
Trong gia đình có thể có nhiều thế hệ giao tiếp với nhau, vì vậy họ bị bắt buộc

trong khuôn khổ của thế hệ mình. Tuy nhiên, các thành viên giao tiếp ở đây lại phải lệ
thuộc vào những thế hệ cách quãng, giữa họ là cả một thế hệ khác. Chính vì thế mà
cách xưng hô của mỗi người phải tuân thủ theo những chuẩn mực nhất định để có cơ
hội xích lại gần nhau, tạo được tình cảm tốt đẹp trong gia đình. Cách dùng từ xưng hô
trong gia đình cần phải có cái tôn ti trật tự: trên ra trên, dưới ra dưới, phải biết cách
ứng xử, xưng hô cho phù hợp. Cho dù có địa vị cao trong xã hội thì “phép vua cũng
thua lệ làng” phải “nhập gia tùy tục”, theo kiểu “bố con nhà bác, lớn xác con nhà
chú”. Do đó, những đại từ xưng hô đích thực (tao, mày, nó) chỉ thể hiện quan hệ một
chiều: tao (trên), nó, mày (dưới) chỉ dùng nói về những người ở bề dưới; “tôi” chỉ
những người ở bậc trên được dùng để xưng với những người ở bậc dưới.
Từ xưng hô dùng trong gia đình được thể hiện rõ qua cách xưng hô giữa các
thành viên trong gia đình với nhau như:
 Xưng hô giữa ông bà với con cháu trong gia đình.
Ông, bà và cháu trong gia đình thường có những cặp từ xưng hô có tính chất
thuận nghịch để xưng hô với nhau. Người ông ( bà) tự xưng mình là ông hoặc bà và
gọi cháu mình là cháu hoặc con. Hay nói cách khác mỗi người tự xưng vai của mình
và gọi bằng chính vai của đối tượng được giao tiếp trong gia đình.
Trong quá trình giao tiếp với người thứ ba, nhắc đến người ông, người bà của
mình thì người cháu xưng hô theo cách khác kèm theo các yếu tố phụ và ngược lại
người ông (người bà) cũng xưng hô như thế. Những trường hợp ông ,bà và cháu giao
tiếp với người thứ ba lớn tuổi hơn cháu thì ông bà thường sử dụng cách gọi thay vai
như: cháu nó, cháu nó nhà tôi, cháu + tên, cháu + tên + nhà tôi, em nó, em +
tên,…Dù có lúc gọi là cháu nhưng ở đây không phải là cháu trong mối quan hệ tương


quan với ông bà trong gia đình mà là cháu trong quan hệ với cô, bác ngoài xã hội.
Cách xưng hô như thế, thể hiện cách lịch sự trong giao tiếp, mang sắc thái biểu cảm
thân thiện, gần gũi giữa ông, bà và cháu.
Tóm lại, xưng hô giữa ông, bà và cháu tưởng chừng như khô cứng và đơn giản,
nhưng thực tế lại khá phong phú và đa dạng. Tùy theo từng hoàn cảnh và mục đích

giao tiếp mà có cách xưng hô cho phù hợp.
 Xưng hô giữa cha mẹ với con cái trong gia đình.
Xưng hô giữa cha, mẹ với con cái là mối quan hệ hình thành thứ bậc về huyết
thống và máu mủ. Cho nên, khi xưng hô thường dùng một số câu mang tính đặc trưng
của giao tiếp nghi thức. Tuy nhiên, có một số trường hợp ở vùng nông thôn cha mẹ
thường có thói quen gọi con cái là mày và xưng tao. Cách xưng gọi như thế không hề
có ý bực bội hay phật ý mà trái lại nó mang một ý nghĩa thân mật trong giao tiếp đối
với quan hệ cha, mẹ và con cái. Ngược lại, ở vùng thành thị hay những vùng lân cân
thành phố cha mẹ mà xưng gọi mày, tao với con cái là tỏ thái độ bực bội, không hài
lòng về con cái của mình.
Khi con cái xưng hô với cha, mẹ không cần phải theo một quy luật bất biến nào
mà xưng hô theo quy tắc vận động, linh hoạt theo từng hoàn cảnh tương ứng với độ
tuổi của cha mẹ và sự thay đổi ngôi thứ trong gia đình. Trước người thứ ba bằng hoặc
xấp xỉ tuổi của con thì cha mẹ thường gọi con một cách lịch sự nhã nhặn, thân mật và
âu yếm. Trong cách cha, mẹ gọi con cái một cách thân mật, nếu kèm thêm ngữ sở hữu
sẽ làm tăng tính biểu cảm, trịnh trọng, pha cười hài hước như gọi: cô/cậu + tên, cô/cậu
+ này/ấy, anh/chị + tên + này/ ấy. Khi người thứ ba bằng tuổi mình, con cái thường
gọi cha mẹ kèm theo vai của mình với người thứ ba. Còn khi cần giữ ý tứ con cái có
thể gọi cha/mẹ + mình/tớ/tao, ông/bà già + mình/tớ/tao để biểu thị sự gần gũi, quen
thuộc.
Khi giao tiếp với người thứ ba ít tuổi đối với con của mình cha, mẹ thường gọi
con cái bằng vai của con với người đó, để có được sự thân mật hơn, cha mẹ có thể gọi
con cái như tên kèm theo ngữ sở hữu: nhà tôi, nhà ông, nhà cô. Nhìn chung chỉ có cha
mẹ thường xưng hô là cha/ mẹ, ba/ má, con … còn người con tùy theo độ tuổi, vùng
sinh hoạt văn hóa và mức giáo dục mà có cách xưng gọi khác nhau trong giao tiếp.
Trong cách xưng hô giữa cha mẹ và con cái còn có một số cách gọi con rất đặc biệt,


