Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.37 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất luôn được coi là một biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế.
Nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể kinh tế, ảnh hướng rất lớn đến
lợi nhuận của các nhà kinh doanh tài chính, quyết định hiệu quả kinh tế trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đã có rất nhiều các cuộc
nghiên cứu, tranh luận và bàn cãi về lãi suất, và diển biến của lãi suất được đưa
tin hầu như hàng ngày trên các bản tin, các báo, tạp chí và tập san chuyên ngành.
Lãi suất thực sự là một vấn đề nóng bỏng thu hút được sự quan tâm của nhiều
tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các nhà kinh doanh trong thị trường tài chính.
Bàn về vấn đề lãi suất, chúng ta không thể phủ nhận lãi suất là một công
cụ sắc bén trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Song, việc sử dụng công cụ
này cũng giống như sử dụng một con dao hai lưỡi. Muốn điều hành nền kinh tế
có hiệu quả, đòi hỏi phải nắm bắt, nghiên cứu kỹ lưỡng lãi suất, nếu không nó sẽ
đem lại những kết quả nằm ngoài dự kiến. Đặc biệt đối với Việt Nam, vai trò
của lãi suất ngày càng trờ nên quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị
trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước ta tiến hành công cuộc công nghiệp
hóa- hiện đại hóa. Nhưng việc sử dụng công cụ này của chúng ta đã thực sự hiệu
quả chưa? Trong khoảng một năm trờ lại đây, lãi suất đã thực sự trở thành một
trong những vấn đề cấp thiết hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Và hiện nay,
việc dự đoán cũng như kiểm soát sự biến động của lãi suất là vô cùng khó khăn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của lãi suất và tính thời sự của vấn đề này ở
Việt Nam, chúng em làm bài tiểu luận nghiên cứu về đề tài: “Sự biến động lãi
suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012”.
Đối tượng ngiên cứu của đề tài: Lãi suất ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ cuối năm 2010 đến tháng 2 năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tổng hợp.
Mục tiêu nghiên cứu: Đưa ra dự báo tình hình lãi suất năm 2012.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài lời mở đầu và kết luận, tiểu luận bao gồm ba
chương như sau:



Chương 1: Tổng quan về lãi suất.
Chương 2: Thực trạng tình hình lãi suất năm 2011.
Chương 3: Dự báo lãi suất năm 2012.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
I. KHÁI NIỆM LÃI SUẤT
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị
thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng hay năm). Hay ta có thể hiểu một cách
đơn giản như sau: Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải
trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của
phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất là
giá mà người đi vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và
là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của
mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của cá nhân như chi tiêu
hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Lãi suất cũng tác
động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp. Do những ảnh hưởng
đó, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
II. PHÂN LOẠI LÃI SUÂT
Dưới đây là một số cách phân loại lãi suất dựa theo những tiêu chí khác
nhau:
1. Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng
-

Lãi suất tiền gửi ngân hàng: Là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản

tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy

thuộc vào loại tiền gửi (nội tệ hay ngoại tệ), loại tài khoản (tiền gửi thanh toán
hay tiền gửi tiết kiệm), loại thời hạn (không kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn), quy
mô tiền gửi.
-

Lãi suất tín dụng ngân hàng: Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho

ngân hàng (người cho vay). Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tùy
theo loại tiền, thời hạn, phương thức, mục đích của tiền vay.


-

Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới

hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh
toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy
tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng.
-

Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các

ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy
tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng
được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được
khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng trung ương ấn định và thông thường
nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần hạn chế khả năng
mở rộng tín dungj của hệ thống ngân hàng, nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,
ngân hàng trung ương có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thậm chí

cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng.
-

Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho

nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình
thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự
chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung
ương.
-

Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để

ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác
nhau ở tùy từng nước nhưng đều được hình thành trên cơ sở thị trường và có
một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
2. Căn cứ vào giá trị của tiền lãi
-

Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ.

Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín
dụng và ghi rõ trên công cụ nợ.


-

Lãi suất thực: Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những

thay đổi về lạm phát. Lãi suất thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ

tiền lãi mà người cho vay nhận được.
-

Lãi suất thực trả: Lãi suất ghi trên hợp đồng thường là tỷ lệ %/năm,

tuy nhiên việc trả lãi lại có thể diễn ra định kỳ hàng tháng, quý,…, do đó, so với
mức lãi suất ghi trên hợp đồng thì mức lãi suất thực trả sẽ cao hơn mức lãi suất
ghi trên hợp đồng.
3. Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
-

Lãi suất cố định: Là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn

vay. Nó có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước nhưng nhược điểm
là bị ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian dù
cho lãi suất thị trường đã thay đổi.
-

Lãi suất thả nổi: Là lãi suất được quy định là có thể lên xuống theo lãi

suất thị trường trong thời hạn tín dụng. Nó vừa chứa đựng cả rủi ro lẫn lợi
nhuận. Khi lãi suất tăng lên thì người đi vay bị thiệt trong khi người cho vay
được lợi và ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
4. Căn cứ vào loại tiền cho vay
-

Lãi suất nội tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ

-


Lãi suất ngoại tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.

5. Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
-

Lãi suất trong nước (Lãi suất địa phương): Là lãi suất áp dụng cho các

hợp đồng tín dụng trong một quốc gia.
-

Lãi suất quốc tế: Là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc

tế.
Các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường quốc
gia nào thì lãi suất của quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế.
III.

VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ

1. Lãi suất với quá trình huy động vốn


Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn
và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công
nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt
Nam, trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích lũy và sử dụng vốn có tầm
quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy
chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế. Việc đảm bảo đúng định hướng vốn
trong nước là quyết định, và sử dụng hiệu quả vốn ngoài nước là rất quan trọng

trong chiến lược công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất
phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích lũy cho cả người cho vay và
người đi vay. Cụ thể:
-

Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi

nhuận bình quân.
-

Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (Đối với cả tiền gửi và tiền vay).

2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi
mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả
cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất thấp, các doanh nghiệp có
điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại, khi lãi suất cao thì họ sẽ cân
nhắc kỹ hơn việc đầu tư mở rộng.
Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa
vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho
việc đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán
hay gửi tiền vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị định trệ, hàng hóa ứ đọng và hạ giá,
có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất (vì nguyên tắc
cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư), sự chênh lệch
đó sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.


Có thể nói rằng đầu tư và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.

3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhâp của mỗt hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu
dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu
nhập, vấn đề hàng hóa lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm
trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho
việc tiêu dùng hàng hóa nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn; khi lãi suất cao sẽ đem lại
thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết
kiệm tăng.
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động suất khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.
Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa.
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì
tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát
không đổi) thì tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá
(tỷ giá giảm) và ngược lại.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: Khi lãi suất
thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá đối đoái cao hơn làm
hàng hóa của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn và hàng hóa nước ngoài ở
nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Khi lãi suất tiền gửi
bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang
phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn so với các quốc
gia khác.
5. Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và
lạm phát. Fishes đã chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi


suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể là việc tăng lãi suất sẽ thu hẹp

được lượng tiền trong lưu thông, từ đó lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, việc dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài
vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu và sản lượng. Do vậy phải áp dụng kết hợp
với các công cụ khác một cách có hiệu quả.
6. Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân
bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị
trường cho thấy giá cả đóng vai trờ cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các
nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá
cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã
hội. Để quyết định đầu từ vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản nào
đó, chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu
được với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét việc đầu tư này có
mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản
tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Nói cách khác, khi quyết
định đầu tư, ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại với số tiền
vay phải trả. Khi chênh lệch này là dương thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó,
đó là sự phân bổ có hiệu quả.
7. Vai trò của lãi suất đối với Ngân hàng thương mại(NHTM)
Hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM là huy động
vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của mình. Với phương
châm: “ đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhãn rỗi trong các
doanh nghiệp và hộ gia đình để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu
dùng khác của người dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải
xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy
động tiền gửi quá thấp thì không thể khuyến khích các danh nghiệp và hộ gia
đình gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không đủ vốn đề đáp ứng nhu cầu vay vốn
của khách hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất



kinh doanh không có lãi hoặc lãi quá thấp sẽ thi hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt
động để gửi vốn vào ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động
kinh doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan
trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triền và ngược lại. Bởi vậy, lãi
suất vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô
của các NHTM.


CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ LÃI SUẤT NĂM 2011
Năm 2010 đã để lại vô vàn khó khăn, đặc biệt là những bất ổn về kinh tế
vĩ mô cho năm 2011. Kinh tế thế giới sau hai năm lâm vào suy thoái đã phục hồi
trở lại nhưng không vững chắc, và không đồng đều giữa các khu vực. Lạm phát
và giá cả hàng hóa có xu hướng tăng cao, thị trường tài chính thế giới biến động
phức tạp. Khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng Euro lan rộng, nợ công ở nhiều
nền kinh tế chủ chốt tăng cao tới mức nguy hiểm. Thêm vào đó là đồng đô-la
Mỹ biến động mạnh, giá vàng tăng cao ký lục. Những diễn biến kinh tế, tài
chính thế giới nêu trên tác động không nhỏ tới diễn biến kinh tế vĩ mô trong
nước cộng hưởng với những yếu kém nội tại làm cho bức tranh kinh tế Việt
Nam năm 2011 không mấy sáng sủa, đặc biệt là cú sốc về lãi suất.
I. Quý I năm 2011
-

