Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.39 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với xu thế mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự giao lưu
ngoại thương với khối lượng hoàg hóa ngày càng lớn đã đòi hỏi hoạt động thanh
toán hàng xuất, nhập khẩu phải nhanh chóng, thuận tiện cho các bên. Với vị trí,
vai trò quan trọng của thanh toán quốc tế phục vụ kinh tế đối ngoại nên trong
những năm qua ngành Ngân hàng đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả của mặt nghiệp vụ này, chính vì vậy mà thanh toán quốc tế nói
chung và thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng đã
mang kết quả khả quan, đáp ứng phần lớn nhu cầu thanh toán hàng xuất nhập
khẩu của nền kinh tế. Tuy nhiên đây là nghiệp vụ rất phức tạp và đòi hỏi về xử
lý kỹ thuật rất cao do vậy nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín
dụng chứng từ vẫn còn một số tồn tại cần phải được quan tâm nghiên cứu để có
các giải pháp khắc phục những tồn tại đó.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh
Hoàn Kiếm là một chi nhánh ngân hàng mới được thành lập, nghiệp vụ thanh
toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ chưa phát triển, khi tiến hành
thực hiện nghiệp vụ này không tránh khỏi gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc khắc
phục những khó khăn để hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế
bằng phương thức tín dụng chứng từ là một yêu cầu hết sức cấp thiết đối với
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm.
Từ những lý do nêu trên và cùng với yêu cầu của đợt thực tập tại tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm., em đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn chi nhánh Hoàn Kiếm” để làm thu hoạch trong đợt thực tập này của mình.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của bài thu hoạch

1



Trong phạm vi nghiên cứu của bài thu hoạch, với một thời gian thực tập
ngắn ngủi tại Ngân hàng, vì vậy, trong bài này mục đích nghiên cứu là:
• Tìm hiểu được cơ bản thực trạng hoạt động kinh doanh nói chung và
hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ nói riêng tại
NHNo&PTNT chi nhánh Hoàn Kiếm.
• Đưa ra được giải pháp, kiến nghị đóng góp nhằm hoàn thiện và nâng
cao chất lượng thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại
NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất
lượng Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại
NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài thu hoạch được chia thành 3 chương
Chương 1. Tổng quan về Thanh toán quốc tế.
Chương 2. Thực trạng hoạt động Thanh toán quốc tế bằng phương thức
Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm.
Chương 3. Giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hoạt
động Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại
NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Đặng Thị Lan đã giúp em hoàn
thành bài thu hoạch thực tập này.
Em xin cảm ơn các cô chú, anh chị tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm
và đặc biệt cảm ơn các anh chị Phòng Thanh toán quốc tế đã tạo điều kiện cho
em được tiếp xúc và tham gia thực tế công việc thanh toán quốc tế trong thời
gian em thực tập ở đây, những kinh nghiệm thực tế này đã giúp ích cho em rất
nhiều để hoàn thành bài thu hoạch thực tập này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Duy Hưng

2



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc
tế trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đềư có liên quan đến quyền
lợi và nghĩa vụ mà các bên phải đề ra giải quyết và thực hiện, được quy định lại
thành những điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm, điều kiện về thời gian và
điều kiện về phương thức thanh toán.[1]
Thanh toán quốc tế được hiểu là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các
hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính giữa
các tổ chức, các đơn vị kinh tế, các cá nhân giữa nước này với nước khác.
Thanh toán quốc tế là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện buôn
bán- trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước. Nó phản ánh sự vận động có tính
quy luật của giá trị trong quá trình chu chuyển hàng hóa, tiền tệ giữa các quốc
gia và được xem là khâu cuối cùng trong một giao dịch kinh tế.
Thanh toán quốc tế không chỉ đơn thuần giống hoạt động thanh toán trong
quan hệ giao dịch mua bán trong nước, mà thanh toán quốc tế rất phức tạp. Điều
này là do thanh toán quốc tế có liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau, với
nhiều đồng tiền thanh toán khác nhau. Và hơn nữa, việc thanh toán giữa các
nước đều phải tiến hành thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà chủ yếu
là Ngân hàng. Hoạt động thanh toán thường không dùng tiền mặt, chủ yếu là
thanh quyết toán giữa các Ngân hàng. Vì vậy, thanh toán quốc tế có những nét
đặc thù riêng.[7]
Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ quyết định tới hiệu quả của một thương vụ
bởi vì nó ảnh hưởng tới quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Vì vậy trong hoạt
động thanh toán quốc tế, các điều kiện về thanh toán được hình thành nhằm đảm
bảo cho việc thanh toán được hợp lý cho cả đôi bên.


3


1.2 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động của các ngân hàng
thương mại
Thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi
nhuận của ngân hàng. Vì hoạt động của Ngân hàng thương mại chủ yếu dựa trên
3 chức năng chủ yếu: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh
toán và chức năng sáng tạo ra công cụ lưu thông tín dụng. Hoạt động thanh toán
quốc tế thường do các Ngân hàng thương mại tiến hành và về bản chất đây là
một hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm thu phí. Tiền phí mà Ngân hàng thu
thường là một tỷ lệ phần trăm nhất định tính trên tổng giá trị hàng hóa xuất nhập
khẩu. Các Ngân hàng có lợi thế tuyệt đối về công nghệ và nhân lực so với các tổ
chức tín dụng khác trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, chính vì vậy
thị phần thanh toán quốc tế của các Ngân hàng cũng lớn hơn nhiều so với các tổ
chức tín dụng khác. Do đó, phí thu từ hoạt động thanh toán quốc tế của các
Ngân hàng cũng là một nguồn thu đáng kể, nhất là những Ngân hàng chuyên
môn phục vụ ngoại thương.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như
hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu không ngừng tăng trưởng về quy mô giá trị,
tốc độ, chủng loại mặt hàng..., hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng
vì thế mà cũng lớn mạnh phát triển thêm.
Thanh toán quốc tế là công cụ giúp Ngân hàng thương mại thu được ngoại
tệ. Thật vậy, bên cạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
thì thanh toán quốc tế cũng là một nguồn thu ngoại tệ của các Ngân hàng thương
mại. Khi Ngân hàng thương mại trích phí trên tổng giá trị hàng hóa xuất nhập
khẩu thì nếu số tiền đó được tính theo đơn vị là ngoại tệ, Ngân hàng thương mại
có thể được hưởng một tỷ lệ phần trăm trên số ngoại tệ đó.
Một số quốc gia còn bắt buộc các nhà nhập khẩu khi nhận ngoại tệ về thì
phải chuyển đổi một tỷ lệ phần trăm nhất định ra nội tệ, phần còn lại mới được

