MỤC LỤC
MỤC LỤC .............................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài. ................................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ........................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. .................................................................. 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. .................................................... 5
5. Đóng góp mới của đề tài. ................................................................................ 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. ........................................................................... 5
6.1. Ý nghĩa lý luận. ........................................................................................ 5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn. ..................................................................................... 5
7. Giới hạn của đề tài. ......................................................................................... 5
8. Kết cấu của đề tài. ........................................................................................... 6
Chương 1 ................................................................................................................ 7
KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ........................ 7
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo. .................................................................. 7
1.2. Thân thế và sự nghiệp của đức phật Thích Ca. ........................................... 7
Chương 2 ................................................................................................................ 9
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ...................................... 9
2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan. ................................................. 9
2.1.1. Vô ngã.................................................................................................... 9
2.1.2. Vô thường. ............................................................................................. 9
2.1.3. Duyên..................................................................................................... 9
2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan. ............................................ 10
2.2.1. Nghiệp báo .......................................................................................... 10
2.2.2. Thuyết tứ Diệu đế ................................................................................ 11
2.2.3. Ngũ giới ............................................................................................... 13
Chương 3 .............................................................................................................. 15
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG ĐẠO
ĐỨC NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................. 15
3.1. Sơ lược về quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam. ....... 15
3.2. Đời sống đạo đức và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống đạo đức
người Việt Nam hiện nay. ................................................................................. 15
3.2.1. Đời sống đạo đức. ............................................................................... 15
3.2.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống đạo đức người Việt Nam
hiện nay. ........................................................................................................ 18
3.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức người Việt
Nam hiện nay. ................................................................................................... 20
3.3.1. Ảnh hưởng tích cực ............................................................................. 20
1
3.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực ............................................................................. 24
Chương 4 .............................................................................................................. 26
BIỆN PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT
GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 26
4.1. Tạo điều kiện và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. ..................... 26
4.2. Phát huy giá trị đạo đức tốt đẹp của Phật giáo trong nền kinh tế thị trường.
........................................................................................................................... 27
4.3. Thực hiện phương châm tốt đời đẹp đạo. .................................................. 28
4.4. Đấu tranh chống những hành vi lợi dụng Phật giáo gây ảnh hưởng xấu đến
đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay. ............................................................... 28
4.5. Phát huy truyền thống đạo đức dân tộc: .................................................... 29
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 32
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên
thế giới, tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông
đảo được phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế
kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và
đạo Thiên chúa.
Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư
tưởng, tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò chủ đạo,
có tác động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người Việt, như Phật
giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay, những học thuyết này
không giữ địa vị độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo
khác, tác động vào đời sống xã hội.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận soi đường cho chúng ta.
Nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức
sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng, tình cảm
của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của
nó là không thể, nên chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp để góp phần đạt
được mục tiêu của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Do đó, việc tìm hiểu nghiên
cứu Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần
thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt tiến bộ cũng như hạn chế, Phật
giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương
cách để hướng đạo cho con người một cách chân chính, đúng đắn. Theo đạo để
làm điều thiện, tránh cái ác.
Hơn nữa, trong thời kỳ đổi mới, ngoài những thành tựu đã đạt được về mặt
kinh tế - văn hóa - xã hội là mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nó đã làm nảy
sinh nhiều tiêu cực gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt của đời sống
xã hội. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo cùng với quá trình
du nhập, tồn tại, phát triển của nó tại Việt Nam sẽ làm nổi bật được những ảnh
hưởng đến đời sống tinh thần của người dân nước ta, gắn liền với quá trình hình
thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người.
Đạo đức là lĩnh vực rất quan trọng, muốn hoàn thiện bản thân, nếu không
lấy đạo đức làm tiêu chuẩn, từ bi làm cách xử thế thì chỉ là đáy nước tìm trăng.
Cổ nhân dạy rằng:
3
“Tôn mạc tôn hồ đạo, mỹ mạc mỹ hồ đức. Đạo đức chi sở tồn, tuy thất
phu, phi cùng giả. Đạo đức chi sở bất tồn, tuy vương thiên hạ phi thông giả” [5,
tr. 159].
Tạm dịch:
“Tôn quý không gì hơn đạo, tốt đẹp không gì tốt đẹp hơn đạo đức. Đạo
đức còn, dù kẻ thất phu chăng nữa cũng chẳng màng. Đạo đức chẳng còn, làm
vua chúa cũng chẳng phải người thông”.
Chứng tỏ rằng cổ đức đã đánh giá rất cao về đạo đức, lấy đạo đức làm
chuẩn mực cho cái đẹp của cuộc đời. Bên cạnh đó, đạo Phật đem lòng thương
bao la đến cho vạn loại như một tôn chỉ truyền đạo, đây cũng là then chốt và điều
tâm đắc của bản thân trong quá trình học.
Với ý nghĩa thiết thực như trên nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu
của mình là: “Tư tưởng Phật giáo và ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với
đời sống đạo đức người Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Liên quan đến vấn đề về ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời
sống đạo đức người Việt Nam đã được đề cập đến trong một số công trình như
sau:
Tác giả Ngô Thị Lan Anh, Phạm trù “Tâm” trong Phật giáo Việt Nam với
việc xây dựng đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay, Bài báo, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, 2010.
Tác giả Lý Kim Cương, Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng
của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, Tiểu luận, Trường Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
TS Lê Văn Đính, Bàn thêm về ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay, Bài báo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 2007.
Tác giả Phan Thị Thu Hiền, Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởng của
nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam, Bài báo, Hội nghị Sinh viên Nghiên
cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng, 2010.
Tác giả Nguyễn Tài Thư, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nam hiện nay, Sách, NXB Chính trị Quốc gia, 1997.
Tác giả Lê Hữu Tuấn, Một số vấn đề của Phật giáo Việt Nam trong đời
sống hiện nay, Bài báo, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 2002.
Như vậy, vấn đề về ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với người Việt
Nam từ lâu đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, các công trình trên đã trình
bày được sơ lược về sự ra đời và các vấn đề cơ bản trong tư tưởng phật giáo,
cũng như những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần của con người Việt
Nam, tuy nhiên chưa trình bày được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư
tưởng Phật giáo đối với một yếu tố rất quan trọng của người Việt Nam chúng ta
đó là đạo đức con người.
4
Kế thừa kết quả của các nhà Khoa học đi trước, tác giả tập trung phân tích
các mặt tích cực và tiêu cực của tư tưởng Phật giáo đối với đạo đức con người
Việt Nam, từ đó có các biện pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực trong tư
tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức người Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Đề tài nghiên cứu những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời
sống đạo đức người Việt Nam nhằm đề xuất các biện pháp để phát huy những
ảnh hưởng tích cực trong tư tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức người Việt
Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát về sự ra đời của tư tưởng Triết học Phật giáo.
