Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng nho giáo trong một số tác phẩm văn học việt nam trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.7 KB, 27 trang )

Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

PHẦN MỞ ĐẦU

Văn học là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, bắt nguồn từ
đời sống, phản ánh đời sống và bày tỏ một quan điểm, một cách nhìn, một tình cảm đối
với đời sống. Sự phản ảnh đời sống của văn học không khách quan như khoa học mà nó
mang tính chủ quan bởi sự phản ánh hiện thực của văn học bao giờ cũng phải qua lăng
kính chủ quan của người nghệ sĩ.
Có thể nói, phản ánh hiện thực là một nội dung mà người đọc thấy rõ qua tác phẩm
văn học. Hay nói cách khác hiện thực là đối tượng phản ánh của văn học.
Bất kỳ một tác phẩm văn học, dù ít hay nhiều cũng phản ánh thời đại xã hội mà nó
được tạo ra. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: “Nhìn chung văn học Việt Nam
phong phú, đa dạng. Nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính, qn thơng
kim cổ, thì đó là văn học u nước”. Sở dĩ bộ phận văn học yêu nước giữ vai trò chủ lưu,
xuyên suốt từ xưa đến nay, bởi vì lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước,
và văn học phản ánh cuộc cuộc đấu tranh dựng và giữ nước trải qua hàng trăm thế kỷ ấy.
Đó cũng là một khía cạnh của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội.
Bên cạnh việc phản ảnh hiện thực đời sống, trong quá trình phát triển của mình với
tư cách là một hình thái ý thức xã hội, văn học chịu sự tác động và ảnh hưởng từ các hình
thái ý thức xã hội khác trong đó có triết học. Do điều kiện xã hội mà ở Việt Nam trước đây
có hiện tượng văn-sử bất phân hay văn-sử-triết bất phân. Vì vậy mà khi xem xét một tác
phẩm văn học, người đọc có thể khám phá ra khơng chỉ những giá trị về văn học mà cịn
có những giá trị lịch sử, những tư tưởng triết học.
Việt Nam là một quốc gia Đông Nam Á. Trong lịch sử phát triển hàng nghìn năm,
do điều kiện hồn cảnh địa lý, lịch sử xã hội, văn hóa nước ta có sự giao lưu với nhiều nền
văn hóa lớn trong khu vực mà tiêu biểu nhất, sâu sắc nhất là nền văn hóa Trung Quốc.
Chính vì vậy, rất nhiều hệ tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại đều có dấu ấn sâu sắc
trong đời sống xã hội ở nước ta. Trong đó, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng sâu rộng, bền
bỉ vì trong một khoảng thời gian dài nó chiếm vị trí độc tơn và có lúc trở thành kim chỉ


nam trong đường lối trị nước của một số triều đại phong kiến nước ta.

Trang 4


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Dấu ấn tư tưởng Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam được phản ánh qua văn
hóa, tâm lý, phong tục của con người Việt Nam. Trong văn học Việt Nam, đặc biệt là
trong văn học thời kỳ Trung đại (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX) chúng ta tìm thấy những
tư tưởng Nho giáo có sự tác động to lớn đến thế giới quan của lớp văn sĩ – nho sĩ phong
kiến.
Có thể khẳng định rằng: chính các trước tác kinh điển Nho giáo là ngọn nguồn vô
tâ ̣n để khơi gơ ̣i cảm hứng sáng tác . Từ tư tưởng nhân nghia , bác ái đầy tình yêu thương
̃
con người đã dẫn đế n khuynh hướng cảm hứng về chí nam nhi… Mă ̣t khác, ngoài giá trị
gơ ̣i ý khuynh hướng sáng tác , các trước tác kinh điển còn để lại cho văn học đời sau một
số hinh tươ ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t trở thành nguồ n thi liê ̣u giúp cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác.
̀
Việc nghiên cứu những dấu ấn của tư tưởng triết học Nho giáo đối với văn học có ý
nghĩa quan trọng trong việc mở rộng nội dung để khám phá và giảng dạy văn học, đặc biệt
là đối với văn học trung đại. Với khuôn khổ của một tiểu luận, em đi vào phân tích đề tài:
“Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại”.

Trang 5


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

PHẦN NỘI DUNG


Chương 1 – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1 Khái quát về học thuyết Nho giáo
1.1.1 Lịch sử ra đời
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên (TCN), dưới thời
Xuân Thu. Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, tự Trọng
Ni người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như tư tưởng trước đây
thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo. Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy tâm và
duy vật trong đó dịng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong
lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán Tự từ Nho gồm từ nhân
(người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nhà nho là người đọc sách thánh hiền, được
thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp với luân thường đạo lý.
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Kinh (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh
Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam Cương đó là các mối quan hệ vua-tơi,
cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường (Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng hầu
hết các nước phong kiến phương Đơng qua q trình giao thoa và đồng hóa.
Ở nước ta Nho giáo xuất hiện cùng với sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, và
phát triển rất nhanh trong khoảng thời gian từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Trong thời đại
ngày nay, Nho giáo được chọn lọc và cần gìn giữ để phát triển những mặt tích cực của nó
như coi trọng việc học, tơn sư trọng đạo, giữ gìn nét đẹp văn hóa trong lối sống gia đình,...
1.1.2 Những nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã
hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người
cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là Quân Tử (Quân: người làm vua, Quân tử: chỉ
tầng lớp trên ở trong xã hội để phân biệt với kẻ "Tiểu nhân" những người thấp kém về địa


Trang 6


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

vị xã hội; "Quân tử" là những người cao thượng có phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với kẻ
"Tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể
được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền).
Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "Tự Đào Tạo", phải "Tu Thân".
Sau khi Tu Thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "Hành Đạo" (Đạo khơng đơn
giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và
Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, đó là những ngun lí đạo
đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận mình là phát hiện ra) và cần phải tuân
theo. Trời giáng mệnh làm Vua cho người nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ
mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh. Cần
phải hiểu cơ sở triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
* Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm
chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ
đạo đức mà Nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà Nữ giới phải theo.
Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tịng, Tứ
Đức thì xã hội sẽ được an bình.
- Tam Cương: Nói về ba mối quan hệ Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử (cha con), Phu
Phụ (chồng vợ).
+ Quân Thần (Vua Tơi): Trong quan hệ vua tơi. Vua thì thưởng phạt công minh,
Tôi tớ phải trung thành một dạ.
+ Phụ Tử (Cha Con): Cha hiền Con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, Con
phải hiếu thảo và phụng dưỡng khi cha về già.
+ Phu Phụ (Chồng vợ): Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ. Vợ
phải chung thủy tuyệt đối với chồng .

- Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
+ Nhân: Lịng u thương đối với mn lồi vạn vật.
+ Nghĩa: Cư xử với mọi người cơng bình theo lẽ phải.
+ Lễ: Sự tơn trọng, hịa nhã trong khi cư xử với mọi người.
+ Trí: Sự thơng biết lý lẽ, phân biệt rõ thiện ác, đúng sai.

Trang 7


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

+ Tín: Giữ đúng lời hứa, đáng tin cậy.
- Tam Tịng: Tam là ba, Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo,
bao gồm: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử".
+ Tại gia tòng phụ: tức người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải theo cha.
+ Xuất giá tịng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
+ Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
- Tứ Đức: bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có là: Cơng-Dung-Ngơn -Hạnh.
+ Cơng: khéo léo trong cơng việc.
+ Dung: hịa nhã trong sắc diện.
+ Ngơn: mềm mại trong lời nói.
+ Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người Qn tử phải đạt được ba điều trong quá trình Tu Thân:
- Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "Con đường" hay "Phương cách" ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tơi,
đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (trong sách Trung Dung), tương
đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường
hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "Trung Dung". Tuy nhiên, đến Hán nho
Ngũ Luân được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam

thường hay còn gọi là Tam Tòng.
- Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "Nhân - Trí - Dũng". Khổng Tử
nói: "Đức của người quân tử có ba đức mà ta chưa làm được. Người Nhân khơng lo buồn,
người Trí khơng nghi ngại, người Dũng không sợ hãi " (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh
Tử thay "Dũng" bằng "Lễ, Nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí".
Đến thời Hán nho thêm một đức nữa là "Tín" nên có tất cả năm đức là: "Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín". Năm đức này còn gọi là Ngũ Thường.
- Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về "Đạo" và "Đức", người quân
tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc" tức là người qn tử cịn phải có một vốn văn hóa
tồn diện.

Trang 8


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

* Hành đạo
Sau khi Tu thân, người quân tử phải Hành Đạo, tức là phải làm quan, làm chính
trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành "Tề gia, Trị quốc, Bình thiên
hạ". Tức là phải hồn thành những việc nhỏ là gia đình, cho đến lớn là trị quốc, và đạt đến
mức cuối cùng là Bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động
của người quân tử trong việc cai trị có hai phương châm:
- Nhân Trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và
coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác - sách
Luận ngữ). "Nhân" được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người
khơng có nhân thì lễ mà làm gì? Người khơng có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận
ngữ).
- Chính Danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người
phải làm đúng chức phận của mình. "Danh khơng chính thì lời không thuận, lời không

thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Cơng:
"Qn quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con"
(sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng
được tóm gọn lại trong chín chữ: "Tu Thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ". Và đến lượt
mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thơi.
Qn tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết Thi, Thư, Lễ,
Nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó cịn có thể chỉ những người có đạo đức mà khơng cần phải
có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà khơng có đạo đức thì được gọi là tiểu
nhân (như dân thường).
Những quan niệm Đạo Đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có
nhiều phương châm xử thế, đã giúp ơng sống giữa bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn
cao thượng, nhân cách trong sáng, suy đến cùng thì đạo làm người ấy bao gồm hai chữ
“Nhân Nghĩa”.
Khổng Tử giảng chữ "Nhân" cho học trị khơng lúc nào giống lúc nào, nhưng xét
cho kỹ, cốt tủy của chữ Nhân là lòng thương người như chính Khổng Tử nói: “Đối với
người như đối với mình, khơng thi hành với người những điều mà bản thân khơng muốn ai
thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì

Trang 9


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

mình muốn đạt tới thì phải làm cho người đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn
mà không làm cho người xấu đi” (Sách Luận ngữ).
“Nghĩa” là lẽ phải, đường ngay, việc đúng. Mạnh Tử nói: “Nhân là lịng người,
Nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” “Nhân là cái nhà của người, Nghĩa là đường đi
ngay thẳng của người”.
Do điều kiện lịch sử, ở nước ta, Nho giáo đã có lịch sử rất lâu đời. Từ khi nước ta

bị xâm lược và sáp nhập vào Trung Quốc, từ đời Hán (206 trước Công nguyên đến 220
sau CN), Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II sau công
nguyên) đã được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho học ở nước ta. Trong thời
kỳ tự chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo có vai trị
quan trọng trong đời sống tinh thần nước ta. Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo giành được ưu thế
so với Phật giáo, chi phối đời sống tinh thần nước ta. Đến thế kỷ XV, sau khi Lê Lợi chiến
thắng quân Minh (1428) nhà nước Lê sơ dành cho Nho giáo địa vị độc tôn- học thuyết
chính thống của nhà nước cuối thế kỷ đó, vào thời Lê Thánh Tông (làm vua từ 1460 đến
1497), nó đạt đến mức tồn thịnh. Từ thế kỷ XV, cho đến giữa thế kỷ XIX, thậm chí đến
đầu thế kỷ XX, trong đời sống tinh thần của nước ta, Nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi
phối. Ảnh hưởng của Nho giáo, do thực tế lịch sử đó rất lớn và được thể hiện trong truyền
thống văn hóa, phong tục và văn học, đặc biệt là trong văn học thời kỳ trung đại.
1.2 Khái quát về văn học trung đại Việt Nam
1.2.1 Hồn cảnh lịch sử
Năm 938, Ngơ Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra một kỉ
nguyên mới cho dân tộc: đất nước độc lập, chấm dứt hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc,
nhà nước phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển. Từ đây bắt đầu một giai đoạn hào
hùng với những chiến công vô cùng hiển hách của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần.
Văn học viết Việt Nam hình thành, thế kỷ X có sự xuất hiện của văn học viết chữ
Hán và đến TK XIII đánh dấu sự ra đời của văn học viết bằng chữ Nôm. Cảm hứng chủ
đạo là cảm hứng yêu nước với âm hưởng hào hùng, đặc biệt là giai đoạn nhà Trần với hào
khí Đơng A sục sơi. Từ thế kỷ XV, văn học chuyển dần sang cảm hứng thế sự và nhân
đạo.
Do tư duy nguyên hợp nên văn học trung đại có hiện tượng văn-sử-triết bất phân.
Văn học giai đoạn này phát triển và biến động theo sự vận động, phát triển cho đến cực

