Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ SUY GIẢM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

-------***-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TÁC ĐỘNG CỦA GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ SUY GIẢM

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Kim Ngân

Lớp

: Anh 1 - TCNH A

Khóa

: 45

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội - 04/2010


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45


MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG..............................................................................................1
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG.......................................................................................................1
MỤC LỤC...........................................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................................5
CHƯƠNG I.........................................................................................................................................8
SỬ DỤNG GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ -.................................................................................................8
BIỆN PHÁP CAN THIỆP CẦN THIẾT CỦA CHÍNH PHỦ..........................................................................8
TRONG THỜI KỲ SUY THOÁI...............................................................................................................8
1.1. Cơ sở khách quan cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị trường......................8

1.1.1. Thất bại của thị trường - cơ sở khách quan để Chính phủ can thiệp
vào nền kinh tế.............................................................................................8
1.1.2. Chức năng của Chính phủ khi can thiệp vào nền kinh tế thị trường
....................................................................................................................13
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh
tế thị trường................................................................................................18
1.2. Sử dụng gói kích cầu - biện pháp can thiệp cần thiết của Chính phủ trong thời kỳ suy thoái
kinh tế..........................................................................................................................................19

1.2.1. Suy thoái kinh tế và hậu quả đối với nền kinh tế..........................19
1.2.2. Sử dụng gói kích cầu - biện pháp can thiệp cần thiết của Chính
phủ trong thời kỳ suy thoái kinh tế...........................................................21
CHƯƠNG II.......................................................................................................................................29
SUY GIẢM KINH TẾ VIỆT NAM..........................................................................................................29
VÀ GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ.................................................................................29
2.1. Suy giảm kinh tế Việt Nam và biện pháp can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế..............29

2.1.1. Diễn biến cuộc suy giảm kinh tế Việt Nam, hậu quả nhìn từ giác
độ vĩ mô......................................................................................................29

2.1.2. Nguyên nhân suy giảm kinh tế Việt Nam......................................43
2.1.3. Sử dụng gói kích thích kinh tế - biện pháp can thiệp của Chính
phủ Việt Nam trong thời kỳ suy giảm......................................................52
2.2. Đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian
qua..............................................................................................................................................57

2.2.1. Tác động tích cực...........................................................................57
2.2.2. Tác động tiêu cực............................................................................66
CHƯƠNG III......................................................................................................................................79
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ.......................................................................................79
GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ......................................................................................79
3.1. Dự báo kinh tế Việt Nam năm 2010......................................................................................79

3.1.1. Triển vọng và rủi ro của kinh tế Việt Nam năm 2010...................79
2


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

3.1.2. Nền kinh tế có cần gói kích thích kinh tế thứ hai?......................83
3.1.3. Chính phủ thông qua gói kích thích kinh tế thứ hai....................85
3.2. Kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả gói kích thích kinh tế của Chính phủ............86

3.2.1. Về mục đích kích cầu nền kinh tế................................................86
3.2.2. Về hiệu quả dài hạn của gói hỗ trợ lãi suất....................................86
3.2.3. Về chính sách tài khóa...................................................................87
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................91

International Monetary Fund (2010), World Economic Outlook

Databases, 04/2010, available at:..............................................................93

3


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVSC
DVSC
VCBS
FED
FDI
FII
IMF
NĐT
NHNN
NHTM
NSNN
ODA
TTCK
WTO

:

Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BaoViet

:


Securities Company)
Công ty Cổ phần Chứng khoán Đại Việt (DaiViet

:

Securities Corporation)
Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương

:
:
:

(Vietcombank Securities Co., Ltd
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Indirect

:
:
:
:
:
:

Investment)
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund)
Nhà đầu tư
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Thương mại
Ngân sách Nhà nước

Hỗ trợ Phát triển Chính Thức (Official Development

:
:

Assistance)
Thị trường chứng khoán
Tổ chức thương mại Thế giới (World Trade
Organization)

4


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

LỜI MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ bắt đầu xảy ra từ tháng 07/2007

sau đó lan khắp các thị trường tài chính lớn trên thế giới. Chỉ trong
vòng 12 tháng của 2008 đã làm bốc hơi trên 30 ngàn tỉ USD trong tổng
số 62 nghìn tỉ USD vốn hóa toàn cầu. Sau khủng hoảng tài chính, thế
giới bước vào một cuộc suy thoái kinh tế được ví là nghiêm trọng nhất
trong vòng gần 100 năm qua. Tuy mức độ liên thông và phụ thuộc giữa
thị trường tài chính Việt Nam với khu vực và thế giới còn thấp, nhưng
độ mở của nền kinh tế nước ta ở mức cao, tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vậy,

Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của cơn bão suy thoái.
Thêm vào đó là những bất ổn vĩ mô và yếu kém về cơ cấu vốn tồn tại
từ trước trong nền kinh tế. Quý I/2008, Việt Nam chính thức bước vào
giai đoạn suy giảm. Đến đầu quý IV/2008, tác động của khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế thế giới lan truyền đến Việt Nam, đẩy
sâu quá trình suy giảm, kéo dài sang cả những tháng đầu năm 2009.
Đối phó với tình hình, ngày 15/01/2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng đã thông qua Quốc hội về gói kích thích kinh tế có giá trị 8
tỷ USD nhằm khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, chống suy giảm kinh
tế, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Sau một năm triển
khai, gói kích thích kinh tế đã hoàn thành các mục tiêu cơ bản đề ra,
song cũng làm nảy sinh không ít rủi ro vĩ mô cho nền kinh tế.

5


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Theo dõi những biến động của nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn suy giảm rồi phục hồi nhờ gói kích thích kinh tế của Chính phủ,
em quyết định chọn đề tài “Tác động của gói kích thích kinh tế đối
với nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ suy giảm” làm nội dung
nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp.
2.

Mục tiêu nghiên cứu
− Hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về

vai trò can thiệp vào nền kinh tế của Chính phủ, cụ thể là sử dụng các
gói kích cầu khi nền kinh tế lâm vào suy thoái.

− Tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của suy giảm
kinh tế Việt Nam, đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế của
Chính phủ đối với nền kinh tế.
− Dự báo viễn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2010, từ đó kiến nghị
một số giải pháp nâng cao hiệu quả gói kích thích kinh tế.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
− Đối tượng nghiên cứu: Suy giảm kinh tế Việt Nam và tác động

của gói kích thích kinh tế.
− Phạm vi nghiên cứu: Thực tiễn tình hình kinh tế, các chỉ số vĩ
mô của nền kinh tế Việt Nam từ năm 2000, chú trọng giai đoạn từ năm
2008 đến quý I/2010.

6


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

4.

Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng,

duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích kinh
tế, diễn giải quy nạp, v.v…
5.

Kết cấu khóa luận


Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của khóa luận gồm ba
chương:
Chương 1: “Chính phủ với vai trò can thiệp vào nền kinh tế thị
trường”.
Chương 2: “Suy giảm kinh tế Việt Nam và gói kích thích kinh tế của
Chính phủ”.
Chương 3: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả gói kích thích kinh tế
của Chính phủ”.

7


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

CHƯƠNG I
SỬ DỤNG GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ BIỆN PHÁP CAN THIỆP CẦN THIẾT CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG THỜI KỲ SUY THOÁI
1.1. Cơ sở khách quan cho sự can thiệp của Chính phủ
vào nền kinh tế thị trường
1.1.1. Thất bại của thị trường - cơ sở khách quan để Chính
phủ can thiệp vào nền kinh tế
Thất bại thị trường là trường hợp mà thị trường cạnh tranh không
thể sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ ở mức như xã hội mong muốn.
Những trường hợp thất bại thị trường chủ yếu là:
1.1.1.1. Độc quyền thị trường
Ở dạng thuần túy nhất, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy
nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm không có loại hàng hóa nào thay
thế gần gũi.
Độc quyền có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là: do

được Chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường; do chế độ bản
quyền đối với phát minh, sáng chế và sở hữu trí tuệ; do sở hữu được
một nguồn lực đặc biệt; do sự thao túng của các hãng sản xuất lớn.
Hậu quả là các hãng độc quyền có thể bán được với mức giá cao hơn
và mức sản lượng thấp hơn thị trường cạnh tranh để thu lợi nhuận siêu
ngạch.

8


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

1.1.1.2. Ngoại ứng
Khi hành động của một đối tượng (có thể là cá nhân hoặc hãng)
có ảnh hưởng trực tiếp đến phúc lợi của một đối tượng khác, nhưng
những ảnh hưởng đó lại không được phản ánh trong giá cả thị trường
thì ảnh hưởng đó được gọi là các ngoại ứng. Ví dụ, khói xả từ các
phương tiện giao thông hoặc nhà máy có thể gây ô nhiễm môi trường,
nhưng những tổn hại cho môi trường đó không được tính thành chi phí
đối với các chủ phương tiện và nhà máy, do vậy họ không có ý thức
giảm bớt hoạt động của mình vì lợi ích chung.
Ngoại ứng có thể là ngoại ứng tiêu cực hoặc tích cực. Ngoại ứng
tiêu cực là những chi phí áp đặt lên một đối tượng thứ ba (ngoài người
mua và người bán trên thị trường), nhưng chi phí đó lại không được
phản ánh trong giá cả thị trường. Ngoại ứng tích cực là những lợi ích
mang lại cho bên thứ ba và lợi ích đó cũng không được phản ánh vào
giá bán.
Ngoại ứng có thể do cả hoạt động sản xuất lẫn tiêu dùng gây ra.
Ví dụ, một nhà máy gây ô nhiễm là ngoại ứng tiêu cực do sản xuất,
một cá nhân hút thuốc lá làm nguy hiểm đến sức khỏe những người

