Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THI HÀNH LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC NĂM 1998 VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.1 KB, 36 trang )

CHÍNH PHỦ


BÁO CÁO
TỔNG KẾT ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH
THI HÀNH LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC NĂM 1998
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Hà Nội, tháng 9 năm 2011


CHÍNH PHỦ


BÁO CÁO
TỔNG KẾT ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH
THI HÀNH LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC NĂM 1998
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Hà Nội, tháng 9 năm 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................................4
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ SAU 12 NĂM THI HÀNH LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC..................................................................5
I. CÔNG TÁC BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC..............................................................................................................5
II. HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC..............................................................................6
III. CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG, KHẮC PHỤC HẬU QUẢ LŨ, LỤT VÀ TÁC HẠI KHÁC DO NƯỚC GÂY
RA.......................................................................................................................................................................................10
IV. HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI................................................................13


V. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC..........................................................................14

Phần thứ hai
MỘT SỐ TỒN TẠI, BẤT CẬP VÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH..........................................................................18
I. MỘT SỐ TỒN TẠI, BẤT CẬP....................................................................................................................................18
II. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CHÍNH..........................................................................................................................22
III. KẾT LUẬN.................................................................................................................................................................24

Phần thứ ba
KIẾN NGHỊ NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC....................................................................................................................................26
I. VỀ MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC, NHỮNG CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH LỚN CẦN ĐƯỢC THỂ CHẾ HÓA
.............................................................................................................................................................................................26
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG..........................................................................................28

Phụ lục số 01
DANH SÁCH CÁC QUY HOẠCH TÀI NGUYÊN NƯỚC
ĐÃ VÀ ĐANG THỰC HIỆN.....................................................................................................................................32
Phụ lục số 02
BẢNG TỔNG HỢP GIẤY PHÉP VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC
DO BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CẤP.................................................................................................33
Phụ lục số 03
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC ĐÃ BAN HÀNH...........................................................................................................34

3


MỞ ĐẦU
Luật Tài nguyên nước được Quốc hội khoá X thông qua ngày 20 tháng 5

năm 1998 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Đây là văn bản
pháp luật cao nhất về quản lý tài nguyên nước, đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong công tác quản lý tài nguyên nước ở nước ta. Luật đã thể chế hoá
quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến
tài nguyên nước. Luật ra đời đã góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước,
nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong
bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả
tác hại do nước gây ra.
Sau mười hai năm thi hành Luật cho thấy, về cơ bản các chính sách lớn
của Đảng, Nhà nước đối với tài nguyên nước trong thời gian đã được thể chế
hoá trong Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhiều quy định của Luật đã
được triển khai trên thực tế, đem lại những kết quả tích cực, đặc biệt là đã khai
thác, sử dụng tốt hơn các nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước đã có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào
nề nếp; hệ thống chính sách, pháp luật từng bước được hoàn thiện; ý thức của
người dân trong khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước đã được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, qua mười hai năm thực hiện,
Luật Tài nguyên nước đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Đa dạng sinh
học, Luật Thuế tài nguyên… đã được sửa đổi hoặc ban hành mới thì Luật Tài
nguyên nước năm 1998 vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình
hình mới. Nhiều chế định pháp lý của Luật Tài nguyên nước không còn phù hợp
với thực tế; một số quan hệ mới trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước phát
sinh trong thực tiễn cần được điều chỉnh; một số chủ trương, chính sách mới của
Đảng, Nhà nước trong quản lý tài nguyên nước thời gian gần đây mới chỉ thể
hiện trong các văn bản dưới luật, giá trị pháp lý còn thấp.
Sau đây là tổng hợp tình hình thi hành Luật Tài nguyên nước và những
kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật.

4



Phần thứ nhất
KẾT QUẢ SAU 12 NĂM THI HÀNH LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC
I. CÔNG TÁC BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC

Trong những năm qua, Nhà nước đã từng bước xây dựng và kiện toàn hệ
thống tổ chức quản lý bảo vệ chất lượng nước các cấp trên toàn quốc với sự
thành lập Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước đây, Bộ Tài nguyên và
Môi trường năm 2002. Việc thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường là một
bước tiến quan trọng trong việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về tài
nguyên nước, thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, tạo cơ
hội để khắc phục dần tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Công
tác bảo vệ tài nguyên nước đã được chú trọng hơn, cụ thể như sau:
1. Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể
hóa các quy định về bảo vệ tài nguyên nước đã cơ bản đáp ứng yêu cầu của công
tác quản lý tài nguyên nước. Từ năm 1999 tới nay, Chính phủ và Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã ban hành được nhiều văn bản, trong đó có các quy định quan
trọng về bảo vệ tài nguyên nước: Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải; Nghị định số 149/2004/NĐ-CP về cấp phép thăm
dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; Nghị định
số 34/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên
nước; Nghị định số 88/2007/NĐCP ngày 28/5/2007 về thoát nước đô thị và khu
công nghiệp; Nghị định số 112/2008/NĐ-CP về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng
hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa, thủy điện; Nghị định số
120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực sông; Quyết định số 15/2008/QĐ-BTNMT
về việc ban hành Quy định bảo vệ tài nguyên nước dưới đất; Thông tư số
02/2009/TT-BTNMT Quy định đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải của
nguồn nước…
Ở địa phương, hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban

hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ và của Bộ Tài nguyên và Môi trường để tăng cường công tác bảo vệ
tài nguyên nước trên địa bàn.
2. Nhà nước đã đầu tư, khuyến khích đầu tư, nâng cấp, cải tạo các hệ
thống xử lý nước thải ở các khu đô thị, khu công nghiệp v.v... Từng bước xử lý
triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường và nguồn nước theo
tinh thần Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
3. Việc bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn
nước gắn với việc bảo vệ và phát triển rừng đã được thực thi bằng nhiều chương
trình của Nhà nước như chương trình 135 về xoá đói, giảm nghèo và phủ xanh
đất trống, đồi trọc.
Nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa tài nguyên rừng và tài nguyên nước,
Nhà nước đã ban hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng; Quyết định của Thủ
5


tướng Chính phủ số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 về dự án trồng 5 triệu ha
rừng; Chương trình 327 của Chính phủ thực hiện việc giao đất, giao rừng cho
dân nuôi trồng, khai thác và bảo vệ v.v…
Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy, việc bảo vệ TNN, phòng, chống suy
thoái, cạn kiệt nguồn nước không chỉ gắn với bảo vệ và phát triển rừng mà cần
có những quy định về ngưỡng khai thác, dòng chảy tối thiểu trong sông.
Xây dựng các chương trình, dự án phủ xanh đất trống, đồi trọc, trồng và
bảo vệ rừng đầu nguồn, các dự án xoá đói giảm nghèo v.v... để tăng cường bảo
vệ lưu vực, chống suy thoái nguồn nước. Nhờ vậy, tình hình mặt đệm của một
số lưu vực sông đã được cải thiện đáng kể, như một số tỉnh miền núi của lưu vực
sông Hồng: Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La.
4. Thực hiện các hoạt động, dự án quản lý tổng hợp tài nguyên và môi
trường lưu vực các sông: Hồng - Thái Bình, Cửu Long, Đồng Nai, Đáy, Cầu, Vu
Gia - Thu Bồn, Serepok... Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ban

hành Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực sông, trong đó bảo vệ
môi trường nước lưu vực sông là một trong những nội dung quan trọng, được ưu
tiên hàng đầu. Việc thực hiện quản lý tổng hợp lưu vực sông là một trong những
bước đi quan trọng để tăng cường quản lý, bảo vệ lưu vực và nâng cao hiệu quả
sử dụng nước, đất và các tài nguyên liên quan khác.
5. Thiết lập mạng quan trắc ở một số địa phương để phục vụ công tác
quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Thủ tướng Chính phủ đã trình ban hành
Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29/01/2007 về việc phê duyệt “Quy hoạch
tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm
2020”. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan có liên
quan đang triển khai thực hiện Quyết định này.
6. Công tác thanh tra, kiểm tra tình hình khoan, thăm dò, khai thác, sử
dụng và bảo vệ tài nguyên nước ở trung ương và địa phương được tăng cường
hơn trước.
7. Công tác giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng trong bảo vệ tài
nguyên nước, phòng, chống và khắc phục ô nhiễm nguồn nước cũng được tăng
cường bằng các hình thức: phổ biến quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên
nước trên các phương tiện phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí; tổ chức các lớp
tập huấn, toạ đàm, trao đổi; phim phóng sự…
II. HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC1

