Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận động theo chế thị trường có quản lý nhà nước theo định hướng XHCN chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta thời kỳ độ lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.58 KB, 64 trang )

Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là một
chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Thực hiện chủ trương trên, từ đại hội Đảng lần thứ 6(Tháng 12 1990) đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính
sách nhằm khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
triển. Từ đó, các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp tư
nhân(DNTN),công ty trách nhiệm hữu hạn(TNHH),công ty cổ phân(CTCP)
đã phát triển nhanh chóng đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Song nhìn chung quy mô hoạt động của các doanh nghiệp thì đến
nay ở nước ta có tới 70% doanh nghiệp nhà nước(DNNN) và hầu hết các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh(DNNQD) thuộc loại doanh nghiệp vừa và
nhỏ (DNVVN)
Hiện nay, DNVVN ở nước ta tuy có tốc độ phát triển tương đối khá
nhưng đang gặp khó khăn nhiều mặt: thiết bị, công nghệ lạc hậu, trình độ
tổ chức và quản lý yếu kém, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm
kém , giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập
lậu và hàng hoá của các doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt.
Nhưng khó khăn lớn nhất hiện nay là vốn hiện có của hầu hết các
DNVVN rất ít trong khi đó nhu cầu vốn để các doanh nghiệp này mở rộng
sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ lại đòi hỏi rất lớn. Do đó, việc nghiên
cứu thực trạng tín dụng ngân hàng nhằm tìm ra các giải pháp chủ yếu để
mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ cho các DNVVN là một
vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn về vai trò của tín dụng của
ngân hàng nói chung và của ngân hàng công thương Ba Đình nói riêng đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thực trạng hoạt động sản xuất kinh


doanh của các doanh nghiệp này để tìm ra các giải phát cơ bản nhất nhằm
hỗ trợ cho các DNVVN phát triển theo hướng công nghiệp hoá(CNH) và
hiện đại hoá( HĐH) .
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài có nhiệm vụ :

1


-Luận giải vai trò của DNVVN và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự
phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần ở nước ta
-Đánh giá thực trạng tín dụng ngân hàng trong những năm qua và sự hỗ trợ
của nó đối với các DNVVN
-Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về giải pháp tín dụng ngân hàng hỗ
trợ cho các DNVVN
-Đề xuất một số giải pháp tín dụng ngân hàng đối sự phát triển DNVVN ở
nước ta trong quá trình CNH và HĐH
3.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm ba chương,9 tiết và danh
mục các tài liệu tham khảo

2


Chương I

Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với
việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền

kinh tế thị trường.
1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Hiện nay, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và
nhỏ phát triển nhất là các chính sách về tài chính, tín dụng đang được thực
hiện rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. ở Việt Nam vấn đề này đã và đang
được đặt ra, thể hiện ở việc xây dựng và thực hiên các chính sách, chương
trình nhằm khuyến khích và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ phát triển.
Song việc xây dựng các chính sách đối với sự phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn gặp không ít khó khăn. Vì cho đến nay, chúng ta
chưa có một định nghĩa tương đối đầy đủ về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhìn một cách tổng quát việc định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ
có thể có hai cách tiếp cận chủ yếu sau đây: định nghĩa theo chức năng và
định nghĩa theo tính ứng dụng.
Khi định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chức năng, người ta
dựa vào những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ như trình độ
chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương pháp tổ
chức quản lý, quan hệ giữa chủ và thợ, giữa người quản lý và người làm
công trong hoạt động kinh doanh.v.v... cách tiếp cận này còn có nhiều hạn
chế vì nó mới chỉ nêu được mặt định tính, còn mặt định lượng rất cần thiết
nó chưa thể hiện được. Nếu dựa vào định nghĩa này thì chúng ta không có
cơ sở để phân loại
ở Pháp người ta còn đưa ra tiêu chuẩn để xếp loại những doanh
nghiệp siêu nhỏ. Doanh nghiệp siêu nhỏ chủ yếu là những doanh nghiệp cá
nhân (doanh nghiệp gia đình). Tài sản của doanh nghiệp là tài sản của cá
nhân - chủ gia đình. ở Pháp, tiêu chí phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ là
những doanh nghiệp có số công nhân dưới 20 người.
Hiện nay ở nước ta chưa có một định nghĩa chính xác về doanh
nghiệp vừa và nhỏ; Có ý kiến cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt


3


Nam là doanh nghiệp sử dụng dưới 500 lao động. Nhưng họ chưa đưa ra
được luận cứ vì sao lại chọn con số này làm mốc.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng: Những doanh nghiệp trong các
lĩnh vực sản xuất và xây dựng được coi là doanh nghiệp nhỏ. Nếu chúng có
số vốn từ 100 - 300 triệu đồng và số công nhân từ 5 - 10 người; còn các
doanh nghiệp có số vốn lớn hơn 300 triệu đồng và số công nhân lớn hơn 50
người là doanh nghiệp vừa. Nhưng theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế
khác thì doanh nghiệp nhỏ là loại doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng
và số công nhân dưới 100 người; còn doanh nghiệp vừa là những doanh
nghiệp có số vốn từ 1 đến 10 tỷ và số công nhân từ 100 đến 500
người.(1tr1)
Qua nghiên cứu ở một số nước trong khu vực, qua kinh nghiệm triển
khai cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta từ nguồn vốn
tài trợ của Đài Loan, chúng tôi thấy không cần thiết phân thành ba loại
doanh nghiệp: vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Xuất phát từ thực trạng, các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay: vốn ít,
thiết bị kỹthuật lạc hậu, nên theo chúng tôi tiêu chí đặt ra để phân loại
doanh nghiệp là vốn và lao động. Những doanh nghiệp có số vốn 30 tỷ
đồng và 500 lao động trở xuống thì gọi là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo định nghĩa và cách đánh giá này thì ở nước ta hiện nay có tới
80% doanh nghiệp Nhà nước và hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, bao gồm: hợp tác xã, xí nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn (TNHH), công ty cổ phần đều thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, bên cạnh những
doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đang chi phối

nền kinh tế; còn có những doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một tỷ lệ
rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước.
Ví dụ: 100 năm trước đây, ở Mỹ có 300 ngàn doanh nghiệp vừa và
nhỏ, thì năm 1980 lên tới 13 triệu và năm 1993 là 19 triệu, tăng gấp 3,8 lần
so với năm 1960.(2 tr208)
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban tổng hợp Nhật Bản năm 1995 ở
Nhật có 6.500 doanh nghiệp, trong số đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
tỷ trọng 99,1% và số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp này là
43,3 triệu người chiếm 79% số người làm việc trong các doanh nghiệp.(3)
ở Mỹ doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 90% trong tổng số các
doanh nghiệp thuộc các ngành tin học, điện tử, chất dẻo. Đây là những