ngồi xung quanh là ngoại ứng tiêu cực do tiêu dùng.
Tất cả các ngoại ứng đều phi hiệu quả, nếu xét dưới quan điểm xã
hội. Khi xuất hiện ngoại ứng, hoặc chi phí biên hoặc lợi ích biên của
tư nhân không nhất trí với chi phí biên hoặc lợi ích biên xã hội. Do đó,
mức sản xuất tối ưu thị trường cũng khác với mức hiệu quả xã hội.

9


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

1.1.1.3. Hàng hóa công cộng
Những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và cung cấp trong xã
hội có thể được chia làm hai loại chính là hàng hóa công cộng (HHCC)
và hàng hóa cá nhân (HHCN). Hàng hóa công cộng là những loại
hàng hóa mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa
đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng thụ
lợi ích của nó. Điều này giúp phân biệt HHCC với HHCN là những
loại hàng hóa khi một người đã tiêu dùng rồi thì người khác không thể
tiêu dùng được nữa.
HHCC có hai thuộc tính cơ bản. Thứ nhất, HHCC không có tính
cạnh tranh trong tiêu dùng, có nghĩa là khi có thêm một người sử dụng
HHCC sẽ không làm giảm lợi ích tiêu dùng của những người tiêu dùng
hiện có. Quốc phòng một trường hợp điển hình về HHCC vì biến động
dân số hàng ngày không làm giảm lợi ích an ninh mà những công dân
hiện tại đang được hưởng. Thuộc tính thứ hai của HHCC là không có
tính loại trừ trong tiêu dùng, có nghĩa là không thể loại trừ hoặc rất
tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu trả tiền
cho việc tiêu dùng của mình. Ngay cả khi ai đó từ chối không đóng
góp tiền cho ngân sách quốc phòng thì anh ta vẫn được hưởng thụ an

ninh do quốc phòng mang lại. Do vậy, tất yếu xuất hiện hiện tượng “kẻ
ăn không” khi sử dụng HHCC.
Hệ quả là, các doanh nghiệp tư nhân nếu sản xuất và cung cấp
HHCC thì sẽ gặp khó khăn rất lớn trong việc tạo doanh thu để bù đắp
chi phí. Đây được coi là luận cứ mạnh nhất, chứng minh cho sự cần
thiết phải có Chính phủ đứng ra cung cấp HHCC.

10


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

1.1.1.4. Thông tin không đối xứng
Thông tin không đối xứng là trường hợp xuất hiện trên thị trường
khi một bên nào đó tham gia giao dịch thị trường (người mua hoặc
người bán) có thông tin đầy đủ về các đặc tính sản phẩm hơn so với
bên kia. Chẳng hạn, trong thị trường y tế, người bán (bác sĩ) có nhiều
thông tin về sản phẩm mà anh ta bán hơn là người mua (bệnh nhân).
Trong thị trường bảo hiểm, người mua (những khách hàng tìm đến
mua bảo hiểm) biết rõ về xác suất xảy ra tình huống rủi ro hơn là
người bán (công ty bảo hiểm).
Khó khăn trong việc thu thập đủ thông tin đã có ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động của nhiều thị trường, khiến các nguồn lực được
phân bổ quá nhiều hoặc quá ít cho thị trường đó so với mức tiêu thụ
của xã hội. Ngoài ra, nó còn tạo động cơ cho bên có thông tin đầy đủ
hơn lợi dụng lợi thế này để thu lợi cho mình trên sự thiệt thòi của bên
kia.
1.1.1.5. Bất ổn định kinh tế
Nguyên nhân gây ra sự bất ổn định của nền kinh tế là sự vận hành
mang tính chất chu kỳ của nền kinh tế. Hậu quả là thất nghiệp, lạm

phát và suy thoái trở thành những căn bệnh kinh niên của nền kinh tế
thị trường và gây rất nhiều tổn thất cho xã hội.
1.1.1.6. Mất công bằng xã hội
Nhiều người cho rằng, sự không hoàn hảo của thị trường thường
dẫn đến những kết cục thiếu công bằng. Để xác định xem một phân
phối thu nhập có công bằng hay không, trong thực tế người ta thường
hay sử dụng các thước đo phản ánh sự bất bình đẳng. Hai thước đo phổ
biến nhất là đường cong Lorenz và hệ số Gini.
11