Vào khoảng hơn một tháng cuối năm 2010, lãi suất đồng Việt Nam

liên tục biến động theo chiều hướng tăng. Lãi suất huy động VND đã tăng vọt từ
11-11.5% lên đến trên 17%/ năm ở một số ngân hàng thương mại với những kỳ
hạn ngắn. Đồng thời lãi suất cho vay VND cũng leo thang từ 13-14% lên 1921%/ năm tùy từng loại khoản vay.
Sang đến quý I năm 2011, lãi suất huy động vốn VND đã trở nên ít biến
động hơn so với cuối năm 2010 và phổ biến ở mức 13.5- 14%/năm, lãi suất cho

vay tăng khoảng 1-1.5%/ năm và duy trỳ ở mức bình quân là 16.23%/ năm: lãi
suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 14-16%/ năm,
lĩnh vực phi sản xuất là 18-22%/ năm.
Ngày 3/3, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2011/TTNHNN quy định lãi suất huy động vốn tối đã bằng đồng Việt Nam của các tổ
chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Như vậy, cam kết thực hiện
trần lãi suất tháng 12/2010 của các ngân hàng thương mại qua giám sát thực
hiện của Ngân hàng Nhà nước đã chính thức được thực hiện cụ thể bằng một
văn bản quy phạm pháp luật. Theo thông tư này, tổ chức tín dụng ấn định lãi


suất huy động vốn bằng VND của các tổ chức (trừ các tổ chức tín dụng) và cá
nhân bao gồm các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá
14%/ năm; riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn
bằng VND không vượt quá 14.5%/ năm.
-

Đầu năm 2011, thị trường lãi suất USD bắt đầu nóng lên. Từ khoảng

giữa tháng 1, các ngân hàng đều nâng lãi suất huy động USD lên mức 5.36.24%/ năm, tăng khoảng 0.4- 1% so với cuối năm 2010. Cụ thể là: Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Phương Tây (Western Bank) 5,5%/ năm, Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), 5,3%/ năm, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thương Tín (VietBank) 6%/ năm, cao
nhất là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt (Navibank) với 6,24%/ năm.
Việc tăng lãi suất huy động USD có nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ
nhu cầu vay vốn bằng USD ở mức cao. Việc chênh lệch lăi suất cho vay bằng
VND và USD có thể được xem là nguyên nhân chủ yếu của nhu cầu này. Các
doanh nghiệp vay USD chỉ phải trả lãi 6-7%/ năm, nhưng khi vay bằng VND,
họ phải trả lãi lên đến 20-22%/ năm. Thêm vào đó, các ngân hàng thương mại
cũng thu được lợi nhuận từ tỷ giá và lãi suất, nên càng muốn thu hút USD.
-


Ngày 8/3/2011,

Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số

379/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.
Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng là 12,0%/ năm, lần thứ hai kể từ đầu năm
Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi suất điều hành. Lần trước, ngày 17/2,
mức tăng lãi suất tái cấp vốn là từ 9%/năm lên 11%/năm.Trong lần điều chỉnh
này, lãi suất tái chiết khấu được tăng mạnh, từ 7%/năm lên 12%/năm. Như vậy.


ngay từ đầu năm, NHNN đã tăng các lãi suất cơ bản, thể hiện rõ quyết tâm thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.
-

Trong những ngày cuối Quý I/2011, lãi suất thị trường liên ngân hàng

tăng và giao dịch ở mức khoảng 16-18%/năm, chủ yếu kỳ hạn dưới 1 tháng; lãi
suất 1 tuần ở mức 18-20%/năm. Nguyên nhân là tính đến cuối tháng 3/2011, nợ
xấu toàn hệ thống tăng cao so với cuối năm 2010. Đặc biệt, nợ nhóm 3 tăng
khoảng 38%, nợ nhóm 4 tăng gần 30%, nợ nhóm 5 tăng 12%. Tính thanh khoản
của hệ thống giảm do không thu hồi được nợ.
II. Quý II năm 2011
-


Ngay trong những ngày đầu tháng 4/2011, thị trường bắt đầu chứng

kiến cuộc đua tăng lãi suấttiền không kỳ hạn của hàng loạt các ngân hang. Và
một hiện tượng mới đã xuất hiện trên thị trường lãi suất chỉ ít ngày sau khi
NHNN ban hành quy định các khoản tiền rút vốn trước hạn chỉ được hưởng lãi
suất không kỳ hạn thay vì để các ngân hang tự quyết như trước: Lãi suất huy
động vốn không kỳ hạn bị đẩy lên những mức rất cao (9-10%) thay cho mức 23% như trước đây. Quyết định này vô tình đẩy thị trường huy động vào một
cuộc đua mới, gây rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng. Bởi nguồn vốn
không kỳ hạn vốn chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu huy động của một số
ngân hàng, thậm chí có thể lên tới 10-40% tổng nguồn vốn huy động vì thường
là khoản tiền gửi thanh toán với giá trị lớn của các doanh nghiệp. Diễn biến này
vào thời điểm ấy đã đưa đến quan ngại rằng cuộc đua lãi suất không kỳ hạn có
thể mang đến những bất ổn cho thị trường tiền tệ.
Trong khi đó, động thái tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng lên đến 13% kể từ đầu tháng 4, từ
mức 12% trước đó cũng đã tạo nên những tác động khác. Chưa kể đây là lần thứ
ba NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn với tổng mức điều chỉnh là 4%, từ 9% lên
13%. Việc tăng lãi suất này đã có tác động tiêu cực tới mặt bằng lãi suất trong
ngắn hạn, là yêu tố gây mất ổn định thị trường tiền tệ, dù rằng về trung và dài


hạn sẽ góp phần nâng cao việc quản trị thanh khoản trong toàn hệ thống ngân
hàng.
Đến ngày 29/4, NHNN đã công bố quyết định điều chỉnh các lãi suất điều
hành quan trọng là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Kể từ ngày
1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức 13%/năm áp
dụng từ ngày 1/4. Đây được coi là một thông điệp khác về thắt chặt chính sách
tiền tệ nhằm góp phần kiềm chế lạm phát.
-