- Giới thiệu những nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo.
- Phân tích những ảnh hưởng của Triết học Phật giáo đối với đời sống đạo
đức người Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng Phật
giáo đối với đời sống đạo đức người Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Để thực hiện đề tài này ngoài sử dụng phương pháp biện chứng duy vật
còn sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp qui nạp, phương pháp quan
sát và thực nghiệm, phương pháp thu thập tư liệu, thông tin,….
5. Đóng góp mới của đề tài.
Đề tài cho thấy những giá trị tốt đẹp của tư tưởng Phật giáo và đề xuất một
số biện pháp nhằm phát huy những giá trị này vào đời sống đạo đức người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa lý luận.
Đề tài làm sáng tỏ lý luận về sự ra đời và những nội dung cơ bản của tư
tưởng Phật giáo; phân tích những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời
sống đạo đức người Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực
của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
7. Giới hạn của đề tài.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng
đến đời sống đạo đức của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5
8. Kết cấu của đề tài.
Đề tài bao gồm 4 chương và 12 mục, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát về sự ra đời của Triết học Phật giáo.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo.
1.2. Thân thế và sự nghiệp của đức phật Thích Ca.
Chương 2: Nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo.
2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan.
2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan.
Chương 3: Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức
người Việt Nam hiện nay.
3.1. Sơ lược về quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam.
3.2. Đời sống đạo đức và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống đạo
đức người Việt Nam hiện nay.
3.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức người
Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Biện pháp phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng Phật giáo
đối với đời sống đạo đức người Việt Nam hiện nay.
4.1. Tạo điều kiện và xây dựng môi trường xã hội thuận lợi.
4.2. Phát huy giá trị đạo đức tốt đẹp của Phật giáo trong nền kinh tế thị
trường.
4.3. Thực hiện phương châm tốt đời đẹp đạo.
4.4. Đấu tranh chống những hành vi lợi dụng Phật giáo gây ảnh hưởng xấu
đến đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay.
4.5. Phát huy truyền thống đạo đức dân tộc.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo.
Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa dạng, vừa có dãy núi
Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắt, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng mênh mông, vừa
có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng chảy về phía Đông. Vì thế Ấn
Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có vùng nóng ẩm mưa nhiều, có
vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng sa mạc khô cằn, nóng
bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành
sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ - trung đại
là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công
xã nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà
nước, gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã, và quan
hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân
chia thành các đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung
đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay
gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc
đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật
giáo.
Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ
XXV-XV trước công nguyên gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ XV – VII
trước công nguyên gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I trước công
nguyên là thời kỳ hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ
thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính
thống và không chính thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo
Bàlamôn hay không. Về khoa học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt
được những thành tựu về khoa học tự nhiên, đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn,
toán học, y học…
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên
là cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ
- trung đại với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn
sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên,
đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc
biệt là quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không
chính thống.
1.2. Thân thế và sự nghiệp của đức phật Thích Ca.
Người sáng lập ra Phật Giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa
(Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa sinh
7
ngày 15 tháng 4 năm 563 trước công nguyên, là Thái tử của vua Tịnh Phạn, một
nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan). Mẹ là Hoàng hậu
Maha Maya , là công chúa của xứ Koli. Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền
quý, dòng dõi Đế Vương, vợ đẹp con ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân
chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực của con người trước khó khăn của cuộc
đời. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ con đường Vương giả xuất gia tu đạo.
Sau 6 năm tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân chân lí “Tứ
diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ cho
chúng sinh. Từ đó Người đã đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và ông
đã trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới là Đạo Phật. Về sau ông được suy
tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích
Ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt Giáo lí khắp nước Ấn Độ. Năm
ông 80 tuổi thì qua đời, ông để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật
Giáo vô cùng quý báu. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ
đau bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo nhanh chóng chiếm
được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành
biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu
Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “Tam tạng kinh” bao
gồm Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận.
Đức Phật xuất hiện như một mặt trời sưởi ấm buổi ban mai, làm tan đi
bóng đen dày đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài không chỉ là vị cứu tinh cho
xứ Ấn Độ thời bấy giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi mới cho nhân loại.
8
Chương 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan.
Quan điểm về thế giới quan của Phật Giáo Được thể hiện tập trung ở nội
dung của 3 cặp phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên.
2.1.1. Vô ngã.
Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị
thần nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp giữa 2 yếu tố: “Sắc” và
“Danh”. Sắc là yếu tố vật chất, là cái thể cảm giác được, nó bao gồm đất, nước,
lửa và không khí. Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có có tên
gọi, nó bao gồm thụ, tưởng, hành và thức.
Chính cái “Danh” và “Sắc” đó hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ Uẩn”: Sắc
(vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức).
“Danh” và “Sắc” tác dộng qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại
của vật chất chỉ là tạm thời, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi, do đó
không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
2.1.2. Vô thường.
Nghĩa là vạn vật biến đổi cùng theo chu trình bất tận: Sinh-Trụ-Dị-Diệt.
Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận, “thoáng có” - “thoáng không”,
cái còn mà chẳng còn cái mất mà chẳng mất. Đức Phật dạy, “tất cả những gì
trong thế gian đó là biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy vô thường nghĩa
là không thường, không mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay
đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã.
Vô thường của Đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài trừ
những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết
tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ thân tâm cho đến
hoàn cảnh. Hiệu lý vô thường, con người dễ giữ được bình tĩnh, thản nhiên trước
cảnh đổi thay bất ngờ.
2.1.3. Duyên
Là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Phật Giáo cho rằng,
mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự
chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân
trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác, nhân
khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến
đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật Nhân-Quả: nhân là cái mầm,
Qủa là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối
tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu
không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy. Nói cách khác
nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hể nhân đổi thì quả đổi.
9
Một nhân không sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của
nhiều nhân duyên. Cho nên không có nhân nào tự tạo thành quả được nếu không
có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác, trong nhân có quả, trong quả có nhân. Một
sự vật mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta mong
đợi, ước muốn. Mỗi vật vì thế điều có thể gọi là nhân hay là quả đều được cả.
Đối với quá khứ thì nó là quả, đối với tương lai thì nó là nhân. Sự biến chuyển từ
nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến
trong một thời gian đồng nhất.
Tóm lại: Triết học Phật Giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần
thánh sáng tạo ra con người và vũ trụ. Phật Giáo thừa nhận con người và sự vật
được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới trong
sự biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, mặc
dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan.
Quan điểm về nhân sinh quan của Phật Giáo bao gồm “Nghiệp”, thuyết
“Tứ Diệu Đế” và “Ngũ giới”.