4


doanh nghiệp vệ tinh làm gia công lắp ráp cho các doanh nghiệp quy mô
lớn, kỹ thuật hiện đại.
Việc phát triển nhanh chóng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các
nước tư bản chủ nghĩa nói trên, trong những thập kỷ gần đây, là do nhiều
nguyên nhân:
Một là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó kịp thời tình hình
biến động của thị trường.
Hai là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chấp nhận mọi
sự rủi ro, mạo hiểm có thể xảy ra, nên chủ doanh nghiệp có thể mạnh dạn
đầu tư vào những ngành mới, những ngành mà lúc đầu đem lại lợi nhuận ít
và những ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu cá
biệt.
Ba là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thực hiện sự đổi mới
thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh nghiệp lớn, vì yêu cầu vốn bổ

xung không nhiều; và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố
định khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác.
Ngày nay do sự phát triển hết sức nhanh chóng của khoa học và công
nghệ nên nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian
tồn tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao
nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị và công nghệ
mới.
Bốn là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng những kỹ
thuật tiên tiến, có thể kết hợp giữa tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ
công, có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện cơ sở
hạ tầng kêm.
Hiện nay, có người cho rằng: Sự phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở các nước tư bản phát triển là hiện tượng phi tập trung hoá và học đi
đến kết luận rằng: Luận điểm của Lênin về tích tụ tập trung tư bản dẫn tới
độc quyền ngày nay không còn đúng nữa. Nghiên cứu sâu bản chất kinh tế
của hiện tượng này chúng ta thấy rằng: Đó chẳng qua là sự biển hiện của
độc quyền dưới dạng mới mà thôi.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu vốn, thiếu cán bộ khoa
học kỹ thuật có trình độ cao, thiếu thông tin và tình hình thị trường, về tiến
bộ khoa học và công nghệ, nên buộc phải lệ thuộc vào các công ty độc
quyền thông qua hình thức hợp tác kinh doanh giữa tư bản độc quyền với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực chất của quan hệ hợp tác này là các

5


doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở làm gia công cho các tổ chức độc
quyền mà thôi.
Trong quan hệ hợp tác, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở trong thế phụ
thuộc về tài chính và kỹ thuật, còn các công ty độc quyền có khả năng lực

chọn bạn hàng phù hợp với mục tiêu chiến lược, nhờ vậy mở rộng khả năng
kiểm soát sản xuất nói chung và tiến bộ khoa học kỹ thuật nói riêng.
Tóm lại dưới tác động của khoa học và công nghệ, sự tích tụ và tập
trung tư bản của các tổ chức độc quyền chẳng những không giảm mà còn
tăng nhanh chưa từng thấy. Sự phát triển của các ngành công nghiệp mới,
sự chuyên môn hoá ngày càng cao, quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp
sản xuất khác nhau ngày càng gắn bó, đã xuất hiện một hệ thống kiểu kim
tự tháp. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ.
Trong hệ thống kim tự tháp này, độc quyền lớn ở đỉnh chóp cung cấp vốn
và chỉ đạo kỹ thuật đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; còn các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở dưới đáy có nhiệm vụ cung cấp trở lại các linh kiện,
dịch vụ giá rẻ theo đơn đặt hàng của các độc quyền lớn.
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
thị trường.
Nói đến sự phát triển kinh tế ở các nước, chúng ta thường nghe và
nghĩ đến các doanh nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn khi nói đến sự
phát triển kinh tế của Nhật Bản, thì người ta thường nghĩ tới Toyota,
Mitsubishi; cũng như thế, khi nói đến Hàn Quốc, thì người ta nghĩ ngay
đến hãng Samsung.v.v.... Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày
càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, thì ít
người quan tâm nghiên cứu.
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu
hút lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước.
Theo số liệu thống kê của nhiều nước cho thấy doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm 95% tổng số các doanh nghiệp, thu hút từ 75 đến 90% số nhân
viên làm việc trong các doanh nghiệp và đóng góp từ 40 đến 50% thu nhập
quốc dân ở mỗi nước. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 1(9)
tháng 1,2 năm 1995 cho biết: ở Mỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ về số
người lao động chiếm 78,5%, về thu nhập quốc dân chiếm 34% so với toàn
bộ doanh nghiệp nước Mỹ; ở Cộng hoà liên bang Đức (không kể Đông

Đức) con số đó là 75% và 45%; ở Nhật Bản con số đó là 92,8% và 56%; ở
Pháp số nhân việc làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
83,5% trong toàn bộ các doanh nghiệp nước này.
Do có lợi thế là: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được
công ty, nhà xưởng; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với
6


chi phí quản lý thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao, có khả năng
thích ứng với nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng v.v.... nên
số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua phát triển khá nhanh.
Đặc biệt là loại doanh nghiệp mang tính chất gia đình, cá thể chiếm một tỷ
lệ lớn.
Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nửa cơ
giới, lao động sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu
dùng, chế biến nông, lâm, hải sản; xây dựng và giao thông vận tải v.v... nên
nó có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã
hội và tăng thu nhập bảo đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó
các doanh nghiệp lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất
là đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất và sử dụng công nghệ người
máy đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu
cực xã hội.
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã
hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm
được.
Hiện nay, ở nhiều nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng
và phong phú. Trong cơ cấu các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì doanh nghiệp
siêu nhỏ, sản xuất kinh doanh mang tính chất cá thể, gia đình chiếm tỷ lệ

khá lớn. ở Pháp, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tới 80% tổng số doanh
nghiệp và có gần 50% trong số này chỉ sử dụng lao động trong gia đình,
không cần thuê ngoài một nhân viên nào.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà
người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại
mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh
nghiệp lớn không thể đáp ứng được; trái lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ
do qui mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp
ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng,
thuận tiện. Đặc biệt có những hàng hoá người tiêu dùng có nhu cầu không
thể sản xuất ở các doanh nghiệp có qui mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có
thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ
và hộ gia đình.
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực
phân phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến
khâu tiêu dùng phải qua khâu trung gian.

