Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước việt nam với mục tiêu kiềm chế lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.96 KB, 45 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường đang hướng đến toàn cầu hoá,
các doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương
trường phải chịu sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Các nhà kinh tế cũng như
các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của
nền kinh tế mới. Bên cạnh những vấn đề cần có để kinh doanh còn có những
vấn đề kinh tế nổi cộm khác. Một trong những vấn đề nổi cộm mà được các
nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp rất quan tâm đó là lạm phát.
Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ cấp độ vi mô
như cá nhân, doanh nghiệp, hay ở cấp độ vĩ mô là cả nền kinh tế. Lạm phát
còn song hành cùng với thất nghiệp tăng nhanh, giá cả leo thang, tiền lương...
kéo theo đó là những vấn nạn khác của xã hội. Như vậy, lạm phát là vấn đề
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế cũng như đời sống xã hội, đặc
biệt là đối với người lao động.
Chính vì những tác hại to lớn do lạm phát gây ra cho nền kinh tế mà
việc nghiên cứu lạm phát trở thành một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách
đối với nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường còn non nớt như ở nước
ta. Chống lạm phát và những yếu tố song hành cùng nó ngày nay không còn
là việc của bản thân các doanh nghiệp mà còn là việc của Chính phủ, của toàn
xã hội, trong đó Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc thực hiện, điều hành chinh sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát.
Xuất phát từ thực tế khách quan đó, dưới sự hướng dẫn của Thạc sỹ
Nguyễn Hoài Phương cũng như tham khảo một số tài liệu khác, trong phạm vi
của đề tài, em xin được trình bày vấn đề điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với mục tiêu kiềm chế lạm phát.


CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm, đo lường và phân loại lạm phát
1.1.1. Khái niệm lạm phát
 Các quan niệm về lạm phát


Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu
của các nhà kinh tế học. Tuy nhiên, trong mỗi công trình lại đưa ra một khái
niệm về lạm phát.
Trong Bộ Tư bản, Các Mác cho rằng: lạm phát là việc tràn đầy các
kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt.
Theo ông, lạm phát là “bạn đường” của CNTB, ngoài việc bóc lột người lao
động bằng giá trị thặng dư, CNTB còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao
động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động
giảm xuống.
Nhà kinh tế học Samuelson thì: “lạm phát xảy ra khi mức chung của
giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng; tiền lương, giá
đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng”.
Milton Friedmen thì quan niệm rằng: “lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài”. Theo ông: “lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện
tượng tiền tệ”. Ý kiến này đã được đa số các nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ
và phái Keynes tán thành.
Tổng hợp các ý kiến, có thể rút ra khái niệm lạm phát là sự gia tăng lien
tục trong mức giá chung. Điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi
hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần
mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh tế có thể trải qua lạm phát khi giá


của một số hàng hóa giảm, nếu như giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác
tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước
của đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua
được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách khác, khi có
lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một
giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định.
1.1.2. Đo lường lạm phát

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó thực
hiện.
 Đo lạm phát dựa vào chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI (Consumer Price
Index)
Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được
tính trên cơ sở CPI. Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer price index): phản
ánh sự biến động giá của một “giỏ” hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu
tiêu dùng xã hội. Người ta cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng kinh
tế của nó. Tầm quan trọng kinh tế của mỗi mặt hàng được tính bằng phần của
tổng số chi tiêu cho tiêu dùng dành cho mặt hàng đó trong kỳ tính toán:
Ví dụ:

t

=

năm tính toán

CPIt

=

giá trị của CPI trong năm t

Pt gạo

=


giá gạo trong năm t

Pt thực phẩm =

giá thực phẩm trong năm t


Po gạo

=

giá gạo trong năm gốc.