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Đường cong Lorenz
Hình 1.1. Đường cong Lorenz
Đường Lorenz phản ánh tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập quốc
dân cộng dồn được phân phối tương ứng với tỷ lệ phần trăm cộng dồn
của các nhóm dân số đã biết.
100%

A
Cạnh dọc: % thu nhập cộng dồn
Cạnh đáy: % dân số cộng dồn

Đường bình đẳng
tuyệt đối
50
Đường Lorenz

0


50

100%

Trong trường hợp thu nhập được phân phối tuyệt đối bình đẳng
thì bao nhiêu phần trăm dân số sẽ có tương ứng với bấy nhiêu phần
trăm thu nhập. Khi đó, đường Lorenz sẽ trùng vào đường chéo OA
(đường bình đẳng tuyệt đối). Đường Lorenz càng nằm gần đường chéo
thì mức độ công bằng càng cao và càng nằm xa đường chéo thì mức độ
công bằng càng giảm.
Đường Lorenz cho phép hình dung được mức độ bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập thông qua việc quan sát hình dạng của đường
cong. Nhờ đó, nó giúp đánh giá tác động của các chính sách đến mức
độ công bằng trong phân phối thu nhập của các nhóm dân cư.
Hệ số Gini (g)
Hệ số này được xác định bằng cách lấy diện tích hình A, được xác
định bởi đường Lorenz và đường chéo OA, chia cho diện tích nửa hình
vuông có chứa đường Lorenz đó (A+B).
12


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Công thức:
g=
Nếu g = 0 là bình đẳng tuyệt đối vì A = 0, đường Lorenz trùng với
đường chéo.
Nếu g = 1 là bất bình đẳng tuyệt đối vì B = 0, đường Lorenz nằm xa
đường chéo nhất.

Thông thường 0 ≤ g ≤ 1 vì đường Lorenz thường nằm ở giữa.
1.1.2. Chức năng của Chính phủ khi can thiệp vào nền kinh tế
thị trường
1.1.2.1. Phân bổ nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế
Mục tiêu kinh tế trọng tâm của Chính phủ là hỗ trợ việc phân bổ
nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế đạt mức như xã hội mong
muốn.
a. Điều tiết độc quyền
Ban hành luật pháp và chính sách chống độc quyền , ngăn cấm
những hành vi nhất định (như cấm các hãng cấu kết để cùng nhau nâng
giá), hoặc hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất định. Ngoài ra, Chính
phủ còn đề ra nhiều chính sách khuyến khích sự cạnh tranh quyết liệt
giữa các hãng bằng cách hạ thấp các rào cản xâm nhập thị trường, thúc
đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sở hữu nhà nước đối với độc quyền cũng là một giải pháp thường
được áp dụng với những ngành trọng điểm quốc gia như khí đốt, điện
năng.

13


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Kiểm soát giá cả đối với các hàng hóa và dịch vụ do hãng độc
quyền cung cấp, buộc hãng đó phải bán sản phẩm ở mức giá cạnh
tranh.
Đánh thuế được sử dụng để giảm bớt lợi nhuận siêu ngạch do độc
quyền, góp phần điều tiết giá cả và lợi nhuận.
Mở cửa thị trường, kêu gọi đầu tư nước ngoài làm cho nền kinh tế
thị trường trở nên đa dạng hơn, nâng cao tính cạnh tranh cho những

doanh nghiệp trong nước.
b. Khắc phục ngoại ứng
Giải pháp khắc phục ngoại ứng tiêu cực
Đánh thuế. Nguyên nhân khiến nhà máy sản xuất không hiệu quả
là do giá cả các đầu vào mà nhà máy phải trả để sản xuất đã không
phản ánh đúng chi phí xã hội biên. Vì thế, một giải pháp rất tự nhiên
được nhà kinh tế học người Anh A. C. Pigou đề nghị là đánh thuế ô
nhiễm đối với nhà máy này. Thuế Pigou là loại thuế đánh vào mỗi đơn
vị sản phẩm đầu ra của hãng gây ô nhiễm, sao cho nó đúng bằng chi
phí ngoại ứng biên tại mức sản lượng tối ưu xã hội.
Kiểm soát trực tiếp bằng mức chuẩn thải. Theo cách này, mỗi
hãng gây ô nhiễm sẽ bị yêu cầu chỉ được gây ô nhiễm ở một mức nhất
định, gọi là mức chuẩn thải, nếu không sẽ bị buộc đóng cửa.
Giải pháp hỗ trợ ngoại ứng tích cực
Trợ cấp. Trợ cấp Pigou là mức trợ cấp trên mỗi đơn vị sản phẩm
đầu ra của hãng tạo ra ngoại ứng tích cực, sao cho nó đúng bằng lợi
ích ngoại ứng biên tại mức sản lượng tối ưu xã hội. Kết quả của chính
sách này là làm mức giá mà người tiêu dùng thực sự phải trả cho dịch
14