2.2.1. Nghiệp báo
“Nghiệp” theo Phật giáo là những hành động có tác ý. Thực ra, những
hành động không tác ý không phải không tạo thành nghiệp, nhưng mức độ
nghiệp quả của nó rất yếu, có khi không đủ sức để tạo thành nghiệp quả. Hơn
nữa, Phật giáo rất chú trọng đến ý tưởng con người. Theo Phật giáo, ý là quan
trọng, ý làm chủ mọi hành động và lời nói của con người. Cho nên, trong ba
nghiệp, ý nghiệp là nặng nhất, trong kinh Pháp Cú có nói: “Ý dẫn đầu các pháp,
ý làm chủ ý tạo, nếu với ý thanh tịnh, nói lên hay hành động, an lạc bước theo
sau như bóng không rời hình; nếu với ý ô nhiễm, nói năng hay hành động, khổ
não bước theo sau, như bánh xe đi theo chân con vật kéo xe”.
Theo lý nghiệp báo, chúng ta không nhất định trói buộc trong một hoàn
cảnh nào, vì nghiệp báo không phải là số mạng cũng không phải là tiền định do
một oai lực huyền bí nào đó định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chúng ta
có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn. Nghiệp không
nhất thiết phải là hành động trong quá khứ mà thôi. Nghiệp bao chùm quá khứ và
hiện tại là nơi trong quá khứ chúng ta hành động như thế nào và trong tương lai
chúng ta sẽ là như thế nào cũng tùy nơi hành động chúng ta trong hiện tại.
Vì thế, nghiệp, theo Phật giáo, ta có thể chuyển hóa được, làm chủ được.
Ta chuyển hóa được bằng cách phải nỗ lực ý chí mạnh mẽ, phải có sự cố gắng
mạnh mẽ, do đó, trong sự báo ứng của nghiệp, sự cố gắng và sự thiếu cố gắng
giữ một vai trò chính yếu.
Tóm lại, chữ nghiệp, theo Phật giáo, là những yếu tố do chính con người
tạo ra và dĩ nhiên, con người thừa hưởng đối với những hành động tốt, hoặc chịu
lấy đối với những hành động xấu, kết quả của nó. Tuy nhiên, con người không
10
hẳn phải gặt hái hết những gì mình đã tạo ra, bởi nghiệp mang tính chất duyên
sinh. Vì nghiệp mang tính chất duyên sinh cho nên ở nghiệp ta không thể tìm đâu
ra một nguyên lý định tính nào của nghiệp. Con người thay đổi thì nghiệp thay
đổi, cho nên, Phật giáo bảo tu là chuyển nghiệp là vì vậy.
2.2.2. Thuyết tứ Diệu đế
Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi
Ðức Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần
Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây, nội dung bài thuyết giáo đầu
tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý
Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Ðức Phật nhiều lần xác định về tầm quan
trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những bậc A La Hán chánh
đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh
đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế".
2.2.2.1. Khổ đế: Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc
lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con
người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì
không hiểu rõ bản chất của khổ đau nên không tìm được lối thoát thực sự, đôi
khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ đau. Khổ đế là một
chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, sanh
là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong
cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ". Như vậy, Khổ có
thể chia làm 3 phương diện như sau:
Phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau đớn.
Phương diện tâm lý: Là sự đau khổ do không vừa ý, không vừa lòng… tạo
nên đau khổ. Những mất mát thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ.
Phương diện Phật học: Khổ là sự chấp thủ năm uẩn, cái khổ thứ ba này
bao hàm hai cái khổ trên. Năm uẩn là 5 yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành
con người, gồm có thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý như cảm giác, niệm tưởng,
hành và thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do
sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.
2.2.2.2. Tập đế: Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực
đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức
được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn
tận khổ đau (Ðạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ
tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người, nguyên nhân của khổ có nguồn gốc
sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên
nhân của đau khổ, có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng
11
nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức. Nguyên nhân của khổ thường được các
kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng
của tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát
ấy không bao giờ thỏa mãn. Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô
minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào
nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền
vững độc lập ở trong chúng.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do
lòng mình, lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là chắc
chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay
không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động,
chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
2.2.2.3. Diệt đế: Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay
dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau, cũng
có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn.
Ðạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác
định có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để đạt
được hạnh phúc.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó
cao cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của các tôn giáo khác, đó là một
sai lầm lớn. Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết
bàn là không còn tạo nghiệp và không còn tái sinh.
2.2.2.4. Ðạo đế: Ðạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được
an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn.
Trong kinh Ðại Bát Niết Bàn Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, đây là
những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực
chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc
cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người. Ðó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần,
Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần".
Trong 37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất
của Ðạo đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Bát chánh đạo - con đường chân chính:
Chánh kiến: Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức
của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự
vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên
nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
Chánh tư duy: Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của mình nghĩ
ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức tối giận hờn, bạo động hãm hại...
dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự buông thả, sự
12
giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục,
trầm tĩnh.
Chánh ngữ : Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời đưa đến
đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm
tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích.
Chánh nghiệp: Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành vi giết hại, trộm
cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không ham muốn
thú vui bất thiện.
Chánh mạng: Ðời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề
nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.
Chánh tinh tấn: Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực
thực hành điều thiện.
Chánh niệm: Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các pháp bất
thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An trú
tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.
Chánh định: Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị
rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả
phát triển tuệ giác.
Bát chánh đạo có thể chia làm 3 bước là Giới, Ðịnh và Tuệ. Giới là Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Ðịnh là Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh
định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Xác định Bát chánh đạo là con đường
đưa đến giải thoát. Con đường tu tập của Ðạo đế là con đường nỗ lực tự thân của
mỗi hành giả Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời
sống này.
2.2.3. Ngũ giới
Phật Giáo còn đưa ra năm điều răn để mọi người chủ động thực hiện nhằm
đem lại lợi ích cho mình và mọi người, gọi là ngũ giới. Ngũ giới là năm điều
kính mà đức Phật đưa ra nhằm để ngăn cản những tường niệm ác, nói năng
chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: không sát sinh, không trộm
cướp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.
Năm điều răn này dựa trên tâm niệm từ bi bác ái, bình đẳng trên phương
diện từ bỏ tội lỗi cái nhân và đem lại trật tự, an vui cho xã hội mà thành lập. Đức
Phật không bắt buộc chúng phải triệt để tôn theo và cũng không hâm dọa nếu
không tuân theo thì phải bị trừng phạt, việc giữ ngũ giới hay không là hoàn toàn
do chúng ta tự liệu lấy.
Bất sát: Không được giết hại. Đây là điều răn thứ nhất mà đức Phật
khuyên chúng ta không được giết hại sinh mạng từ loài người cho đến loài vật.