Phần của gạo = % dành cho gạo trong tổng số chi tiêu dùng của thời kỳ lạm
phát.
ptgao

CPIt = P x 100 x % của gạo
ogao
Ngoài chỉ số giá trị tiêu dùng là chỉ số sử dụng phổ biến nhất, còn hai
chỉ số khác có thể sử dụng được, đó là chỉ số giá cả sản xuất PPI và chỉ số
giảm phát GNP.
 Đo lạm phát dựa vào chỉ số giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index)
Chỉ số giá cả sản xuất (PPI – Production Price Index) là chỉ số giá bán
buôn bán. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên, chỉ số này
rất có ích, và nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
 Đo lạm phát dựa vào chỉ số giảm phát GNP
Chỉ số giảm lạm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP. Tỉ số này
được áp dụng bằng tỉ lệ GNP danh nghĩa và GNP thực tế. Chỉ số này cũng có
ích, vì nó bao gồm giá tất cả các lọai hàng hoá và dịch vụ trong GNP, do nó

đầy đủ và toàn diện hơn CPI.
1.1.3. Phân loại lạm phát
1.1.3.1. Phân loại lạm phát xét về mặt định lượng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, lạm phát được
chia thành:
- Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số mỗi năm): có mức lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối, nền


kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự
ổn định đó được thể hiện ở chỗ: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi
không cao, không xảy ra hiện tượng đầu cơ tích trữ,… Lạm phát vừa phải
tạo tâm lý an tâm cho những người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập.
Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có thu nhập ổn định, ít rủi ro nên
sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
- Lạm phát phi mã (lạm phát hai con số mỗi năm): lạm phát làm cho giá cả
chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng
được chỉ số hoá. Người dân lúc này có tâm lý tích trữ hàng hoá, vàng bạc,
bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường.
Khi lạm phát phi mã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế
nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng vọt với tốc độ cao vượt xa
lạm phát phi mã. Tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng
nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá
nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến
dạng, hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, nền kinh tế bị đe
doạ nghiêm trọng. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra
1.1.3.2. Phân loại lạm phát xét về mặt định tính
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng (so sánh tỷ lệ lạm phát
tăng tương ứng với thu nhập)

+) Lạm phát cân bằng: lạm phát tăng tương ứng với thu nhập. Loại lạm
phát này không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
+) Lạm phát không cân bằng: tức là tỷ lệ lạm phát tăng không tương
ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay
xảy ra nhất.
Ví dụ: Giả sử rằng vào tháng 2/2011, một công nhân Việt Nam với mức
lương trung bình 2.000.000 VND/tháng, trường hợp xem xét giá gạo là giá cả


đại diện cho các loại giá khác trên thị trường với giá gạo là 10.000 VND/kg.
Như vậy, một tháng lương người đó mua được 200 kg gạo. Giả định tiếp,
đúng một tháng sau, giá gạo bị lạm phát 2%. Như vậy, qua một tháng giá gạo
đã tăng lên thành:
(10.000 VND/kg x 2% ) + 10.000 VND/kg = 10.200 VND/kg.
Có 3 tình huống:
+) Nếu sau một tháng, lương của người công nhân vẫn không tăng , vẫn
2.000.000 VND/tháng thì anh ta chỉ có thể mua được 196.08 kg gạo. Do đó
vô hình chung, lạm phát đã làm mất của anh ta gần 4 kg gạo . Rõ ràng anh ta
trở lên nghèo hơn một chút so với tháng trước đó.
+) Có thể Nhà nước tiên liệu trước được tình hình lạm phát nên quyết
định tăng lương công nhân trong tháng 3. Cho rằng hoặc vô tình hoặc đôi khi
được tính trước, tỷ lệ lương bình quân tăng 2% một tháng. Khi đó, lương
tháng 3 của công nhân sẽ là 2.000.000 x (1 + 2%) = 2.040.000 VND. Lương
này sẽ mua được 200 kg gạo (với giá 10.200 VND/kg). Có thể thấy mức sống
của người công nhân không có gì thay đổi so với tháng trước, lương vẫn đủ
đảm bảo cho anh ta mua được ngần ấy hàng hoá. Anh ta không giàu hơn cũng
chẳng nghèo đi so vói tháng trước bởi tuy lương tăng lên được 40.000 VND thì
giá cả cũng tăng lên vừa đủ phần tăng lương này.
+) Nhà nước tăng lương công nhân hơi mạnh tay lên đến 107.1% so với
mức lương cũ. Khi ấy:

Lương của công nhân trong tháng 3 là:
2.000.000 x 107.1% = 2.142.000 VND/tháng.