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

vụ giảm, còn mức giá mà người sản xuất thực sự được nhận tăng so
với mức giá cân bằng trước khi có sự can thiệp. Nói cách khác, người
tiêu dùng và người sản xuất sẽ chia nhau khoản trợ cấp của Chính phủ.
c. Cung cấp hàng hóa công cộng
Chính phủ đứng ra cung cấp hàng hóa công cộng một cách miễn
phí, còn chi phí để sản xuất ra chúng có thể được trang trải thông qua
các nguồn thu khác, ví dụ thu từ thuế. Đôi khi, cũng có chi phí biên

của HHCC nhưng khoản chi phi này tương đối nhỏ. Trong trường hợp
ấy, phí sử dụng chỉ nên được qui định bằng chi phí biên này mà thôi.
d. Thông tin không đối xứng
Ban hành các điều luật qui định tính trung thực của quảng cáo,
xây dựng và đảm bảo hiệu lực thực thi của luật về bản quyền và sở
hữu trí tuệ nhằm qua đó bảo vệ thương hiệu của các doanh nghiệp làm
ăn chân chính, chống hàng giả, hàng nhái…
Trực tiếp đứng ra cung cấp thêm thông tin để hỗ trợ thị trường.

15


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

1.1.2.2. Phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội
Thông qua chính sách thuế khóa và chi tiêu, Chính phủ phân phối
lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ giúp cho các đối
tượng dễ bị tổn thương như người già, người nghèo, trẻ em, người tàn
tật. Thông thường, Chính phủ có thể tiến hành các chương trình trợ
cấp trực tiếp cho từng cá nhân để giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Nhiều khi, các chương trình phân phối lại còn được thực hiện dưới
dạng cung cấp các phương tiện, dịch vụ cho cả cộng đồng, như chương
trình xây dựng điện, đường, trường học, trạm xá ở nông thôn, góp
phần xóa đói giảm nghèo.
1.1.2.3. Ổn định kinh tế vĩ mô
Công cụ để Chính phủ thực hiện chức năng này là chính sách tài
khóa, tiền tệ và sự giám sát chặt chẽ thị trường tài chính. Trong phạm
vi khóa luận, em chỉ đề cập đến nền kinh tế đóng để làm rõ chức năng
ổn định kinh tế vĩ mô của hai chính sách này.
a. Chính sách tài khóa

Chính sách tài khóa là quyết định của Chính phủ về chi tiêu và
thuế để hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tài khóa có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu Chính phủ và
thuế.
Giả sử, khi nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái. Các
hãng tư nhân không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng không
muốn chi tiêu thêm. Lúc này, để mở rộng tổng cầu, Chính phủ áp dụng
chính sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi tiêu hoặc giảm thuế,
qua đó nâng cao mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Trong trường hợp
nền kinh tế đang ở trạng thái phát triển quá nóng, thì Chính phủ có thể
16


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

phải áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt để kiềm chế bớt bằng cách
giảm chi tiêu hoặc tăng thuế.
b. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là chính sách sử dụng các công cụ của hoạt
động tín dụng và ngoại hối để ổn định tiền tệ, từ đó ổn định nền kinh
tế và thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Các công cụ chủ yếu của
chính sách tiền tệ là: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và
lãi suất cho vay tái chiết khấu. Các công cụ và chính sách này sẽ tác
động vào cung tiền và lãi suất, rồi nhờ ảnh hưỡng của lãi suất đến đầu
tư mà tác động vào tổng cầu, từ đó đưa nền kinh tế vào trạng thái cân
bằng.
Tóm lại, chính sách tài khóa và tiền tệ là hai chính sách chủ yếu
được các Chính phủ sử dụng để thực hiện chức năng ổn định kinh tế vĩ
mô. Chúng có thể được sử dụng độc lập với nhau. Tuy nhiên, thường
thì các quốc gia phải kết hợp hai chính sách này với nhau.