Trang 10


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.


thịnh của xã hội phong kiến Việt Nam (thế kỷ XV) và cũng phản ánh xã hội ở thời kỳ xã
hội phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng và tan rã.
1.2.2 Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam thời kỳ trung đại
1.2.2.1 Đặc điểm về nội dung
Văn học trung đại còn được gọi bằng những cái tên khác nhau như văn học thành
văn, văn học phong kiến, văn học cổ điển. Bởi từ TK X đến TK XIX, văn học trung đại
phát triển trong một môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ Nho giáo, lực lượng sáng
tác chủ yếu là tầng lớp trí thức, những người có trình độ cao, được đào tạo từ ''cửa Khổng
sân Trình'' và những sáng tác chỉ lưu truyền trong tầng lớp cơng chúng ấy, bên cạnh đó
văn học thời kì này cịn chịu ảnh hưởng bởi thi pháp văn chương cổ điển. Văn học trung
đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ nhưng không bao giờ tách rời khỏi cảm
hứng yêu nước; cảm hứng nhân đạo, thế sự.
Khi vận mệnh đất nước gặp nguy nan thì cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm
hứng yêu nước và văn học trung đại luôn bám sát lịch sử dân tộc, phản ánh những sự kiện
trọng đại liên quan đến vận mệnh đất nước. Cảm hứng yêu nước luôn gắn liền với tư
tưởng trung quân như là một tất yếu trong lịch sử xã hội phong kiến, bởi xã hội phong kiến
quan niệm nước là vua, vua là nước. Do đó văn học có một quan niệm: yêu nước là phải
trung với vua và trung với vua là phải yêu nước (trung quân ái quốc). Cảm hứng yêu nước
được thể hiện phong phú, đa dạng qua mội thời kì lịch sử, khi đất nước có giặc ngoại xâm
(căm thù giặc ngoại xâm, xót xa trước cảnh người bị đàn áp, ý chí tiêu diệt kẻ thù, sẵn
sàng xả thân vì nước), khi đất nước hịa bình (khát khao xây dựng Tổ quốc, yêu thiên
nhiên, con người, tự hào với truyền thống dân tộc), âm hưởng hào hùng, khi thì bi tráng,
khi thì trầm lắng, thiết tha.
Khi vận mệnh cá nhân con người, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người bị
đe dọa thì cảm hứng nhân đạo lại thăng hoa rực rỡ. Văn học trung đại Việt Nam ln gắn
bó với số phận con người. Cảm hứng nhân đạo có hàm chứa cảm hứng yêu nước bởi có
những bài ca yêu nước thể hiện nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận con người. Tư tưởng
nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam là sự kế thừa của truyền thống tư tưởng lớn
của con người Việt Nam: thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; tư tưởng

của Phật giáo: từ bi bác ái, yêu thương con người rộng rãi; và tư tưởng của Nho giáo: cái
nhân, cái nghĩa. Điều này được thể hiện một cách đa dạng qua việc ca ngợi vẻ đẹp con
người, đồng cảm với bi kịch con người, đồng tình với ước mơ, khát vọng của con người,

Trang 11


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

lên án các thế lực bạo tàn. Tư tưởng nhân đạo được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong
nội dung của tác phẩm Truyện Kiều, đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ nghĩa.
1.2.2.2 Đặc điểm về nghệ thuật
Văn học trung đại Việt Nam nổi bật với hai đặc trưng cơ bản về nghệ thuật là tính
quy phạm, bất quy phạm và tính trang nhã.
Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được
định sẵn mà người sáng tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác. Biểu
hiện ở nhiều đặc điểm. Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức. Sáng
tác có lúc để tiêu khiển, thù tạc nhưng mục đích chung của các vị thánh hiền là giáo hóa
cuộc đời. ''Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngơn chí'', văn thơ sáng tác là để giáo huấn đạo đức,
văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý chí, bày tỏ lịng mình. Ngơn ngữ sáng tác gồm
chữ Hán và chữ Nôm nhưng chữ Hán được xem là chính thống. Tư duy nghệ thuật thì ln
cho rằng cái đẹp thuộc vào những khn mẫu định sẵn (xuân hạ thu đông, tùng trúc cúc
mai, long li quy phượng, ngư tiều canh mục). Và thể loại chủ yếu là những thể loại văn
học có kết cấu cố định, chặt chẽ về số câu, số chữ, niêm luật, đối (ví dụ thơ Đường luật,
cáo, phú, văn tế). Cịn hình ảnh trong thơ văn (văn liệu, thi liệu) là từ sử sách, rất lắm điển
tích, điển cố hay có trong văn học Trung Hoa.
Bất quy phạm có nghĩa là khơng chịu gị mình, tự cởi trói khỏi khn khổ, những
quy định ràng buộc trong quá trình sáng tác. Suốt 10 thế kỷ, văn học trung đại cũng đã phá
bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và hình thức thể hiện.
Các tác giả đã có nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm rất thành công như Quốc âm thi tập

của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du,..
Văn chương Trung đại Việt Nam có tính quy phạm là do nước ta giáp với Trung
Quốc, một nền văn minh cổ của nhân loại. Hơn nữa Việt Nam còn phải chịu hơn 1000
năm phong kiến Bắc thuộc. Phong kiến phương Bắc ln có ý đồng hóa dân tộc Việt Nam
nên người Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố Hán và văn hóa Hán. Và đến khi dân
tộc ta giành được độc lập thì nước ta xây dựng nhà nước theo hình thái xã hội phong kiến,
một xã hội của chữ Lễ mà có thể coi quy phạm là một biểu hiện của chữ Lễ đó. Tơn ti cao
thấp là đặc trưng của xã hội phong kiến nên văn chương cũng có loại cao loại thấp. Tính
chất cao quý từ quan niệm nguồn gốc, quan niệm sáng tác và sinh hoạt thơ văn xưa cũng
đẻ ra tính quy phạm. Tuy vậy nhưng chúng ta một mặt tiếp thu những tinh hoa của văn học
Trung Quốc nhưng mặt khác lại cũng không ngừng phát triển văn học của đất nước mình

Trang 12


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

theo xu hướng dân chủ hóa, dân tộc hóa. Do vậy người Việt Nam đã cố gắng phá vỡ tính
quy phạm.
Tính trang nhã là đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật
hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Dần dần,
văn học Việt Nam cũng đã có những nỗ lực khơng nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân,
gần gũi với đời sống của con người Việt Nam.