Số gạo mà toàn bộ lương này mua được là:
2.142.000 : 10.200 = 210 kg
Rõ ràng là anh công nhân sẽ sung sướng hơn vì lương của anh ta mua
được nhiều gạo hơn so với tháng trước.
Như vậy có thể thấy trường hợp thứ hai được gọi lạm phát cân bằng. Hai
trường hợp thứ nhất và thứ ba là lạm phát không cân bằng. Cân bằng ở đây là
cân bằng so với thu nhập.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
+) Lạm phát dự đoán trước: tức là lạm phát xảy ra trong một thời gian
tương đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do đó,
người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp
theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và đã
chuẩn bị để thích nghi.
+) Lạm phát bất thường: tức là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước
đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, tâm lý, thói quen, cuộc sống của người dân
chưa thể thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho
nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền.
1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.1. Cung ứng tiền tệ và lạm phát
 Quan điểm của các nhà kinh tế phái tiền tệ: Cung tiền tệ tăng lên kéo
dài làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát
Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức
cung tiền. Khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo
dài và gây ra lạm phát. Đây là một nguyên nhân khá phổ biến gây nên hiện
tượng lạm phát ở các quốc gia trên thế giới.



Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng tiền tệ một cách quá mức và kéo dài thì
cũng gây nên hiện tượng lạm phát (khi Y tăng 1% thì lượng tiền cung ứng cần
thiết cho lưu thông hàng hóa chỉ cần tăng nhỏ hơn 1%, nhưng thực tế khi Y
tăng 1% thi lượng cung tiền thực tế thường tăng với một mức độ lớn hơn 1%.
Đây chính là tăng quá mức và quá trình này kéo dài thì sẽ gây nên lạm phát
do tăng trưởng tiền tệ).
 Quan điểm của các nhà kinh tế phái Keynes
+) Tác động của tăng chi tiêu Chính phủ hoặc cắt giảm thuế làm tăng tổng
cầu, do đó đẩy giá lên cao. Nhưng những vấn đề của chính sách tài khoá
lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường
hợp này chỉ là tạm thời.
+) Tác động của những cú sốc tiêu cực lên tổng cung (như việc tăng giá
dầu do hậu quả của lệnh cấm vận dầu mỏ, đấu tranh của công nhân đòi
tăng lương) cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không
tiếp tục tăng lên để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng
cung quay trở lại vị trí ban đầu, do vậy sự tăng giá trong trường hợp này
cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời.
Từ những phân tích như trên, phái Keynes và phái tiền tệ tương đối thống
nhất với nhau, họ đều tin rằng: lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỷ lệ
tăng trưởng tiền tệ cao.
1.2.2. Chỉ tiêu công ăn việc làm và lạm phát
1.2.2.1. Lạm phát phí – đẩy
Chi phí của sản xuất là yếu tố cấu thành nên giá cả hàng hóa cho nên sự
biến động của chi phí sản xuất là nguyên nhân thứ hai có thể gây ra lạm phát.
Các nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất là: nguyên vật
liệu (do tính chất khan hiếm của nguyên vật liệu được khai thác trong tự nhiên


nên khi trữ lượng giảm xuống sẽ làm giá cả của nó tăng lên). Thứ hai là chi

phí để mua sức lao động. Thứ ba là chi phí vốn (hiện nay chi phí huy động
vốn ngày một cao hơn). Ngoài ra doanh nghiệp còn bị rất nhiều áp lực từ phía
nhà nước có thể làm giá sản phẩm tăng cao (như phí và thuế thu nhập…). Các
chi phí sản xuất này khi tăng trong cả nền kinh tế sẽ làm cho mặt bằng giá cả
của hàng hóa sẽ tăng cao gây nên lạm phát.
Ví dụ: Năm 1973, 1978 OPEC nâng giá dầu mỏ, năm 1990-1991 khủng
hoảng vịnh Persian, cả ba lần giá cả hàng hóa bình quân ở hầu hết các nước
trên thế giới đều tăng.
1.2.2.2. Lạm phát cầu – kéo
Tập hợp một số nhóm các nguyên nhân khiến cho số cầu tăng lên quá
mức cần thiết làm cho số cung không đáp ứng kịp. Một trong những cú sốc
lớn đối với lạm phát là sự thay đổi trong đầu tư, chi tiêu chính phủ hay xuất
khẩu ròng có thể làm thay đổi tổng cầu và đẩy sản lượng vượt quá mức tiềm
năng của nó. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi nền kinh tế quá nóng, mức đầu tư
tăng quá nhanh hoặc chính phủ làm tăng mức cung tiền quá lớn.
1.2.3. Thâm hụt Ngân sách và lạm phát
Đây là một nguyên nhân mà chúng ta thường đã thấy rất nhiều trong
lịch sử của các nước mà làm cho mức lạm phát của các nước có thể lên rất
cao. Đó là nguyên nhân chủ quan từ phía Chính phủ; bằng cách chi tiêu quá
mức của mình, Chính phủ đôi khi đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng
lạm phát nghiêm trọng điển hình là cuộc lạm phát ở Đức (1921-1923)…
Nhu cầu chi tiêu của Chính phủ là rất lớn, cho rất nhiều đối tượng khác
nhau trong nền kinh tế: chi tiêu để kích cầu, thực hiện các chính sách, rồi các