1.1.2.4. Đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế
Chính phủ đóng vai trò là đại diện cho quyền lợi quốc gia trên các
diễn đàn quốc tế và đàm phán các hiệp định cùng có lợi với các quốc
gia khác trên thế giới. Các lĩnh vực thường xuất hiện trên các diễn đàn
kinh tế quốc tế ngày nay là:
Tự do hóa thương mại: giảm dần các rào cản thương mại, khuyến
khích chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế.
Các chương trình hỗ trợ quốc tế: viện trợ nước ngoài trực tiếp,
cứu trợ thiên tai, hỗ trợ kỹ thuật, cho vay ưu đãi…

17


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô: các nước có sự phối hợp
với nhau trong cách chính sách vĩ mô để chống lại lạm phát, thất
nghiệp và khủng hoảng.
Bảo vệ môi trường thế giới: các nước phối hợp để bảo vệ môi
trường ở những khu vực mà nhiều nước cùng sử dụng hay cùng chịu
ảnh hưởng lan tỏa của ô nhiễm.
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản cho sự can thiệp của Chính phủ vào
nền kinh tế thị trường
Hai nguyên tắc đặc trưng đối với sự can thiệp của Chính phủ vào
nền kinh tế thị trường là:
1.1.3.1. Nguyên tắc hỗ trợ
Nội dung của nguyên tắc này là: Sự can thiệp của Chính phủ phải
nhằm mục đích cuối cùng, dài hạn là hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị
trường hoạt động hiệu quả hơn. Điều đó đòi hỏi phải có quan diểm dứt
khoát về vai trò của khu vực công cộng (KVCC) trong nền kinh tế thị

trường. Khác với nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây, KVCC trong nền
kinh tế thị trường không phải là cạnh tranh nhằm lấn át KVTN mà phải
là chất xúc tác, tạo thuận lợi cho sự phát triển của khu vực đó, vì lợi
ích chung của toàn xã hội.
1.1.3.2. Nguyên tắc tương hợp
Nếu nguyên tắc hỗ trợ chủ yếu nhằm xác định xem khi nào Chính
phủ cần can thiệp vào thị trường thì nguyên tắc tương hợp lại nhằm
lựa chọn hình thức can thiệp tối ưu. Nội dung chính của nguyên tắc
này là: Trong hàng loạt các cách thức có thể có để can thiệp vào thị

18


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

trường, Chính phủ cần ưu tiên sử dụng những biện pháp nào tương hợp
với thị trường, hay nói cách khác là không làm méo mó thị trường.

1.2. Sử dụng gói kích cầu - biện pháp can thiệp cần thiết
của Chính phủ trong thời kỳ suy thoái kinh tế
1.2.1. Suy thoái kinh tế và hậu quả đối với nền kinh tế
1.2.1.1. Định nghĩa về suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế là một giai đoạn của chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ
kinh doanh. Trong đó, chu kỳ kinh tế là sự biến động của GDP thực tế
theo trình tự ba giai đoạn: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng
nổ). Các pha của chu kỳ kinh tế:
Hình 1.2. Chu kỳ kinh tế

Nguồn: Wikipedia, 2009


− Suy thoái là giai đoạn mà GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật
Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang
giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
19


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

− Phục hồi là giai đoạn trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng
mức ngay trước suy thoái. Thời điểm tiếp giao giữa 2 giai đoạn này
gọi là đáy của chu kỳ.
− Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay
trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh (hay còn
gọi là pha bùng nổ).
Kết thúc giai đoạn hưng thịnh lại bắt đầu đợt suy thoái mới. Có
quan điểm cho rằng giai đoạn phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh
doanh chỉ gồm hai giai đoạn chính là suy thoái và hưng thịnh.
Suy giảm kinh tế là suy thoái kinh tế ở mức độ chưa nghiêm
trọng (GDP suy giảm nhưng vẫn mang giá trị dương).
Suy thoái kinh tế kéo dài và trầm trọng được gọi là khủng hoảng
kinh tế. Cuộc KHKT Mỹ, KHKT toàn cầu hiện nay là một cuộc suy
thoái trầm trọng nhất từ sau Thế chiến thứ II.
1.2.1.2. Nguyên nhân của suy thoái kinh tế
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng
tranh luận sôi nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính
sách mặc dù đa số thống nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi
sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú
sốc từ bên ngoài (ngoại sinh).
Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý
thuyết gia theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên

nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố
ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây
ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn
20


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm phát bởi
cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái
đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị
trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả
trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát.
Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt
để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân
của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém.
1.2.1.3. Hậu quả của suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội:
− Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho trong các doanh nghiệp
tăng lên ngoài dự kiến. Nhà sản xuất phải cắt giảm sản lượng, giảm
đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, kết quả là GDP thực tế giảm sút.
− Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người
lao động giảm xuống, tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ
lệ thất nghiệp tăng cao.
− Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của
sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém, giá cả dịch vụ khó giảm
nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
− Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán
thường giảm theo. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm
xuống trong thời kỳ suy thoái.