nhận bằng ngoại tệ. Việc làm này nhằm quản lý lượng ngoại tệ di chuyển vào
đất nước, giúp cân bằng thị trường ngoại hối.
Thanh toán quốc tế qua hệ thống Ngân hàng thương mại giúp Ngân hàng
trung ương kiểm soát ngoại tệ. Thật vậy, bằng việc kiểm soát doanh số thanh
toán quốc tế của Ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung ương có thể biết được
lượng ngoại tệ vào ra đất nước và nhờ đó có những can thiệp kịp thời đến thị
trường ngoại hối. Chẳng hạn, nếu qua các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
4


trung ương biết rằng nền kinh tế có hiện tượng xuất siêu nghĩa là lượng ngoại tệ
vào rất lớn thì Ngân hàng trung ương có thể tung nội tệ ra để mua ngoại tệ vào
nhằm làm tăng giá ngoại tệ và giảm giá nội tệ giúp ổn định thị trường ngoại hối
và do đó ổn định thị trường tiền tệ.

1.3 Các phương tiện thanh toán quốc tế
Các phương tiện thanh toán chủ yếu trong thanh toán quốc tế bao gồm séc,
hối phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, thư tín dụng, thư
bảo lãnh, thẻ tín dụng ... và phần lớn trong các phương tiện đó thực hiện một số
chức năng của tiền như là phương tiên lưu thông và phương tiện thanh toán tức
là nó có khả năng chuyển nhượng, mua, bán từ tay người này sang tay người
khác bằng cách chuyển giao không cần ký chuyển nhượng hay ký chuyển
nhượng và người thụ hưởng phương tiện đó là người chủ hợp pháp của phương
tiện đó.
1.4 Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
Phương thức chuyển tiền
Phương thức ghi sổ
Phương thức bảo lãnh
Phương thức nhờ thu
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ

Trong phạm vi có giới hạn cho phép của bài thu hoạch thực tập, sau đây em xin
trình bày về một trong những phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu trên, đó là
phương thức tín dụng chứng từ.
1.5 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ

1.5.1 Cơ sở ra đời của tín dụng chứng từ
Trên thực tế, tín dụng chứng từ ra đời từ sự không chắc chắn của người
bán và cả người mua. Người bán vừa muốn giao hàng vừa muốn biết chắc chắn
được thanh toán. ngược lại, người mua vừa muốn thanh toán vừa muốn chắc
chắn nhận được hàng. Do đó, người mua sẽ đề nghị Ngân hàng của mình mở
một thư tín dụng. Đó là cam kết của người thứ ba (Ngân hàng), một cam kết về
khả năng chắc chắn thanh toán của người mua. Ngân hàng cam kết sẽ thanh toán
hàng nhập khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình một số chứng từ đã yêu cầu
trong lúc mở thư tín dụng – có tên là chứng từ tín dụng. Tín dụng chứng từ là
một hình thức tín dụng buộc Ngân hàng phải can thiệp bằng cách hỗ trợ cho một
5


giao dịch không có một sự tin tưởng chắc chắn giữa người cung cấp và khách
hàng. Vì lợi ích của khách hàng và uy tín của Ngân hàng, chủ Ngân hàng hứa
thanh toán cho người bán trong trường hợp các chứng từ nêu trong thư tín dụng
sẽ được xuất trình để đổi lấy sự thanh toán đó.
Cũng vì do không quen biết, người bán đã đưa cho người mua một bảo
đảm, với nghĩa người bán không chỉ có một mình mà được hỗ trợ bởi một
Ngân hàng quen biết cam kết thanh toán trực tiếp vào tài khoản của người bán.
Người mua đã thực hiện bước một là đã đạt được sự bảo đảm rằng việc thanh
toán bởi Ngân hàng vào tài khoản của anh ta sẽ được tiến hành với điều kiện có
xuất trình một số chứng từ chủ yếu khẳng định quyền sở hữu hàng hóa của
người mua.
Nhưng do người bán không luôn luôn hài lòng với bảo đảm duy nhất đó,và