Các hộ dùng nước chủ yếu là nông nghiệp, nước cho sinh hoạt, công
nghiệp và thuỷ sản với tổng lượng nước dùng hiện tại khoảng 80 tỷ m 3, trong đó
nông nghiệp là 66 tỷ m3, công nghiệp dùng 3,8 tỷ m3, sinh hoạt 2,3 tỷ m3 và thuỷ
sản 8,8 tỷ m3. Tính bình quân, lượng nước sử dụng cho nông nghiệp chiếm 82%,
nước cho công nghiệp chiếm 3,7%; nước cho sinh hoạt: 3,0% và nước cho thuỷ
sản: 11%. Cơ cấu sử dụng nước đang có xu hướng tăng dần cho công nghiệp,
thuỷ sản và sinh hoạt.
1


Nguồn: Báo cáo của Dự án đánh giá ngành nước (ABD TA 4903 –VIE) tháng 2/2009

6


Khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và thiếu bền vững gây suy
giảm tài nguyên nước trong khi hiệu quả sử dụng nước còn thấp, tình trạng lãng
phí trong sử dụng nước còn phổ biến trên phạm vi cả nước, cụ thể là:
1. Sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp
Nước được dùng cho sản xuất nông nghiệp nhiều nhất ở Đồng bằng sông
Cửu Long và lưu vực sông Hồng, chiếm tỷ lệ 70% lượng nước sử dụng. Nhóm
sông có tỷ lệ sử dụng nước cho nông nghiệp với tỷ lệ thấp hơn ở lưu vực sông
Gianh, Thạch Hãn, Đồng Nai và nhóm sông miền Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên diện tích thực tưới thấp hơn nhiều so với diện tích thiết kế (chỉ
có 68% tổng diện tích được tưới). Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng nước cho
nông nghiệp chưa cao. Ngoài ra, việc khai thác các hồ chứa thủy lợi cũng đang
gây ra nhiều vấn đề về điều tiết nước trên lưu vực, cấp nước và duy trì dòng chảy
môi trường hạ du vì các công trình này hầu hết không có nhiệm vụ thiết kế để xả
nước xuống hạ du trong mùa cạn.
2. Sử dụng nước cho công nghiệp
Nhóm sông có tỷ lệ dùng nước cho công nghiệp: cao nhất là lưu vực sông
Hồng - Thái Bình, chiếm gần 1/2 tổng lượng nước sử dụng cho ngành công
nghiệp của cả nước; 25% sử dụng nước công nghiệp diễn ra ở lưu vực sông Đồng
Nai, 7% ở nhóm sông Đông Nam Bộ và 10% ở lưu vực Cửu Long. Tỉ lệ sử dụng
nước dưới đất cho công nghiệp lớn: 57% các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí
Minh sử dụng nước dưới đất. Đến năm 2015, sử dụng nước công nghiệp sẽ tăng
hơn gấp đôi mức năm 2006 và mức độ tăng sẽ chủ yếu diễn ra ở các lưu vực sông
vốn đã là một cơ sở công nghiệp lớn là các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Đồng
Nai, nhóm sông Đông Nam Bộ, Cửu Long và Vu Gia - Thu Bồn.
Nước thải công nghiệp chứa nhiều chất gây ô nhiễm khi thải ra môi trường

sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn nước. Các lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm
nước nhiều nhất là giấy, hoá chất, dệt nhuộm, sơn mạ...
Mặc dù trên toàn quốc có 154 khu công nghiệp và khu chế xuất quy mô lớn
nhưng chỉ có 43 khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập
trung, nhưng cũng mới chỉ đáp ứng công suất xử lý ở mức hiện tại (hiện chỉ hoạt
động khoảng 70% công suất).
Trong những năm tới, khi 100% đất được sử dụng hết thì chỉ 31% nước
thải được xử lý và phần còn lại thải không qua xử lý.
Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, quy mô trung bình thì chưa
có hệ thống xử lý hoặc không xử lý nước thải trước khi xả vào nguồn tiếp nhận.
3. Sử dụng nước cho thuỷ sản
Trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản đã tăng trưởng đáng kể, với
mức tăng trưởng bình quân trên 12%/năm kể từ năm 1990, đóng góp trên 15
nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước.
Những vùng, lưu vực sông có tỷ lệ sử dụng nước cho thủy sản cao bao
7


gồm: cao nhất là Đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng-Thái Bình, nhóm sông
Đông Nam Bộ, Đồng Nai và sông Mã với các tổng lượng dùng tương ứng: 5,8 tỷ
m3; 0,7 tỷ m3; 0,63 tỷ m3; 0,4 tỷ m3 tương ứng các tỷ lệ 67%; 8,3%; 7,2%; 4,7%
và 4,6%.
Quy mô sản xuất, nuôi trồng thủy sản hầu hết là hộ gia đình, phân tán, nhỏ
lẻ cùng với việc sản xuất thiếu quy hoạch sử dụng nước đã và đang gây ra các vấn
đề về môi trường (như tình trạng nuôi trồng thủy sản trên cát diễn ra ở khu vực
ven biển miền Trung các năm 2005-2006 gây hậu quả môi trường nghiêm trọng ở
các khu vực này). Nước thải từ các nhà máy chế biến thủy sản và ô nhiễm từ việc
nuôi trồng thủy sản đã gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt ở lưu vực sông Cửu
Long, Hồng và Gianh.
Vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng là vùng đa dạng sinh học phong phú,

tuy nhiên lại là nơi tập trung dân cư và sản xuất thủy sản cao nên khu vực này
đang có nguy cơ suy giảm và mất đi các chức năng tự nhiên của vùng đất ngập
nước hoặc bán ngập nước.
Trên lưu vực sông Gianh, việc nuôi trồng thủy sản phát triển dựa trên điều
kiện dòng chảy tự nhiên và chất lượng nước trong lưu vực đang bị tác động bởi
các hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Sản xuất, nuôi trồng thủy sản trong lưu vực sông Cửu Long chiếm tới 60%
so với cả nước, tuy nhiên giá trị kinh tế từ sử dụng nước cho thủy sản ở lưu vực
sông Cửu Long thấp hơn so với các vùng khác, trong khi đó tác động của các hoạt
động này đang gây ra tình trạng suy thoái chất lượng nước.
Phát triển nuôi trồng thủy sản là nguyên nhân làm giảm diện tích rừng ngập
mặn, đây là hệ sinh thái quý giá cho các loài động vật và thực vật thủy sinh, cũng
như đóng vai trò sống còn trong các quá trình cửa sông.
4. Sử dụng nước cho sinh hoạt và vệ sinh
- Về Cấp nước đô thị:
Nhiều đô thị đang khai thác và sử dụng nước dưới đất để cấp cho sinh hoạt
và công nghiệp. Các thành phố, thị xã đang khai thác chủ yếu là nước dưới đất
bao gồm: Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Đông, Sơn Tây, Hưng Yên, Tuyên
Quang, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Các đô
thị còn lại đều sử dụng nước mặt kết hợp với nước dưới đất.
Theo thống kê, lượng nước dưới đất được khai thác để cấp nước cho đô thị
hiện nay chiếm khoảng 40% tổng lượng nước (khoảng gần 10 triệu m 3/ngày).
Phần lớn công trình khai thác nguồn nước dưới đất đều có công suất khai thác
nhỏ, từ 5.000-15.000 m3/ngày đến 20.000-40.000 m3/ngày. Riêng Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh có tổng công suất khai thác lớn hơn. Tổng lượng nước
cấp cho khu vực thành phố Hà Nội khoảng một triệu m 3/ngày và thành phố Hồ
Chí Minh là khoảng 2,5 triệu m3/ngày. Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước trong các hệ
thống cấp nước đô thị còn cao (trung bình khoảng 35%, riêng thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ CHí Minh là rất lớn, chiếm khoảng 40% tổng lượng khai thác) và
8