1.2.2. Sử dụng gói kích cầu - biện pháp can thiệp cần thiết của
Chính phủ trong thời kỳ suy thoái kinh tế

21


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Kích cầu trong thời kì suy thoái là việc Chính phủ bơm tiền cho
nền kinh tế để các doanh nghiệp không bị tình trạng thiếu thanh khoản
dẫn đến phá sản, duy trì nền sản xuất ở mức không gây xáo trộn mạnh
trong xã hội để tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế cho phù hợp. Về bản
chất, “liệu pháp kích cầu” là việc chủ động sử dụng “bàn tay nhà
nước” tác động tới tổng cung và tổng cầu xã hội một cách thống nhất,
theo hướng khuyến khích đầu tư và mở rộng quy mô tiêu dùng, nhằm
đối phó với suy thoái, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Nó thể hiện vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường khi nền
kinh tế đối mặt với khó khăn mà các chủ thể khác khác vì chạy theo
lợi ích ngắn hạn không thể gánh vác được vai trò này.
1.2.2.1. Căn nguyên của tư tưởng “kích cầu” và các quan điểm
điều chỉnh kinh tế chủ yếu của John Maynard Keynes
Truyền thống để trong các nhà nước có nền kinh tế thị trường phát
triển can thiệp mạnh mẽ vào nền kinh tế, đặc biệt là theo hướng tăng
chi tiêu, mới bắt đầu sau cuộc Đại suy thoái 1929-1933.
Việc sử dụng chi tiêu của Chính phủ để kích thích nền kinh tế bắt
nguồn từ hai giả thuyết quan trọng của học thuyết Keynes trong cuốn
“Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”. Thứ nhất, cuộc
suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản xuất bị dư thừa.
Biểu hiện của tình trạng này là các yếu tố đầu vào cho sản xuất không
được sử dụng hết công suất: thất nghiệp trên thị trường lao động, máy

móc bị bỏ bê trong khu vực doanh nghiệp, và hàng hóa ế thừa. Hiện
tượng dư cung khiến cho giá cả có khuynh hướng giảm trên tất cả các
thị trường, do đó càng không khuyến khích người mua, và cầu càng ở
dưới xa cung thực tế. Kết quả là, nền kinh tế bị mắc vào một cái bẫy
suy thoái và không tự thoát ra được. Thứ hai, Chính phủ có khả năng
22


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

chủ động chi tiêu toàn bộ, thậm chí nhiều hơn thu nhập của mình.
Trong khi đó, các khu vực không phải Chính phủ (hộ gia đình và khu
vực kinh tế tư nhân) thường chi tiêu ít hơn tổng thu nhập vì họ muốn
để dành (khuynh hướng tiết kiệm cận biên lớn hơn 0). Trong điều kiện
bình thường, khoản tiết kiệm được chuyển sang khu vực doanh nghiệp
để đầu tư (tạo nên thành phần của tổng cầu). Nhưng trong điều kiện
suy thoái, doanh nghiệp không muốn đầu tư thêm nữa vì không có khả
năng lợi nhuận.
Xuất phát từ giả thuyết thứ nhất, Keynes cho rằng nền kinh tế bị
suy thoái vì tạm thời không có đủ cầu cho cung đang dư thừa, tức là
thiếu “cầu có hiệu quả”, hay cầu có khả năng thanh toán. Do đó, bài
toán sẽ được giải nếu xuất hiện một lượng “cầu có hiệu quả” đủ lớn.
Xuất phát từ giả thuyết thứ hai, rằng chỉ có Chính phủ mới có khả
năng mạnh tay chi tiêu - dựa trên ý chí của mình - ngay cả khi nền
kinh tế đang suy thoái (khiến các khu vực khác như tư nhân và hộ gia
đình hoàn toàn thoái chí, không muốn chi tiêu). Trên cơ sở đó, Keynes
đề xuất một phương án mà về căn bản theo nguyên lý sau: Dịch
chuyển sức mua từ khu vực dân cư và tư nhân vào tay Chính phủ để
tăng cầu có hiệu quả, đưa nền kinh tế ra khỏi cái bẫy đình đốn do thiếu
sức mua.