một bước đi mới ra đời bởi sự can thiệp của một nhân vật mới Ngân hàng người
bán. Theo định nghĩa cũng như thực tiễn, Ngân hàng người bán được thành lập ở
nước người bán cam kết hiểu biết về khả năng thanh toán của người bán. Ngân
hàng của người bán có thể làm người bán thỏa mãn hơn nữa bằng cách xác nhận
khoản tín dụng đó. Ngân hàng người bán xác nhận nghiệp vụ đó, nghĩa là cam
kết thanh toán cho người bán để đổi lấy việc xuất trình chứng từ. Như vậy, điều
tiên quyết hình thành tín dụng chứng từ là do không có sự tin tưởng của người
mua và người bán (người nhập khẩu và người xuất khẩu). Khi một người mua và
người bán ở hai nước khác nhau muốn thiết lập quan hệ, một vấn đề cơ bản
được đặt ra trước tiên đó là vấn đề lòng tin, khi quan hệ chưa được thiện chí.
Trên thị trường quốc tế, việc tự tìm kiếm thông tin về đối tác là rất khó khăn.
Thực tế đòi hỏi một hình thức tín dụng mà trong mọi giải pháp đều làm hài lòng
các bên. Tín dụng chứng từ là hình thức tín dụng mà trong đó các Ngân hàng hỗ
trợ để hình thành nên một giao dịch không có một chút lòng tin cần thiết nào
giữa người cung cấp và khách hàng chưa quen biết hoặc quen biết quá ít ở hai
nước khác nhau. Trong hình thức thanh toán này, thường chỉ có bốn thành viên
tham gia giao dịch : người bán – người mua – Ngân hàng người bán – Ngân
hàng người mua.
1.5.2 Khái niệm
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán, trong
đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng), theo yêu cầu của khách hàng
(người yêu cầu mở thư tín dụng) cam kết sẽ trả tiền cho người thứ ba (người
6


hưởng lợi), hoặc trả tiền cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba; hoặc
sẽ trả tiền, chấp nhận, chiết khấu hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc
cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu hối phiếu đó
khi các chứng từ được xuất trình đầy đủ và phù hợp với các điều khoản, điều
kiện của thư tín dụng.[1]

1.5.3 Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ
• Người yêu cầu mở thư tín dụng là Người nhập khẩu hoặc là Người
nhập khẩu uỷ thác cho một người khác.
• Ngân hàng phát hàn thư tín dụng là Ngân hàng của người nhập khẩu,
nó cấp tín dụng cho Người nhập khẩu.
• Người hưởng lợi thư tín dụng là người xuất khẩu hay bất cứ người nào
khác mà người hưởng lợi chỉ định.
• Ngân hàng thông báo thư tín dụng là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng
phát hành ở nước Nguời hưởng lợi.
1.5.4 Quy trình tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ
Trong phương thức thanh toán quốc tế theo nghiệp vụ tín dụng chứng từ
bắt buộc phải cần sự tham gia hợp tác rất chặt chẽ và hệ thống của tất cả các bên
tham gia gồm: Ngân hàng thông báo, Ngân hàng phát hành, Người xuất khẩu và
Người nhập khẩu. Mỗi thành viên trong hệ thống đều thực hiện những nhiệm vụ
cụ thể nhất định của riêng mình và có sự tác động qua lại giữa các thành viên
trong hệ thống. ( Xem hình 1).

7


Hình 1: Trình tự nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ

Ngân hàng
thông báo

8

Ngân hàng

5


Phát hành

2
1
8

5

6

7

Chi nhánh Ngân

3

hàng phát hành

1
Người hưởng
lợi( XK)

1

6

7

Người yêu cầu

4

(NK)

Nguồn:[1], trang 324
(1). Gửi đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng và tiến hành ký quỹ.
(2). Phát hành L/C qua Ngân hàng đại lý cho Người xuất khẩu hưởng lợi.
(3). Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C và chuyển bản gốc L/C cho
Người hưởng lợi.
(4). Giao hàng.
(5). Xuất trình chứng từ đòi tiền Ngân hàng phát hành L/C.
(6). Ngân hàng phát hành thông báo kết quả kiểm tra chứng từ cho Người yêu
cầu.
(7). Người yêu cầu chấp nhận hay từ chối thanh toán.
(8). Ngân hàng phát hành thông báo chấp nhận hay từ chối chứng từ.

8


1.6 Thư tín dụng
1.6.1 Khái niệm
Thư tín dụng thương mại ( Letter of Credit. L/C) là một chứng thư (điện hoặc
chứng chỉ), trong đó Ngân hàng phát hành L/C sẽ cam kết trả tiền cho Người
xuất khẩu nếu họ xuất trình được các chứng từ phù hợp với các điều kiện và
điều khoản quy định trong L/C.[1]
1.6.2 Nội dung thư tín dụng
Mặc dù có nhiều loại thư tín dụng, tuy nhiên mỗi loại thư tín dụng đều chứa
đựng những nội dung chủ yếu và đã được chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. Sau
đây là những nội dung chủ yếu của thư tín dụng đã được chuẩn hóa trong các
trường của mẫu điện MT 700 – Issue of a Documentary Credit mà các ngân

hàng sử dụng khi tham gia vào mạng thanh toán quốc tế SWIFT.[4]
• Số hiệu thư tín dụng (20 /Documentary Credit number): Mỗi thư tín
dụng đều có số hiệu riêng, nhằm tạo thuận tiện trong việc trao đổi thông tin, xác
nhận giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh toán.
• Ngày mở thư tín dụng (31C /Date of Issue): Địa điểm mở thư tín dụng
là nơi ngân hàng phát hành thư tín dụng, có ý nghĩa quan trọng vì liên quan đến
việc tham chiếu luật lệ áp dụng, để giải quyết những tranh chấp xảy ra (nếu có).
Ngày mở thư tín dụng là ngày bắt đầu bắt đầu phát sinh và có hiệu lực về sự
cam kết của ngân hàng mở thư tín dụng với người hưởng lợi; là ngày ngân hàng
mở chính thức chấp nhận đơn xin mở thư tín dụng của người nhập khẩu; là ngày
bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của thư tín dụng và cũng là căn cứ để người xuất
khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có thực hiện việc mở thư tín dụng đúng thời
hạn như thoả thuận trong Hợp đồng thương mại không.
• Loại thư tín dụng (40A /Form of Documentary Credit): Mỗi loại thư
tín dụng đều có tính chất khác nhau do đó quyền lợi và nghĩa vụ những thành
phần liên quan cũng rất khác nhau. Do đó, khi mở thư tín dụng, người yêu cầu
mở phải xác định cụ thể loại thư tín dụng cần mở.
• Tên, địa chỉ của những người liên quan:
9




Người yêu cầu mở thư tín dụng (50 /Applicant)



Người hưởng lợi (59 /Beneficiary)




Ngân hàng mở thư tín dụng (51 /Applicant Bank)



.......