Chương 2 – TƯ TƯỞNG NHO GIÁO TRONG MỘT SỐ TÁC
PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI

2.1 Nguyên nhân của sự ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo trong văn học trung đại Việt
Nam
2.1.1 Nguyên nhân khách quan

Lịch sử Việt Nam có hơn 1000 năm Bắc thuộc. Thời kỳ độc lập tự chủ được tính từ
sự kiện Ngơ Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Mặc dù
vậy, từ năm 938 nước ta vẫn khơng phải hồn tồn độc lập mà trải qua q trình vừa xây
dựng củng cố, phát triển đất nước thời với sự nghiệp chống ngoại xâm, chống lại chính
sách đồng hóa của phương Bắc khơng thời nào là khơng thường trực. Chính vì vậy, xã hội,
văn hóa phong tục của người Việt không tránh khỏi sự ảnh hưởng từ những tư tưởng tiến
bộ từ Trung Quốc. Trong đó có nhiều tư tưởng từ triết học Nho giáo.
2.1.2 Nguyên nhân chủ quan
Mặt khác, từ rất lâu sau khi đất nước bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, chúng ta vẫn
chưa có một văn tự dân tộc. Vì vậy, trong rất nhiều năm, văn tự của nước ta là chữ Hán và
đến tận khi chữ Nôm ra đời, văn tự Hán vẫn được coi là loại chữ chính thống trong một
thời gian dài. Ngoài ra, đa số triều đại phong kiến nước ta lấy Nho giáo làm học thuyết
chính thống cho sự tổ chức, quản lý và phát triển đất nước, đặc biệt là vào thế kỷ XV –
giai đoạn mà Nho giáo đạt đến mức độ toàn thịnh ở nước ta.
Với hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc và hàng trăm năm chống Bắc thuộc,
chuyện văn chương Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán là khơng thể tránh khỏi.
Thể loại chủ yếu là các thể loại của văn học Trung Quốc, trong các tác phẩm có nhiều thi

Trang 13


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

pháp cổ điển và hình ảnh trong văn học Trung Quốc. Nho giáo ảnh hưởng đến thế giới
quan, nhân sinh quan, lý tưởng thẩm mỹ của đa số tầng lớp sáng tác văn chương thời kỳ
này. Bởi vì, tầng lớp nhà văn, nhà thơ thời kỳ trung đại cũng đa số là những người học
theo học thuyết Nho giáo.
2.2 Tư tưởng triết học Nho giáo thể hiện trong văn học trung đại Việt Nam
2.2.1 Tư tưởng thiên mệnh của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó trong văn
học trung đại Việt Nam

2.2.1.1 Sơ lược tư tưởng thiên mệnh của Nho giáo
Sinh thời Khổng Tử rất ít bàn đến những vấn đề trừu tượng thuộc bản thể, ít bàn
đến chuyện quỷ thần. Tuy nhiên, trong nghị luận nhiều chỗ ơng nói đến “Trời”, “Mệnh
Trời” để trình bày ý kiến của mình. “Trời” đối với Khổng Tử có chỗ như là một quy luật,
là trật tự của vận vật (“Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, vạn vật vẫn sinh
trưởng”), có chỗ ơng khẳng định trời có ý chí (“Than ôi! Trời làm mất đạo ta”; “Mắc tội
với trời khổng thể cầu ở đâu mà thốt được”). Ý chí của Trời là thiên mệnh (Mệnh lệnh
của trời: Mệnh trời). Thiên mệnh nói vắn tắt là mệnh. Ơng cho rằng mỗi cá nhân, sự sống chết, phú quý hay nghèo hèn đều là do thiên mệnh quy định.
Thật ra thuyết Định mệnh chỉ là cái mặt ngoài của Luật Nhân Quả, bởi vì trong
Luật Nhân Quả, Trời khơng sắp đặt số phận cho ai hết, mà chính con người tự sắp đặt lấy
cuộc đời của mình, tự sắp xếp số phận mình. Trời chỉ cầm cây cân Cơng bình thiêng liêng
để kềm giữ Luật Nhân Quả thể hiện đúng và đủ một cách chính xác.
Thuyết Thiên mệnh của Nho giáo gồm 4 điểm sau đây:
- Tri mệnh.
- Phối mệnh.
- Sĩ mệnh.
- Úy mệnh.
Tri mệnh: Biết mệnh Trời mà tuân theo.
Tri mệnh rất khó. Muốn biết được mệnh Trời thì phải chế ngự tư dục, không để cho
tư dục làm mờ ám lương tâm, để cái bổn tánh thiện được tỏ rạng, để cái lương tri lương
năng hoàn toàn sáng suốt mà suy tính, rồi mới đem hết năng lực ra mà làm thì lúc đó sẽ
biết được mệnh Trời, nên có câu: Tận nhân lực, tri Thiên mạng.

Trang 14


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Đức Khổng Tử là bậc đại trí mà cịn nói rằng: Ngũ thập nhi tri Thiên mệnh (50 tuổi
Ngài mới biết mệnh Trời).

Phối mệnh: Kết hợp với mệnh Trời. Phải luôn luôn trau dồi đức hạnh để luôn luôn
xứng đáng là một con người với danh nghĩa là một Tiểu Thượng Đế.
Sĩ mệnh: Đợi mệnh Trời. Khơng nên có thái độ nóng vội hay chán nản, than van,
mà cứ giữ tâm tánh luôn luôn được an nhiên mà chờ đợi mệnh Trời. Sách Trung Dung có
câu: Thượng bất ốn Thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị sĩ mệnh. Nghĩa là: Trên khơng ốn
Trời, dưới khơng trách người, cứ ở bình dị mà đợi mệnh Trời.
Úy mệnh: Sợ mệnh Trời. Sợ mạng Trời để kính trọng và sửa mình, chớ khơng phải
sợ để xa lánh, bởi vì dù có xa lánh cũng không khỏi được.
2.2.1.2. Tư tưởng thiên mệnh trong văn học trung đại Việt Nam
Ở Việt Nam, tư tưởng thiên mệnh có ảnh hưởng sâu đậm và lâu bền trong truyền
thống văn hóa phong tục và cịn tồn tại cho đến ngày nay, mỗi khi gặp những bất trắc
trong cuộc sống, người Việt vẫn than rằng “số trời”, “số phận” hay gặp những thất bại
trong những kế hoạch, việc làm, họ vẫn tự an ủi mình với câu “Mưu sự tại nhân, thành sự
tại thiên”.
Lý Thường Kiệt trong Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) – một văn bản vẫn
được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, để khẳng định quyền độc lập
của dân tộc, thoát ly khỏi sự lệ thuộc vào phương Bắc, thay vì dùng cương vực lãnh thổ,
văn hóa, phong tục, lịch sử,… thì do những sự hạn chế trong trong hệ tư tưởng đương thời
và sự ảnh hưởng sâu đậm từ tư tưởng “Thiên mệnh” của Nho giáo, ơng đã tìm đến Trời
như là một quy luật của vạn vật, để khẳng định sự độc lập của nước ta là do ý trời, do
Thiên mệnh.
Văn bản Nam quốc sơn hà (南國山河), nguyên tác chữ Hán:

南國山河南帝居
截然定分在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看取敗虛
Phiên âm:
“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư


Trang 15


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Tạm dịch là:
“Sông núi nước Nam, Hồng Đế nước Nam ở,
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời.
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm,
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong”.
Nguyễn Du (1766–1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), là một
nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính
trọng vinh danh là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hịa bình
thế giới cơng nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Trong di sản văn chương, Nguyễn Du để lại một số lượng lớn các tác phẩm thơ ca
(gồm chữ Hán và chữ Nơm) trong đó tiểu biểu nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều (chữ
Nôm: 傳翹), tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ chữ Nôm theo thể lục bát,
dựa theo tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đem thuyết “tài mệnh tương đố” làm luận đề cho
sự luận giải những bất hạnh của người phụ nữ, mở đầu tác phẩm có đoạn:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Chữ “mệnh” là số mệnh, số phận của mỗi người. Mặc dù Nguyễn Du, trong kiến
giải tác phẩm chú ý nhấn mạnh ở sự đố kỵ giữa “tài” và “mệnh”, song qua toàn bộ tác
phẩm, ta nhận thấy ở tác giả chịu sự ảnh hưởng từ tư tưởng thiên mệnh của Nho giáo.

Điều này khơng khó cắt nghĩa bởi Nguyễn Du cũng là một nhà Nho, từng làm quan, giám
khảo trường thi theo khoa cử Nho giáo. Đồng thời, ông cũng đã từng đi sứ Trung Quốc –
đó vốn là điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc và mở rộng nhận thức về Nho giáo.
Cũng trong sự lý giải nguyên nhân đọa đày, đau khổ của số phận con người,
Nguyễn Du đã khơng ít lần nhắc đến trời như là một quy luật chi phối cuộc sống, số phận
con người:

Trang 16


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

“Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
Nguyễn Du – Kiều
2.2.2 Tư tưởng nhân nghĩa và lấy dân làm gốc
2.2.2.1 Tư tưởng nhân nghĩa
Nói nhân nghĩa là chủ yếu nói "Nhân", mà "Nhân" là xương sống của thuyết
Khổng Tử. Nhân là quan hệ đạo đức giữa người với người trong xã hội. Khổng Tử đã giải
thích “Nhân” tùy theo từng trường hợp cụ thể. Nhưng nói chung nhân là bỏ hết tư dục, là
yêu người, là khơng làm cho người khác cái gì mà mình khơng muốn người khác làm cho
mình. Nhân là chí cơng vơ tư, bỏ hết tư tâm. Người có nhân là người chân thực, giàu tình
cảm, hiếu để, trung thứ. Kẻ bất nhân là kẻ chứa chấp nhiều trí thuật, láu lỉnh, tai quái...Thế
gian nhờ có nhân mà có, vạn vật nhờ có nhân mà sinh, quốc gia nhờ có nhân mà tồn tại, lễ
nghĩa nhờ có nhân mà được dựng ra.
Ở nước ta, Nguyễn Trãi là người tiếp thu và vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của
Nho gia một cách đúng đắn và sáng tạo nhất.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) hiệu là Ức Trai, là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu

ngoại của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, quê ở Thường Tín, Hà Tây. Năm 20 tuổi, ơng thi
đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới triều Hồ rồi làm Ngự sử đài chính trưởng. Khi quân Minh
xâm lược và đơ hộ, ơng lưu lạc nhiều nơi để tìm đường cứu nước. Ông đã từng giữ nhiều
chức vụ quan trọng trong triều đình.
Nguyễn Trãi đã đến với phong trào Lam Sơn là để "rửa nhục cho nước, trả thù cho
cha" là để "lo vận nước", "cứu lê dân" để "rửa nhục ngàn thu", để "xã tắc vững bền", "non
sông đổi mới" và để "mở nền thái bình mn thuở". Lê Lợi đã tin và lấy kế sách đánh giặc
của ông trong Bình Ngơ sách để cứu nước, cuối cùng đã thành công, non sông thu về một
mối.
Nguyễn Trãi đã tiếp thu Nho giáo từ nhỏ, trong đó sâu sắc nhất là thuyết "Nhân
nghĩa". Qua "Nguyễn Trãi toàn tập", khái niệm được ông đề cập đến nhiều nhất, trân trọng
nhất và chân thành nhất là "Nhân - Nghĩa". Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi
viết đến 140 lần hai chữ "Nhân", "Nghĩa". Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể
hiện rõ nhất qua tác phẩm Bình Ngơ đại cáo.