7


Đó là khâu lưu thông do mạng lưới các cửa hàng thương nghiệp dịch
vụ bán buôn và bán lẻ đảm nhận.
Do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với
lĩnh vực kinh doanh thương nghiệp - dịch vụ bán lẻ. Vì rằng các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn ban đầu nhỏ cũng có thể hoạt động
được; còn nơi làm cửa hàng và kho hàng có thể sử dụng ngay nhà mình;
nhân viên bán hàng thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu
thông hàng hoá thấp.
Các doanh nghiệp lớn không thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ

để tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy hệ thống cửa hàng kinh doanh
thương mại - dịch vụ vừa và nhỏ đặt khắp các đường phố khu công nghiệp,
các tụ điểm dân cư, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh
chóng và thuận tiện.
ở Nhật năm 1995, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 51% trong các
ngành sản xuất, 62% đối với ngành buôn bán, 80% đối với ngành bán lẻ.
ở Việt Nam, chúng ta có thể đánh giá vai trò của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh thương mại - dịch vụ qua tỷ trọng bán
lẻ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh so với tổng mức bán lẻ của toàn xã hội qua các năm:
Năm 1980: 70,8%.
Năm 1989: 57,3%.
Năm 1994: 67,6%.
Năm 1998: 76%.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã
làm cho lực lượng sản xuất phát triển có tính nhảy vọt, vượt ra khỏi biên
giới quốc gia và đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới.
Cho nên bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay
thấp cũng đều phải thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là:
Tận dụng lợi thế so sánh tích cực tham gia vào việc phân công lao động
quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ
và kinh nghiệm tốt của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong
nước. Đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp,
khuyến khích xuất khẩu (hướng ngoại).
Thực tiễn cho thấy rằng hàng chục năm qua, ở các nước đang phát
triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong việc sản
8



xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu. Nhất là những mặt hàng được sản
xuất ra bằng những nguyên liệu do các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, hải
sản cung cấp.
ở Đài Loan, từ năm 1978 đến năm 1993 kim ngạch xuất khẩu của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 64,5% tổng kim ngạch xuất khẩu
của nước này. Đến năm 1998, con số trên tuy có giảm xuống, nhưng vẫn
còn chiếm tỷ lệ lớn: 52,57%.(4 tr14)
Việt Nam đang là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ
đang ở trình độ thấp kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
nên việc tích cực tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để khai thác có hiệu
quả các lợi thế bên trong là vấn đề đặc biệt có ý nghĩa quan trọng.
Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng
và Nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, coi
xuất khẩu là trọng tâm; đồng thời ra sức sản xuất những sản phẩm trong
nước sản xuất có hiệu quả để thay thế nhập khẩu.
Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng
truyền thống do các doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả kinh tế hộ gia đình sản
xuất chế biến chiếm tỷ trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản,
thực phẩm, hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre,
sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may mặc...
4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển
kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt
văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ của
từng nước; ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như ở vùng núi
cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế
mạnh của từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt đất thuộc các
ngành nông, lâm, hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang
còn rất lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, cần tập trung đẩy nhanh

sự phát triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nông
nghiệp, lâm nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản
v.v...
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về
vốn và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng
ta chủ trương: Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh
theo phương châm lấy ngắn nuôi dài .(5 tr 15)

9


Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém
nên tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn
rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến
thuỷ sản đông lạnh, may mặc, da giầy, công nghiệp chế biến.
Theo số liệu của Tổng cục thống kế ở thời điểm cuối năm 1998, số
doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh phân theo ngành nghể như
sau:(6)

Tổng số
- Nông lâm nghiệp
- Thuỷ sản
- Công nghiệp chế biến
- Xây dựng
- Thương nghiệp

Số doanh nghiệp
26.282
1.004
2.189

8.886
2.407
5.535

Số vốn đăng ký (tỷ đ)
56.331
2.810
610
18.314
2.924
6.677

Như vậy ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp phát
triển nhất của Việt Nam nhằm khai thác các khả năng về tài nguyên, về sức
lao động của từng địa phương, về từng vùng kinh tế, ngành công nghiệp
này chủ yếu thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Trong điểm 1.1.3, chúng tôi đã trình bày vị trí và vai trò của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế, khai thác tài
nguyên lao động, tạo ra nhiều việc làm. sản xuất ra nhiều hàng hoá, tăng
thu nhập cho Nhà nước và cho người lao động. Nhưng hiện nay, ở các nước
cũng như ở nước ta, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp một số khó
khăn và hạn chế:
1. Khó khăn về vốn.
Tình trạng chung ở các nước là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi
mới thành lập vốn đầu tư ban đầu hay còn gọi là vốn pháp định thường rất
ít. Vì ở các nước tư bản phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời trong
các thập kỷ qua chủ yếu là của những người sản xuất hàng hoá nhỏ (công
nhân, nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ) hoặc của một

số trí thức mới tốt nghiệp ra trường bắt đầu lập nghiệp nên họ gặp rất nhiều
khó khăn về vốn.

10


ở nước ta, sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1990), Đảng và Nhà nước
chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, các doanh nghiệp phát triển rất nhanh, chủ yếu là các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như các hợp tác xã, xí nghiệp tư
nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần v.v.... Những doanh nghiệp này cũng
đang trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng, họ phải dựa vào vốn vay của
các ngân hàng thương mại hoặc của những người thân quen.
Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho việc
sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp bị động lúng túng khi cần
mua vật tư, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng - không có tiền để mua, và do đó
khi có điều kiện bán được hàng lại không có hàng để mà bán.
Hiện nay không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm
dụng vốn lẫn nhau, tức là sản xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn của
người khác. Nguy cơ thiếu khả năng thanh toán, vỡ nợ đã xảy ra.
2. Khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào sản xuất ra hàng hoá
có chất lượng cao, giá thành hạ thì doanh nghiệp đó sẽ giành được thắng lợi
trong cạnh tranh. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, doanh nghiệp phải
thường xuyên đổi mới thiết bị và công nghệ, nhằm tăng năng suất lao động
nâng cao số lượng, chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Song muốn đổi mới thiết bị và công nghệ, doanh nghiệp phải có một
nguồn vốn lớn.
Như vậy là khó khăn về thiếu vốn nói trên dẫn đến khó khăn trong

việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do thiếu vốn, nên mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ rất thấp so với các doanh nghiệp lớn: mức trang bị kỹ thuật được biểu
hiện bằng số vốn cố định bình quân cho một công nhân trong doanh
nghiệp. Nó được tính theo công thức:
Mức trang bị kỹ thuật

Tổng số vốn cố dịnh của doanh nghiệp
(dồng/người)
Tổng số công nhan của doanh nghiệp

Hàng năm, vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ, nói chung có tăng lên.
Nhưng mức trang bị kỹ thuật của nó so với mức trang bị kỹ thuật của các
doanh nghiệp lớn lại giảm xuống một cách tương đối.
Chẳng hạn, ở Nhật Bản nếu năm 1963 mức trang bị kỹ thuật của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng 35% mức trang bị kỹ thuật của các doanh