• Số tiền, loại tiền của thư tín dụng (32B /Currency Code, Amount)
• Thời hạn, và địa điểm hết hạn hiệu lực của thư tín dụng (31D /Date
and Place of expiry): là thời hạn mà ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người
hưởng lợi, nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời hạn và phù hợp
với thư tín dụng. Trong trường hợp thư tín dụng không quy định cụ thể ngày
xuất trình chứng từ thì UCP 500 quy định là 21 ngày kể từ ngày giao hàng.
• Thời hạn giao hàng (44C /Latest date of shipment): được quy định
trong thư tín dụng và do hợp đồng thương mại quy định. Đây là thời hạn bên bán
phải giao hàng cho bên mua kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực.[10]
• Những nội dung mô tả hàng hoá (45A /Description of Goods and/or
services): gồm tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, ký
mã hiệu... đây là những nội dung rất quan trọng và ngân hàng căn cứ vào đó để
kiểm tra chứng từ xuất trình, nếu thấy khác biệt trong những nội dung này so với
quy định của L/C, ngân hàng có quyền từ chối thanh toán. Ngoài ra chi tiết cụ
thể của hàng hoá có thể được dẫn chiếu đến hợp đồng ngoại.
• Các chứng từ mà người hưởng lợi phải xuất trình (46A /Documents
required): đây cũng là những nội dung hết sức quan trọng trong L/C, bộ chứng
từ chỉ được coi là đầy đủ nếu người người hưởng lợi xuất trình toàn bộ các
chứng từ quy định trong L/C. Bộ chứng từ đầy đủ và hoàn hảo thể hiện việc
người xuất khẩu đã thực hiện hoàn tất các nghĩa vụ của mình, và do đó quyền lợi
của người nhập khẩu được đảm bảo. Thông thường bộ chứng từ gồm có:



Hối phiếu (Bill of exchange)



Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice)



Vận đơn (Bill of Lading)



Chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate/Policy)



Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin)
10




Chứng nhận chất lượng, số lượng (Certificate of Quality, Quantity)



Phiếu đóng gói (Packing list)




.......

• Chỉ thị của ngân hàng phát hành tới ngân hàng thanh toán/ chấp nhận/
chiết khấu (78 /Instructions to the Paying/ Accepting/ Negotiating Bank): là
những ràng buộc mang tính chất pháp lý giữa các ngân hàng, cam kết thanh toán
của ngân hàng phát hành khi nhận được bộ chứng từ hoàn hảo.
1.6.3 Thư tín dụng
• Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable Credit): là loại thư tín dụng
mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi,
bổ sung hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người hưởng lợi biết. Như
vậy loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi của bên bán vì người mở có
thể huỷ bỏ khi bên bán đã giao hàng. Do vậy loại thư tín dụng này ít được sử
dụng trong thương mại quốc tế.[1]
• Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại thư tín
dụng sau khi đã được mở, mọi việc liên quan đến sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ
chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở có sự thoả thuận, thống nhất của các bên
liên quan. Nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi thì ngân hàng mở
không được phép thực hiện theo yêu cầu đơn phương của người yêu cầu mở.
Quyền lợi của bên bán được đảm bảo do đó đây là loại thư tín dụng được áp
dụng phổ biến trong thương mại quốc tế hiện nay. Theo quy định trong UCP
500: Nếu không có ghi chú gì khác về loại thư tín dụng được mở thì ngân hàng
được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ ngang.
• Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed
Irrevocable L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang được ngân hàng khác trả
tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp ngân hàng mở không thể trả tiền. Do
có 2 ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi nên loại thư tín
dụng này rất đảm bảo quyền lợi cho bên bán.
• Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without
recourse L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang mà sau khi người thụ hưởng
11



đã được trả tiền, ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ trường
hợp nào.
• Thư tín dụng không huỷ ngang có thể chuyển nhượng (Irrevocable
transferable L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền
được phép trả toàn bộ hay một phần số tiền của thư tín dụng cho người khác
theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng thư tín
dụng chỉ có thể được thực hiện một lần.
• Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại thư tín dụng mà sau
khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực, lại tự động có giá trị như cũ
và được tiếp tục sử dụng sau một thời gian nhất định. Thư tín dụng tuần hoàn
cần được chỉ rõ ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn và giá trị của
mỗi lần đó. Đồng thời cũng phải quy định rõ số dư của hạn ngạch L/C dùng
chưa hết lần trước, được cộng dồn hay không vào hạn ngạch sử dụng L/C của
lần kế tiếp.
• Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại thư tín dụng được
mở ra dựa trên cơ sở số tiền của một thư tín dụng khác đã được mở trước đó.
Loại thư tín dụng này thường được sử dụng nhiều trong phương thức giao dịch
mua bán qua trung gian, chuyển khẩu. Việc vận hành quá trình thanh toán theo
loại thư tín dụng này khá phức tạp, đặc biệt là những điều kiện về thời hạn, về
bộ chứng từ.
• Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại thu tín dụng chỉ có giá
trị hiệu lực khi thư tín dụng của bên đối tác cũng đã được mở ra.
• Thư tín dụng thanh toán dần (Deferred L/C): là loại thư tín dụng mà
ngân hàng mở sẽ thanh toán dần trị giá thư tín dụng cho người hưởng lợi, theo
tiến trình hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá của họ đối với bên mua.
Loại thư tín dụng này chỉ thích ứng với các hợp đồng giao hàng nhiều lần.
• Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C): là loại thư tín dụng
có một điều khoản đặc biệt, thể hiện ở chỗ: người yêu cầu mở cho phép người