Hãy xem xét thêm các giải pháp của Keynes. Để xóa bỏ tình trạng
thiếu cầu có hiệu quả, Keynes cho rằng “nhà nước sẽ phải tiến hành
một tác động hướng dẫn đối với khuynh hướng tiêu dùng một phần qua
chính sách thuế khóa, một phần bằng việc ấn định lãi suất, và có thể
một phần bằng các phương tiện khác”. Trên thực tế, Keynes chủ yếu
đề cập tới hai cách khắc phục cơ bản:

23


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

Thứ nhất, nhà nước tạo ra “cầu có hiệu quả” bằng cách tăng chi
nhà nước, tức là mở rộng cầu nhà nước đề bù vào khuynh hướng thiếu
cầu tiêu dùng cá nhân và cầu đầu tư. Theo Keynes, nhà nước cần chủ
động tung tiền vào các hoạt động đầu tư công cộng (thường không hấp
dẫn tư bản tư nhân do ít sinh lợi), ngay cả khi gây ra “thiếu hụt ngân
sách”. Bởi đây là điều kiện cần thiết cho toàn bộ quá trình tái sản xuất
của tư bản xã hội, và là điều kiện thuận lợi cho tư bản tư nhân đầu tư
vào những ngành khác có lợi hơn. Tình hình đầu tư được cải thiện.
Nhu cầu hàng tiêu dùng và hàng đầu tư của nhà nước tăng theo. Đầu tư
tư nhân sẽ được đẩy lên một bước. Đi liền với chính sách tăng chi nhà
nước, Keynes nhấn mạnh đến chính sách thuế thấp với tính cách một
nguồn thu của ngân sách được tài trợ theo những mục tiêu hữu ích cho
những nhà đầu tư sản xuất.
Thứ hai, Keynes hy vọng nhiều vào chính sách kích thích đầu tư
tư nhân bằng sự điều chỉnh cần thiết mức lãi suất. Bởi lẽ theo ông,
trước khi quyết định đầu tư, bất kỳ nhà kinh doanh nào cũng phải tính
đến một lãi suất nào đó. Keynes cho rằng lãi suất được ấn định bởi
một bên là khối lượng cung tiền tệ do ngân hàng trung ương tạo ra và

một bên là số cầu tiền tệ hay là “sự ưa thích tiền mặt”. Số cầu tiền tệ
càng cao khi lãi suất thấp và càng thấp khi lãi suất cao. Do vậy, để
khuyến khích đầu tư, nhà nước vừa phải duy trì tỷ suất lợi tức thấp,
vừa có thể tăng khối lượng tiền tệ.
Tóm lại, Keynes cho rằng, nếu để nền kinh tế tự điều tiết thì sẽ
gây ra những hậu quả nghiêm trọng và kéo dài, vì thế Chính phủ cần
phải can thiệp, điều chỉnh để nền kinh tế tránh bị sụp đổ quá mức,
cũng như quá trình phục hồi được diễn ra nhanh hơn. Cuộc suy thoái
kinh tế lần này làm cho tư tưởng kinh tế học của Keynes về kích cầu

24


Nguyễn Kim Ngân - Anh 1 - TCNH A - K45

lại một lần nữa trở thành nền tảng cho các giải pháp cứu cánh của
Chính phủ các nước đưa nền kinh tế vượt qua suy thoái.
1.2.2.2. Các gói kích cầu theo nguyên tắc Keynes của một số
quốc gia trong thời kỳ suy thoái kinh tế thế giới
Các dấu mốc của suy thoái kinh tế thế giới
Năm 2006: kinh tế Mỹ phải đối mặt với nguy cơ lạm phát, FED
liên tục điều chỉnh tăng mạnh lãi suất cơ bản, lãi suất thị trường tăng
lên, làm cho giá bất động sản giảm.
Tháng 07/2007: kinh tế Mỹ có dấu hiệu khủng hoảng khi dầu thô,
lương thực và nguyên liệu cơ bản bị đầu cơ, đẩy giá lên cao (thời kỳ
cao

nhất

dầu


thô

147

USD/thùng,

thép

830USD/tấn,

gạo

1.000USD/tấn); sự rò rỉ thông tin về nguy cơ thua lỗ lớn của các ngân
hàng đầu tư và thương mại Mỹ nắm giữ nhiều khoản cho vay bất động
sản và các tài sản tài chính có nguồn gốc từ các khoản vay bất động
sản dưới chuẩn.
Ngày 06/08/2007: American Home Mortage, một tổ chức cho vay
thế chấp để mua nhà vào loại bậc nhất nước Mỹ nộp đơn xin phá sản.
Tháng 09/2008: Northern Rock, ngân hàng cho vay thế chấp để
mua nhà lớn nhất của Anh sắp phá sản. Chính phủ phải quốc hữu hóa
để cứu ngân hàng này.
Ngày 15/09/2008: Lehman Brothers Holding, ngân hàng lớn thứ
tư ở Mỹ nộp đơn xin phá sản sau 158 năm hoạt động. Merill Linch
tuyên bố sáp nhập với Bank of America với trị giá 50 tỷ USD do thua
lỗ.

25



×