Tuy nhiên, lãi suất cho vay vẫn còn ở mức rất cao: Trung bình từ 18-

19%/năm, cao nhất đạt 25%/năm. Các doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn,
sản xuất đình trệ, đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực phi sản xuất. Vì vậy,
tuy nợ xấu vẫn còn, nhưng do NHNN 2 lần bơm tổng cộng 17-18 nghìn tỉ nên
tính thanh khoản của ngân hàng được cải thiện. Tín dụng liên ngân hàng giảm
nhẹ về lãi suất.
-

Ngày 9/4, NHNN đã ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN quy

định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng USD của tổ chức, cá nhân tại tổ
chức tín dụng. Trong đó, lãi suất huy động USD đối với các cá nhân hầu hết
được kéo thẳng 3%/ năm ở tất cả các kỳ hạn (ngoại trừ qua đêm và kỳ hạn tính
theo tuần). Như vậy, sau trạng thái “đường cong lãi suất” bị kéo thẳng nhiều lần
ở tiền gửi VND, hoạt động ngân hàng tại Việt Nam lại có thêm trạng thái tương
tự ở lãi suất huy động USD. Theo đó, khái niệm kỳ hạn ngắn và dài gắn với các
mức lãi suất cao - thấp trở nên mờ nhạt; khái niệm biến động lãi suất huy động
theo bảng niêm yết trong ngắn hạn cũng trở nên mờ nhạt.
-

Tháng 6, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội họp và thừa nhận thông tin, cho

thấy lãi suất huy động VND bình quân của các ngân hàng thương mại là khoảng
từ 15% - 15,5%/năm, được đề cập một cách chính thức từ báo cáo của cơ quan
chức năng. Thực tế, tại các địa phương, lãi suất huy động ngầm có khi lên đến
19%/năm (UBND tỉnh Tiền Giang). Vì vậy. ngay lập tức,ngày 16/6/2011, Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước có Công văn số 4605/NHNN-CSTT về lãi suất huy
động và cho vay bằng đồng Việt Nam gửi các tổ chức tín dụng và Hiệp hội Ngân



hàng Việt Nam. Đây là động thái “nhắc nhở” các ngân hàng về trần lãi suất của
NHNN Việt Nam.
III.
-

Quý III năm 2011

Mở đầu quý III là việc lãi suất liên ngân hàng VND kỳ hạn qua đêm đã

tăng từ 12% - 12,5%/năm lên 13% - 13,5%/năm, trong khi các kỳ hạn khác
không thay đổi nhiều và được duy trì ở mức 13% - 14%/năm với kì hạn 1 tuần,
13,5% - 15%%/năm đối với kì hạn 2 tuần và 14,5% - 16%/năm đối với kì hạn 1
tháng. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là vì những khoản vay tái cấp vốn đáo hạn
bắt đầu từ cuối tháng 7, bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng 9.000
tỷ đồng do nhận thấy sự dư thừa thanh khoản. Tuy nhiên, ngày 1/8/2011 đã
ghi nhận việc giảm lãi suất qua đêm trên liên ngân hàng xuống dưới mốc
12%/năm (11,64%/năm). Sự ổn định và có dấu hiệu giảm nói trên của lãi suất
này tiếp tục góp phần cho thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang tốt.
-

Tháng 7 đã ghi nhận việc vượt trần lãi suất của các ngân hàng, không

chỉ trong huy động VND mà còn lan sang cả USD, cao hơn mức 3% /năm quy
định. Lãi suất cho vay vẫn ở mức rất cao, lên đến 25%/năm, đồng USD lên tới
6-8%/năm. Nguyên nhân là do lạm phát tăng cao (lên tới 22%), vì vậy lãi thực
âm, khó huy động vốn. Nhưng đến cuối tháng 8, lãi suất giảm dần, cụ thể lãi
suất huy động ngầm từ 16-17%năm, lãi suất cho vay là 20-22%/năm. Tuy
nhiên vẫn còn ở mức rất cao.