hiện tượng sử dụng nước không đúng mục đích, không hiệu quả và lãng phí nước
còn phổ biến ở hầu hết các đô thị. Trên toàn quốc, tỷ lệ dân số đô thị được sử
dụng nước từ hệ thống cấp nước tập trung mới đạt khoảng 70%, phần còn lại chủ
yếu tự đầu tư xây dựng công trình cấp nước với quy mô nhỏ lẻ.
- Về Cấp nước nông thôn:
Tính đến năm 2010, khoảng 70% dân số nông thôn được cấp nước sạch.
Nguồn cấp nước sinh hoạt nông thôn chủ yếu là nước dưới đất. Lưu vực có tỷ lệ
cấp nước nông thôn thấp nhất (dưới 55%) là Gianh, Trà Khúc, Sê San. Theo đánh
giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỷ lệ số dân được cấp nước sinh
hoạt ở khu vực nông thôn là 70%, tuy nhiên nếu căn cứ vào chỉ tiêu nước sạch do
Bộ Y tế ban hành thì tỷ lệ dân số được cấp nước sạch trung bình mới đạt khoảng
trên dưới 30%. Tỷ lệ cấp nước sạch cho các huyện thị cũng rất thấp, chỉ đạt từ 1024%, cao nhất ở lưu vực sông Mã là 24%, thấp nhất ở lưu vực sông Bằng Giang Kỳ Cùng là 10%.
Hiện nay, mức độ khai thác nước dưới đất và giới hạn khai thác cũng chưa
được đánh giá chi tiết, song tình trạng khai thác nước dưới đất nhiều nơi đã ở mức
báo động. Khai thác nước dưới đất quá mức là một trong những nguyên nhân gây
sụt lún đất, mức độ hạ thấp mực nước hằng năm là 0,2 - 0,6m ở Tây Nguyên, 0,3 0,7m ở Đồng bằng Bắc Bộ. Mức độ khai thác so với tiềm năng ở Đông Nam Bộ
là 24%, Đồng bằng sông Hồng là 19% và ven biển Nam Trung Bộ là 19%. Nước
dưới đất cũng cần có nghiên cứu về giới hạn khai thác cho từng vùng làm cơ sở
cho việc cấp phép khai thác.
5. Sử dụng nước cho thuỷ điện
Điện là ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh, tốc độ tăng trưởng nhu
cầu hiện tại là 15%/năm và còn tăng mạnh trong tương lai gần. Tính đến 2010,
tổng công suất thuỷ điện đạt khoảng 10.255 MW, đang đóng góp khoảng 40%
tổng sản lượng điện toàn quốc. Nguồn năng lượng thuỷ điện tập trung ở sông
Hồng, Đồng Nai (26% và 23%), tương lai, các dạng thuỷ điện tích năng sẽ được
đưa vào sử dụng. Việc xây dựng các hồ chứa lớn để phát điện cũng như việc phát
triển thủy điện vừa và nhỏ; chuyển nước lưu vực nhằm tối ưu khai thác thuỷ năng,
đã và đang gây ra nhiều vấn đề:

- Các hồ chứa lớn được thiết kế đa mục tiêu nhưng phần lớn chỉ tập trung
tối đa lợi ích điện mà chưa chú ý đúng mức tới các nhiệm vụ phòng, chống lũ và
cấp nước cho hạ du .
- Thiếu đánh giá tác động của quy hoạch phát triển thủy điện và đánh giá
môi trường tổng hợp gây ra tình trạng bị động trong việc giải quyết và xử lý các
tác động do việc vận hành hồ chứa và hệ thống hồ chứa thủy điện trên sông như
không thiết kế các đường di chuyển cho cá, không có lưu lượng xả để duy trì
dòng chảy môi trường sau đập; thiếu quy trình vận hành hệ thống đã tác động đến
các hộ dùng nước ở hạ du, gây khó khăn cho công tác phòng, chống lũ cho hạ du
ở một số lưu vực sông.
- Các công trình thủy điện vừa và nhỏ chủ yếu là công trình thủy điện kiểu
9


đường dẫn, khi thiết kế không chú ý đến việc bảm đảm dòng chảy tối thiểu cho hạ
du nên đã gây nên tình trạng suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ảnh hưởng đến môi
trường, thiếu nước cho sản xuất sinh hoạt của nhân dân, gây nên việc tranh chấp
nguồn nước ở một số lưu vực sông trong mùa khô.
Những vấn đề này cần được giải quyết ở cấp cao và cần sự phối hợp liên
ngành và cần có sự tham gia của người dân kể từ khâu quy hoạch, chuẩn bị đầu
tư, thiết kế, thi công công trình.
6. Sử dụng nước cho giao thông thuỷ
Vận tải đường sông chiếm tỉ lệ vận chuyển hàng hóa khoảng 20% trong
ngành giao thông vận tải. Khối lượng hàng hóa vận chuyển theo ngành đường
sông tăng gấp hơn hai lần từ năm 1995 đến năm 2004. Trong năm 2006, có 179
triệu hành khách luân chuyển bằng đường sông trên khoảng 3.600 triệu km,
chiếm khoảng 13% tổng vận chuyển hành khách.
Các hoạt động giao thông thủy đã gây một số tác động đến môi trường
nhưng các hoạt động này không được xem xét đầy đủ, ví dụ như tai nạn và lật
tàu, rác thải của hành khách, rác thải từ cảng và xưởng đóng tàu, sạt lở bờ sông

và nạo vét bùn. Do vậy, cần có sự đánh giá toàn diện về tác động môi trường của
tất cả các hoạt động giao thông vận tải thủy đối với lòng sông hoặc bờ sông
trước khi ra quyết định. Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường
sông đến năm 2020 được phê duyệt năm 2007, đã xác lập các tuyến vận tải, các
thông số về đội tàu, tải trọng, cùng các thông số kỹ thuật kèm theo làm cơ sở để
xác định nhu cầu nước cho ngành vận tải đường sông. Mặc dù hiện nay số liệu
về nhu cầu sử dụng nước của ngành vận tải đường sông chưa được tính toán cụ
thể nhưng có thể nhận thấy nhu cầu đó rất lớn trong tương lai. Trong các năm
trước đây, hầu hết các phương tiện vận tải thuỷ đều có trọng lượng dưới 100 tấn,
mớn nước đa số dưới 1,5m. Hiện nay, phương tiện vận tải tự hành phát triển
mạnh về tải trọng và chủng loại, mớn nước lớn hơn 2m. Sản lượng vận tải tăng
trưởng hàng năm gần 10% làm gia tăng nhu cầu nước để bảo đảm độ sâu chạy
tàu.
Luật Giao thông đường thuỷ nội địa có những quy định phù hợp với Luật
Tài nguyên nước, ví dụ: “Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
đường thuỷ nội địa phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch lưu vực sông, các quy hoạch khác có liên quan và nhiệm vụ bảo đảm
quốc phòng, an ninh” (Khoản 1 Điều 10); “Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ
trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải trong việc xây dựng quy hoạch phát
triển lưu vực sông, quản lý khai thác tài nguyên có liên quan đến luồng và hành
lang bảo vệ luồng, bảo đảm an ninh giao thông, bảo vệ môi trường trên đường
thuỷ nội địa” (Khoản 6 Điều 99).
III. CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG, KHẮC PHỤC HẬU QUẢ LŨ, LỤT
VÀ TÁC HẠI KHÁC DO NƯỚC GÂY RA

Lũ, lụt và các tác hại khác do nước gây ra luôn luôn là mối quan tâm đặc
biệt của Nhà nước trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Ngày 16
10



tháng 11 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
172/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tại đến năm 2020. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban Phòng
chống lụt bão chỉ đạo việc thực hiện Chiến lược này.
1. Công tác phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai
Kế hoạch phòng, chống thiên tai đã được triển khai trên phạm vi cả nước
đến từng cơ sở thông qua hoạt động của Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt bão
Trung ương đến Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt bão của các ngành, các địa
phương và cấp cơ sở theo phương châm 4 tại chỗ được cộng đồng quốc tế đánh
giá cao. Hằng năm ngân sách Nhà nước, ngân sách địa phương và huy động sức
dân đã dành một phần quan trọng để đầu tư tu bổ các công trình phòng, chống
thiên tai: xây dựng cụm dân cư vượt lũ, đê điều, chống sạt lở đất, trồng và bảo
vệ rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn.
Để phòng, chống lũ, lụt, hiện cả nước đã xây dựng được 5.700 km đê
sông, 3.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao, hàng ngàn cống dưới đê, hàng trăm
ki lô mét kè bảo vệ bờ. Hệ thống đê sông Hồng - Thái Bình có khả năng bảo vệ
thành phố Hà Nội với mức nước lũ thiết kế là 13,4 m và chống lũ cho các tỉnh
đồng bằng sông Hồng với mực nước lũ 13,1 m ở Hà Nội, 7,21 m ở Phả Lại. Hệ
thống bờ bao và các công trình liên quan ở đồng bằng sông Cửu Long có khả
năng phòng, chống được lũ sớm và lũ tiểu mãn. Hệ thống đê sông Mã, sông Cả
có thể chống được lũ với tần suất 2-2,5%. Hệ thống đê biển có thể chịu được
bão cấp 9 và triều cường trung bình ứng với tần suất 10%2.
2. Về lập tiêu chuẩn và phương án phòng, chống lũ, lụt
Thực tế hiện nay vẫn chưa xây dựng được tiêu chuẩn phòng, chống lũ, lụt
cho nhiều vùng, nhiều lưu vực sông làm cơ sở cho việc lập phương án phòng,
chống lũ, lụt của lưu vực sông theo quy định tại Điều 37 của Luật.
Trên bình diện cả nước mới chính thức phê duyệt quy hoạch phòng,
chống lũ, lụt cho lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, đồng bằng sông Cửu
Long (giai đoạn 1), còn lại các lưu vực sông lớn như sông Mã, sông Cả, sông
Thu Bồn, Sêrêpốc, Sêsan, sông Trà Khúc, sông Ba và sông Đồng Nai… do chưa