thụ hưởng được nhận một số tiền nhất định trong tổng số tiền của thư tín dụng

12


đã mở, ngay cả khi người này còn chưa thực hiện nghĩa vụ xuất chuyển hàng
hoá cho người mua.
• Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C): là loại thư tín dụng được phát
hành với mục tiêu nhằm trực tiếp bảo vệ quyền lợi cho bên mua. Bên mua yêu
cầu bên bán, thông qua ngân hàng phục vụ mình mở thư tín dụng dự phòng cho
bên mua hưởng. Trong trường hợp bên bán vi phạm hợp đồng thương mại đã ký
kết, gây thiệt hại cho bên mua thì ngân hàng mở thư tín dụng dự phòng sẽ thanh
toán tiền, đền bù những thiệt hại đó.

13


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHI NHÁNH HOÀN KIẾM
2.1 Tổng quan về NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của NHNN&PTNT chi nhánh
Hoàn Kiếm
Ngày 29 tháng 2 năm 2008, Chi nhánh NHNo&PTNT Hoàn Kiếm được
điều chỉnh từ một Chi nhánh phụ thuộc Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội về phụ
thuộc Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam, căn cứ theo Quyết định số
141/QĐ/HĐQT-TCCB của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. Theo
Quyết định này thì kể từ sau ngày 29 tháng 2 năm 2008, Chi nhánh
NHNo&PTNT Hoàn Kiếm từ Chi nhánh cấp 2 chuyển lên thành Chi nhánh cấp

1. Trụ sở chính của Chi nhánh hiện nay là số nhà 26, 28, phố Cửa Đông, phường
Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chi nhánh có 2 phòng giao dịch trực
thuộc là PGD số 17 tại địa chỉ số 26 Cao Thắng, Hoàn Kiếm, Hà Nội và PGD số
18 tại số 29 Lò Sũ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hai PGD này làm nhiệm vụ huy động
tiền gửi tiết kiệm, chuyển tiền, kiều hối và cho vay đối với khách hàng là cá
nhân.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
Cũng như các tổ chức doanh nghiệp khác, Chi nhánh NHNo&PTNT Hoàn Kiếm
được điều hành bởi Ban Giám đốc, gồm 1 Giám đốc và 2 Phó Giám đốc. Ngoài
ra Giám đốc Chi nhánh còn trực tiếp chỉ đạo 4 phòng ban nghiệp vụ: phòng Kế
hoạch kinh doanh, phòng Kế toán - Ngân quỹ, phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ,
phòng Hành chính - Nhân sự và 2 phòng giao dịch. (xem hình 2)

14


Hình 2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHNo&PTNT Hoàn Kiếm

BAN GIÁM ĐỐC

GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC

PHÒNG
KẾ
HOẠCH
KINH
DOANH

PHÓ GIÁM ĐỐC


PHÒNG
KẾ TOÁN
NGÂN
QUỸ

PGD SỐ
17

PHÒNG
KIỂM TRA
KIỂM
SOÁT NỘI
BỘ

PHÒNG
HÀNH
CHÍNH
NHÂN SỰ

PGD SỐ
18

Tuy mới được nâng lên thành Chi nhánh cấp 1 nhưng mọi nghiệp vụ và
hoạt động của Chi nhánh Hoàn Kiếm đã rất chuyên nghiệp, nhiệm vụ của mỗi
phòng ban được phân chia rất cụ thể và rõ ràng.
1. Phòng Kế hoạch kinh doanh
Trong bốn phòng trực thuộc Chi nhánh, phòng Kế hoạch kinh doanh đảm
nhận vai trò quan trọng nhất, 90% lợi nhuận của Chi nhánh được tạo ra từ phòng
này. Các nghiệp vụ của phòng KHKD:

− Kế hoạch nguồn vốn
− Tín dụng

15


Cho vay ngắn hạn các nhu cầu vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cho vay vốn trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng mới nhà xưởng, mua sắm dây truyền thiết bị, tài sản.
Cho vay vốn dài hạn các dự án lớn, cho vay đồng tài trợ, hợp vốn.
Cho vay bằng Đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ mạnh theo yêu cầu của
khách hàng.
Thực hiện dịch vụ bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh tài chính cho các tổ chức,
doanh nghiệp như: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo
hành sản phẩm, bảo lãnh hoàn tạm ứng,...
− Thanh toán quốc tế
Thư tín dụng xuất khẩu, nhập khẩu
Dịch vụ chuyển tiền
Nghiệp vụ nhờ thu DA, DP
Mua bán ngoại tệ
Bảo lãnh Quốc tế
− Marketing
Tiếp thị, giới thiệu sản phẩm của Chi nhánh
Các dịch vụ liên quan đến thẻ
2. Phòng Kế toán - Ngân quỹ
− Kế toán khách hàng
Mở và quản lý tài khoản tiền gửi, thanh toán cho các doanh nghiệp, tổ chức
Chi trả lương thông qua thẻ ATM
Chuyển tiền điện phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.

Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức
Kiểm tra, đếm hộ tiền mặt, ngoại tệ.
− Kế toán nội bộ
Chi trả lương, thưởng cho CBCNV
− Ngân quỹ
16


3. Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ
− Kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ trong Chi nhánh
4. Phòng Hành chính – Nhân sự
− Tiếp nhận, xử lý, thông báo các Quyết định từ phía trên cho toàn bộ Chi
nhánh
− Công tác nhân sự
5. Hai phòng giao dịch số 17 và số 18
− Huy động tiền gửi tiết kiệm
− Dịch vụ chuyển tiền, kiều hối,…
− Cho vay đối với khách hàng cá nhân
2.2 Thực trạng thanh toán quốc tế tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm.
2.2.1 Kết quả thanh toán quốc tế tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn
Kiếm qua các năm 2008 – 2009
Không chỉ bó hẹp trong hoạt động truyền thống của ngân hàng là huy
động vốn và cho vay, hoạt động TTQT là một trong những dịch vụ của Chi
nhánh. Trong thời gian đầu hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện
công nghệ còn hạn chế, trình độ của các thanh toán viên chưa cao, phải cạnh
tranh với các ngân hàng khác đã triển khai dịch vụ TTQT từ rất lâu. Cho đến
nay, hoạt động TTQT đã đạt được những thành công bước đầu đáng khích lệ.
(xem bảng 1)
Bảng 1. Doanh số thanh toán quốc tế
Đơn vị: USD

Nguồn: [5]
Chỉ tiêu

Năm 2008

Năm 2009

Tỷ lệ Tăng/ Giảm

Xuất khẩu

680,000

516,132

-24%

Nhập khẩu

15,296,842

21,390,401

40%

Tổng

15,976,842

21,906,533


37%

17


Nhìn vào bảng 1 có thể thấy được rằng tuy mới thành lập nhưng ngay trong
năm đầu tiên, chi nhánh đã có được doanh số thanh toán quốc tế khá khả quan.
Tổng giá trị thanh toán năm 2008 là 15,976,842 USD, sang năm 2009 con số
này đã tăng lên tương đối là 37% tương ứng với 21,906,533 USD.
Tỷ lệ khách hàng hợp tác nhập khẩu với Chi nhánh nhiều hơn tỷ lệ khách
hàng hợp tác xuất khẩu. Cơ cấu thanh toán hàng xuất và nhập có sự chênh lệch
rất lớn, doanh số 680,000 USD hàng xuất so với 15,296,842 USD hàng nhập,
chỉ bằng gần 5%. Qua những số liệu thống kê ta cũng thấy được khủng hoảng
kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp trong nước làm đối tác với chi nhánh. Cuộc khủng hoảng làm cho doanh
số thanh toán xuất khẩu năm 2009 giảm 24% so với năm 2008, tuy nhiên doanh
số thanh toán quốc tế hàng nhập khẩu lại tăng lên khá lớn, gần 40% tăng, từ
15,296,842 USD lên đến 21,390,401 USD.
Bảng 2. Doanh thu từ thanh toán quốc tế
Đơn vị: VNĐ
Năm

Phí dịch vụ về TTQT

Tỷ lệ Tăng/ Giảm

2008
2009


948,000,000
959,004,930

1%

Nguồn: Phòng thanh toán quốc tế
Doanh thu từ hoạt động thanh toán quốc tế năm đầu thành lập đạt 948 triệu
đồng, năm tiếp theo tăng 1% lên con số hơn 959 triệu đồng. Trong hai năm đầu
thành lập và hoạt động, là một Chi nhánh mới còn rất nhiều khó khăn trong tổ
chức và kinh doanh song nhờ sự nỗ lực của các nhân viên cũng như sự chỉ đạo
và giúp đỡ của lãnh đạo chi nhánh, doanh thu mỗi năm từ hoạt động thanh toán
quốc tế đạt gần một tỷ đồng không phải là một con số nhỏ.

18


Bảng 3: Doanh số thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu bằng L/C
Đơn vị: USD
Chỉ tiêu

Năm 2008

Năm 2009

Số món

Số tiền

Số món


Số tiền

Thanh toán
Xuất khẩu L/C

1

36,705

4

160,050

Thanh toán
nhập khẩu L/C

43

3,080,705

106

8,359,963

Tổng số

44

3,117,410


110

8,520,013

Nguồn: [6]
Cũng như các phương thức thanh toán quốc tế khác, thanh toán quốc tế bằng
L/C cũng đạt được kết quả khá lớn. Năm 2008, Chi nhánh đã mở 44 món thanh
toán hàng hóa xuất nhập khẩu bằng L/C với tổng giá trị là 3,117,410 USD, trong
đó chỉ có 1 món L/C xuất với số tiền là 36,705 USD, còn lại là 43 món L/C nhập
với số tiền là 3,080,705 USD. Về tỷ trọng thanh toán quốc tế bằng L/C giữa
hàng xuất và nhập khẩu cũng có sự chênh lệch rất lớn, tương tự như doanh số
thanh toán quốc tế nói chung của Chi nhánh. Sang năm 2009, nhưng con số này
đã tăng lên đáng kể, tổng số món tăng từ 44 lên thành 110 trong đó có 4 món
hàng xuất khẩu tương ứng với 160,050 USD và 106 món hàng nhập khẩu với số
tiền là 8,359,963 USD. Điều đó chứng tỏ phòng thanh toán quốc tế của chi
nhánh đã hoạt động năng suất và hiệu quả hơn năm ngoái và nghiệp vụ thanh
toán quốc tế bằng L/C được chú trọng phát triển để góp phần đem lại lợi nhuận
chung cho Chi nhánh.