11


nghiệp lớn, thì sau 30 năm tức là năm 1997 con số đó đã tụt xuống, chỉ còn
5%.
Nguyên nhân của tình hình trên là do mấy thập kỷ qua, dưới tác
động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới, các
doanh nghiệp lớn phải thích ứng bằng cách ra sức tích cực và tập trung tư
bản để nâng cao cấu tạo kỹ thuật tư bản, nhằm tăng cao năng suất lao động
để giành ưu thế trên thị trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Trong nước năm tới, nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ không giải
quyết được tình trạng lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ thì sự lệ thuộc vào
doanh nghiệp lớn càng nhiều và do đó có thể bị doanh nghiệp lớn thôn tính

hoặc bị phá sản.
Do vốn ít, nên cấu tạo kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Có nghĩa là doanh nghiệp vừa
và nhỏ sử dụng ít máy móc hiện đại nhiều lao động sống nên năng suất lao
động thấp, thường chỉ bằng 30 - 50% so với các doanh nghiệp lớn cùng
ngành. Do đó tiền lương cũng chỉ bằng 40 - 50% so với tiền lương trong
các doanh nghiệp lớn. Chính vì lẽ đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chẳng
những không thu hút được lao động có tay nghề cao mà còn có thể bị mất
lao động lành nghề, lâu năm trong doanh nghiệp mình.
3. Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới.
Những năm gần đây các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước tư
bản phát triển nhất là các nước trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc bị
tác động bởi nhiều yếu tố như sự mất giá của đồng tiền, công nhân đấu
tranh đòi tăng lương, cải thiện điều kiện lao động, sự tranh chấp giữa chủ
và thợ ngày càng gay gắt; thêm vào đó giá cả đất đai tăng vọt do tình trạng
ngày càng khan hiếm của chúng gây ra, việc bảo vệ môi sinh môi trường đã
đến lúc đặt ra hết sức nghiêm túc, đòi hỏi sự quan tâm đầy đủ của toàn xã
hội v.v... làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ mất dần lợi thế.
Trước tình hình đó, buộc một số doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều
kiện phải tìm cách chuyển hướng đầu tư của mình đến các nước đang phát
triển. Tức là đến những nơi có thể sử dụng kỹ thuật sản xuất với trình độ
thấp, và có nguồn lao động dồi dào với mức tiền công rẻ.
Tuy nhiên việc đầu tư vào các nước đang phát triển thường gặp
những khó khăn, như chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở một số nước
chưa ổn định, các quy định về luật pháp thường hay thay đổi, chưa có sự
kiểm soát về chính trị một cách có hiệu quả, việc áp dụng chính sách bảo
hộ ở một số nước nhiều khi tạo ra của cải bất lợi cho nhà đầu tư nước ngoài
v.v...

12



Trong điều kiện thị trường thế giới đang có sự cạnh tranh gay gắt
như hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, kỹ thuật lạc hậu,
năng suất lao động thấp, chất lượng mẫu mã hàng hoá kém, giá thành cao
hơn so với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có quy mô sản xuất lớn,
kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm
cho mình một chỗ đứng có lợi để tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới.
4. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi ro cao hơn so với các
doanh nghiệp lớn.
Theo số liệu thống kê hàng năm, ở nhiều nước, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có tỷ lệ phá sản cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. Chẳng hạn
như ở Pháp, hàng năm có khoảng 200 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời
thì cũng chính thời gian ấy lại có chừng ấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản.
Những doanh nghiệp phá sản thường là những doanh nghiệp vốn ít,
kỹ thuật lạc hậu, chất lượng lao động và năng lực của cán bộ quản lý kém,
thiếu hiểu biết về thị trường và nhất là do sai lầm nghiêm trọng trong việc
quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp.
ở nước ta, từ khi thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước theo Nghị định 388/HĐBT (tháng 11 - 1993) đến tháng 7-1999 đã có
khoảng 6000 doanh nghiệp nhỏ và quá nhỏ thuộc nhóm các doanh nghiệp
có dưới 100 lao động và dưới 500 triệu đồng vốn đã ngừng hoạt động hoặc
đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài. Phần lớn các doanh nghiệp
này do cấp huyện quản lý.
Đến nay, trong tổng sô khoảng 6000 doanh nghiệp nhỏ nói trên, đã
có khoảng 4000 doanh nghiệp được sát nhập lại thành doanh nghiệp có quy
mô lớn hơn; và số còn lại khoảng 2000 doanh nghiệp phải chuyển sang
hình thức sở hữu khác hoặc bị giải thể.
Những khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói

trên, suy cho cùng đều bắt nguồn từ khó khăn về vốn để sản xuất kinh
doanh. Vì thiếu vốn nên không có khả năng đổi mới thiết bị, ứng dụng
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, do đó không thể tạo ra
được những sản phẩm có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị
trường thế giới; và cuối cùng tất yếu phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn các
doanh nghiệp lớn.
1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, tư bản cho vay đã xuất
hiện trất sớm - từ trước chủ nghĩa tư bản, dưới hình thái tư bản cho vay

13


nặng lãi. Sự tồn tại của tư bản cho vay nặng lãi chỉ đòi hỏi điều kiện là: một
bộ phận của sản phẩm lao động được chuyển hoá thành hàng hoá và các
chức năng của tiền đã phát triển; tức là kinh tế hàng hoá đã phát triển đến
một trình độ nhất định.
Trước chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức của tư bản cho vay rất cao,
nên lợi tức có thể chiếm toàn bộ sản phẩm thặng dư, thậm chí có khi còn
lấn sang phần sản phẩm tất yếu của người đi vay. Trong sản xuất hàng hoá
tư bản chủ nghĩa, Mác đã chỉ ra rằng: Tư bản cho vay là một bộ phận trong
tuần hoàn của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản tiền tệ tách ra. Đó
là một hiện tượng kinh tế tất yếu nảy sinh từ sự phát triển của sản xuất và
lưu thông hàng hoá trong chủ nghĩa tư bản.
Vì rằng trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, một số
tư bản có một lượng tiền tạm thời chưa dùng đến, như tiền khấu hao tư bản
cố định, tiền dự trữ để mua nguyên liệu, vật liệu hoặc để trả lương cho công
nhân, giá trị thặng dư đang trong quá trình tích tụ chưa đủ mức biến thành
tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất v.v... Đó là số tư bản không hoạt