Trang 17


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Với Nguyễn Trãi, trước hết, “nhân nghĩa cốt ở an dân". Nhân nghĩa như vậy chính
là yêu nước, thương dân, đánh giặc, trừ bạo cứu nước, an dân; trong đó, “an dân” là mục
đích của nhân nghĩa, cịn “trừ bạo” là đối tượng và phương tiện của nhân nghĩa:
“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo”.
Dịch nghĩa là:
“Làm việc nhân nghĩa, cốt yếu làm cho dân được yên,
Quân điếu phạt, trước hết phải trừ bạo ngược”.
Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi trước hết là một đường lối chính trị, một chính sách cứu
nước và dựng nước. Với lịng thương người, tình người, sự chân thành, sự khoan dung độ

lượng, Nguyễn Trãi không chỉ dạy cho mọi người hiểu và làm điều nhân nghĩa, mà tư
tưởng nhân nghĩa của ơng cịn là phương tiện tốt nhất để thuyết phục kẻ thù, cảm hóa
những kẻ lầm đường, thu phục lòng người. Đây là nét độc đáo trong tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi, gọi là chiến lược “tâm cơng”, nghĩa là “đánh vào tấm lịng bằng tấm
lịng”. Chiến lược này đã được Nguyễn Trãi thâu tóm linh hồn, chất tinh tuý từ trong các
sách về binh pháp xưa.
Lòng thương yêu nhân dân của Nguyễn Trãi hết sức sâu sắc. Khi lên án quân xâm
lược, chủ yếu ông lên án tội ác của chúng đối với nhân dân với một thái độ hết sức phẫn
nộ, thống thiết vì dưới nanh vuốt của quân thù cuộc sống của nhân dân bi đát đến tột đỉnh,
tính mạng con người như cỏ rác. Trong "Bình Ngơ đại cáo" ơng viết:
“Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức”.
Dịch nghĩa:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”.

Trang 18


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm và thái độ đối xử
với kẻ thù đã đầu hàng. Nó khơng chỉ là một sự tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo
mà còn thể hiện đậm nét đức “hiếu sinh”, “khoan dung” và lòng nhân ái của dân tộc Việt.

Nguyễn Trãi, cũng như Lê Lợi, chủ trương không giết kẻ thù đã đầu hàng để hả giận tức
thời:
“Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách
dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thơng, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên
dư thất, dĩ hồn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành,
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức”.
Nghĩa là:
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển
mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà
vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lịng,
Ta lấy tồn qn là hơn, để nhân dân nghỉ sức”.
2.2.2.2 Tư tưởng lấy dân làm gốc
Lấy dân làm gốc gắn liền với tư tưởng nhân nghĩa, bởi “nhân” là yêu thương con
người, yêu dân.
Mạnh Tử là người khởi xướng tư tưởng lấy dân làm gốc, ơng nói: “Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, sau rồi đến xã tắc, vua là nhẹ nhất trong ba
cái ấy).
Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là: “Dân là gốc nước, gốc vững,
nước yên” (Dân duy bang bản, bản cố, bang ninh). Điều đó được nói trong sách Kinh Thi.
Hoặc: “Đường lối được dân chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước” (Đạo đắc
chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc) (Theo sách Đại học, NXB Khoa học Xã hội,


Trang 19


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

1991 tr.119). Nho gia yêu cầu các bậc trị quốc phải bảo đảm cho người dân có đời sống tối
thiểu để họ: “ngẩng lên đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ con”
(sử ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử) (Theo Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử
triết học phương Đông tập II Nxb T.p Hồ Chí Minh, 1991 tr.61). Kinh Thư viết: “Đối với
dân nên gần, không nên coi là thấp hèn” (dân khả cận, bất khả hạ). Khổng Tử nhắc nhở
những người cầm quyền: “Sai khiến dân phải cẩn thận như điều hành một cuộc tế lễ lớn”
(Sử dân như thừa đại lễ).
Tư tưởng lấy dân làm gốc là một đóng góp tích cực của Nho giáo trong đường lối
chính trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tư tưởng này cũng ảnh hưởng sâu sắc
đến đường lối trị nước của các triều đại phong kiến nước ta, và thậm chí đến ngày nay, tư
tưởng này vẫn cịn ngun giá trị.
Sinh thời, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn luôn coi trọng dân, ngay cả lời
dặn dị cuối cùng ơng nói với vua Trần Anh Tơng là việc lấy dân làm gốc, ơng nói: "Phải
khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà.
Trong văn chương, Nguyễn Trãi là người đề cập một cách đầy đủ nhất tư tưởng lấy
dân làm gốc, tư tưởng này thể hiện rõ nhất trong tác phẩm Bình Ngơ đại cáo.
“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo”.
Dịch nghĩa là:
“Làm việc nhân nghĩa, cốt yếu làm cho dân được yên,
Quân điếu phạt, trước hết phải trừ bạo ngược”.
Như vậy, việc “nhân nghĩa” ở đây chính là chống lại bạo ngược, chống lại những
thế lực bạo tàn, và việc này khơng ngồi một mục đích nào cao hơn nữa đó là làm cho dân
chúng được sống trong cảnh thái bình.
Và chiến thắng, cội nguồn là từ việc tập hợp được sức mạnh nhân dân:

“Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm”.
Dịch là:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào”.

Trang 20


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Một nhà Nho khác, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ngun có tên là Nguyễn
Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức 22 (1491), tại làng Trung Am, huyện
Vĩnh Lai, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành
phố Hải Phòng. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người được đào tạo căn bản ở Quốc tử giám, có tri
thức nho học uyên thâm. Khi chưa làm quan, ông mở trường dạy học, khi làm quan, ông
giảng dạy Thái tử, hàng tháng đến trường thi Mao Điền giảng kinh sách cho học sinh. Khi
thối triều, ơng về quê, dựng trường dạy học, mở mang dân trí, làm thơ văn truyền đạt, văn
hóa và lý tưởng của mình. Ông làm thơ như người ta viết ký sự, mọi sự việc trong cuộc
sống hàng ngày ông đều suy ngẫm, rồi thể hiện thành thơ đầy triết lý sâu xa, cho vua chúa
đến thứ dân. Thơ đối với ông như một phương tiện chuyển tải tư tưởng, phổ biến triết lý
cuộc sống, đúng với tinh thần Văn dĩ tải đạo. Để nói với vua chúa, ơng viết:
“Cổ lai, quốc dĩ dân vi bản,
Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”.
Tạm dịch là:
“Xưa nay, nước lấy dân làm gốc,
Được nước nên biết mà phải được lòng dân”.
2.2.3 Một số tư tưởng khác
2.2.3.1 Tu tưởng Tu thân, Hành Đạo của người quân tử
Quân tử trong quan điểm của Nho giáo ban đầu là những người cai trị. Sau đó có sự

biến đổi dần bao gồm cả những người có đạo đức. Theo Khổng Tử, người quân tử cần
phải biết Tu Thân và Hành Đạo.
Tu thân là tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân, tu dưỡng đạo đức. Trong quá trình
tu thân, người quân tử cần phải Đạt Đạo, Đạt Đức và phải biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc.
Sau khi Tu thân, người quân tử phải Hành Đạo, tức là phải làm quan, làm chính
trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành "Tề gia, Trị quốc, Bình thiên
hạ". Tức là phải hồn thành những việc nhỏ là gia đình, cho đến lớn là trị quốc, và đạt đến
mức cuối cùng là Bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ).
Ở Việt Nam, những nhà Nho cũng Tu thân và Hành Đạo theo như quan điểm Nho
giáo, tư tưởng này được cụ thể trong văn chương thành chí làm trai “Chí làm trai nam bắc
tây đông; Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”. Văn chương trung đại Việt Nam có 2 quan