Sinh mạng có một giá trị quý báu, nhất là sinh mạng người, giết hại sinh mạng
kia để tô điểm cho sinh mạng này là một điều ác, không hợp đạo lý.
13
Bất dâm: Không tà dâm. Nếu giữ được giới không tà dâm, thì gia đình
được hòa thuận an vui hạnh phúc, mọi nể trọng kính mến.
Bất vọng ngữ: Không nói dối. Nếu giữ giới không nói dối sẽ được mọi
người kính trọng, quý mến, tin cậy, dễ được gần gũi, việc làm thuận lợi uy tín
được nâng cao.
Bất ẩm tửu: không uống rượu. Nếu giữ được giới không uống rượu thì bảo
tòan được hạt giống trí tuệ, ngăn ngừa những nguyên nhân phát sinh tội ác trong
xã hội.
Bất đạo: Không trộm cướp. Nếu giữ được giới không trộm cướp là góp
phần đưa xã hội về bình đẳng, văn minh.
14
Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
ĐẠO ĐỨC NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Sơ lược về quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt
Nam.
Có nhiều bằng chứng cho thấy Phật giáo được du nhập một cách hài hoà
vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây
Lịch qua hai ngả giao thương với các nhà buôn Ấn Độ bằng đường thủy và giao
lưu văn hoá với Trung Hoa bằng đường bộ.
Trải qua gần 2000 năm tồn tại, Phật giáo đã bao phen thăng trầm, lúc thịnh
lúc suy. Vào thời đại nhà Lý và nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được
coi là quốc đạo, ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của người dân.
Đến thời nhà Hậu Lê rồi Nguyễn Triều, Phật giáo đi vào thời kỳ suy thoái,
nhường vị trí quốc giáo cho Nho giáo. Đến khi người Pháp đặt nền đô hộ trên đất
nước này, thì đạo Phật lại càng suy đồi, mất hết cả những gì thuần túy, cao siêu,
mà chỉ còn như là một tôn giáo thờ thần, mà nhiệm vụ chính là lo việc cúng bái.
Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng
Phật giáo trên thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng chuyển mình phục hưng, khởi
đầu từ các đô thị miền Nam rồi miền Trung với các đóng góp quan trọng của các
nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu. Cho đến năm 1964, các hội đoàn Phật giáo
miền Nam Việt Nam đã thống nhất dưới một mái nhà chung là Giáo Hội Phật
Gíao Việt Nam Thống Nhất và sau 17 năm hoạt động giáo hội này đã ngưng mọi
sinh hoạt vào năm 1981. Sau khi hai miền Nam Bắc thống nhất vào năm 1975,
năm 1981 chín tổ chức Phật giáo trong cả nước đã tổ chức đại hội, thống nhất
làm một và lấy danh hiệu là “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”.
Dù Phật giáo bị thăng trầm, truân chuyên theo vận nước, nhưng Phật giáo
đã hoà vào lòng dân tộc, tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật
giáo đã đồng hành cùng dân tộc, đã đồng cam cộng khổ với dân tộc, cùng dân
tộc đi qua bao khúc quanh của lịch sử, chịu đựng bao nỗi thăng trầm của thời
cuộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Điểm này chúng ta dễ dàng nhận
thấy qua những thời đại cực thịnh của đất nước đều là những lúc Phật giáo cũng
song hành hưng thịnh. Như thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần ... Tuy quyện mình vào
lòng dân tộc nhưng giáo lý chứa đựng trong ba tạng kinh điển của Phật giáo vẫn
giữ được vẻ tinh khiết vốn có của nó và dòng thiền Trúc Lâm đã được khôi phục
vào cuối thế kỷ thứ 20, tiếp nối mạng mạch của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
3.2. Đời sống đạo đức và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống
đạo đức người Việt Nam hiện nay.
3.2.1. Đời sống đạo đức.
3.2.1.1. Khái niệm.
15
Theo từ điển tiếng Việt, đời sống được hiểu theo hai nghĩa: một là, thời
gian sống trên đời; hai là, cách sống, cách sinh hoạt của con người. Theo từ điển
từ và ngữ Việt Nam đưa ra bốn cách hiểu về đời sống, đó là: tình trạng tồn tại
của sự vật; sự hoạt động của người ta trong từng lĩnh vực; phương tiện để sống;
lối sống của cá nhân hay tập thể.
Có thể khái quát, đời sống là biểu hiện các hoạt động diễn ra trong cơ thể
một sự vật hay là các hoạt động của con người thể hiện ở lối sống, điều kiện
sống, sinh hoạt…trong lĩnh vực nào đó của xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, trên bình diện chung nhất, đời sống xã
hội bao gồm hai phương diện cơ bản: đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Đây là hai hình thức cơ bản nhất của hoạt động sống của con người, chúng có
quan hệ biện chứng với nhau, trong đó đời sống tinh thần được hình thành và
phát triển trên cả đời sống vật chất.
Đời sống vật chất được quyết định trực tiếp bởi bởi các điều kiện vật chất
và các quy luật khách quan của xã hội trong sự tồn tại và phát triển.Tuy không
phụ thuộc vào đời sống tinh thần nhưng các yếu tố tinh thần cũng tham gia vào
và tác động đến sự vận động, phát triển của đời sống vật chất.
Đời sống tinh thần là một bộ phận cấu thành đời sống xã hội, nó không chỉ
phản ánh phương diện nhận thức mà còn nói lên phương diện thực tiễn của đời
sống xã hội, bao gồm toàn bộ những hoạt động tinh thần cùng những quan hệ
tinh thần với tính liên tục về thời gian và tính rộng lớn về không gian của nó.
Đời sống tinh thần được hiểu là toàn bộ những hiện tượng, những quá trình,
những hoạt động và quan hệ tinh thần của xã hội và bị quy định bởi đời sống vật
chất ấy trong từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Người ta có thể phân chia đời sống tinh thần thành những lĩnh vực khác
nhau, như đời sống văn hóa, đời sống thẩm mỹ, đời sống đạo đức, đời sống tâm
linh… Nghĩa là, theo cách phân chia này, đời sống đạo đức chỉ là một mặt, một
lĩnh vực của đời sống tinh thần mà thôi.