khoản chi mua thường xuyên thường có quy mô rất lớn… Trong thực tế về
ngân sách của các nước trên thế giới rất hiếm khi có thặng dư (nếu có thì chỉ
có trong rất ngắn hạn, tạm thời và thặng dư thường rất nhỏ), mà tình trạng
chung của ngân sách các nước là luôn luôn lâm vào tình trạng thâm hụt lớn.
Để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc

phát hành trái phiếu chính phủ, nhưng cách thứ nhất có thể làm giảm sản
lượng của nền kinh tế, hai cách này chỉ có hiệu quả trong dài hạn, độ trễ dài…
do đó cách dễ dàng nhất là phát hành thêm tiền để chi tiêu cách này vừa có
thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu tức thời của chính phủ một cách nhanh chóng và
với chi phí thực hiện là thấp nhất (do Chính phủ nắm đặc quyền trong tay về
tài chính). Do vậy một nguyên nhân nữa mà thường xuyên gây nên lạm phát ở
các nước đó là in tiền để chi tiêu của chính phủ… Đây cũng là một nguyên
nhân khá phổ biến ở các nước trên thế giới.
Đối với các quốc gia đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên
việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt Ngân sách
Nhà Nước là rất khó thực hiện. Đối với các quốc gia này, con đường duy nhất
để giải quyết vấn đề là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt Ngân
sách Nhà Nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và
lạm phát tăng.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển (như ở Mỹ) có thị trường vốn phát
triển, một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có thể được bán ra và nhu cầu
trang trải cho thâm hụt Ngân sách Nhà Nước được thực hiện từ nguồn vốn
vay của Chính phủ. Tuy nhiên, nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu
ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng, do đó, lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế


việc tăng lãi suất thị trường, Ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các trái
phiếu đó, điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt Ngân sách nhà nước
cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
1.2.4. Lạm phát do tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng
cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá,
trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn
kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái.

Mặt khác, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng
tăng cao, đẩy chi phí về phía nguyên vật liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát
phí – đẩy như đã phân tích. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hoá
nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều
các hàng hoá khác, đặc biệt là các hàng hoá của những ngành có sử dụng
nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
(nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác…)
1.3. Tác động của lạm phát
1.3.1. Lạm phát và lãi suất
Từ thực tế diễn biến lạm phát trên thế giới, các nhà kinh tế cho rằng:
lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh
tế, chính trị và xã hội của một quốc gia. Và tác động đầu tiên đó là tác động
lên lãi suất.


Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống Ngân hàng phải
luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình, tức
là luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định,
lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất
danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu đó là suy thoái
kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
1.3.2. Lạm phát và thu nhập thực tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ
làm giảm thu nhập thực tế của người lao động.
Giả sử với 1.000.000đ tiền lương một tháng, một công nhân sẽ mua
được 1 tạ gạo (với giá gạo 10.000đ/1kg). Năm sau, nếu tiền lương của công
nhân này không đổi nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào năm sau tăng
thêm 50% so với năm trước, tức là giá gạo đã tăng lên 15.000đ/1kg, thì với số

tiền lương nhận được trong một tháng, người công nhân này chỉ có thể mua
được 66,7kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có
lãi (tiền mặt) mà còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm
giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do
chính sách thuế của Nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa.
Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào
tỷ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có
tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng). Kết quả


cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thực (sau khi đã loại trừ tác
động của lạm phát) mà người cho vay nhận được bị giảm đi.
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở
nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và
những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
1.3.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Trong mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm
phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là
người được lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng
giữa người đi vay và người cho vay. Hơn thế, nó còn thúc đẩy những người
kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy, càng tăng
thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng
tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình
trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá
trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những
người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí
không mua nổi những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ
đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm

phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra
khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
1.3.4. Lạm phát và nợ quốc gia
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào
người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn.


Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là
vì: lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá
nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
Ngoài ra, những tác động khác của lạm phát cũng ảnh hưởng rất nhiều
đến nền kinh tế, làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá
trị, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bac...gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí. Bên cạnh đó là
sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận
cao, đối với tiêu dung thì làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng tiêu
dung và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng.
1.4.Các kinh nghiệm kiềm chế lạm phát trên thế giới.
Trong khuôn khổ đề tài, xin được giới thiệu một số kinh nghiệm kiềm
chế lạm phát trên thế giới ở các nước Mỹ La tinh, là các nước có điều kiện
lịch sử, văn hóa, kinh tế gần tương đồng với Việt Nam và cũng đã trải qua
một số thời kỳ như Việt Nam.
*Cải cách Ngân hàng trung ương
Trước tình hình đó, Chính phủ các quốc gia này đã có nhiều cải cách sâu
rộng, đặc biệt là việc cải cách Ngân hàng Trung ương (NHTW).
Năm 1989, Chi lê là nước đầu tiên và tiếp đến các nước Châu Mỹ La tinh
khác đã thông qua luật tăng cường quyền tự chủ cho NHTW để nâng cao
trách nhiệm của tổ chức này. Cuộc cải cách nhằm thực hiện 4 mục tiêu theo
mức độ ưu tiên khác nhau tuỳ từng quốc gia: (1) Sự uỷ nhiệm rõ ràng trong
việc theo đuổi ổn định giá cả hơn là tăng trưởng kinh tế (trước đó ưu tiên mục

tiêu tăng trưởng); (2) độc lập về mặt chính trị trong việc xây dựng chính sách
tiền tệ, tách rời hoạch định chính sách với quá trình bầu cử cơ quan lập pháp
hoặc hành pháp; (3) độc lập trong hoạt động quản lý và điều hành chính sách
tiền tệ từ việc thiết lập lãi suất đến việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ


khác mà không có sự can thiệp của Chính phủ; (4) tính trách nhiệm trong
việc đạt đến mức lạm phát mục tiêu.
Hầu hết các quốc gia trên đều thực hiện thêm chính sách thay đổi chế độ tỷ
giá. Với việc neo chặt tỷ giá hối đoái trong hơn 10 năm, tình hình lạm phát
của họ đã được cải thiện rõ rệt, tăng trưởng kinh tế được khôi phục
*Thực thi chính sách lạm phát mục tiêu
Theo các nhà kinh tế học Thomas Laubach, Rick Mickin và Adam Poxen,
chính sách lạm phát mục tiêu (CSLPMT) được hiểu là một nền tảng cơ sở
cho chính sách tiền tệ, được đặc trưng bởi việc NHTW công bố với công
chúng một mục tiêu định lượng chính thức (thường là một khung phạm vi hơn
là một giá trị cụ thể) cho tỷ lệ lạm phát trong một hoặc vài thời kỳ, dựa trên
quan điểm ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ trong
dài hạn. Một trong những đặc trưng về quan điểm có tác động mạnh là công
khai với công chúng về những kế hoạch, mục tiêu của các nhà hoạch định
chính sách và trong nhiều trường hợp là cả về cơ chế truyền tải trong đó
nhấn mạnh đến trách nhiệm của NHTW trong việc theo đuổi mục tiêu”.
Lạm phát mục tiêu thực chất là một kiểu chính sách tiền tệ được cụ thể và
lượng hoá; để thực thi chính sách này đòi hỏi NHTW phải được quyền định
đoạt các công cụ chính sách tiền tệ trước các tình huống kinh tế và không bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị.
Thực thi CSLPMT là một chiến lược quan trọng để các chính sách của
NHTW trở nên công khai, minh bạch, dễ dự đoán hơn, giúp cho lạm phát
giảm xuống, giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ tính ưu
việt này nên nhiều nước đã áp dụng khá thành công