có quy hoạch lưu vực sông chính thức được phê duyệt nên tiêu chuẩn chống lũ
cho từng vùng của lưu vực sông mới ở mức tạm thời, dựa trên kinh nghiệm
phòng, chống lụt để định ra bước đi cho việc xây dựng công trình và phương án
chống lũ, lụt.
3. Về quy hoạch bố trí dân cư, bố trí sản xuất và xây dựng cơ sở hạ
tầng trong vùng ngập lũ
Đồng bằng sông Cửu Long đã có một bước tiến lớn trong quy hoạch dân
cư vùng ngập lũ, cụm dân cư theo tuyến vượt lũ, theo bao vùng tránh lũ đã hình
thành, đánh dấu bước chuyển biến về chất quy hoạch chung sống với lũ. Chính
phủ có chương trình 99 về phát triển thuỷ lợi gắn với phòng tránh lũ, lụt; đã có
kế hoạch và dần từng bước thực hiện việc xây dựng các tuyến dân cư vượt lũ để
2

Nguồn: Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020

11


bảo đảm cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long làm nhà sống chung với lũ.
Công việc này thực hiện theo Quyết định số 144/1999/QĐ-TTg ngày 21 tháng 6
năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch về kiểm soát
và sử dụng nước lũ vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn từ nay đến năm
2010.
Các tỉnh Đồng bằng sông Hồng đã có các chương trình đầu tư cho các
vùng phân lũ, chậm lũ nhằm chủ động thích ứng tích cực, tạo điều kiện sống bền
vững hơn trong môi trường bị phân, chậm lũ. Quy hoạch dân cư phòng, chống lũ
quét ở các tỉnh miền núi cũng đang được rà soát, xúc tiến nhất là vùng trọng
điểm, các tỉnh Lào Cai, Yên Bái đã có những chuyển biến tích cực.
Một số tỉnh Miền Trung bộc lộ nhiều khó khăn, chưa có biện pháp cụ thể
trong việc bố trí dân cư vùng thường xuyên gặp lũ bão và lũ kéo dài ngày. Nhiều

vấn đề có khả năng khắc phục như giải pháp đảm bảo cung cấp nước sạch cho
nhu cầu tối thiểu trong mùa lũ chậm được nghiên cứu, giải quyết.
4. Về tiêu nước cho vùng ngập úng
Quy định này đã được thực hiện ở các khâu quy hoạch và khâu đầu tư, hỗ
trợ cho việc xây dựng, khai thác và bảo vệ các công trình tiêu úng. Những công
trình tiêu úng lớn ở lưu vực sông Hồng như hệ thống Bắc Nam Hà, Bắc Hưng
Hải vẫn phát huy tác dụng tốt.
Vấn đề tiêu nước cần làm rõ hơn mức độ ảnh hưởng toàn diện, tác động
đến kinh tế - xã hội và môi trường để nâng cao hơn nữa trách nhiệm toàn xã hội
đối với vấn đề tiêu nước, không chỉ khi bị ngập úng mà phải triển khai thường
xuyên và bền vững hơn. Mối quan hệ giữa các vùng trong việc tiêu nước là cực
kỳ phức tạp nên phải đảm bảo tính quy hoạch thống nhất trong quy hoạch LVS.
Có thể nêu điển hình là hệ thống dẫn nước và tiêu nước sông Nhuệ trong mùa
kiệt thường gây ô nhiễm nghiêm trọng cho vùng hạ lưu nhất là việc cấp nước
sinh hoạt của thị xã Phủ Lý, tình hình trên lưu vực sông Cầu cũng có diễn biến
tương tự.
5. Về phòng, chống xâm nhập mặn, nước biển dâng, tràn
Để phòng, chống xâm nhập mặn, nước biển dâng, tràn, Nhà nước đã có các
biện pháp bảo vệ như trồng rừng ngập mặn; đầu tư kinh phí xây dựng đê biển ở cả
ba vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; thực hiện việc quản lý vận hành các cống
ngăn mặn. Tuy nhiên, việc xây dựng cống ngăn mặn phải được tính toán kỹ lưỡng
để bảo đảm cân bằng sinh thái môi trường, đồng thời tính đến tiềm năng đa dạng
về cây trồng, vật nuôi trong vùng nước có giao lưu với nước biển.
Hệ thống đê biển ngăn nước biển tràn có sức chống đỡ bão cấp 9 với mực
nước biển trung bình đã được hình thành khép kín toàn tuyến ở các tỉnh miền
Bắc, miền Trung và tiếp tục đầu tư khép kín toàn tuyến các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long. Các vùng xói lở bờ biển vẫn chưa ngăn chặn có hiệu quả, hệ thống
rừng ngập mặn nhiều nơi bị tàn phá, chưa được chú ý bảo vệ.

12



IV. HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI

Trước năm 1955, cả nước chỉ có 13 hệ thống thuỷ lợi tưới cho trên
400.000 ha, tiêu nước cho 77.000 ha. Tính đến nay, cả nước đã xây dựng được
trên 100 hệ thống thủy lợi vừa và lớn; trên 2.000 hồ chứa có dung tích lớn hơn
0,2 triệu m3 với tổng dung tích là 24,8 tỷ m 3 (trong đó 10 hồ chứa thuỷ điện có
tổng dung tích là 19 tỷ m3) và 1.957 hồ còn lại có nhiệm vụ chính là tưới; hơn
5.000 cống tưới, tiêu lớn; trên 10.000 trạm bơm lớn và vừa (trong đó có trên
2.000 trạm bơm lớn) với tổng công suất bơm 24,8 triệu m 3/h; 5.700 km đê sông;
trên 2.000 km đê biển; 23.000 km bờ bao chống lũ và bảo vệ lúa hè thu.
Các công trình thủy lợi đã đem lại hiệu quả to lớn trong sản xuất nông
nghiệp đặc biệt là sản xuất lương thực, đồng thời đã hạn chế được thiên tai, hạn
hán, lũ, lụt nặng nề trong những năm qua. Diện tích lúa, rau màu và cây công
nghiệp ngắn ngày được tưới không ngừng tăng lên.
Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi sửa đổi năm 2001 và
các Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đã quy định cụ thể các điều khoản
về khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi trong Luật.
1. Về trách nhiệm bảo vệ công trình thuỷ lợi
Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi đã cụ thể hoá trách
nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành trong việc chỉ đạo và ra quyết định bảo vệ
công trình thủy lợi.
Các hành vi phổ biến xâm phạm công trình thủy lợi là lấn chiếm đất trong
phạm vi bảo vệ kênh, mương; cuốc xẻ bờ kênh, tự đặt cửa lấy nước, đào đất
lòng kênh gây sạt lở bờ, mái kênh; trồng cây, làm nhà, xây dựng công trình trên
kênh làm tắc nghẽn dòng chảy và mất an toàn công trình; thả đăng, đó, vó bè,
bèo sen gây cản trở dòng chảy trên các trục kênh chính v.v… Cơ quan quản lý
địa phương đã chỉ đạo các ban, ngành chức năng, các công ty khai thác công
trình thuỷ lợi xử lý bằng các biện pháp từ tuyên truyền, vận động đến cưỡng chế