động, không sinh ra lợi nhuận, nên họ cần phải cho vay để thu lợi tức.
Trong khi đó, một số nhà tư bản khác lại cần tiền để mua nguyên vật liệu
trong khi chưa bán được hàng của mình hoặc cần mở rộng sản xuất kinh
doanh phục vụ nhưng chưa tích luỹ đủ nguồn vốn tự có v.v... nên họ cần
phải đi vay. Từ đó xuất hiện tư bản cho vay.
Trong bộ Tư bản, Mác đã vạch rõ: Tư bản cho vay là loại tư bản mà
quyền sở hữu và quyền sử dụng tách ra thành những chủ thể khác nhau.
Hay nói cách khác đó là tư bản tài sản tách rời tư bản chức năng. Cho vay,
thực chất là việc người này bán quyền sử dụng số tiền của mình cho người
kia trong một thời gian nhất định. ở đây, cùng một tư bản, nhưng đối với
người cho vay nó là tư bản sở hữu, vì sau một thời gian nhất định số tiền
cho vay sẽ được hoàn trả lại cho người chủ của nó và kèm theo một khoản
lợi tức; Còn đối với người đi vay thì nó là tư bản hoạt động, vì nó được
người đi vay sử dụng vào sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Lợi
nhuận này không phải do tư bản của anh ta sinh ra, mà do anh ta sử dụng tư
bản của người khác, do đó anh ta phải trích một phần lợi nhuận thu được
trả cho người cho vay dưới hình thức lợi tức. Lợi tức được coi như giá cả
của hàng hoá tư bản cho vay.
Từ sự phân tích trên cho thấy: Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến
một trình độ nhất định, tự nó làm nảy sinh những mâu thuẫn trong sự vận
động của vốn dưới hình thái tiền tệ. Từ đó đòi hỏi một cách khách quan sự
ra đời của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua
vai trò trung gian của ngân hàng. Đó là việc ngân hàng đứng ra huy động

14


mọi nguồn vốn nhàn rỗi và phân tán trong nền kinh tế; rồi bằng nguốn vốn
đó và nguồn vốn tự có của mình tiến hành cho các tổ chức kinh tế, tổ chức

xã hội và cá nhân vay để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nhằm mục
tiêu thương mại.
Như vậy, tín dụng ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thực
hiện chức năng mua tiền tức là đi vay và bán tiền tức là cho vay để thu lợi
nhuận. Lợi tức gửi tiền ( Zng) là giá cả mua tiền, còn lợi tức cho vay (ZCV)
là giá cả bán tiền.
Lợi nhuận của tín dụng ngân hàng được tính theo công thức sau đây:
PTDNH = ZCV - (Zng + Chi phí nghiệp vụ TDNH)
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Tín dụng
ngân hàng có những đặc điểm sau đây:
1.2.1. Tín dụng ngân hàng hoạt động đan xen đối với các loại hình
tín dụng khác.
Thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, ở nước ta hiện
nay đã có nhiều loại hình ngân hàng đang hoạt động như: ngân hàng gửi
tiền (ngân hàng tín dụng), ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín
dụng nhân dân và ngân hàng đoàn thể.
Riêng ở Hà Nội, tính đến đầu tháng 8 - 1999 đã có 4 hội sở ngân
ngân hàng thương mại trung ương, 18 chi nhánh ngân hàng thương mại
quốc doanh, 5 ngân hàng thương mại cổ phần, 3 ngân hàng liên doanh với
nước ngoài, 9 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trung bình 50.000 dân có
một ngân hàng (Báo Hà Nội mới ngày 4 - 8 - 1999).
Còn hệ thống tín dụng nhân dân thì cuối năm 1999, ở nước ta đã có
567 quỹ được cấp giấy phép, 534 quỹ đi vào hoạt động thu hút 153.901
thành viên, với tổng nguồn vốn 448,1 tỷ đồng. Cũng trong thời gian này, đã
có 5 quý tín dụng nhân dân khu vực hoạt động với tổng số vốn là 51,3 tỷ
đồng, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương có tổng số vốn 121,2 tỉ dồng (Báo
Hà Nội mới ngày 12 - 3 - 2000).
Số hợp tác xã tín dụng ở nước ta, hiện nay còn ít, mới có 64 cái.
Sắp tới sẽ có một số loại hình tín dụng khác ra đời như: Công ty đầu
tư kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng đầu tư chứng khoán, ngân hàng địa ốc,

công ty cất giữ, mua bán chuyển nhượng, quản lý, giấy tờ có giá v.v...
Các loại hình tín dụng nói trên đều đặt dưới sự kiểm soát của ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng.

15


Việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng ở nước ta là xu hướng tất
yếu của nền kinh thị trường. ở một số nước trong khu vực khi chúng tôi có
dịp đến nghiên cứu và khảo sát, thì lợi nhuận của các ngân hàng thu được
qua hình thức tín dụng cho vay vốn chỉ có 60%, còn 40% là thu từ các loại
hình tín dụng khác. Nhưng ở Việt Nam hiện nay các loại hình tín dụng
khác nhau chưa phát triển, nên hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại đan xen với với hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân
và hợp tác xã tín dụng là chủ yếu.
1.2.2 Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh này tuy mang tên ngân hàng
chuyên doanh, ví dụ: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương,
Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư v.v... nhưng hoạt động tín
dụng của các ngân hàng này và các ngân hàng cổ phần đều kinh doanh và
dịch vụ đa dạng. Tuỳ theo năng lực nghiệp vụ và kỹ thuật nghiệp vụ công
nghệ của từng ngân hàng mà đi theo hướng chuyên doanh một số nghiệp vụ
hay kinh doanh tổng hợp, bao gồm: Cho vay cả ngắn hạn, cho vay dài hạn,
cho vay ngoại tệ, nội tệ, hoạt động đối nội và đối ngoại v.v... Chỉ riêng
ngân hàng nước ngoài chưa được phép kinh doanh nội tệ như ngân hàng
trong nước.
Tín dụng ngân hàng Việt Nam tuy đã phát triển theo hướng đa dạng
hoá các hoạt động kinh doanh, kinh doanh tổng hợp, nhưng sự phát triển
các hình thức tín dụng còn chậm. Hướng tới bên cạnh các hình thức tín
dụng truyền thống sẽ mở ra các hình thức tín dụng mới như: Chiết khấu, tái

chiết khấu và chuyển nhượng giấy tờ có giá, tài trợ mua bán hàng trả góp,
đấu thầu trái phiếu kho bạc và trái phiếu công ty, tư vấn, bảo lãnh, bảo
hiểm, tín dụng thu mua, cung ứng thông tin. Trên thị trường chứng khoán,
các ngân hàng thương mại trở thành ngân hàng đa dạng vừa có thể làm dịch
vụ môi giới cho khách hàng, vừa trực tiếp kinh doanh chứng khoán của
mình, đồng thời làm dịch vụ như tổ chức thanh toán, lưu giữ chứng từ và dữ
liệu v.v...
Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng còn thể
hiện ở chỗ phục vụ đa thành phần khách hàng, đa đối tượng vay vốn. Ngân
hàng thương mại quốc doanh không chỉ đầu tư cho kinh tế quốc doanh mà
còn đầu tư cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh; không chỉ đầu tư cho đối tượng sản xuất kinh doanh mà còn đầu tư
cả lĩnh vực tiêu dùng; không chỉ đầu tư chuyên ngành công nghiệp, nông
nghiệp... mà còn đầu tư đa ngành, có nghĩa là một ngân hàng có thể đầu tư
cho tất cả các loại khách hàng.
Tính chất đa dạng hoá các hoạt động của tín dụng ngân hàng, các
ngân hàng và tổ chức tín dụng được hoạt động bình đẳng trong cơ chế thị