*Đối phó với tình trạng đô la hoá
Đô la hoá đã làm phức tạp nhiệm vụ quản lý chính sách tiền tệ của các nước
Mỹ La tinh. Tình trạng này làm cho hệ thống tài chính dễ bị tổn thương,
NHTW chần chừ trong việc thả nổi đồng nội tệ vì các tác động có hại của
việc phá giá có thể gây tổn thất cho những người tham gia thị trường không
có bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Để đối phó tình trạng đô la hoá, các NHTW đã phải
nâng cao hơn độ tin cậy, trách nhiệm của họ bằng cách cố gắng đạt được mục
tiêu lạm phát đã đề ra, đồng thời tạo ra các công cụ để nâng cao khả năng
cạnh tranh của đồng nội tệ với USD, tăng cường sự kiểm soát nghiêm ngặt
các hoạt động ngoại hối và rủi ro tỷ giá của các trung gian tài chính.


*Đối phó với dòng vốn chảy vào
Ngoài cuộc chiến với lạm phát và đô la hóa, NHTW các nước Mỹ La tinh
còn phải đối mặt với những thách thức từ sự tăng lên của dòng vốn chảy vào.
Đồng nội tệ có khuynh hướng lên giá làm cho NHTW bối rối trong chính sách
đáp trả. Nếu tăng lãi suất thì càng hấp dẫn thêm luồng vốn nước ngoài và nếu
để đồng nội tệ lên giá lại có tác hại đến việc giảm thâm thụt cán cân mậu dịch
và càng làm cho lạm phát gia tăng.
Để đối phó với tình trạng này, NHTW các nước Mỹ La tinh đã chọn mục
tiêu ổn định giá cả, chỉ can thiệp vào thị trường ngoại hối khi thị trường có
biến động quá mức. Các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực canh tranh về
chất lượng hàng hoá và giá cả, Chính phủ đẩy mạnh cải cách cơ cấu giúp cho
nền kịnh tế linh hoạt hơn, có khả năng chống đỡ với cú sốc từ bên ngoài
*Ngăn ngừa khủng hoảng ngân hàng
Cái giá phải trả cho khủng hoảng ngân hàng là vô cùng to lớn do sự đổ vỡ
có tính hệ thống ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và lòng tin của công
chúng đối với ngân hàng. Do vậy, thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc ngăn
chặn khủng hoảng ngân hàng là cực kỳ cần thiết, cần trao quyền cho các nhà
quản lý ngân hàng để giải quyết những vấn đề đảm bảo tính thanh khoản và

khả năng trả nợ từ khi mới chớm nở; thiết lập hệ thống cảnh bảo sớm cho hệ
thống ngân hàng, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tái cấu trúc ngân hàng và
các giải pháp cần được cải tiến để giải quyết các vấn đề khủng hoảng ngân
hàng nhằm ít gây tổn thất và có hiệu quả nhất.
Những năm 90 của thế kỷ trước, các nước Mỹ La tinh đã xẩy ra các cuộc
khủng hoảng ngân hàng làm cho lạm phát tăng, suy giảm tăng trưởng kinh tế,
đe dọa xảy ra khủng hoảng tiền tệ. Chính phủ Mỹ La tinh đã giữ được mức
thâm thụt ngân sách ở mức có thể kiểm soát được, điều này rất quan trọng bởi
vì tài trợ cho chi tiêu công với nguồn lực từ NHTW sẽ dẫn tới việc tăng tỷ lệ
nợ/GDP. Từ đó có thể dẫn tới sự tăng lãi suất thực và chỉ số “ rủi ro quốc
gia”; những nhân tố này làm giảm khả năng điều hành chính sách tiền tệ và
tăng tổn thất cho nền kinh tế trong khi đang theo đuổi chính sách giảm lạm
phát. Nếu chính sách tài khoá bất ổn có thể dẫn đến khủng hoảng tiền tệ như ở
Brazil năm 1999 hoặc khủng hoảng ngân hàng và nợ quốc gia của Argentina
năm 2002


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG
2.1.Khái niệm chung về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực
lưu thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các
biện pháp như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự
trữ ngoại tệ, tái chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất... để đáp
ứng kịp thời nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản
xuất, kinh doanh trong một giai đoạn nhất định
2.2.Mục tiêu của chính sách tiền tệ
a.Về mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát
triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức

mong muốn Hiện nay hầu hết NH TW các nước đều theo đuổi mục tiêu cuối
cùng của CSTT là ổn định giá cả ở mức hợp lý, bởi vì suy cho cùng sự ổn
định giá cả sẽ hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.