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội có thể được xem là toàn
bộ những quan niệm về thiện – ác, tốt – xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc,
công bằng và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân
với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
“Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hột thừa nhận,
quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, nói tổng
quát phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng đạo đức mà có” [6, 136]
Từ chỗ con người ý thức được các hành vi của mình và hành động tuân
theo các nguyên tắc đạo đức thể hiện trong các mối quan hệ xã hội, đã tạo nên
đời sống đạo đức. Đời sống đạo đức hiểu theo nghĩa khái quát nhất, bao gồm
toàn bộ những gì liên quan đến lĩnh vực đạo đức trong cuộc sống con người và
16
xã hội, từ ý thức đạo đức, hành vi đạo đức, sự đánh giá đạo đức cho đến những
quan hệ đạo đức…
Đời sống đạo đức biểu hiện một cách sinh động mọi hiện tượng thuộc về
phương diện đạo đức. Nó không chỉ biểu hiện những giá trị đạo đức cao đẹp mà
còn biểu hiện cả những cái chưa cao đẹp, cả những hành vi đạo đức và hành vi
vô đạo đức. Ở đó, mọi hiện tượng như cái thiện và cái ác, sự trung thực và giả
dối, lương tâm và vô lương tâm, hạnh phúc và đau khổ… đều được thể hiện ra.
Tóm lại, “đời sống đạo đức là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, bao
gồm ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức cùng những quan hệ đạo đức… của con
người được nảy sinh từ đời sống vật chất, phản ánh đời sống vật chất và bị quy
định bởi đời sống vật chất trong từng giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất
định” [1, tr. 59].
3.2.1.2. Cấu trúc.
Đời sống đạo đức có nhiều yếu tố cấu thành như: ý thức đạo đức, thực tiễn
đạo đức, quan hệ đạo đức… Nó ẩn chứa trong đó các thang bậc giá trị đạo đức
và được biểu hiện ra ở nhận thức, hành vi, lối sống, các quan hệ sinh hoạt của
con người trong đời sống hằng ngày. Do đó, muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp
thì xã hội phải quan tâm đến việc xây dựng đời sống đạo đức cho các cá nhân và
cho toàn xã hội, để mỗi thành viên trong xã hội đều có trách nhiệm với bản thân
mình, với cộng đồng và với xã hội.
Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những quy tắc, hành vi phù hợp với
những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao hàm cả những
cảm xúc, những tình cảm đạo đức con người.
Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành
vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những quy tắc
đạo đức xã hội đặt ra, nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn
thành một cách tự giác, tự nguyện những giá trị đạo đức. Như vậy, ý thức đạo
đức (về mặt cấu trúc) gồm tri thức đao đức, tình cảm và ý chí đạo đức.
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin,
ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong cuộc sống. Thực
tiễn đạo đức được biểu hiện như sự tương trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành
động, nghĩa vụ… Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con
người được nảy sinh trên cơ sở của ý thức đạo đức.
Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung
cho nhau tạo nên bản chất đạo đức con người của một giai cấp, của một chế độ
xã hội và của một thời đại lịch sử. Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành
động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Nếu không có
thực tiễn đạo đức, ý thức đạo đức không đạt tới giá trị.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và
con người, giữa cá nhân và xã hội về ,mặt đạo đức.
17
Quan hệ đạo đức được hình thành và phát triển như những quy luật tất yếu
của xã hội, nó xác định những nhu cầu khách quan của xã hội, nó “ tiềm ẩn”
trong các quan hệ xã hội.
Quan hệ đạo đức tồn tại một cách khách quan và luôn biến đổi qua các
thời đại lịch sử và chính nó là một trong những cơ sở để hình thành nên ý thức
đạo đức.
Tóm lại, “ý thức đạo đức, thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức là những
yếu tố tạo nên cấu trúc đời sống đạo đức. Mỗi yếu tố này không tồn tại độc lập
mà liên hệ tác động lẫn nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hóa bên
trong của đời sống đạo đức” [1. Tr. 61].
3.2.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống đạo đức người Việt
Nam hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, trên con đường hội nhập và giao
lưu quốc tế, đời sống đạo đức của người Việt Nam cũng có những biến đổi nhất
định và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động tới nó. Có thể kể ra các yếu tố
chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống đạo đức của con người Việt Nam hiện nay gồm:
3.2.2.1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của người
Việt Nam hiện nay, phải kể đến nền kinh tế thị trường. Chính sự phát triển của
nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự biến đổi của đời sống xã hội, góp phần làm
cho nền kinh tế các quốc gia phát triển mạnh mẽ. Nhưng đồng thời nó cũng có
những ảnh hưởng nhất định tới các quan hệ xã hội, các chuẩn mực đạo đức theo
cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực.
Phát triển kinh tế thị trường không chỉ làm nảy sinh quá trình xâm nhập,
bổ sung lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức, các quy tắc
ứng xử truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, mà còn làm xuất hiện cả sự
tác động, xung đột, bổ sung lẫn nhau giữa các giá trị đó.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
việc giữa gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây
dựng hệ giá trị đạo đức mới đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết ở
Việt Nam. Trong đời sống xã hội nước ta hiện nay, đã có những biểu hiện coi
nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…
đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Những tác động tiêu cực này của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay đã ảnh hưởng không nhỏ tới các quan hệ đạo đức của người Việt Nam. Con
người trở nên lạnh lung hơn, sống vì bản thân, vì lợi ích cá nhân nhiều hơn, dần
bỏ quên đi những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc như lòng nhân ái, sự vị
tha, đặt lợi ích cộng đồng, tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Vì lợi nhuận trong
cạnh tranh của nền kinh tế thị trường mà nhiều người sẵn sang gạt bỏ tình thân,
18
làm những điều trái với luân thường đạo lý, tìm cách trốn thuế, kinh doanh trái
pháp luật… gây ra những tác động xấu tới các quan hệ đạo đức trong xã hội.
3.2.2.2. Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hóa là sự gia tăng mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng và tác
động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng quy mô, cường độ các hoạt động
giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt những biến đổi
mang tính toàn cầu mà từ đó có thể phát sinh hàng loạt những sự kiện mới. Toàn
cầu hóa là một quá trình tất yếu, khách quan, một xu thế phát triển hợp quy luật
và không thể đảo ngược, là sự phát triển tiếp nối lịch sử của quá trình quốc tế
hóa đã từng diễn ra trước đó. Ngày nay, chúng ta đã chủ động tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa. Trong quá trình đó chúng ta đã tận dụng được những thành
quả mà toàn cầu hóa đem lại. Nhờ quá trình toàn cầu hóa chúng ta có lợi thế của
nước đi sau để “đi tắt, đón đầu” trong một số lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, tạo
điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tác động tích cực đến sự phát triển văn
hóa, có điều kiện tiếp cận với nguồn tri thức khổng lồ của nhân loại, lối sống của
nhiều người dân Việt Nam đã thay đổi, từ cuộc sống khép kín, thiếu năng động
sang cuộc sống cởi mở hơn, năng động hơn và hiện đại hơn. Bên cạnh những tác
động tích cực, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt chúng
ta trước những thách thức lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn lúc nào
hết, đây là giai đoạn các giá trị văn hóa, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
phải đối diện với những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Với việc mở cửa,
giao lưu, hội nhập được mở rộng, những văn hóa phẩm độc hại, các quan niệm
sai trái, lối sống buông thả, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân trái với thuần phong
mỹ tục của dân tộc đang xâm nhập vào nước ta. Điều này đã tác động tiêu cực
đến đời sống đạo đức của người dân Việt Nam hiện nay.