giải toả nhưng hiệu quả chưa cao, chưa triệt để, hiện tượng vi phạm và tái phạm
vẫn còn xảy ra.
2. Về phương án bảo vệ công trình thuỷ lợi
Phương án bảo vệ công trình thủy lợi đã được quy định cụ thể tại Điều 22
Pháp lệnh.
Các công ty khai thác công trình thủy lợi đã có phương án bảo vệ công trình
từ khâu lập quy trình vận hành, bảo đảm an toàn cho công trình đến khâu bảo vệ an
ninh cho công trình, cắm mốc chỉ giới hành lang bảo vệ v.v… Các phương án này
nằm trong kế hoạch sản xuất hàng năm của các doanh nghiệp, được trình lên các
cấp có thẩm quyền phê duyệt về mặt kế hoạch và ngân sách thực hiện.
Qua thực tế những năm qua, các quy định về phương án bảo vệ công trình
thủy lợi đã thực thi theo Luật, bảo đảm an toàn công trình. Cơ quan quản lý
công trình đã tăng cường quản lý hồ chứa nước và các hệ thống công trình thuỷ
lợi bảo đảm phục vụ tưới, tiêu và cung cấp nước cho các ngành kinh tế quốc
13


dân; phòng, chống lũ, lụt, úng, hạn và các tác hại khác do nước gây ra. Đặc biệt
chú trọng tới việc bảo đảm an toàn cho công trình, nhất là trong mùa mưa lũ.
3. Về phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi, bảo vệ đê điều
Quy định về phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi trong Luật nhằm hai mục
tiêu: giữ gìn an toàn công trình; thuận lợi cho duy tu, bảo dưỡng, đồng thời tận
dụng được quỹ đất một cách hợp lý quanh vùng phụ cận của công trình. Phạm vi
này được quy định cụ thể tại Điều 25 Pháp lệnh; các hoạt động phải có phép
trong phạm vi bảo vệ được nêu tại Quyết định số 55/2004/QĐ-BNN ngày
01/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn về cấp giấy
phép cho các hoạt động trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi.
Về phía người dân, việc vi phạm phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi ở
những mức độ khác nhau còn khá phổ biến. Mặc dù Pháp lệnh đã quy định
phạm vi bảo vệ, nhưng do nhận thức của người dân chưa cao và quyền hạn của

các doanh nghiệp quản lý khai thác công trình còn hạn chế, chính quyền địa
phương chưa quan tâm thoả đáng, chế tài xử lý những hành vi vi phạm ban hành
chậm và mức xử phạt còn nhẹ.
V. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC

1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Sau khi Luật Tài nguyên nước được Quốc hội thông qua, công tác xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật đã được các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khẩn trương thực hiện. Đến nay đã có 128 văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến tài nguyên nước được ban hành, trong đó có 92
văn bản còn hiệu lực. Trong lĩnh vực tài nguyên nước, đã có 24 văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành, tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm thực
hiện Luật có hiệu quả trong cuộc sống, bao gồm 06 nghị định của Chính phủ, 03
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
đã ban hành 01 chỉ thị, 09 thông tư và 04 quyết định; phối hợp với Bộ Tài chính
ban hành 01 thông tư liên tịch.
Ở địa phương, đã có 55/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban
hành được trên 100 văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về cấp phép
thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước và
quy định về quản lý tài nguyên nước trên địa bàn.
Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể Luật Tài
nguyên nước, hướng dẫn công tác cấp phép, xử phạt vi phạm hành chính, quản
lý lưu vực sông, bảo vệ nước dưới đất và các định mức kinh tế - kỹ thuật về tài
nguyên nước được ban hành đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài
nguyên nước, là công cụ đắc lực giúp công tác quản lý nhà nước về tài nguyên
nước ngày càng hiệu quả hơn.
2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên nước
Sau khi Luật được ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh thường xuyên phối hợp tổ chức phổ biến pháp luật về tài nguyên
14



nước trong phạm vi cả nước. Trong các năm 2006 và 2007, Bộ đã phối hợp với
Đài Tiếng Nói Việt Nam thực hiện chương trình phát thanh về tài nguyên nước
dưới dạng chuyên mục, phát định kỳ 1 tháng 2 số; tổ chức các diễn đàn thảo
luận về các văn bản quy phạm pháp luật. Phối hợp với Đài Truyền hình Việt
Nam xây dựng và phát sóng 10 phim phóng sự về TNN. Đến nay, Bộ đã in trên
20.000 cuốn tuyển chọn các văn bản quy phạm pháp luật về TNN, 3.000 cuốn
bản Tiếng Việt và 1.000 cuốn bản Tiếng Anh Chiến lược quốc gia về tài nguyên
nước đến năm 2020.
Ngoài ra, chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên và môi
trường của Bộ diễn ra khá mạnh mẽ: đã tổ chức được 06 lớp bồi dưỡng kiến
thức quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường cho lãnh đạo, cán bộ Sở Tài
nguyên và Môi trường, 02 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tài
nguyên nước cho phóng viên báo chí, 02 lớp cho cán bộ, chuyên viên Sở Tài
nguyên và Môi trường. Bộ đã phối hợp với Chương trình SEMLA (Thuỵ Điển)
xây dựng bộ tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường cấp huyện, trong đó có riêng một chuyên đề quản lý nhà nước về tài
nguyên nước.
Từ năm 2006 đến nay, Bộ đã tiến hành 10 phiên giao lưu trực tuyến để
giải đáp pháp luật về tài nguyên nước trên mạng Internet với các Sở Tài nguyên
và Môi trường, người dân và doanh nghiệp. Nhìn chung, công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật đã được nâng lên một tầm cao mới và bước đầu đã thu được
những kết quả đáng mừng. Kiến thức của cán bộ, công chức làm công tác quản
lý nhà nước tại các Sở Tài nguyên và Môi trường và ý thức tuân thủ pháp luật
của người dân và doanh nghiệp đã được cải thiện một bước đáng kể, góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
3. Công tác xây dựng, phê duyệt quy hoạch lưu vực sông
Tháng 12 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2008/NĐCP về quản lý lưu vực sông, trong đó quy định cụ thể việc lập, thẩm định, phê
duyệt, công bố và tổ chức thực hiện quy hoạch tài nguyên nước trên các lưu vực

sông và phân công, phân cấp cụ thể việc quản lý lưu vực sông và thực hiện quy
hoạch. Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang triển khai công tác
lập nhiệm vụ quy hoạch và xây dựng 16 quy hoạch tài nguyên nước lưu vực
sông, vùng lãnh thổ, bao gồm: các lưu vực sông Hồng, sông Nhuệ - Đáy, sông
Đồng Nai, sông Ba, sông Cầu, sông Hương, sông Lô - Gâm, sông Mã, sông Cả,
sông Srêpôk… và quy hoạch khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước các
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung, phía Nam, vùng cực Nam Trung
Bộ, vùng bán đảo Cà Mau và đảo Phú Quốc (Chi tiết ở Phụ lục số 01).
Các địa phương: Bắc Giang, Quảng Bình, Long An, Cà Mau, Bạc Liêu,
Kiên Giang… cũng đã xây dựng quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài
nguyên nước để triển khai thực hiện trên địa bàn.
4. Công tác cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước
thải vào nguồn nước
15


Cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào
nguồn nước được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 149/2004/NĐ-CP
ngày 27/7/2004 của Chính phủ và Thông tư số 02/2005/TT-BTNMT ngày
24/6/2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Tính đến tháng 4 năm 2011, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 366 giấy
phép, trong đó có 80 giấy phép thăm dò nước dưới đất; 88 giấy phép khai thác
nước dưới đất; 88 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt; 15 giấy phép xả nước
thải vào nguồn nước; 95 giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất.
Theo thống kê sơ bộ từ 55 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đến nay
các tỉnh đã cấp được 5.484 giấy phép về TNN, trong đó có 1.452 giấy phép thăm
dò nước dưới đất; 2.814 giấy phép khai thác nước dưới đất; 280 giấy phép khai
thác, sử dụng nước mặt; 444 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước và 258 giấy
phép hành nghề khoan nước dưới đất.
Các tỉnh Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ và Tây Nguyên là những khu vực