16


trường đã tạo ra động lực cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy các ngân hàng
phát triển, từ đó có tác động tích cực đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng Việt Nam còn có đặc điểm khác
với tín dụng các nước là: Vừa phải hoạt động kinh doanh sinh lời, vừa phải
thực hiện chính sách xã hội được đặt ra đối với các tổ chức tín dụng, các
ngân hàng cổ phần mang tính chất tự nguyện theo khả năng. Song riêng đối
với các ngân hàng thương mại quốc doanh, Nhà nước giao nhiệm vụ thực
hiện một số dự án, chương trình cho vay mang tính chất xã hội như: Cho
vay xoá đói giảm nghèo, cho vay tạo công ăn việc làm, cho sinh viên vay

để bảo đảm học tập v.v...
Tính đến tháng 8 - 2000 tổng số vốn cho vay xoá đói giảm nghèo đạt
tới 1800 tỷ, đã cho hơn 2,2 triệu lượt hộ đói nghèo vay để sản xuất kinh
doanh dịch vụ. Đó là chưa kể nguồn vốn tài trợ quốc tế. Riêng vốn xoá đói
giảm nghèo ở 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) đã có 465 tỷ đồng cho gần 700 ngàn
lượt hộ đói nghèo vay (Báo Nhân dân ngày 8 - 8- 2000).
Các loại cho vay nói trên còn mang nội dung bao cấp qua tín dụng.
Vì cho vay không lấy lãi hoặc mức lãi suất rất thấp. Như vậy các
ngân hàng thương mại quốc doanh vừa phải hoạt động bình đẳng trong cơ
chế thị trường vừa phải thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa và vị trí
chủ đạo của mình trong các tổ chức tín dụng.
Nội dung kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc
doanh ở nước ta không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận mà còn phải thực hiện
mục tiêu xã hội, tức là vừa phải tuân thủ các quy luật của cơ chế thị trường,
vừa phải hướng hoạt động phục vụ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
1.3. Vai trò của tín dung ngân hàng đối với sự hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng
ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng.
1.3.1. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn
để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và
theo chiều sâu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc mở rộng sản xuất
theo chiều rộng và theo chiều sâu là yêu cầu khách quan của việc tồn tại và
phát triển của các doanh nghiệp. Nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.

17



Thực hiện yêu cầu ấy, nếu chỉ dựa vào sự tích luỹ lợi nhuận thu được
trong nội bộ từng doanh nghiệp thì rất lâu, không phải doanh nghiệp nào
cũng làm được. Nhưng nếu thông qua sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng thì
việc đó có thể thực hiện một cách nhanh chóng.
ở nước ta hiện nay, tuy đã qua 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp
Nhà nước cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
vẫn còn đang trong quá trình tổ chức và tổ chức lại. Một số doanh nghiệp
quy mô nhỏ cần vốn để tăng thêm máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu,
năng lượng và lực lượng lao động. Một số doanh nghiệp khác đang trong
tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, cần vốn để đổi mới thiết bị và công nghệ,
nâng cao cấu tạo kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá. Và một số doanh nghiệp
đã hình thành nhưng còn đang trong tình trạng thiếu vốn hoạt động.
Với tư cách là một trung tâm tín dụng, các ngân hàng thương mại có
vai trò rất quan trọng trong việc tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong các cơ sở sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh
tế, trong các tổ chức văn hoá xã hội và trong các tầng lớp dân cư, trong
nước và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp thực
hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo
chiều sâu, hoặc bù đắp phần vốn thiếu hụt để cho số vốn tự có trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chu chuyển bình thường. Ngoài ra tín dụng ngân
hàng còn có các công trình trọng điểm có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế
quốc dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã tập trung nguồn
vốn đầu tư cho các ngành, các công trình trọng điểm, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, tăng tỷ trọng vốn đầu tư trung hạn và dài hạn để các doanh nghiệp
có thể đổi mới thiết bị công nghệ và mở rộng sản xuất kinh doanh; tăng tỷ
trọng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thực hiện nhất
quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà

nước.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nêu trên, Đảng ta chủ trương Tăng
nhanh mức huy động vốn thông qua các chính sách đầu tư phát triển và mở
rộng thị trường vốn bằng nhiều hình thức như: gửi tiền tiết kiệm dài hạn,
phát hành trái phiếu, cổ phiếu kể cả việc phát hành trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, mở rộng các quỹ đầu tư và
các hình thức huy động nguồn vốn nước ngoài. Từng bước hình thành thị
trường chứng khoán.(7 tr229)
1.3.2. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết
kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.

18


Việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cũng như việc
điều tiết kinh tế vĩ mô, bao giờ Nhà nước cũng phải sử dụng một cách có
hiệu quả các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
Vì rằng muốn khai thác tốt nhất lao động tài nguyên, ngành nghề
trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng cơ sở thì phải tiến
hành phân công lại lao động, phân bổ lại dân cư, tổ chức lại sản xuất, đổi
mới quản lý. Tất cả những việc đó, chỉ có thể thực hiện được với điều kiện
là phải có nguồn vốn tương ứng.
Giải quyết vốn cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay, có nhiều nguồn, nhiều kênh. Nhưng do bản chất của tín dụng ngân
hàng là vay bảo đảm hoàn trả kèm theo lãi cho người vay nên nó có thể huy
động được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi rất lớn.
Tín dụng ngân hàng, bằng các hình thức huy động vốn linh hoạt, áp
dụng nhiều phương thức nhận gửi, chi trả cho khách hàng nhanh chóng,
thuận tiện; có một hệ thống kinh doanh tiền tệ bao gồm các quỹ tiết kiệm,

các phòng giao dịch, các trụ sở ngân hàng rộng khắp, nên có khả năng huy
động được mọi khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, để đưa vào
sản xuất lưu thông có mục tiêu, có trọng điểm. Qua đó, tín dụng ngân hàng
góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế quốc dân, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân hợp lý, có
hiệu quả.
Ưu thế nổi bật của hoạt động tín dụng ngân hàng là không làm tăng
khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Với chức năng đi vay, tín dụng ngân
hàng hút tiền thừa trong lưu thông; và với chức năng cho vay, tín dụng
ngân hàng đẩy tiền ra lưu thông, khi lưu thông thiếu tiền.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc điều
hoà lưu thông tiền tệ làm cho quan hệ tiền hàng cân đối với nhau. Chính vì
lý do này, tín dụng ngân hàng là một công cụ tổng thể chống lạm phát, ổn
định tiền tệ và giá cả, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhất là đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh có hiệu quả.
Để thấy rõ vai trò chống lạm phát bằng công cụ tín dụng ngân hàng,
chúng ta hãy xem chỉ số tăng giá ở nước ta qua các năm từ Đại hội Đảng
lần thứ VI đến 1999.
Năm