3.2.2.3. Sự thay đổi thang giá trị đạo đức trong xã hội.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và xu thế vận động, phát triển của
toàn cầu hóa, sự chuyển đổi các giá trị văn hóa tinh thần nói chung, các giá trị
đạo đức nói riêng là không tránh khỏi. Thang giá trị đạo đức Việt Nam đang có
sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp, có cả biến đổi tích cực và tiêu cực, thể hiện
sự đấu tranh, giằng co quyết liệt giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa thiện và ác, giữa
đạo đức mới và đạo đức cũ. Sự thay đổi đó không chỉ phản ánh quá trình vận
động và phát triển thường xuyên của đạo đức mà suy cho cùng, nó phản ánh và
là biểu hiện hợp quy luật của quá trình vận động, phát triển của đời sống tinh
thần của xã hội dưới tác động của những biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế xã hội. Sự thay đổi thang giá trị đạo đức của xã hội đã ảnh hưởng đến sự thay đổi
trong quan niệm, chuẩn mực, phẩm chất và hành vi đạo đức cá nhân của từng
con người thuộc những thế hệ, giới tính, vị thế xã hội và nghề nghiệp xã hội khác
nhau.
3.2.2.4. Vai trò nhân tố chủ quan của con người.
19
Những nhân tố mang tính khách quan của thời đại có vai trò quy định
phương hướng biến đổi đạo đức của con người, nhưng sự tác động của chúng
phải thông qua vai trò của nhân tố chủ quan. Hệ thống nhu cầu và lợi ích của con
người trong các hoạt động xã hội là nhân tố chủ quan tác động đến sự biến đổi
đạo đức nói chung. Sự định hướng nhu cầu và lợi ích đúng đắn, tích cực sẽ tác
động đến sự biến đổi đạo đức con người theo chiều tích cực và ngược lại. Nhận
thức và ý chí của chính bản thân mỗi người là hai nhân tố chủ quan giữ vai trò
quan trọng trong sự biến đổi đạo đức. Trên thực tế, sự nhận thức và ý chí của bản
thân mỗi người không giống nhau, không đồng nhất nên trước những tác động
của môi trường xã hội sự biến đổi đạo đức diễn ra theo hai khuynh hướng tích
cực và tiêu cực.
3.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với đời sống đạo đức người
Việt Nam hiện nay.
3.3.1. Ảnh hưởng tích cực
Phật giáo đã thực sự đi vào đời sống đạo đức của người Việt thông qua
chức năng giáo dục, hướng con người tới các giá trị tốt đẹp, nhân văn. Người
Việt Nam tìm đến với đạo Phật không chỉ vì nhu cầu tâm linh, cảm thấy thư thái
an lạc nơi cửa Phật mà còn vì những nội dung đạo đức xã hội được ẩn chứa trong
đạo lý Phật giáo.
Đối tượng giáo dục mà Phật giáo hướng tới trong lĩnh vực đạo đức xã hội
chính là con người tới tư cách là chủ thể chịu trách nhiệm đối với chính cuộc đời
của mình. Thuyết nhân quả của Phật giáo đã chỉ ra rằng: con người tự chịu trách
nhiệm về hạnh phúc hay khổ đau bằng hành vi của chính mình chứ không phải
do may rủi, định mệnh hay thần linh trừng phạt. Giá trị của thuyết này chính là
việc khẳng định con người làm chủ được cuộc sống của mình, đặt con người vào
đúng vị trí, vai trò của nó trong xã hội. Trên cơ sở đó, đạo đức Phật giáo giúp
con người phát huy hết những đặc tính ưu việt, giảm thiểu những nhân tố đưa tới
sự bất lợi cho bản thân, gia đình, xã hội. “Đạo đức còn là trách nhiệm của mỗi cá
nhân đối với tự thân cũng như đối với gia đình và xã hội. Vì lẽ đạo đức là hạnh
phúc và việc xây dựng hạnh phúc cho tự thân, gia đình và xã hội là trách nhiệm
của mỗi người. Sống nếp sống đạo đức tức là người có trách nhiệm cao trong các
mối quan hệ gia đình và xã hội. Thiếu một tinh thần trách nhiệm này nghĩa là
nếp sống thiếu đạo đức, thì chẳng những tự thân người đó chịu bất hạnh mà ngay
cả gia đình và xã hội người ấy đang sống cũng chịu thiệt thòi, chịu bất hạnh do
cuộc sống của vị ấy gây ra ” [2, 98].
Điều này cũng có nghĩa là đối tượng của giáo dục Phật giáo là con người
trong các hoàn cảnh sống của nó. Vượt ra ngoài sự phân biệt chủng tộc, ranh giới
địa lý hay văn hóa, giáo dục Phật giáo lấy con người trong các mối quan hệ xã
hội làm đối tượng cũng như là mục đích. Chính vì thế, giáo dục Phật giáo nhấn
mạnh đến giá trị làm chủ bản thân của con người. Bởi lẽ, một khi đánh mất giá
20
trị làm chủ bản thân, con người dễ dàng bị cám dỗ trước những cạm bẫy của đạo
đức suy thoái trong xã hội hiện đại.
Từ việc xác định đối tượng trên đây, Phật giáo cũng đề cập đến mục đích
chủ yếu của giáo dục Phật giáo. Trước hết, đạo Phật hướng đến việc giải thoát
con người khỏi vô minh, phiền não, giác ngộ thành Phật. Xã hội lý tưởng mà
Phật giáo hướng tới đó là thế giới Tịnh độ, bình đẳng, hòa bình an vui “tưởng y y
chí, tưởng thực thực lai”.
Tuy vậy, không phải đạo Phật khuyên con người hướng tới một thế giới an
lạc hư ảo nào mà đó chính là cuộc sống hiện thực này. Đối với đạo Phật, muốn
thay đổi cuốc sống từ khổ đau đến an vui, hạnh phúc thì không gì hơn là chuyển
hóa nội tâm theo luật nhân quả, lý duyên sinh của vũ trụ để an lạc hạnh phúc ở
hiện đời. Mục đích của Phật giáo là hướng dẫn, chỉ dạy cho con người con
đường khai mở tâm thức, phát triển trí tuệ trực giác, hướng đến giác ngộ giải
thoát.
Như vậy, trong hệ giá trị đạo đức xã hội của người Việt, các giá trị điển
hình là tinh thần yêu nước, lòng thường người sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tinh
thần lao động cần cù, tiết kiệm. Trong các giá trị đó, nổi bật nhất là tinh thần yêu
nước. Có thể nói đó là chủ nghĩa yêu nước.