-

Tháng 9 nổi bật với việc các “ông lớn” vào cuộc giảm lãi suất. Ngay

sau cuộc họp toàn ngành ngày 7/9 của NHNN, với chỉ thị rõ ràng từ Thống đốc
NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm cơ chế và mức trần lãi
suất huy động VND và USD hiện nay và kèm theo thông điệp quyết liệt giám
sát và chế tài xử lý mạnh đối với các trường hợp vi phạm, các ngân hàng đã
lần lượt áp lại trần lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay xuống 1719%/năm. Cụ thể ngân hàng Hàng Hải (Maritime Bank) mức lãi suất VND ngắn


hạn áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất tối thiểu là 17,5%/năm, tối đa là
19%/năm; đối với các khoản vay trung - dài hạn là 18,5%/năm và 20%/năm; lãi
suất chiết khấu USD cũng giảm 0,5% xuống còn 8,0%/năm, Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam (BIDV) lãi suất cho vay ngắn hạn không quá 18,0%/năm;
cho vay trung dài hạn không quá 19,0%/năm, các ngân hàng Habubank,
TienphongBank, Saccombank, SHB, VPBAnk, ABBank, Eximbank VietinBank,
Vietcombank, MHB, MB, LienVietPostBank, Maritime Bank… đều có chương
trình cho vay với lãi suất ưu đãi, từ 17-19%/năm. Đến 8/9, có 34/42 ngân hàng
thương mại ban hành văn bản chỉ đạo trong toàn hệ thống về việc chấp hành
đúng quy định về trần lãi suất huy động bằng VND và USD.
IV. Quý IV năm 2011
-

Ngày 12/10, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tổ chức họp hội

viên, 23 đơn vị cùng ký cam kết thực hiện nghiêm trần lãi suất tiền gửi VND
theo Thông tư 30, theo đó ấn định lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới
1 tháng là 6%/năm; lãi suất từ 1 tháng trở lên: 14%/năm. Đồng thời, mức lãi
suất chỉ tính theo phương thức trả lãi cuối kỳ, mọi phương thức trả lãi khác đều

quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ.
-

Sau một thời gian dài ổn định, lãi suất giao dịch trên thị trường liên

ngân hàng bắt đầu biến động mạnh. Diễn biến này đến ngay sau khi việc điều
chỉnh một số lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực. Trong
các ngày 11 và 12/10, lãi suất giao dịch trên thị trường này tại các kỳ hạn ngắn
như qua đêm, 1 tuần, 1 tháng đều tăng rất mạnh so với trước đó. Lãi suất qua
đêm các mức cao đã lên tới trên dưới 16%/năm, 1 tuần quanh 18%/năm và 1
tháng ở khoảng 20%/năm. Nguyên nhân có thể do tác động từ vụ lừa đảo với
số tiền lên tới khoảng 5.000 tỷ đồng hoặc do một số ngân hàng nhỏ gặp khó
khăn trong huy động, lượng giấy tờ có giá hạn chế để có thể cầm cố, tái chiết


khấu nên buộc phải vay trên liên ngân hàng với lãi suất cao. Tuy nhiên, NHNN
vẫn khẳng định tính thanh khoản của hệ thống vẫn rất tốt, thậm chí dư thừa.
-

Lãi suất cho vay tuy giảm, nhưng lãi suất chưa thể giảm đại trà và khả

năng tiếp cận tín dụng cũng không phải dễ. Trong bối cảnh nợ xấu gia tăng,
các ngân hàng cũng khá thận trọng cho vay tín dụng, mức lãi suất 17% 19%/năm vẫn là mức tương đối cao nên các điều kiện tiếp cận cũng khá khắt
khe.
-

Cuối năm đã ghi nhận sự biến động của lãi suất huy động vàng và

ngoại tệ. Cụ thể, 3,2%/năm là mức lãi suất huy động vàng cao nhất trên biểu
niêm yết. Tại một số ngân hàng thương mại cổ phần, những mức lãi suất cao

áp dụng cho chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn bằng vàng hiện cũng đã khá phổ biến
từ 2,5% - 2,7%/năm. Cùng với diễn biến trên, thị trường cũng đón nhận những
biến động đáng chú ý của lãi suất các ngoại tệ “lạ”. Ví dụ Ngân hàng Xuất
nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) lãi suất huy động EUR cao nhất đã lên
3%/năm ở kỳ hạn 12 tháng; còn với CAD cao nhất là 1%/năm ở các kỳ hạn từ 3
– 12 tháng.Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB), lãi suất huy động
EUR cao nhất cũng đã ở mức 4%/năm cho các kỳ hạn từ 12 – 24 tháng. Tại
TinNghiaBank các kỳ hạn từ 12 – 24 tháng ở mức 3,1% - 3,2%/năm…Nguyên
nhân là do khó khăn trong huy động VND, mức huy động toàn ngành đã giảm
liên tiếp trong 2 tháng.
Có thể nói sự biến động lãi suất trong năm 2011 đã gây nên một cú sốc
lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp.