cấp phép mạnh nhất, chiếm gần 93% số giấy phép do các tỉnh cấp, trong đó các
tỉnh Nam Bộ cấp phép nhiều nhất trong cả nước (chiếm 71% tổng số giấy phép).
Trong khi nhiều tỉnh, thành phố đã cấp tới hàng trăm giấy phép các loại (TP Hồ
Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Lâm Đồng) thì có một số
tỉnh việc triển khai cấp phép còn hạn chế (Sơn La, Tuyên Quang, Quảng Ngãi,
Ninh Thuận). Đến nay, các tỉnh, thành phố như Nam Định, Hà Nội, Long An,
Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bà Rịa Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh…đã uỷ quyền cấp phép cho Sở Tài nguyên và Môi
trường.
5. Công tác thanh tra, kiểm tra về tài nguyên nước
Những năm vừa qua, công tác thanh tra, kiểm tra về tài nguyên nước được
Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thường xuyên. Trong các năm 2007,
2008, 2009, Bộ đã tập trung chỉ đạo việc kiểm tra tình hình triển khai, thi hành
pháp luật tại 24 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Dương, Thanh Hoá,
Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Long An, Tiền Giang, Tây Ninh, Lâm Đồng,
Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Dương, Bạc Liêu, Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh.
Trước tình hình hạn hán, thiếu nước trên diện rộng trong mùa khô vừa qua,
Bộ đã tổ chức 02 đoàn kiểm tra tình hình vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn
trên lưu vực sông Hồng, các sông ở miền Trung và Tây Nguyên. Qua đó, đã phát
hiện một số vấn đề về phối hợp vận hành, điều tiết nước để phòng, giảm lũ, cấp
nước cho hạ du. Năm 2010, đã tổ chức 04 đoàn kiểm tra tình hình chấp hành
pháp luật trong khai thác, sử dụng nước dưới đất tại 13 tỉnh miền Tây Nam Bộ
gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần
Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Tổ
chức 02 lớp tập huấn nội dung thanh tra, kiểm tra về tài nguyên nước cho Lãnh
đạo Sở và Chánh Thanh tra của 63 Sở Tài nguyên và Môi trường.

16



Kết quả thanh tra, kiểm tra đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện nghiêm
chỉnh các quy định của pháp luật, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, đồng
thời cũng phát hiện những tồn tại, yếu kém trong quản lý để tập trung chỉ đạo,
khắc phục.

17


Phần thứ hai
MỘT SỐ TỒN TẠI, BẤT CẬP VÀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH
Ngoài những kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện Luật được nêu
trên, công tác bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống, khắc
phục hậu quả tác hại do nước gây ra và công tác quản lý nhà nước về tài nguyên
nước vẫn còn có những tồn tại, bất cập như sau:
I. MỘT SỐ TỒN TẠI, BẤT CẬP

1. Đối với công tác quy hoạch tài nguyên nước
Mặc dù Luật Tài nguyên nước đã xác định vai trò của việc xây dựng và
thực hiện quy hoạch tài nguyên nước; quy định mọi hoạt động bảo vệ, khai thác,
sử dụng tài nguyên nước và phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra phải tuân thủ quy hoạch tài nguyên nước.Tuy nhiên, công tác quy hoạch
tài nguyên nước còn chậm, do Luật mới chỉ quy định về nguyên tắc, thiếu các
quy định cụ thể về nội dung, trình tự thủ tục lập, thẩm định, thẩm quyền phê
duyệt....Bên cạnh đó, chưa có cơ chế, biện pháp cụ thể để bảo đảm quy hoạch
khai thác, sử dụng nước của các ngành, lĩnh vực có liên quan đến sử dụng tài
nguyên nước phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước, bảo đảm sử dụng tổng
hợp, hiệu quả và đa mục tiêu các nguồn nước.
Việc thiếu quy hoạch, cùng với thiếu một tổ chức đủ mạnh để điều phối
các hoạt động trên lưu vực đã phát sinh những vấn đề liên ngành, liên địa
phương cần giải quyết nhưng chưa được phối hợp xử lý kịp thời.

Những vấn đề trên dẫn tới việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa
hợp lý, chưa bảo đảm tổng hợp, hiệu quả; chưa gắn kết giữa khai thác, sử dụng
với bảo vệ, với phòng, chống tác hại do nước gây ra; quản lý chất lượng và số
lượng không đi đôi với nhau và cũng làm hạn chế hiệu quả thực thi của Luật trên
thực tế.
2. Đối với công tác điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước
Điều tra cơ bản, quan trắc, dự báo, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước và
thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước là nền tảng cơ bản của công tác quy hoạch,
quản lý các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ và phòng, chống tác hại do
nước gây ra. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể trong Luật, mới chỉ quy định
các nguyên tắc về trách nhiệm thực hiện điều tra cơ bản; thiếu các quy định về
nguyên tắc, nội dung, yêu cầu, phân công, phân cấp trách nhiệm thực hiện...
Điều đó đang là những trở ngại lớn cho việc triển khai các hoạt động điều
tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước, dẫn đến thông tin, số liệu về tài
nguyên nước vừa thiếu, vừa phân tán và không đồng bộ; không nắm được tài
nguyên nước quốc gia; không dự báo sớm được tình hình tài nguyên nước để có
những biện pháp chủ động ứng phó,... và không đủ thông tin để giải quyết, xử lý
những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
18


Hệ thống quan trắc, công nghệ, điều tra cơ bản phục vụ công tác dự báo,
cảnh báo lũ, lụt, hạn hán, thiếu nước còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm chủ động
trong việc kiểm soát lũ, hạn ở nhiều lưu vực sông. Chưa có ngân hàng dữ liệu tài
nguyên nước quốc gia. Chế độ báo cáo, cung cấp dữ liệu, thông tin về tài
nguyên nước, về khai thác, sử dụng nước của các ngành, các địa phương và các
tổ chức, cá nhân chưa được coi trọng.
3. Đối với công tác bảo vệ tài nguyên nước
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác quản lý và bảo vệ
tài nguyên nước còn thiếu và chưa đồng bộ, không có điều luật quy định về bảo

vệ các hệ sinh thái thủy sinh, bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, bảo vệ hành lang bảo vệ
nguồn nước và thiếu các quy định về bảo vệ số lượng nước. Một số văn bản
được ban hành quá chậm khiến cho việc thực thi các điều luật vào trong cuộc
sống còn rất khó khăn.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, đô thị hoá, một số quy định về bảo vệ
tài nguyên nước trong Luật hiện không còn phù hợp, một số nội dung quy định
tuy đã có nhưng chưa cụ thể, rõ ràng, một số những vấn đề phát sinh trong thực
tiễn nhưng chưa được điều chỉnh, cụ thể:
- Bảo vệ tài nguyên nước bao gồm bảo vệ cả số lượng và chất lượng, nước
mặt và nước dưới đất. Tuy nhiên, các quy định mới chỉ chú trọng về bảo vệ chất
lượng nước và cũng chỉ chú trọng đối với nước mặt, chưa có quy định cụ thể để
bảo vệ số lượng nước, phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
- Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước là một trong
những biện pháp quan trọng để phòng ngừa ô nhiễm nguồn nước, nhưng thiếu
quy định cụ thể để kiểm soát các nguồn gây nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến
các mục đích sử dụng nước, chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý và chưa gắn kết
với pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Việc bảo vệ các nguồn nước quan trọng như sông, suối, hồ, đầm,.. còn
chưa có quy định, cụ thể để kiểm soát các hoạt động ven nguồn nước, có nguy
cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; chưa có quy định về hành lang
để bảo vệ, phòng ngừa ô nhiễm nguồn nước các sông, hồ và nguồn nước quan
trọng khác.
- Hoạt động quản lý, kiểm soát ô nhiễm nước mới tập trung ở khu vực đô
thị và các đoạn sông xung quanh thành phố và khu công nghiệp; những vấn đề
về kiểm soát chất lượng nước và ô nhiễm nước ở các vùng nông thôn chưa được
quan tâm thoả đáng.
4. Đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Khai thác, sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu tài nguyên nước là một trong
những nguyên tắc căn bản trong quản lý hoạt động khai thác, sử dụng nước của
các ngành, lĩnh vực, địa phương trên các lưu vực sông.