Là chuẩn mực đạo đức cao nhất, đừng đầu trong thang bậc giá trị truyền
thống, gắn liền với tâm thức của mỗi người Việt Nam. Yêu nước đó còn là đặt
lợi ích của đất nước, của nhân dân lên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và
bảo vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc. Đối với mỗi
người dân Việt Nam, tinh thần yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một
tình cảm xã hội mà cốt lõi của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, lòng tự hào
cùng với ý chí bảo vệ lợi ích của Tổ quốc.
Do đó, khi Phật giáo hòa nhập vào đời sống văn hóa đạo đức của người
Việt, nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo đã gắn kết, hài hòa với tinh thần yêu
nước tốt đẹp của người Việt. Tư tưởng “cứu khổ cứu nạn” xuất phát từ tâm từ bi,
hướng thiện của Phật giáo rất phù hợp với truyền thống giết giặc, trừ gian của
dân tộc Việt Nam. Giáo lý từ bi của nhà Phật khi gặp gỡ, giao thoa với tinh thần
yêu nước, lòng thương người của người Việt đã góp phần tạo dựng nên một nếp
nghĩ, một cách sống, một giá trị đạo đức trong đời sống của người Việt Nam.
Nguyên Trãi (1380-1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam
kiệt xuất, ông dã vận dụng đạo lý từ bi và biến nó thành đường lối chính trị, đem
lại thành công nổi tiếng trong lịch sử Nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình
Ngô Đại Cáo rằng:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
Trong đối nhân xử thế hằng ngày, người Việt vẫn luôn tâm niệm “thương
người như thể thương thân” hay “Lá lành đùm lá rách”, “Nhiễu điều phủ lấy giá
21
gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Luôn trọng nghĩa tình,
xem nó lên trên hết “vì tình vì nghĩa ai vì đĩa xôi đầy”. Chữ “tình” chiếm một vị
trí quan trọng trong đời sống đạo đức của người dân Việt Nam… Không chỉ giới
hạn trong tình cảm gia đình, hàng xóm mà còn đối với cả kẻ thù. Trong lịch sử
đã không ít trường hợp với những tù binh chiến tranh, luôn được đối xử tử tế,
được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân lương khi về nước. Tiêu biểu,
khi thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta không những
không giết hại mà còn cấp thuyền bè lương thực để họ về nước.
“Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh”
Tinh thần thương người của dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành
những chuẩn tắc trong bộ luật của Nhà nước… Đó thực sự là cơ sở thực tiễn
quan trọng để những giá trị đạo đức Phật giáo hào nhập, bén rễ trong lòng dân
tộc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo đã hòa quyện vào chủ nghĩa yêu nước, hai chữ
“từ bi” của nhà Phật đã hòa với hai chữ “nhân nghĩa” của người Việt.
Triết lý của đạo Phật về Phật tính bình đẳng, tư tưởng từ bi đối với nhân
sinh mang một giá trị tư tưởng, đức nhân bản sâu sắc, có giá trị tích cực đối với
quần chúng nhân dân lao động. Kinh Trường A Hàm Phật dạy: “Có bốn hạng
người đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn hạng
người? Một là ngăn làm việc quấy, hai là thương yêu, ba là giúp đỡ, bốn là đồng
sự, đó là bốn hạng người đáng thân cận”. Người dân Việt Nam tìm thấy trong
Phật giáo những giá trị đạo đức mang tính mẫu mực, phù hợp tâm lý, cốt cách
người Việt. Đó là tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, tinh thần cứu khổ, cứu
nạn, hướng lợi trừ hại, vì cuộc sống bình yên của con người. Có thể nói, nhờ sự
tương hợp ở một mức độ nhất định giữa đạo đức Phật giáo và đạo đức truyền
thống người Việt mà Phật giáo đã có những đóng góp trong việc hình thành tâm
lý,đạo đức nhân. Phật dạy rằng “Trước hết phải học nghề nghiệp để gom góp của
cải, sau khi có nên chia làm bốn phần, một phần tiêu dùng, hai phần để làm ăn,
một phần cất đi để giúp đỡ mình và người khi nghèo thiếu”.
Như vậy, ở đây Phật giáo đã trở thành triết lý sống của người dân Việt
Nam, từ tầng lớp trên lãnh đạo đất nước cho đến đông đảo các tầng lớp trong xã
hội. Có thể nói, Phật giáo với những giá trị từ bi, hỉ xã, cứu khổ cứu nạn, thuyết
nhân quả, nghiệp báo, luân hồi… Đời thường có câu gieo nhân nào thì hưởng
quả ấy, hay gieo hột nào thì lên cây nấy, làm ác gặp ác, ở hiền gặp lành. Đức Chí
Tôn có dạy: “Nhân nào quả nấy đó con ơi, Gieo trước gặt sau ấy luật Trời”. Khi
du nhập với Việt Nam, gặp gỡ thế giới quan và nhân sinh quan của người dân
bản địa chứa đựng nhiều yếu tố tích cực, đạo đức Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu
rộng đến đạo đức truyền thống của dân tộc. Phật giáo nói chung, đạo đức Phật
giáo nói riêng, trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, đời sống văn hóa
22
tinh thần dân tộc, đã thâm nhập sâu sắc vào tâm hồn người dân Việt Nam, khẳng
định sức sống lâu bền trong lịch sử.
Cuộc sống có đạo đức luôn là cuộc sống hạnh phúc. Cuộc sống ấy được
bảo vệ trong sự an tịnh của giáo dục. Giữ giới là hoàn thiện đạo đức nhanh nhất
và đúng nghĩa nhất. Khi giữ giới và tôn trọng giới cá nhân có một đời sống an
vui mà không phương hại người khác. “Kinh Đại Bát Niết Bàn số 16 Trường Bộ
nói lên 5 điều nguy hiểm của người gia chủ nếu phạm giới, sống trái giới luật.
Một là sẽ bị tiêu hao tiền bạc rất nhiều vì phóng dật, hai là bị tiếng dữ đồn xa. Đi
vào với hội chúng nào, đi vào với tâm bối rối. Bốn là khi mạng chung sẽ chết với
tinh thần rối loạn. Năm là sau khi mạng chung sẽ bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ địa ngục. Trái lại, người có giữ giới có được năm sự lợi ích, một là sự có tiền
của dồi dào vì không phóng dật, hai là tiếng tốt đồn xa, ba là đi vào hội chúng
nào tâm thần không có sợ hãi, không có bối rối, bốn là khi mạng chung chết với
tâm không rối loạn, năm là sau khi mạng chung sẽ sanh vào thiện thú thiên giới
cõi đời này” [3, 67].