CHƯƠNG 3. DỰ BÁO LÃI SUẤT NĂM 2012
I. Diễn biến lãi suất hai tháng đầu năm
-

Ngân hàng Nhà nước vừa phát đi thông báo về hoạt động hệ thống

ngân hàng trong tháng 1/2012. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước cho biết, lãi
suất cho vay VND đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở
mức 14,5-17%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; lãi suất cho vay sản xuất - kinh
doanh khác khoảng 17-20%/năm, thấp nhất 15%/năm; lãi suất cho vay lĩnh
vực phi sản xuất khoảng 22-26%/năm.
-

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng tính đến ngày

17/02/2012 giảm 0,79% so với cuối năm 2011, trong đó tín dụng bằng VND

giảm 0,21%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 2,93%. Tuy nhiên tổng phương tiện
thanh toán tăng 0,74% so với cuối năm 2011. Tổng số dư tiền gửi của khách
hàng tại các tổ chức tín dụng đến 17/01/2012 giảm 3,29% so với cuối năm
2011.
Nhìn chung, trong hai tháng vừa qua vẫn chưa có biến động mạnh về lãi
suất
II. Dự báo lãi suất năm 2012
Bước sang năm 2012, kỳ vọng giảm lãi suất vẫn còn đó, cái khó vẫn còn
đó. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giới hạn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và tổng
phương tiện thanh toán ở mức thấp, lần lượt từ 15 - 17% và 14 - 16%. Tại phiên
họp Chính phủ mở rộng cuối tháng 12/2011, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước
cũng đưa ra tính toán rằng: 10 năm qua tăng trưởng tín dụng bình quân mỗi năm
là 29,4%, những năm gần đây bình quân là 33%, khi khống chế xuống dưới 20%
“thì rõ ràng” ít nhất 10% doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng.
Cung tiếp tục hạn chế ở mức thấp, cầu dự báo vẫn tiếp tục ở mức cao, và bài
toán giảm lãi suất không chỉ phụ thuộc ở lạm phát.


Tuy nhiên, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Mục tiêu quan
trọng nhất của chính phủ trong năm 2012 vẫn sẽ là ‘kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô’ “, nên việc tăng giảm lãi suất vẫn là công cụ hữu hiệu và gắn bó
chặt chẽ với chỉ tiêu vĩ mô này.
1. Dự báo trong 6 tháng đầu năm
-

Về việc giảm lãi suất:

Có những dấu hiệu cho thấy các ngân hàng thương mại muốn hạ lãi suất
cho vay tín dụng xuống để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bởi sản xuất có phát
triển thì các doanh nghiệp mới có khả năng thanh toán nợ, vì vậy nợ xấu của

doanh nghiệp mới có thể giảm. Qua đó, lành mạnh hóa hoạt động của ngân hàng
và tăng tính thanh khoản của hệ thống. Tuy nhiên, vẫn khó có thể nói bức tranh
kinh tế của Việt Nam sẽ tốt hơn trong những tháng tới. Phóng viên Ben Bland
của Financial Times đã trích phân tích của Capital Economics trong đó dự kiến
Việt Nam sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Nhưng tổ chức
này cảnh báo giảm lãi suất cho vay quá sớm có thể gây hại cho nền kinh tế
mong manh của Việt Nam.
Vậy tại sao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải thận trọng?
Vấn đề là mặc dù có xu hướng đi xuống rõ ràng, lạm phát tại Việt Nam
vẫn còn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Vì vậy, cắt giảm lãi suất
quá nhanh sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của cam kết của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong nỗ lưc giảm lạm phát. Yếu tố gây lo lắng khác là việc
giảm lãi suất có thể gây thêm áp lực mất giá đối với tiền đồng, ông Leather của
Capital Econmics nhận định. Nếu chính phủ Việt Nam buộc phải phá giá tiền
đồng, có nguy cơ Việt Nam sẽ bị cuốn vào vòng luẩn quẩn vì tăng chi phí nhập
khẩu sẽ gây áp lực lạm phát.
Dẫu sao thì dường như việc giảm lãi suất đã nằm trong kế hoạch của
chính phủ. Chỉ mới tháng trước, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nguyễn Văn Bình nói sẽ xem xét để điều chỉnh lãi suất ở "mức phù hợp hơn".
"Nguy cơ lạm phát vẫn rất hiện hữu trong khi chúng ta phải cố gắng làm sao để


hạ lãi suất xuống. Cân đối được cái đó là bài toán rất khó đối với Ngân hàng
Nhà nước," ông Bình nói với các phóng viên. Về cơ bản, giảm lãi suất và tăng
tín dụng khiến nỗ lực giảm lạm phát là phi thực tế và rằng mục tiêu giảm lạm
phát dưới 10% chỉ là “mục tiêu chính trị”. Thông điệp của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước được đưa ra chỉ vài ngày sau hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân
hàng năm 2012, theo đó chính phủ nhấn mạnh nỗ lực kiểm soát lạm phát ở mức
9% và chỉ đạo ngành ngân hàng phải giảm lãi suất ngay từ đầu năm 2012.
Theo ông Tai Hui, Trưởng bộ phận Nghiên cứu khu vực Ðông Nam Á,

trực thuộc đội Nghiên cứu toàn cầu của Ngân hàng Standard Chartered, lạm phát
sẽ tiếp tục giảm từ tháng 2/2012. Việc này sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định
giá cả hàng hóa thế giới và độ ổn định của VND.
Với tỷ lệ lạm phát có chiều hướng giảm, Standard Chartered kỳ vọng vào
các chính sách giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước vào nửa sau của năm
2012 để phục hồi kinh tế. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn sẽ giảm từ 15% xuống
12%/năm vào cuối quý 2 và 11%/năm vào quý 3/2012.
-

Về việc bỏ trần lãi suất:

“Nếu bao giờ không còn những lý do để áp trần lãi suất thì lúc đó sẽ bỏ,
nhưng giờ vẫn chưa giải quyết được những lý do đó”, Thống đốc nói.
Cụ thể, từ năm 2010, cơ chế trần lãi suất huy động được đưa ra xuất phát từ
những xáo trộn trên thị trường. Nhu cầu vốn của hệ thống ngân hàng cao, nếu để
tự do thì mặt bằng lãi suất huy động cao dẫn tới lãi suất cho vay cao và doanh
nghiệp khó khăn, tăng trưởng kinh tế theo đó khó đảm bảo… Và cơ chế trần đưa
ra nhằm đảm bảo hệ thống huy động vốn ở một mức nhất định, cho vay ra ở
mức lãi suất “chấp nhận được”.
Đến nay, các điều kiện để áp trần lãi suất vẫn còn nên cơ chế này chưa bỏ
được. Thống đốc nói: “Từ nay đến hết tháng 6/2012, bỏ trần là không tưởng.
Nếu bỏ thì mức biến động của lãi suất như thế nào cần phải tính toán”.


Như vậy có thể thấy lãi suất huy động vẫn sẽ giữ nguyên trần là 14% và
6%/năm, lãi suất cho vay có thể giảm nhẹ để kích thích đầu tư, sản xuất, có thể
giảm xuống còn từ 15-17%/năm.
2. Dự báo trong 6 tháng cuối năm
-


Nhà phân tích gia của Capital Econmics cho rằng vì có theo dự kiến

giá thực phẩm giảm nên lạm phát sẽ tương đối thấp trong những tháng còn lại
của năm 2012 và vào cuối năm sẽ đứng ở mức một chữ số nhưng là con số cao.
Nếu thực sự nỗ lực kiềm chế lạm phát của Chính phủ bằng loạt hành động như
thoái vốn ở một số doanh nghiệp nhà nước, cắt giảm chi tiêu công, giảm nợ
công, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,… phát huy tác dụng. kết hợp với yếu tố
khách quan khác giúp giảm lạm phát như dự báo, thì việc giảm lãi suất là hết sức
có cơ sở.
-

Theo dự báo, NHNN sẽ giảm lãi suất tái cấp vốn xuống còn 11% tính

đến hết quý III, nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giảm lãi suất
quy định từ 14% xuống 13% trong quý I/2012 và sau đó tiếp tục giảm còn 9%
vào cuối năm 2012. Theo đó, lãi suất cho vay cũng giảm, nhiều khả năng xuống
13-14%/năm.
-

Các phương án giảm lãi suất:

Phương án thứ nhất
Đang được Ngân hàng Nhà nước triển khai. Theo đó, cơ quan này chỉ đạo
các ngân hàng thương mại nhà nước hạ dần lãi suất cho vay, từ đó lan tỏa đến
các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Đồng thời, theo tín hiệu của chỉ số giá
tiêu dùng và thị trường liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện bơm tiền
ở liều lượng thích hợp và cuối cùng sẽ điều chỉnh trần lãi suất huy động. “Với
phương án này, lãi suất cho vay sẽ giảm chậm và dự kiến tới cuối năm 2012, lãi
suất cho vay sẽ dao động từ 14-18%, phổ biến sẽ ở mức 15-17%”, ông Hải nhận
xét.



Về phương án hai, theo đề xuất của VAFI, Ngân hàng Nhà nước nên
giảm ngay lãi suất huy động đối với tổ chức xuống 11%/năm. Theo đó, việc
giảm ngay lãi suất với đối tượng này sẽ không ảnh hưởng đến trật tự huy động
vốn của hệ thống ngân hàng thương mại, cũng như không tác động tới thị trường
ngoại tệ. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước nên khống chế lãi suất tiền gửi ngoại
tệ và vàng miếng ở mức không quá 1%/năm nhằm làm tăng sức hấp dẫn đối với
tiền gửi VND, thúc đẩy tiến trình bán vàng ngoại tệ cho khối ngân hàng thương
mại. Mặt khác, VAFI đề xuất Ngân hàng Nhà nước đặt ngay trần lãi suất cho
vay không quá 18%/năm, sau đó, theo tín hiệu thị trường giảm dần lãi suất tiền
gửi của dân cư, và hạ tiếp trần lãi suất cho vay. Ông Hải cho rằng, với phương
án này, đến cuối năm 2012, lãi suất cho vay sẽ dao động từ 12-16%, phổ biến sẽ
ở mức 14-15%.
Phương án ba, nghị định về quản lý kinh doanh vàng cần sớm được ban
hành vì nó có tác động tích cực đến bình ổn thị trường ngoại hối. Điểm mấu chốt
của Nghị định là sẽ ban hành chính sách thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với hoạt động kinh doanh vàng. Theo phân tích của VAFI, nếu nhà
nước sớm công bố chủ trương thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt với
hoạt động kinh doanh vàng ở mức 20% trên giá bán thì đây sẽ là giải pháp đột
phá để hạ lãi suất cho vay về dưới 10%/năm. Hiệu quả của giải pháp này là
nhanh chóng kích thích thị trường chứng khoán cũng như thị trường trái phiếu
phục hồi và phát triển. Cùng với đó hệ thống ngân hàng sẽ có cơ hội huy động
nguồn vốn dài hạn. Mặt khác, giải pháp này không những ngăn chặn tình trạng
chảy máu ngoại tệ mà nguồn ngoại tệ, nguồn vàng trong dân sẽ chảy vào hệ
thống ngân hàng thương mại một cách dễ dàng.