Trang 21


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

niệm thể hiện chí tu thân và hành đạo của nhà nho, đó là quan niệm “Văn dĩ tải đạo” và
“Thi ngơn chí”.
Phạm Ngũ Lão trong Thuật hồi viết:
“Hồnh sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam qn tì hổ khí thơn ngưu.
Nam nhi vị liễu cơng danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.
Dịch nghĩa:
“Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sơng đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ cơng danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu”.
Với Phạm Ngũ Lão, là thân nam nhi thì phải trả xong nợ “cơng danh”, khơng làm

được điều đó thì “thẹn” khi nghe người đời nói chuyện Gia Cát Lượng. Công danh tức là
lập thân và lập danh, đó cũng là tu thân và hành đạo của người quân tử trong quan niệm
Nho giáo.
Phan Bội Châu – tên tuổi đẹp một thời, là linh hồn của các phong trào vận động
giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức
yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi
Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế
và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Trong bài thơ “Xuất dương lưu biệt”,
ông viết:
“Sinh nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khơn tự chuyển di”.
Nghĩa là:
“Sinh ra làm thân nam nhi thì phải làm điều khác lạ,
Lẽ nào lại để trời đất tự động chyển dời”.
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều
lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ
động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện

Trang 22


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn
làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời.
Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho mù với lịng u nước đáng kính cũng đã từng
thể hiện quan niệm “chở Đạo” và chiến đấu của văn chương:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền khơng khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Nguyễn Đình Chiểu – Dương Từ - Hà Mậu

Hay, người quân tử là phải luôn nhớ câu “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã, lâm nguy
bất cứu mạc anh hùng”.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Nguyễn Đình Chiểu – Lục Vân Tiên
Tư thế và ý chí của người quân tử, thân nam nhi cũng được thể hiện trong những
sáng tác của Nguyễn Trãi, trong Tùng có đoạn:
“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông”.
Mùa thu mới đến thế mà “cây nào” cũng như cây nào đều “lạ lùng” khác lạ, chỉ
“một mình” cây tùng là lạt lẽo, thản nhiên với cả ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Câu 1 là câu
thất ngôn, câu thứ 2 rút ngắn lại thành lục ngôn, giọng thơ đĩnh đạc, chắc nịch như một
thách thức: “Một mình lạt thuở ba đơng”. Chỉ một mình cây tùng trước ba tháng mùa đơng
lạnh lẽo, nó vẫn “lạt”, vẫn coi thường, lá nó vẫn xanh tươi. Đặc điểm ấy của cây tùng cũng
chính là phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần
vượt khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hồn cảnh ác liệt, quyết không a dua theo
thời, không sống một cách tầm thường.
Đặc điểm thứ hai của cây tùng được nói rõ ở khổ thơ tiếp theo:
“Cội rễ bền, đời chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”.
Trong tuyết sương lạnh lẽo, ác liệt, cây tùng không chỉ “lạt thuở ba đơng” chín mươi
ngày mà dáng tùng, sắc tùng vẫn xanh tươi “thấy đã đặng nhiều ngày”, nghĩa là nhiều năm
tháng, đứng vững trước những thử thách trong mọi thời gian. Sức sống mãnh liệt, kiên

Trang 23


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

cường của tùng là do “sâu rễ, bền gốc”, là bởi “Cội rễ bền, dời chẳng động”. Tùng không

chỉ coi thường sương tuyết mùa đơng mà nó cịn đứng vững, chẳng lung lay trước gió bão.
Một làn nữa, câu lục ngơn xuất hiện với hai vế tiểu đối cất lên như một thách thức bất
chấp mọi bão tố: “Cội rễ bền//dời chẳng động”. Và đó chính là phẩm chất của người quân
tử, của đấng trượng phu giữ vững khí tiết, bất chấp mọi gian khổ, mọi thử thách ác liệt
trước những biến cố dữ dội trong cuộc đời, trong mình, của gia tộc mình, từng “nếm mật
nằm gai” trong suốt hai mươi năm trời khi quân “cuồng Minh” giày chèn ép, Ức Trai vẫn
“Chẳng động”, tấm lòng ưu ái, trung hiếu của ông vẫn trong trắng, sắt son “mài chăng
khuyết, nhuộm chăng đen”. “Cội rễ bền” bởi lẽ tâm hồn ông lúc nào cũng gắn bó với đất
nước và nhân dân bằng “một tấm lòng son ngời lửa luyện - Mười năm thanh chức ngọc hồ
băng”.
2.2.3.2 Về Tam tòng, Tứ đức với người phụ nữ
Tam tòng là 3 điều mà người phụ nữ phải theo, cụ thể là “Tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
Qua văn chương trung đại Việt Nam, chúng ta nhận thấy quan niệm này ảnh hưởng
sâu sắc đến quan niệm, lối sống của người Việt. Thúy Kiều đã lấy nó như một lẽ phải để
nàng thuyết phục Từ Hải:
“Nàng rằng: phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Nguyễn Du – Kiều.
Tứ đức là 4 tính nết người phụ nữ cần có, gói gọn lại trong 4 chữ: Cơng - Dung Ngôn - Hạnh. Trong Gia huấn ca, phần dạy con gái đức hạnh, Nguyễn Trãi viết:
“Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lịng phải chăm học khéo học khơn,
Một mai xuất giá hồi môn,
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.