Chỉ số tăng giá

1990

400%

1991

429%


19


1992

628%

1993

34,8%

1994

67,2%

1995

67,4%

1996

17,5%

1997

5,2%

1998


14,4%

1999

12,7%

Năm 1992 chỉ số tăng giá đạt ở mức cao nhất, lên tới 3 con số:
682%. Nhưng từ năm 1993 - 1995, chỉ số tăng giá đã giảm xuống còn hai
con số từ 34,8% - 67,4%. Thắng lợi đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân là do có sự đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của
tín dụng ngân hàng theo hai pháp lệnh: Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và
Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5 1994). Đây là bước ngoặt của ngành ngân hàng trong việc thực hiện chủ
trương của Đại hội VI của Đảng là: bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông
tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên
nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ
hạch toán kinh tế.(8 tr 73)
Tuy nhiên chỉ số tăng giá những năm 1994, 1995 vẫn còn cao. Một
trong những nguyên nhân của tình hình là trong thời gian này, chúng ta sử
dụng giải pháp tình thế bằng cách phát hành tiền để giải quyết bội chi ngân
sách Nhà nước. Nhưng từ năm 1996 đến nay, tình trạng này đã được chấm
dứt. Bội chi ngân sách đã được giải quyết chủ yếu thông qua tín dụng ngân
hàng, thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Do đó chỉ số tăng
giá đã giảm từ 67,4% năm 1995 xuống còn 12,7% năm 1999.
Kiềm chế được lạm phát, giữ chỉ số tăng giá ở mức thấp một cách
hợp lý có ý nghĩa tích cực đối với sức mua của đồng tiền Việt Nam, ổn
định tình hình kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, chẳng những tạo cơ hội
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
mà còn có lợi cho người tiêu dùng, nhất là đối với người lao động có thu
nhập thấp.
1.3.3. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc

tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác.

20


Trong cơ chế thị trường Mác đã chỉ rõ: việc sản xuất kinh doanh vì
động cơ lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành, sản xuất ra cùng một
loại hàng hoá. Mục đích của cạnh tranh là giành ưu thế trong sản xuất để
có ưu thế trong tiêu thụ, nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Điều kiện để
giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này là doanh nghiệp phải có vốn khá
lớn để đổi mới kỹ thuật và công nghệ, cải tiến tổ chức và quản lý, nâng cao
năng suất lao động, tăng số lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản
xuất, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá do doanh nghiệp của mình sản
xuất ra thấp hơn giá thị trường. Thực hiện yêu cầu này, các doanh nghiệp,
nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được sự hỗ trợ của tín dụng ngân
hàng mà chúng tôi đã trình bày ở điểm 1.3.1. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành là cơ sở của cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh giữa các ngành
là cạnh trạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất khác nhau,
sản xuất ra những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau, như cạnh tranh
giữa các ngành dệt, dự án, may mặc, cơ khí điện tử v.v... Mục đích của
cạnh tranh này là nhằm giành giật lĩnh vực đầu tư thu hút nhiều lợi nhuận.
Như chúng ta đã biết, trong các ngành sản xuất khác nhau do điều
kiện kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý khác nhau; do đó cùng một lượng
vốn đầu tư vào các ngành như nhau, nhưng khối lượng lợi nhuân thu được
trong cùng một thời gian (một năm chẳng hạn) lại không bằng nhau. Từ đó
dẫn đến dự cạnh tranh di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp
sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.

Tuy nhiên, việc di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác không
phải doanh nghiệp nào muốn là có thể làm được, vì phải có những điều
kiện nhất định. Song điều kiện khó khăn nhất, có ý nghĩa quyết định nhất là
điều kiện đổi mới vốn cố định, tức là loại bỏ thiết bị kỹ thuật và công nghệ
sản xuất mặt hàng cũ, mua sắm thiết bị kỹ thuật và công nghệ mới để sản
xuất mặt hàng mới, cùng với các phương tiện dịch vụ sản xuất mới. Trong
trường hợp này, nhiều doanh nghiệp phải dựa vào sự hỗ trợ nguồn vốn của
tín dụng ngân hàng.
Việc tín dụng ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thuộc cá
ngành sản xuất khác nhau trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này,
lĩnh vực này sang ngành khác, lĩnh vực khác có ý nghĩa nhiều mặt. Một
mặt, đó là việc tín dụng ngân hàng với chức năng phân phối thực hiện sự
phân phối lại vốn giữa các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong
nền kinh tế quốc dân một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. mặt khác đó
là việc tín dụng ngân hàng góp phần vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi

21


nhuận giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành trong nền kinh tế quốc dân
một cách hợp lý.
1.3.4. Lãi suất tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ đối với
việc huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp như đã
trình bày ở trên, phát huy tác dụng đến mức nào tuỳ thuộc vào chính sách
lãi suất được quy định trong từng thời gian nhất định.
Lãi suất tín dụng ngân hàng là một công cụ rất nhạy cảm trong việc
điều hành chính sách tiền tệ - tín dụng của các ngân hàng trung ương. Nó
có tác dụng tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của các

ngân hàng thương mại.
Kết quả đáng ghi nhận trong việc đổi mới chính sách tiền tệ - tín
dụng ở nước ta là: vào đầu năm 1993, Chính phủ đã quyết định thay đổi
một cách cơ bản chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng. Quyết định số
55/CT ngày 10/03/1993 của HĐBT cho phép Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quy định mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư phù hợp với sự
biến động của giá cả thị trường xã hội. Sau đó quyết định 39 của HĐBT
ngày 10 - 3 - 1993 đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản để xác định lãi suất tiền
gửi và tiền vay của ngân hàng. Nội dung cơ bản của các nguyên tắc đó như
sau:
1. Mức lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải đủ bảo tồn
vốn và có lãi cho người gửi. Hay nói cách khác lãi suất nhận gửi của tín
dụng ngân hàng phải bằng chỉ số trượt giá cộng với lãi suất cơ bản. Nguyên
tắc này nhằm khuyến khích những người có tiền chưa dùng đến đem gửi
vào ngân hàng. Vì đây là việc làm vừa ích nước vừa lợi nhà.
2. Chính sách lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh
tế, nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của
Đảng và Nhà nước, triệt để khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Mức lãi suất cho vay của tín dụng ngân hàng phải lớn hơn mức lãi
suất nhận gửi nhằm bù đắp được chi phí hợp lý nghiệp vụ ngân hàng và chỉ
số trượt giá của hàng hoá trên thị trường xã hội. Nguyên tắc này nhằm xoá
bỏ bao cấp qua tín dụng ngân hàng.
Trong những năm 1994 - 1995, do lãi suất cho vay thấp hơn lãi xuất
nhận gửi nên ngân hàng Nhà nước đã phải bù lỗ cho các ngân hàng thương
mại một khoản tiền khá lớn, gần 800 tỷ đồng.