b.Về mục tiêu trung gian
IMF đã chia mục tiêu trung gian thành 3 loại:
+ Mục tiêu trung gian là tổng tiền (M1 hoặc M2, hoặc D-tín dụng nền
kinh tế): Phản ứng chính sách trong mục tiêu tổng tiền là khi mức tăng tiền
vượt mức mục tiêu phải tăng lãi suất, và khi mức tăng tiền dưới mức mục tiêu
phải hạ lãi suất.
+ Mục tiêu trung gian là tỷ giá: Là điều hành CSTT hướng về tỷ giá
mục tiêu. Mục tiêu này thường được thực hiện trong điều kiện là nền kinh tế
mở và CSTT của nước chọn mục tiêu trung gian là tỷ giá phụ thuộc vào chính
sách tiền tệ của nước neo tỷ giá. Phản ứng chính sách khi theo đuổi mục tiêu
này là khi tỷ giá thấp hơn so với mục tiêu thì phải tăng lãi suất, và ngược lại
khi tỷ giá cao hơn mục tiêu thì phải hạ lãi suất.
+ Mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường: Lựa chọn lãi suất là mục
tiêu trung gian đồng nghĩa với sự hạn chế tác động của sự biến động mức cầu
tiền đến tổng cầu của nền kinh tế. Khi NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian là
lãi suất thị trường thì không thể đồng thời chọn tổng tiền là mục tiêu trung
gian, do vậy khi đó NHTW phải chấp nhận sự giao động tăng hoặc giảm tổng
tiền để duy trì mức lãi suất theo mục tiêu.
c.Về mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ, nghĩa là NHTW có thể tác
động hay kiểm soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi
mục tiêu trung gian, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Cũng
như mục tiêu trung gian, mục tiêu hoạt động cũng được chia thành hai loại
mục tiêu:
+ Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ: Nghĩa là NHTW kiểm soát lãi

suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng


+ Mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ: Tức là kiểm soát tiền cơ
bản (MB), hoặc các cấu thành của nó, gồm Dự trữ quốc tế ròng, Dự trữ của
các NHTM, hoặc Net tài sản có trong nước trên bảng cân đối của NHTW.
2.3.Các công cụ của chính sách tiền tệ
Gồm có 6 công cụ sau:
a. Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương
đối với các Ngân hàng thương mại.
Khi NHTW cần tăng thêm lượng tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái
cấp vốn xuống. Điều này khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá
cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên.Ngược lại,
khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái
cấp vốn lên.Lúc này, một mặt làm tăng chi phí tín dụng lên nhằm hạn chế các
NHTM có ý định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp
xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là
người cho vạy cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng
thương mại, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm
chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế.
b. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện
cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng
thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động tới cả khối
lượng và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại từ đó tác động đến
khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng
thương mại.Khi lạm phát cao, NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng
cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền
tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới



lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm
phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương
mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng
tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như
trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Công cụ
DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan
trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp
nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết
khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền
kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ
trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó
kiểm soát. Mặt khác khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung
ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng
thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định
cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát
cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít được sử dụng trên thế giới (đặc biệt
là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định)
c. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung
ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín
dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. Ngược lại,
khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, dẫn tới tăng khối lượng tiền
tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng
thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ thị trường mở,
ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng



thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào
khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là
lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo", điều khiển mạnh mà không
chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của
NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói
chung, ổn định lạm phát nói riêng.
d. Công cụ lãi suất tín dụng: là tổng thể những chủ trương chính sách và
giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị
trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay, cầm cố giấy
tờ có giá....) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản
lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh
tế. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng đối với
nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu, chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW
sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với
các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng.Và
cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các
chủ thể trong nền kinh tế.
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền
kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi
suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch giữa lãi suất bình quân… Thực
chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép,
các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có
các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn
lãi suất tối đa hợp lý.