KẾT LUẬN
Có thể nói, lãi suất luôn là một công cụ hữu hiệu nhất để điều tiết nền

kinh tế vĩ mô, đặc biệt là đối với Việt Nam. Và thực tế đã cho thấy, trong năm
2011 vừa qua, những chính sách về lãi suất đã có ảnh hưởng rất lớn tới nền
kinh tế. Mặc dù sự biến động quá nhiều của lãi suất đã gây một cú sốc lớn cho
các doanh nghiệp, nhưng một điều không thể phủ nhận rằng nó đã góp phần
làm giảm lạm phát. Và một số chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng đến cuối
năm 2012, có thể lạm phát ở Việt Nam sẽ xuống đến con số một chữ số.
Ngay từ những tháng đầu năm, đã có những dấu hiệu cho thấy rằng lãi
suất sẽ giảm trong thời gian tới, nhưng cũng có nhận định cho rằng việc cắt
giảm lãi suất quá sớm và quá nhanh sẽ gây hại cho nền kinh tế mong manh
của Việt Nam. Vậy, chúng ta phải thực hiện các phương án giảm lãi suất như
thế nào cho hiệu quả? Đây vẫn là một câu hỏi mà khiến cho các nhà quản lý
tài chính cũng như các ngân hàng phải trăn trở rất nhiều. Còn về vấn đề bỏ
trần lãi suất, muốn thực hiện được thì phải giải quyết được nguyên nhân gốc
rễ của nó, đó là đưa mức lãi suất trên thị trường về tình trạng ổn định và có
thể “chấp nhận được”. Có lẽ việc này khó mà thực hiện được trong 6 tháng
đầu năm.
Vấn đề lãi suất quả thực là một vấn đề vô cùng cấp thiết đối với Việt
Nam hiện nay, và các thông tin cũng như các chính sách điều chỉnh về vấn đề
này vẫn sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm rất lớn từ rất nhiều các tầng lớp
dân cư trong xã hội.


Do hiểu biết còn hạn hẹp nên bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót. Chúng
em mong rằng sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của cô để bài tiểu luận trở
nên hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến
Giáo trình “Tài chính- tiền tệ ngân hàng”, Nhà xuất bản Thống kê, 2001.
2. PGS. TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân,

2007.
Giáo trình: “Lý thuyết tài chính- tiền tệ”. Nhà xuất bản Thống kê, 2007.
3. GS. TS. Dương Đăng Trinh (chủ biên), Học viện Tài chính.
Giáo trình: “Lý thuyết tài chính”. Nhà xuất bản Tài chính, 2005.
4. Lê Trà
Bài viêt “Đề xuất ba phương án giảm lãi suất”, báo điện tử
vneconomy.vn, 2011.
5. Bảo Anh
Bài viết “Chính phủ: “Lãi suất nhất định sẽ giảm””, báo điện tử
vneconomy.vn, 2012.
6. Nguyễn Hoài
Bài viết “Giảm lãi suất vấp ba lực cản”, báo điện tử vneconomy.vn,
2012.
Bài viết: “Việt Nam sẽ giảm lãi suất và tăng tín dụng”, báo điện tử
BBC.co.uk, 2011.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
I. Khái niệm lãi suất
II. Phân loại lãi suất
III. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất khẩu
5. Lãi suất với lạm phát
6. Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
7. Vai trò của lãi suất đối với ngân hàng thương mại

CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ LÃI SUẤT NĂM 2011
I. Quý I năm 2011
II. Quý II năm 2011
III. Quý III năm 2011
IV.Quý IV năm 2011
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO LÃI SUẤT NĂM 2012
I. Diễn biến lãi suất hai tháng đầu năm
II. Dự báo lãi suất 2012
1. Dự báo trong 6 tháng đầu năm
2. Dự báo trong 6 tháng cuối năm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
IV.Khái niệm lãi suất
V. Phân loại lãi suất
VI.Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
8. Lãi suất với quá trình huy động vốn
9. Lãi suất với quá trình đầu tư
10. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
11. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất khẩu
12. Lãi suất với lạm phát
13. Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
14. Vai trò của lãi suất đối với ngân hàng thương mại
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ LÃI SUẤT NĂM 2011
V. Quý I năm 2011
VI.Quý II năm 2011

VII.

Quý III năm 2011

VIII. Quý IV năm 2011
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO LÃI SUẤT NĂM 2012
III. Diễn biến lãi suất hai tháng đầu năm
IV.Dự báo lãi suất 2012
3. Dự báo trong 6 tháng đầu năm
4. Dự báo trong 6 tháng cuối năm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


×