22



Từ năm 1994, chúng ta đã từng bước chuyển từ lãi suất âm sang lãi
suất dương. Và đến tháng 6 - 1995, các ngân hàng thương mại đã thực hiện
triệt để chính sách lãi suất dương trong hoạt động tín dụng của mình. Như
vậy, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã thực sự trở thành xí nghiệp
kinh doanh tiền tệ từ đó đến nay.
4. Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước về hoạt
động ngân hàng có quyền quyết định mức trần lãi suất cho vay tối đa và
mức sàn tối thiểu của lãi suất tiền gửi. Các ngân hàng thương mại với chức
năng kinh doanh tín dụng và tiền tệ được phép quyết định mức lãi suất
trong phạm vi khung lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định, Lãi suất
được điều chỉnh theo sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường xã
hội. Sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất nhận gửi trước đây là
0,5 nay còn 0,35%. Thực hiện nguyên tắc này, các ngân hàng đã bù đắp
được chi phí, dự phòng rủi ro và có lãi.
Biểu 1:Diễn biến lãi suất qua các năm 1990-1999
Năm

Lãi suất nhận gửi bình
quân % tháng

Lãi suất cho vay bình
quân % tháng

1990 - 1994

0.3

4.3

1995


2.9

3.5

1996

1.9

2.5

1997

1.4

1.8

1998

1.3

1.6

1999

1.4

1.7

Trên đây, chúng ta mới nói đến việc xác định lãi suất nhận gửi và lãi

suất cho vay tín dụng của ngân hàng sao cho cả người cho vay và người
nhận gửi đều thu được một lợi nhuận nhất định. Còn về phía các doanh
nghiệp với tư cách là những người đi vay, thì lãi suất cho vay của tín dụng
ngân hàng là bao nhiêu để họ có thể chấp nhận được, thì chúng ta chưa bàn
kỹ.
Các doanh nghiệp vay tiền của tín dụng ngân hàng là để sản xuất
kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Do đó, họ chỉ vay tiền khi mức sinh lợi
của nó phải cao hơn lãi suất tiền vay phải trả cho ngân hàng thương mại.
Vấn đề này Mác đã phân tích trong học thuyết tư bản cho vay của mình
rằng: Tỷ suất lợi tức (z) phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân ( p ).
23


Trong điều kiện bình thường, giới hạn trên của nó là p , giới hạn dưới của
nó không xác định được, nhưng bao giờ cũng phải lớn hơn số 0.
0 < z Ê p
Trong giới hạn đó, tỷ suất lợi tức lên xuống tuỳ thuộc vào sự biến
động trong quan hệ cung cầu của tư bản cho vay gắn liền với chu kỳ sản
xuất công nghiệp.
ở nước ta hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ rất thiếu vốn cần vay; nhưng không phải họ chịu vay với
bất cứ giá nào. Từ đầu năm 2000 đến nay, mặc dù ngân hàng Nhà nước đã
5 lần giảm lãi suất cho vay để giải phóng đầu ra, nhưng nhiều doanh nghiệp
vẫn không dám vay, khiến cho các ngân hàng thương mại bị đọng vốn đến
mức quá tải. Tính đến ngày 30 - 6 - 2000 vốn dự trữ vượt mức của ngân
hàng thương mại là 2876 tỉ đồng trong đó Ngân hàng Công thương là 909 tỉ
đồng, Ngân hàng Ngoại thương là 1011 tỷ đồng, Ngân hàng Nông nghiệp
298 tỷ đồng, Ngân hàng Exim Bank 20,8 tỷ đồng, Ngân hàng Tân Việt
13,5 tỷ đồng.
Hiện tượng tồn đọng vốn ở các ngân hàng thương mại nói trên có

nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do mấy tháng gần đây chỉ
số giá cả thị trường nước ta giảm liên tục:
Tháng 1-2000: 0,9%
Tháng 2-2000: 2,5%
Tháng 3-2000: 0,8%
Tháng 4-2000: 0,1%
Tháng 5-2000: 0,5%
Tháng 6-2000: 0,5%
Trong khi các yếu tố đầu vào của sản xuất thì không giảm hoặc giảm
ít. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm xuống, một số mặt hàng không
bán được như lương thực, đường, cà phê, xi măng, than, vật liệu xây dựng
v.v... Trong tình hình này, các chủ doanh nghiệp tính rằng việc vay vốn cho
sản xuất kinh doanh là không có lợi.
Chính sách lãi suất có vai trò rất quan trọng trong việc huy động vốn
và cho vay vốn của tín dụng ngân hàng. Nội dung cơ bản của chính sách
này đã được trình bày ở trên, theo quan điểm bảo đảm hài hoà lợi ích kinh
tế của các chủ thể có quan hệ tín dụng với nhau, tức là bảo đảm sao cho
người có tiền cho vay, người nhận gửi - tín dụng ngân hàng và người đi
vay để sản xuất kinh doanh - các doanh nghiệp đều cảm thấy cùng có lợi.

24


Chương 2:
THực trạng tín dụng tại ngân hàng công thương Ba Đình trong
việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
2.1.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thành tựu
và hạn chế.
1. Những thành tựu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Một là: ý thức được vị trí và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nên những năm qua, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách, luật pháp để tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển và ngày càng khẳng
định chỗ đứng của nó trong công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Hai là: Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện
nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại doanh nghiệp mà các thành
phần kinh tế nhất là kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta có nhiều điều kiện
thuận lợi để thành lập.
Dưới đây là biểu thống kê số lượng các loại doanh nghiệp và số vốn
hoạt động của chúng từ năm 1998 - 2001.
Biểu 2: Số lượng các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh
(Đơn vị tính: Tỷ đồng)

Tổng số
- DN tư nhân
- Cty TNHH
- Cty cổ phần
- DN Nhà nước
- DN địa phương
- DN trung ương

Tổng số
DN
Vốn
26.282 56.331
13.772
2.000

5.120
3.598
130
1.021
6.042 48.718
4.271 15.665
1.771 33.048

Từ 1998 đến 2000
DN
Vốn
18.854
40.080
8.684
1.321
3.390
2.571
106
806
5.704
34.611
4.029
14.173
1.675
20.438

Năm 2001
DN
Vốn
7.428

16.250
5.088
679
1.730
1.021
27
215
338
14.101
242
1.491
96
12.610

Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Như vậy chỉ tính riêng năm 2001 đã có 7.428 doanh nghiệp được cấp
đăng ký kinh doanh với số vốn 16.250 tỷ đồng, chủ yếu là doanh nghiệp
vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và do địa
phương quản lý.

25


×