Vì vậy, lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách
tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Lãi suất

không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhưng
sự tăng hay giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm suản suất.
Do đó nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm.
e. Công cụ hạn mức tín dụng: khống chế mức tăng khối lượng tín
dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà
Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi
cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp
mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng
của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng
trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Qua sử dụng hạn
mức tín dụng, NHTW điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp
với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền
tăng quá mức trong lưu thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho
từng NHTM. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn
mức tín dụng được quy định.Nếu NHTM cho vạy vượt quá hạn mức tín dụng
quy định sẽ bị sử phạt.
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu
thông.Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá
chặt chẽ tổng lượng tiền trong cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu
quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ
gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu quả.


f. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng
nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là
biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy
điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nước
Nhằm phát huy tính hiệu quả trong việc ổn định thị trường tài chính và nâng

cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá nước
ngoài, việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp cũng đã và đang
là vấn đề được quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng có
nhiều dấu hiệu chưa bền vững và tình hình lạm phát gia tăng.Về mặt lý
thuyết, tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế thực thông qua các
nhân tố của sản xuất (vốn và lao động), đầu tư và tăng năng suất lao động.
Điều này được phản ánh qua mức tăng trưởng thương mại quốc tế. Đồng thời,
tỷ giá hối đoái thay đổi cũng làm thay đổi mức giá tương đối của hàng hoá và
dịch vụ bằng đồng tiền trong nước và đồng tiền nước ngoài. Do đó, tỷ giá sẽ
có ảnh hưởng nhất định đến tăng trưởng kinh tế và ổn định vĩ mô, nhưng mức
độ ảnh hương phụ thuộc nhiều cơ cấu hàng xuất - nhập khẩu và vào cơ chế tỷ
giá được áp dụng tại từng thời kì.


CHƯƠNG 3: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
3.1. GIAI ĐOẠN 2010 - 2012
3.1.1.Diễn biến lạm phát 2010
Mức lạm phát 2 con số của Việt Nam trong năm 2010 đã chính thức
được khẳng định. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so
với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%.

Diễn biến giá tiêu dùng trong năm 2009 - 2010. Số liệu: Tổng cục
Thống kê
Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giáo dục mới là nhóm tăng
giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn
(16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là
nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Trong tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những
tháng trước (lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả



năm 2010, giá vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ
10%
3.1.2. Diễn biến lạm phát trong năm 2010 - 2011
Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 12/2010 của cả nước tăng 1,98%. Con số lạm phát 11,75% vượt gần 5%
so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra đầu năm (8%)
Trong khi đó nếu tính bình quân theo từng tháng thì lạm phát năm 2010
tăng 9,19% so với năm 2009.
Năm 2011, lạm phát cũng đầy biến động, lên tới gần 20% đã buộc Việt
Nam phải chuyển trọng tâm chính sách từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang ưu
tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát thông qua những biện phát nêu
trong Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Nghị quyết số 01/2012/NQ-CP.
Trọng tâm của chính sách kiềm chế lạm phát là thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh
tế vĩ mô đi đôi với kiểm soát chặt chẽ thị trường và giá cả.
Một vài nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong những năm 2010 – 2011
và những năm trước đó như sau:
- Chi tiêu ngân sách ngày càng lớn. Chi tiêu năm ssau cao hơn năm
trước. Đành rằng do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi các điều kiện
cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng, đồ thị, khắc phục hậu quả
thiên nhiên... nhưng vẫn tồn tại nhiều những khoản chi thừa, không cần thiết
khiến cung tiền tệ tăng. Chưa kể nhiều vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân
sách thấp, nhiều công trình xây dựng, nhiều dự án kéo dài, tốn kém (ví dụ như
dự án xây dựng tòa nhà đa năng trường Đại học Kinh tế Quốc dân). Những
khoản chi này đưa 1 lượng tiền mặt rất lớn ra thị trường.
- Thứ 2, quản lí tiền mặt kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều
đơn vị như ngân hàng Nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng, công ty bảo hiểm liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Với
quá nhiều các tổ chức tài chính mọc lên, quy mô hầu hết là vừa và nhỏ không
đủ sức cạnh tranh, bộ máy ngân hàng cồng kềnh từ Trung ương đến cơ sở dẫn

đến vô vàn những sai phạm về cho vay tín dụng dẫn đến tình trạng nợ xấu ở


×