Giới là phương tiện dẫn dắt con người vượt khỏi song mê, bể khổ, luân
hồi, tới chốn an lạc, giải thoát. Không chỉ vậy, giới còn là điều liện tối quan
trọng trong việc tu tập thiền định. Do vậy,giữ giới cũng đồng nghĩa với việc con
người tự rèn luyện, trau dồi đạo đức. Nghiên cứu Ngũ giới, chúng ta thấy đấy là
những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà Phật đặt ra cho các Phật tử thực hành. Ngũ
giới góp phần hướng tới con người đi đến sự hoàn thiện trong tư tưởng, hành vi,
bồi dưỡng nhân cách theo nhân sinh quan Phật giáo. Một mặt, Ngũ giới có tác
dụng ngăn ngừa những mầm mống nguy hại đến tư cách đạo đức con người, mặt
khác, khơi gợi những hành vi tốt phát triển…Có thể thấy, Ngũ giới bao hàm đầy
đủ, toàn diện ba mặt “Thể dục, trí dục, đức dục” trong việc hình thành nhân cách
con người.
Ngoài đạo lý Từ bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý
khác của đạo Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và
ân chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với sự phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt, tình thương ở mọi người bắt đầu từ
tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã
hội với thầy, bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương cao
cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta
thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hương rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của
người Việt. Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với
nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Trong đời sống thanh niên hiện nay, quan niệm tôn trọng người lớn tuổi, hiếu
kính người lớn tuổi, nuôi dưỡng người lớn tuổi dần dần trở thành hình thức hóa.
“Con cái thường quan tâm người lớn tuổi về đời sống vật chất, coi thường việc
quan tâm cha mẹ trên phương diện tinh thần và nội tâm. Điều mà người lớn tuổi
23
muốn có là sự phụng dưỡng về mặt tinh thần của con cái và thế hệ sau. Con cái
ngoài việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất của cha mẹ ra thì còn phải quan tâm
cha mẹ về mặt tinh thần và nội tâm. Sự phụng dưỡng về mặt tinh thần phải là tư
tưởng hiếu đạo trọng tâm được coi trọng trong xã hội hiện đại của chúng ta.
Hạnh hiếu và tâm hiếu phải thống nhất chính xác mới là hiếu đạo chân chính
được đề xuất trong xã hội của chúng ta” [4, 59-60].
Tóm lại, nội dung giáo lý Phật giáo thể hiện một triết lý về sự công bằng,
giáo dục con người phải biết sống lành mạnh, khuyến khích con người làm nhiều
việc tốt, việc thiện, lánh xa điều ác, tránh làm những việc bất nhân phi nghĩa để
xây dựng một cuộc sống tốt đẹp nơi trần thế. Chính những giá trị đạo đức trên
đây mà Phật giáo ngày càng có vị trí vững chắc trong tâm thức mỗi người dân
Việt Nam, khẳng định sức sống lâu bền của nó đối với dân tộc Việt Nam.
3.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Tuy vậy Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định
đến đời sống của người Việt Nam chúng ta.
Trong nội tại tư tưởng Phật giáo cũng có những hạn chế nhất định, Phật
giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy con
người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau trong xã
hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội, do đó không thấy
được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải
chống áp bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi bác ái trong một số trường hợp bất
lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức. Phật giáo không bàn tới lĩnh
vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính trị – xã hội nhà sư
phải sử dụng các tư tưởng Nho hay Lão Trang. Hạn chế lớn nhất của Phật giáo
đối với tư duy của người Việt Nam là quan điểm duy tâm thần bí. Quan điểm
này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng vào quả báo, hướng vào
nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và một khi tư duy như vậy
thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động, đưa đến sự lạc hậu với
đất nước.
Song song đó, do tác động bên ngoài, hay sự hiểu biết chưa sâu về Phật
giáo, các tệ lậu mê tín dị đoan xuất hiện. Đạo Phật đề cao trí tuệ và sự giác ngộ,
Phật Thích Ca ngay trước khi nhập Niết Bàn từng căn dặn đệ tử không được bói
toán, xem sao, xem tướng, làm những điều dị lạ, mê hoặc quần chúng, cho nên
đứng về mặt lý thuyết mà nói, đạo Phật tất nhiên phải bài xích những tập tục mê
tín, dị đoan. Nhưng thực tế, cũng chính từ trong đạo Phật, từ trong các chùa
chiền, không phải bây giờ mà ngay từ rất lâu, ở nhiều nước khác, kể cả Ấn Độ và
ở nước ta, từ ngay thời Lý, đạo Phật rất thịnh đạt, đã nảy nở ra nhiều tập tục mê
tín, dị đoan, tốn tiền của và không có lợi đối với đời sống đạo đức xã hội.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, của giác ngộ và giải thoát, cho nên xa lạ với
mê tín dị đoan, Phật tử cầu được giác ngộ và giải thoát, chứ không cầu có quyền
24
lực và quyền năng siêu nhiên. Con người theo đúng lý tưởng đạo Phật phải là
con người hoàn thiện, chứ không phải là con người siêu nhiên. Phải là con người
gần gũi với đời, với người để cứu thế độ nhân, chứ không phải là kẻ sĩ ẩn lánh
đời, sống cuộc đời gọi là thanh cao nhưng không giúp ích được gì cụ thể cho đời.
Những tác hại của mê tín dị đoan như vậy không ít. Trong khi đó, thì trong
hàng ngũ tăng ni, vì quá đông không được chọn lọc kỹ, cho nên cũng có những
kẻ đội lốt người xuất gia, làm những chuyện đồi phong bại tục, gây ảnh hưởng
rất xấu cho đạo Phật. Dạo gần đây, phong trào sư giả đội lốt lại phát triển, liên
tiếp được đăng lên báo chí để cảnh báo mọi người, khiến cho đạo Phật giảm đi
uy tín trong lòng người dân.
Một vấn đề nữa chính là việc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá
chính quyền nhà nước ta của các tổ chức phản động trong và ngoài nước. Chúng
đội lốt tín ngưỡng, lôi kéo người dân xuyên tạc, chống phá nhà nước gây ảnh
hưởng đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, sự hòa bình đất nước,
làm đức tin của người dân giảm xuống.
Tóm lại, Phật giáo hòa nhập thành một yếu tố dân tộc nên đã thúc đẩy
bánh xe lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo trong mối quan hệ
với các dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể. Phật giáo đã hướng
tới cái đẹp, cái thiện và mang tinh thần yêu nước. Tính chân, thiện, mỹ được thể
hiện rõ trong tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Nhà nước cùng toàn dân ta hãy phát
huy những tích cực và xóa đi những tiêu cực của Phật giáo để đạo đức xã hội
được nâng cao, đất nước ngày càng tốt đẹp, truyền thống văn hóa tinh thần được
bảo tồn và phát triển.
25