19


Bảng 4: Tỷ trọng doanh số thanh toán quốc tế giữa các phương thức
Đơn vị: USD
Chỉ tiêu

Năm 2008

Tỷ trọng


Năm 2009

Tỷ trọng

TTQT bằng
L/C

3,117,410

20%

8,520,013

39%

21,906,533

100%

TTQT bằng
các phương
15,976,842
100%
thức
Nguồn: Phòng thanh toán quốc tế

Tỷ trọng doanh số thanh toán quốc tế bằng L/C của năm đầu thành lập Chi
nhánh chỉ bằng một phần năm tổng doanh số TTQT theo tất cả các phương thức.
Điều này là do khách hàng của Chi nhánh chưa có nhiều do mới thành lập. Tuy
nhiên những khách hàng này đều là những khách hàng thường xuyên thực hiện

hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, nên số món và giá trị thanh toán quốc tế của
các doanh nghiệp này cũng không phải là nhỏ và nó đóng góp phần lớn vào
doanh thu dịch vụ thanh toán quốc tế của Chi nhánh. Sang năm 2009, tuy vẫn
chịu ảnh hưởng của cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng doanh số thanh
toán quốc tế bằng L/C của Chi nhánh đã tăng cả về tương đối lấn tuyệt đối, năm
2008 chỉ dừng lại ở con số 3,117,410 USD nhưng sang năm 2009 đã là
8,520,013 USD để góp phần làm tăng tổng doanh số thanh toán từ 15,976,842
USD lên 21,906,533 USD; về tỷ trọng tăng gần gấp đôi, 20% so với tổng các
phương thức tăng lên thành 39%. Đó là một sự cố gắng của các nhân viên trong
phòng thanh toán quốc tế nói riêng và các cán bộ, lãnh đạo liên quan nói chung.
2.2.2 Những mặt đạt được
Mặc dù nghiệp vụ thanh toán quốc tế mới được áp dụng tại Chi nhánh cũng
như mới được áp dụng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, nhưng cho đến
nay hoạt động này đã trở thành một trong những dịch vụ rất quan trọng đối với

20


Chi nhánh, hiện nay có đến 60% tổng nguồn vốn huy động được của toàn Chi
nhánh là để phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế.
Tổng doanh thu và tổng lợi nhuận đạt được từ hoạt động thanh toán quốc tế
liên tục tăng qua hai năm, nó đã đóng góp một phần không nhỏ vào tổng lợi
nhuận của Chi nhánh và hiện nay Thanh toán quốc tế đã trở thành một trong
những dịch vụ quan trọng nhất của Chi nhánh.
Lượng khách hàng thường xuyên của Chi nhánh cũng tăng đều qua các
năm: Năm 2008 do mới thành lập nên lượng khách hàng thường xuyên của
doanh nghiệp không có nhiều (16 doanh nghiệp); sang năm 2009 lượng khách
hàng thường xuyên của Chi nhánh tăng lên 31 doanh nghiệp vượt chỉ tiêu đề ra
là 5 doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động thanh toán quốc tế của
Chi nhánh đã từng bước được nâng cao hiệu quả và ngày càng có nhiều doanh

nghiệp trên địa bàn sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của Chi nhánh.
Thời gian và quy trình thanh toán quốc tế hiện nay cũng đã từng bước
được rút gọn, trước đây thời gian để làm thủ tục thanh toán của Chi nhánh
thường bị kéo dài và mất nhiều thời gian hơn so với các ngân hàng thương mại
khác, nhưng hiện nay các khâu thực hiện quy trình đã được rút gọn đặc biệt là
trong khâu thẩm định cho vay thanh toán quốc tế và đã trở nên nhanh gọn. Quy
trình thanh toán quốc tế cũng đã được rút gọn rất nhiều so với thời gian đầu mới
đi vào hoạt động, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp là khách hàng quen của
doanh nghiệp. Đây là một chính sách được Chi nhánh thực hiện để giữ chân các
khách hàng và nó đã đem lại nhiều hiệu quả cho Chi nhánh.
Trình độ của các CBCNV trong thanh toán quốc tế ngày càng được củng
cố và nâng cao một cách rõ rệt, quy trình thực hiện thanh toán quốc tế ngày càng
được thực hiện một cách nhanh chóng mà vẫn đảm bảo an toàn cho Chi nhánh.
Điều này được thể hiện rõ là trong hai năm hoạt động, Chi nhánh chưa gặp phải
tình trạng sai phạm lớn nào có thể dẫn tới rủi ro và gây thiệt hại cho Chi nhánh.
Mức lương và thưởng của CBCNV trong phòng thanh toán quốc tế cũng
như toàn bộ Chi nhánh cũng được nâng cao một cách rõ rệt, nếu như năm 2008
hệ số tiền lương trung bình của toàn Chi nhánh chỉ đạt 1 thì sang năm 2009 hệ
21


số tiền lương đã được nâng lên thành 1,36 và năm 2010 là 2,06. Thêm vào đó
mức thưởng của CBCNV cũng được tăng lên cả về số lần thưởng và số tiền
thưởng trong một năm. Điều này chứng tỏ rằng thu nhập của CBCNV trong Chi
nhánh ngày càng được nâng cao hơn, ổn định hơn trước, một phần lớn là do Chi
nhánh đã đạt được những thành công rất lớn trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế đạt hiệu quả cao còn giúp phần thúc đẩy sự
phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng khác trong Chi nhánh. Thanh toán quốc
tế phát triển giúp cho hoạt động huy động vốn của Chi nhánh đạt hiệu quả cao
hơn, có được điều này là do số tiền của các doanh nghiệp ký quỹ nhằm thanh