chỉ dùng khi con cái có gia đình, có con cái: cha/ mẹ + tên(con của người con), đây là
cách gọi thay vai cháu.

 Xưng hô giữa vợ chồng với nhau trong gia đình.
Trong hoàn cảnh bình thường, các cặp vợ chồng trẻ hoặc ở độ tuổi trung niên
thường sử dụng cặp từ anh - em để xưng hô với nhau. Người vợ tự xưng mình là em
và gọi người chồng là anh. Người chồng cũng xưng mình là anh và gọi vợ là em. Quan
hệ giữa từ xưng và từ hô này chỉ mang tính chất thuận nghịch.
Khi giao tiếp với người thứ ba, nhắc đến vợ hoặc chồng của mình thì có nhiều
cách xưng hô khác nhau. Những cách gọi nhau của vợ hoặc chồng khi giao tiếp với
người thứ ba lớn tuổi hơn thường gặp là: chồng em, vợ em ( con, cháu), anh ấy, cô ấy,
nhà em ( con, cháu),…Khi người thứ ba là chổ quen thân với gia đình và trong hoàn
cảnh giao tiếp thân mật, cởi mở thì có thể sử dụng lối gọi: nhà anh, chồng mình, anh
nhà mình,…
Ở những cặp vợ chồng trẻ hoặc trung niên thì họ xưng hô như thế, còn đối với
những cặp vợ chồng lớn tuổi thì họ thường xưng hô với nhau bằng các cặp từ: tôi - ông
(bà), ông - bà. Ngoài cách xưng hô trên, trong khi trò chuyện thân mật thể hiện tình
cảm hòa thuận giữa vợ chồng với nhau và giữa họ với con cái, các cặp vợ chồng còn
tạo ra cách xưng hô độc đáo bằng cách nhập vai con để gọi tạo ra tổ hợp: bố - tên
chồng hoặc mẹ - tên người vợ và tự xưng là mình hoặc tôi.
Ngoài ra, khi vợ chồng có sự giận dữ, có điều không hài lòng về đối phương hoặc
xảy ra xung đột về mặt tình cảm thì có thể xưng hô bằng các cặp từ xưng hô khác như:
mày - tao, tôi - anh (cô),… với một giọng điệu gay gắt; hoặc có khi họ sử dụng một
loạt những từ ngữ thô tục để phát ngôn với nhau như: mẹ mày, bố mày, thằng, con,
đồ…
Rõ ràng lối xưng hô giữa vợ chồng trong gia đình Việt không chỉ bị quy định bởi
sự chuẩn mực ứng xử của xã hội mà nó còn phụ thuộc rất đáng kể vào các cung bậc
tình cảm, thái độ của vợ chồng trong những tình huống giao tiếp cụ thể.
 Xưng hô giữa anh- chị- em trong gia đình.
Cách xưng hô giữa anh- chị- em trong gia đình người Việt thường sử dụng các
cặp từ xưng hô mang tính chất thuận, nghịch. Người anh hoặc chị tự xưng là anh hoặc
chị và gọi em mình là em, bất kể trai hay gái và ngược lại. Ngoài ra, khi người anh,
người chị muốn đảm bảo tính nghiêm khắc trong giao tiếp với người em thì có thể gọi



×