Tuy nhiên, do thiếu các quy định cụ thể, thiếu các biện pháp, chế tài... nên
trên thực tế hoạt động khai thác, sử dụng nước chưa được quản lý, điều phối
19


thống nhất dẫn đến hiệu quả sử dụng nước chưa cao; tình trạng sử dụng nước
lãng phí, thiếu hiệu quả khá phổ biến.
Chưa có kế hoạch điều hòa, phân bổ nguồn nước, thiếu sự điều phối
chung trên các lưu vực sông, nên chưa phát huy được hiệu quả của các công
trình khai thác nước, kể cả các công trình đa mục tiêu trong việc phối hợp điều
tiết nguồn nước phục vụ các yêu cầu phòng, chống lũ, cấp nước cho hạ du và
các nhiệm vụ chính của công trình.
Nhiều công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã được xây dựng
trong nhiều năm qua, song có ít công trình thực sự hoạt động đa mục tiêu và
phát huy hiệu quả sử dụng nước. Trên thực tế, đã xảy ra tình trạng ngay trên một
công trình, việc quản lý cũng bị phân tán, chia cắt hoặc việc phối kết hợp trong
khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho các mục đích khác nhau cũng còn nhiều
bất cập dẫn đến hiệu quả hoạt động của công trình thấp.
Trong khi đó, nhu cầu dùng nước của các ngành kinh tế không ngừng gia
tăng, cân bằng nước giữa cung và cầu nhiều nơi, nhiều lúc không bảo đảm và đã
trở thành áp lực lớn, đặc biệt là từ khi chúng ta thực hiện quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Áp lực đó không ngừng tăng lên do tác động của
biến đổi khí hậu toàn cầu, do quá trình đô thị hoá quá nhanh, do sự bùng nổ dân
số...
Việc khai thác nước dưới đất quá mức, chưa có chế tài kiểm soát chặt chẽ
đã và đang làm cho mực nước dưới đất ở một số vùng bị hạ thấp quá mức, khó
bảo đảm khai thác bền vững nguồn tài nguyên quan trọng này. Bên cạnh đó,
chưa có biện pháp để kiểm soát việc thiết kế, thi công các công trình khai thác
nước dưới đất; kiểm soát các hoạt động khoan, đào vào lòng đất... đang là những
nguy cơ lớn gây ô nhiễm, suy thoái cả số lượng, chất lượng, gây cạn kiệt nguồn

nước dưới đất,... và làm gia tăng nguy cơ sụt lún đất, đe doạ tới sự ổn định của
các công trình xây dựng và kết cấu hạ tầng ở một số khu vực.
5. Đối với công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước
1) Một số văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật chậm được ban
hành
Quản lý lưu vực sông là nội dung cốt lõi của quản lý tổng hợp và thống
nhất tài nguyên nước nhưng do sự phân công quản lý lưu vực sông có sự chồng
chéo nên mãi đến tháng 12 năm 2008, Chính phủ mới ban hành Nghị định số
120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực sông.
Các văn bản về cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả
nước thải vào nguồn nước; xử phạt vi phạm hành chính chậm được ban hành đã
gây ra không ít khó khăn trong công tác quản lý trên thực tế.
Một số nội dung Luật đã phân cấp cho các địa phương quy định cụ thể để
áp dụng phù hợp với từng địa bàn nhưng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi
hành, như quy định quy mô khai thác, sử dụng nước, xả nước thải quy mô nhỏ,

20


vùng bảo vệ công trình khai thác,... Điều này cũng dẫn đến việc thi hành luật ở
các địa phương bị trậm trễ.
Một số quy định có tính nguyên tắc của Luật chưa có quy định, hướng
dẫn cụ thể.
2) Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên
nước còn nghèo nàn, không đáp ứng yêu cầu
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, nhưng do thiếu nguồn lực,
lúng túng về nội dung, phương pháp, hình thức thực hiện nên công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước chưa được thực hiện thường
xuyên, chưa được phổ biến sâu rộng tới người dân và doanh nghiệp. Nhiều quy
định của pháp luật chưa đến tới người dân, doanh nghiệp; ý thức chấp hành pháp

luật còn thấp; nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của việc bảo vệ, gìn giữ
các nguồn nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả còn hạn chế.
3) Công tác cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải
vào nguồn nước còn nhiều bất cập
Việc lập quy hoạch, kế hoạch phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện và thiết kế xây
dựng các công trình hồ đập, quy trình vận hành hồ đập… đều do các ngành thuỷ
điện, thuỷ lợi… tự thẩm định, phê duyệt mà không có sự tham gia của cơ quan
quản lý tài nguyên nước. Mặt khác, theo quy định của Nghị định số
149/2004/NĐ-CP về cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả
nước thải vào nguồn nước thì việc xin phép và cấp phép được thực hiện trong
giai đoạn thực hiện đầu tư. Thực tế, đến giai đoạn này các nội dung liên quan
đến vị trí, quy mô khai thác nước và các thông số kỹ thuật về thiết kế, vận hành
công trình liên quan đến nguồn nước đã được quyết định, phê duyệt bởi cấp có
thẩm quyền, vì vậy việc cấp giấy phép khó có thể đưa ra các điều kiện khả thi để
bảo đảm thực hiện các yêu cầu về duy trì dòng chảy tối thiểu, vận hành điều tiết
nguồn nước cho hạ du... nhằm khai thác, sử dụng tổng hợp, hiệu quả nguồn
nước.
Số lượng công trình khai thác nước dưới đất lớn, phạm vi phân bố rộng,
số lượng hồ sơ phải cấp phép nhiều trong khi lực lượng cán bộ quản lý còn
mỏng, năng lực lập hồ sơ của tư vấn còn hạn chế, vì vậy hồ sơ phải chỉnh sửa
nhiều lần, khó đáp ứng được thời hạn thẩm định cấp phép theo quy định hiện
hành.
Hầu hết các nguồn nước đều chưa có phân vùng mục đích khai thác, sử
dụng và bảo vệ; chưa có quy hoạch phân vùng xả thải do vậy thiếu cơ sở cho
việc cấp phép xả nước thải.
Do hạn chế về nguồn lực, lúng túng về phương pháp, công nghệ...nên việc
kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn
nước sau cấp phép còn hạn chế. Vì vậy chưa phát huy được hiệu lực của công cụ
giấy phép trong việc kiểm soát việc thực hiện các yêu cầu về khai thác, sử dụng
và bảo vệ tài nguyên nước theo quy định.


21


4) Công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về tài nguyên
nước chưa thường xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu
Mặc dù trong thời gian gần đây, công tác thanh tra, kiểm tra đã được tăng
cường một bước so với trước đây nhưng do chưa có tổ chức thanh tra chuyên
ngành về tài nguyên nước, lực lượng thanh tra, kiểm tra còn mỏng, nên hoạt
động thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế. Tình trạng khai thác,
sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, khoan thăm dò, khai
thác nước dưới đất không xin phép còn diễn ra khá phổ biến, việc chấp hành các
quy định về bảo vệ tài nguyên nước còn chưa nghiêm túc. Chưa phát huy được
tác dụng của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong việc nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật về tài nguyên nước của tổ chức, cá nhân.
5) Công tác triển khai thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở các địa
phương còn chậm, thụ động, có nhiều quy định cụ thể chưa được triển khai
Những quy định về cấp phép, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
tài nguyên nước, bảo vệ nước dưới đất,... đã được ban hành, hướng dẫn cụ thể từ
nhiều năm trước đây, nhưng, do tổ chức bộ máy chưa hợp lý, nguồn lực hạn chế
nên có một số địa phương mới bắt đầu triển khai công tác cấp phép, xử lý vi
phạm, có địa phương còn chưa triển khai các quy định về bảo vệ nước dưới đất.
II. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CHÍNH

1. Về thể chế, chính sách
Pháp luật về tài nguyên nước chưa quy định rõ ràng, cụ thể về trách
nhiệm bảo vệ tài nguyên nước của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan,
của Uỷ ban nhân dân các cấp…, chưa quy định cụ thể về giáo dục cộng đồng
trong bảo vệ tài nguyên nước.
Một số văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước do yêu cầu về tiến