toán hợp đồng ngoại, số tiền ký quỹ này giúp Chi nhánh có thêm nguồn vốn để
cho các đối tượng khách hàng khác vay. Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho
Chi nhánh tận dụng tốt hơn nguồn vốn huy động được thông qua việc cho các
doanh nghiệp vay để thanh toán hàng nhập khẩu (khi tỷ lệ ký quỹ dưới 100%) từ
đó giúp ngân hàng có thêm thu nhập từ lãi suất cho vay. Ngoài ra Chi nhánh còn
có thêm những khoản phí dịch vụ khác nhờ hoạt động thanh toán quốc tế, như
phí mở tài khoản của khách hàng.
2.2.3 Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế
a. Về chính sách thu hút khách hàng:
Các cán bộ quản trị chưa có những chiến lược cụ thể về công tác
marketing, quảng cáo cũng như các công tác khác nhằm thu hút thêm các khách
hàng mới. Việc thu hút khách hàng cho hoạt động thanh toán quốc tế mới chỉ
được thực hiện một cách riêng lẻ và phần lớn là được thực hiện bởi các cán bộ
của Chi nhánh và chủ yếu dựa vào mối quan hệ cá nhân là nhiều. Ngoài biện
pháp này ra Chi nhánh còn khuyến khích bằng phần thưởng cho các nhân viên
trong Chi nhánh nếu họ tìm được khách hàng mới cho Chi nhánh tuy nhiên biện
pháp này không đạt được hiệu quả như mong muốn do các nhân viên của Chi
nhánh hầu hết là còn rất trẻ, họ chưa có được nhiều mối quan hệ về công việc
cũng như kinh nghiệm trong việc thu hút khách hàng.
Chưa có chiến lược về khách hàng cụ thể như thu hút khách hàng ở thành
phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp Ngoài quốc
22


doanh… Các khách hàng của Chi nhánh mặc dù là các doanh nghiệp hoạt động
ở nhiều lĩnh vực khác nhau, có cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư
nhân nhưng nếu nhìn vào lượng khách hàng này thì không thể biết được đâu là
khách hàng mục tiêu của Chi nhánh. Thêm vào đó Chi nhánh chưa có những
chính sách ưu đãi đối với các khách hàng thường xuyên của mình, vì thế không
có gì đảm bảo rằng các khách hàng này lúc nào cũng sẽ sử dụng dịch vụ của Chi

nhánh mà sẽ không sang các ngân hàng khác.
b. Trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên
Trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên chưa cao, vì Chi nhánh chưa có
một chính sách đào tạo cán bộ ngay từ đầu, và các lớp đào tạo trình độ cho
CBCNV thường chỉ mang tính tạm thời và chưa bài bản, điều này làm cho việc
đào tạo phải diễn ra nhiều lần mà vẫn không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Chính do việc đào tạo chưa có kế hoạch cụ thể này sẽ làm tăng thêm chi phí đào
tạo mà trình độ của CBCNV không được nâng cao như ý muốn.
c. Hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn của Chi nhánh trong hoạt động thanh toán chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn, và hầu như các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả sử
dụng vốn không có sự thay đổi lớn, trong khi đó lượng vốn huy động để đưa vào
hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh là rất lớn chính điều này đã làm cho
hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế chưa đạt được hiệu quả cao như đúng
với tiềm năng của Chi nhánh.
d. Công nghệ Ngân hàng
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tuy là một trong
những Ngân hàng thương mại có cơ sở hạ tầng tốt nhất Việt Nam hiện nay
nhưng Chi nhánh Hoàn Kiếm là chi nhánh cấp hai nên mọi dữ liệu khi tiến hành
thủ tục đều phải chuyển qua Hội sở nên không có sự chủ động trong công việc
liên kết, trao đổi thông tin liên tiếp với khách hàng; nhưng so với các Ngân hàng
trong khu vực và trên thế giới thì lĩch vực công nghệ thông tin của Ngân hàng
còn yếu kém. Điều này thể hiện ở khả năng lắp đặt, ứng dụng các máy móc thiết
bị, đặc biệt là công nghệ thông tin trong lĩnh vực hoạt động Ngân hàng của
NHNo&PTNT VN còn yếu kém. Đây là thực trạng cần phải sớm khắc phục vì
23


hiện nay, trong thanh toán quốc tế bằng L/C, thì việc thông báo L/C chủ yếu tiến
hành qua mạng thông tin quốc tế. Nếu công nghệ thông tin không đáp ứng được,

NHNo&PTNT VN sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức để thực hiện một hợp
đồng thanh toán L/C, điều này sẽ làm giảm thị phần thanh toán quốc tế. Đặc
biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi mà các Ngân hàng thương mại cổ phần, các
Ngân hàng liên doanh, và các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài được trang bị
cơ sở hạ tầng rất hiện đại.

24


CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI
NHNo&PTNT CHI NHÁNH HOÀN KIẾM
3.1 Phương hướng và mục tiêu
Trong những năm sắp tới Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn và thách thức
lớn, cuộc khủng hoảng kinh tế đang phát huy được “sức mạnh” của nó, làm ảnh
hưởng đến nền kinh tế đang phát triển của nước ta. Thêm vào đó trong thời gian
vừa qua sự cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng diễn ra mạnh mẽ,
các vụ kiện chống bán phá giá liên tục diễn ra và nó đã ảnh hưởng nhiều tới kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua và sẽ tác động
không nhỏ tới hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại trên
cả nước.Và Chi nhánh NHNo&PTNT Hoàn Kiếm cũng gặp phải những khó
khăn nhất định.
Trước bối cảnh đó, Chi nhánh đang khẩn trương xây dựng các văn bản
mới, hướng dẫn toàn diện, đồng bộ về nghiệp vụ dựa trên cơ sở tập hợp ý kiến
rộng rãi từ các chi nhánh khác để có những chỉnh sửa hợp lý không những đảm
bảo an toàn cho ngân hàng mà còn tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc tiếp
cận và sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế.
Nâng cao trình độ của các thanh toán viên một cách toàn diện bằng cách tổ
chức tập huấn về nghiệp vụ, Ngoài UCP 500 sẽ tập huấn thêm về URC 525,

URR 525, ISP 98, E-UCP qua đó Chi nhánh sẽ tiếp tục hoàn thiện quy trình
nghiệp vụ thanh toán L/C theo hướng nhanh chóng, thuận lợi cho khách hàng và
an toàn, lợi nhuận cho ngân hàng. Trên cơ sở đó sẽ tăng doanh số hoạt động,
tăng sức cạnh tranh và thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán L/C tại
Chi nhánh.

25


×