Trang 24


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, cơng, ngơn, hạnh là tiên phàm trần”.
Ngoài ra, vấn đề về chung thủy, giữ gìn trinh tiết của Nho giáo cũng trở thành
những giá trị chuẩn mực, thước đo đạo đức của người phụ nữ Việt Nam trung đại. Bởi vậy
nên, trong văn học trung đại đã có khơng ít những nhân vật nữ cam chịu bất hạnh, thủ tiết
thờ chồng, an phận thủ thưởng dù cho cuộc đời quá bất công với họ. Đó khơng chỉ là nàng
Vũ Nương vì khơng thể giải nỗi oan cho mình mà phải trẫm mình đáy sơng để rửa nhục,
đó là những người chinh phụ mịn mỏi chờ chồng cho dù ý thức rất sâu sắc về khoảng đời
xuân sắc dẫu đã ngẫm đến câu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, đó cịn là những người
cung nữ tài sắc suốt đời vẫn khát khao có lại những cuộc ân ái hiếm hoi khi xưa "giọt mưa
cửu hạn còn mơ đến rày", vẫn mong chờ được nhà vua đối hồi đến trong nỗi niềm tuyệt
vọng:

“Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi
Những hương sầu phấn tủi sao xong?
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa”?
Nguyễn Gia Thiều – Cung oán ngâm
Ngay cả Hồ Xuân Hương – người phụ nữ có thể được coi là mạnh mẽ nhất trong
văn chương trung đại, nhiều khao khát vượt qua bức tường Nho giáo hà khắc nhưng rồi
trong vòng cương toả của tư tưởng nam quyền, có lúc cũng phải ngậm ngùi:

Trang 25


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xn lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Hồ Xn Hương – Tự tình (bài II)
Là một nhà Nho, tuy thời đại đã có nhiều sự biến đổi trong hệ tư tưởng xã hội, Nho
giáo khơng cịn giữ vị trí độc tơn như giai đoạn trước đó, triều đình phong kiến theo Nho
giáo đã đi đến đỉnh điểm của sự thối trào, mục ruỗng, phản động, Nguyễn Đình Chiểu
trong “Lục Vân Tiên” vẫn cho rằng:
“Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trao mình”.
Điều đó một lần nữa khẳng định, những tư tưởng triết học Nho giáo ảnh hưởng đến

văn hóa, phong tục, lối sống của người Việt một cách sâu rộng, lâu bền và điều đó một
phần được thể hiện qua các tác phẩm văn học trung đại.

Trang 26


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

PHẦN KẾT LUẬN

Trong thời kỳ phong kiến, Nho giáo ở Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu phát
triển của nền kinh tế tiểu nông gia trưởng. Trên phương diện văn hoá - giáo dục, ngay từ
thời Lý, khi được coi trọng và giữ vị trí là nền giáo dục chính thức của nhà nước phong
kiến, Nho học đã thể hiện rõ vai trị của một nền giáo dục có cơ chế, bài bản và đầy sức
sống. Do đó, nó đã tạo ra một bước tiến vượt bậc về nội dung giáo dục, cũng như về mặt
tổ chức và thực thi việc giáo dục và thi cử. Sang thời Trần, nhờ sự phát triển của nền
giáo dục Nho học mà tầng lớp Nho sĩ ngày càng đơng đảo. Họ tích cực tham gia chính
sự, cũng như tham gia vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật, học thuật và tư tưởng
đương thời. Chính vì thế, lúc bấy giờ, Nho giáo đã thực sự thúc đẩy các hoạt động văn
hoá của nước Đại Việt tiến lên phía trước.
Hệ tư tưởng Nho giáo bên cạnh một số biểu hiện tiêu cực thì nó vẫn có rất nhiều
những mặt tích cực nếu được tiếp thu một cách phù hợp và sáng tạo. Một thành cơng đáng
trân trọng của Nho giáo phải kể đến đó là trên phương diện giáo dục. Những phẩm chất
mà Nho giáo yêu cầu đối với quá trình tu thân của mỗi người ngày nay tuy khơng cịn
ngun giá trị như trước đây nhưng nó đã trở thành những chuẩn mực cần thiết mà trong
quá trình tự giáo dục ai cũng cần phải chú ý đến. Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín hay Cơng-DungNgơn-Hạnh là những phẩm chất mà ngay thời đại ngày nay nó vẫn hết sức cần thiết cho
mọi người.
Người Việt Nam, với tinh thần ham học hỏi và sáng tạo đã tiếp nhận Nho giáo có
sự chọn lọc cần thiết. Phẩm chất hiếu học, tơn sư trọng đạo của người Việt có thể xuất
phát từ nhiều nguyên nhân song không thể phủ nhận có nguyên nhân từ những học thuyết,

những tấm gương điển hình trong kinh điển Nho gia.
Từ thời Pháp thuộc cho đến khi đất nước được hoàn toàn độc lập, đã có lúc người ta
bài Nho nhưng đó là thái độ khơng phù hợp vì thiếu tính biện chứng. Bởi lẽ, thứ nhất, xem
xét một hệ tư tưởng cần phải gắn nó vào những điều kiện nhất định, và ở điểm này, Nho
giáo đã có những đóng góp tích cực bậc nhất cho sự hưng thịnh của các triều đại phong
kiến Việt Nam, giá trị lịch sử ấy không thể phủ nhận. Thứ hai, sự phủ định tuyệt đối một
học thuyết nào đó bao giờ cũng rơi cực đoan, vì rằng phủ định biện chứng cần phải kế

Trang 27


Tiểu luận Triết học: Tư tưởng Nho giáo trong một số tác phẩm Văn học Việt Nam thời trung đại.

thừa, tiếp thu, cải tạo những giá trị cũ, vì cái mới, cái tiến bộ bao giờ cũng phải được hình
thành trên cái cũ, cái lạc hậu.
Nho giáo phát triển và ảnh hưởng đến Việt Nam mạnh mẽ nhất vào thời kỳ phong
kiến. Cùng phát triển và phản ánh hiện thực trong giai đoạn này, văn học trung đại Việt
Nam phản ánh những tư tưởng Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam qua các tác phẩm
văn học là một tất yếu khách quan. Chính vì vậy, nghiên cứu và giảng dạy văn học trung
đại Việt Nam cần thiết phải nghiên cứu những tư tưởng Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó
đối với đời sống hiện thực xã hội Việt Nam thời trung đại. Trong khuôn khổ một tiểu luận,
với vốn thời gian khiêm tốn để nghiên cứu về những tư tưởng Nho giáo và sự phản ảnh
của nó trong văn học trung đại Việt Nam, dù đã hết sức cố gắng song nội dung và hình
thức của tiểu luận chắc chắn sẽ còn rất nhiều khiếm khuyết và thiếu sót, bản thân em sẽ
tiếp tục nghiên cứu vấn đề này một cách sâu sắc hơn.
Tp. HCM, ngày 10 tháng 01 năm 2014
Học viên thực hiện

Lê Quang Trọng


Trang 28


×