độ soạn thảo đã bỏ qua bước khảo sát thực tế, điều này đã làm giảm tính thực
tiễn của những văn bản này, gây khó khăn khi triển khai thi hành.
Mặc dù có thể thấy rõ giá trị kinh tế của tài nguyên nước song qua thực tế,
quản lý nhà nước về tài nguyên nước, vấn đề kinh tế, tài chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước chưa được coi là biện pháp quan trọng góp phần bảo vệ bền vững tài
nguyên nước. Hằng năm, Chính phủ phải đầu tư rất nhiều kinh phí để bảo vệ tài
nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra, nhưng
nguồn kinh phí sử dụng để thực hiện nhiệm vụ này là rất hạn chế vì hiện nay chưa
có một cơ chế kinh tế, tài chính cụ thể.
Cơ chế huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư, bảo vệ, phát
triển tài nguyên nước chưa đầy đủ. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn
này khi ngành nước đòi hỏi toàn dân cùng tham gia bảo vệ và phát triển tài
nguyên nước để tiến tới quản lý tổng hợp tài nguyên nước.
2. Về bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý
Việc thiếu tổ chức bộ máy, nhân lực làm công tác quản lý tài nguyên nước
ở cấp lưu vực sông, thiếu các tổ chức nghiên cứu, hỗ trợ công tác quản lý tài
22


nguyên nước ở cả cấp trung ương và địa phương là một trong những nguyên
nhân làm giảm hiệu quả quản lý tài nguyên nước.
Ở cấp Sở, phổ biến là tình hình thiếu nhân lực, năng lực chuyên môn, kỹ
năng quản lý chưa đáp ứng yêu cầu. Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về tài nguyên
nước của các tỉnh, thành phố còn mỏng, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế;
thiếu các cơ quan chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật. Rất ít Sở thành lập được Phòng
Tài nguyên nước; đa số các Sở ghép lĩnh vực tài nguyên nước với các lĩnh vực
khác như: khí tượng thuỷ văn; khoáng sản v.v... là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn tới công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước tại địa
phương, nhất là công tác cấp phép, quản lý sau cấp phép còn chậm và khó khăn

trong việc xử lý, giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Ở cấp huyện, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo đó, hệ thống quản lý tài nguyên và môi trường
được tổ chức thống nhất đến cấp huyện là Phòng Tài nguyên và Môi trường.
Tuy nhiên, cán bộ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện còn thiếu về
số lượng, hầu hết làm công tác kiêm nhiệm, gần như không có chuyên môn về
tài nguyên nước. Điều này đã làm giảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước
về tài nguyên nước tại địa phương.
Ở cấp xã, nhiệm vụ quản lý tài nguyên, môi trường nói chung và tài
nguyên nước nói riêng chưa được phân cấp cụ thể. Ở mỗi xã, phường đều có cán
bộ địa chính thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai là chủ yếu. Nhiệm vụ quản lý
tài nguyên nước ở cấp xã hầu như chưa được triển khai.
Đầu tư nguồn lực cho lĩnh vực tài nguyên nước ở nước ta trong thời gian
qua chủ yếu tập trung cho khai thác, sử dụng; đối với công tác quản lý, mức độ
đầu tư còn thấp xa so với yêu cầu, khối lượng nhiệm vụ quản lý được đặt ra.
3. Về phân công, phân cấp quản lý, cấp phép tài nguyên nước
Theo nguyên tắc “một việc chỉ giao cho một cơ quan quản lý” nhưng
trong lĩnh vực tài nguyên nước, một thời gian khá dài việc phân công quản lý
nhà nước giữa một số bộ đã không rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo. Sự chồng
chéo này đã gây ra rất nhiều khó khăn, tốn kém công sức và kinh phí của Nhà
nước cho cả hai bên khi thực hiện công tác quản lý, làm cả trung ương và địa
phương đều lúng túng khi cấp phép, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm…
Về cơ bản, phân cấp quản lý tài nguyên nước mới tới cấp tỉnh. Hầu hết
các tỉnh chưa có quy định cụ thể để phân cấp các nhiệm vụ quản lý tài nguyên
nước đến cấp huyện, cấp xã. Vì vậy, chưa huy động được hệ thống quản lý các
cấp để thực hiện quản lý tài nguyên nước trên địa bàn, đặc biệt là công tác bảo
vệ tài nguyên nước tại địa bàn, cơ sở.
Cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn
nước chưa được xem là công cụ phục vụ quản lý, chia sẻ và bảo vệ tài nguyên

nước. Việc cấp phép còn phụ thuộc nhiều vào nhu cầu sử dụng nước của tổ chức,
23


cá nhân mà chưa có quy hoạch, kế hoạch cụ thể về khai thác, sử dụng. Một trong
những nguyên nhân chính khiến công tác cấp phép chưa hiệu quả là do thiếu
chính sách và công cụ kỹ thuật hỗ trợ.
Việc thực hiện các quy định trong giấy phép chưa được các tổ chức, cá
nhân quan tâm như: chế độ báo cáo về kết quả khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, xả nước thải vào nguồn nước cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; lắp
đặt thiết bị đo lưu lượng nước khai thác; trám lấp các giếng khoan không sử
dụng…
III. KẾT LUẬN

1. Mặt tích cực:
Việc ban hành Luật Tài nguyên nước năm 1998 là một bước tiến quan
trọng trong công tác quản lý tài nguyên nước ở nước ta. Luật đã thể chế hóa
quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến
tài nguyên nước; bước đầu tiếp cận quan điểm hiện đại của thế giới về quản lý
tổng hợp tài nguyên nước.
Cùng với các văn bản pháp luật khác về đất đai, khoáng sản, bảo vệ môi
trường, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đê điều, phòng
chống lụt bão..., Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường ở nước ta.
Luật Tài nguyên nước đã đặt nền tảng hành lang pháp lý cho công tác
quản lý tài nguyên nước ở nước ta. Qua hơn 12 năm thi hành, nhiều quy định
của Luật đã được triển khai, đem lại những kết quả tích cực, đặc biệt là đã khai
thác, sử dụng tốt hơn các nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào
nền nếp, nhất là từ sau khi thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường.

2. Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những mặt tích cực, qua hơn 12 năm thực hiện, Luật Tài nguyên
nước cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm, bất cập chủ yếu say đây:
1) Luật chưa quy định đầy đủ, toàn diện một số nội dung rất quan trọng
của quản lý tài nguyên nước, như: quy hoạch tài nguyên nước; quản lý lưu vực
sông; điều hoà, phân bổ, chia sẻ nguồn nước một cách hợp lý, cân bằng lợi ích
kinh tế - xã hội - môi trường; tiết kiệm tài nguyên nước; duy trì dòng sông và
bảo vệ hệ sinh thái thuỷ sinh; mối quan hệ giữa nước mặt và nước dưới đất; vai
trò của các hộ sử dụng nước, các cộng đồng trong quản lý tài nguyên nước; xã
hội hoá các dịch vụ về nước; các công cụ quản lý tài nguyên nước thông qua
thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính của người được hưởng lợi, người gây ô
nhiễm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên nước. Luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ
hoặc rõ các vật thể chứa nước, các công trình điều tiết nước và nguyên tắc vận
hành các công trình đó.
2) Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nhu cầu sử dụng nước cho phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh ngày càng
24


lớn trong khi nguồn nước có hạn, đặt ra yêu cầu mới về chia sẻ nguồn nước. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu sử dụng nước phù
hợp. Ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước diễn ra phổ biến và nghiêm trọng
đang là thách thức lớn trong công tác bảo vệ tài nguyên nước. Mặt khác, biến
đổi khí hậu đang gây ra nhiều mối de doạ đến tài nguyên nước. Trước tình hình
đó, cần phải tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước, mà việc quan trọng
trước tiên là hoàn thiện pháp luật về tài nguyên nước.
3) Từ sau khi ban hành Luật Tài nguyên nước, Quốc hội đã ban hành một
số Luật, Pháp lệnh có liên quan đến hoạt động quản lý tài nguyên nước như Luật
Bảo vệ môi trường, Luật Đê điều, Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão, Pháp lệnh về
khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Một số quy định trong Luật Tài nguyên

nước đã được quy định chi tiết tại các Luật, Pháp lệnh nêu trên cần được xem
xét sửa đổi cho phù hợp, bảo đảm tính thống nhất, gắn kết giữa các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan.
4) Trong những năm gần đây, nhận thức về nước và quản lý tài nguyên
nước có sự chuyển biến sâu sắc so với trước. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về
phát triển bền vững tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002 đã coi nước là ưu
tiên hàng đầu trong phát triển bền vững. Trước đó, tại Diễn đàn Nước thế giới
lần thứ hai, tổ chức tại Hague (Hà Lan) năm 2000, khái niệm quản lý tổng hợp
tài nguyên nước đã được đề cập như là một phương thức mới nhằm quản lý một
cách hiệu quả tài nguyên nước. Nhiều nước trên thế giới đã ngày càng chú ý đến
phương thức quản lý này. Trong Chiến lược tài nguyên nước quốc gia đến năm
2020 cũng đã đề cập đến quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Tuy nhiên, Luật Tài
nguyên nước hiện hành chưa thể hiện đầy đủ và đúng mức phương thức quản lý
này.

25


×