Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

GIÁO TRÌNH NỘI DUNG HỌC PHẦN GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.55 KB, 14 trang )

NỘI DUNG HỌC PHẦN GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
BÀI 1: GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
1. Giáo dục là gì?
Giáo dục là một hiện tượng của xã hội thể hiện ở việc truyền đạt những kinh nghiệm
mà loài người đã tích lũy được từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Tại sao gọi giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt?
Để tồn tại và phát triển con người cũng như mọi sinh vật khác phải luôn luôn tự
vận động và phát triển mọi tiềm năng và sức mạnh bản chất của mình nhằm tạo ra
những điều kiện thuận lợi để thoả mãn nhu cầu và thích ứng, hoà nhịp với môi trường
sống. Những thành tựu của sự vận động và phát triển ấy không mất đi mà được tích
luỹ dần, được củng cố và để lại dấu vết.
Đối với sinh vật, sự tích luỹ ấy được ghi lại trong cơ thể của chúng hoặc trong
những bản năng và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ở con người, ngoài sự thay đổi trong cấu trúc cơ thể như mọi sinh vật khác, những
thành tựu trong sự phát triển sức mạnh vật chất và tinh thần trong quá trình cải tạo
và thích ứng với môi trường còn được lưu giữ lại trong một dạng hoàn thiện đặc
biệt: đó là những kinh nghiệm hoạt động của loài người. Chúng được khái quát hoá
tạo ra nền văn hoá nhân loại, được lưu tồn dưới những dạng vật chất và tinh thần
và truyền lại cho con cháu.
Khác với mọi sinh vật khác, hoạt động của con người mang tính sáng tạo và
sinh lợi. Tiếp thu kinh nghiệm của thế hệ trước sẽ giúp con người giảm nhẹ điều kiện
làm việc và đưa đến những năng suất lao động mới.
Việc truyền thụ kinh nghiệm cho các thế hệ sau mà người ta gọi là hoạt động
giáo dục là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người. Vì vậy, đây là
công việc quan trọng hàng đầu của con người ở mọi thời đại, là hiện tượng xã hội đặc
biệt.
2. Tính xã hội của giáo dục
- Mục đích giáo dục do xã hội đặt ra và tổ chức thực hiện thông qua giáo dục.
Phương tiện giáo dục con người là kinh nghiệm xã hội đã được khái quát hoá
thành các giá trị vật chất và tinh thần mà ta gọi là văn hoá. Các giá trị vật chất và tinh


thần này được lưu tồn trong kho tàng văn hoá nhân loại để phổ biến cho thế hệ hiện tại
và lưu truyền cho các thế hệ sau. Lịch sử loài người càng phát triển thì kho tàng văn
hoá của loài người càng tăng và tốc độ phát triển của loài người ngày càng tăng nhanh
hơn và tăng mãi.
- Người điều khiển quá trình giáo dục là người đại diện xã hội.
- Kết quả giáo dục do xã hội do sử dụng.
Như vậy, từ mục đích, phương tiện, người điều khiển đến kết quả giáo dục đều
do xã hội quyết định. Hơn nữa, giáo dục là một hiện tượng xã hội mà bất cứ người nào
muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải tham gia. Như vậy, có thể khẳng định giáo
dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
3. Chức năng xã hội của giáo dục
Nhìn chung, giáo dục có 3 chức năng - nhiệm vụ cơ bản:
Chức năng kinh tế - sản xuất;
Chức năng chính trị - xã hội;
Chức năng tư tưởng - văn hoá.


a). Chức năng kinh tế - sản xuất
Chức năng quan trọng nhất mà xã hội đặt ra cho giáo dục là chức năng kinh tế sản xuất. Giáo dục không thực hiện trực tiếp chức năng này mà thông qua con người,
thông qua hệ thống nguồn nhân lực mà giáo dục đào tạo nên. Do được trang bị hệ
thống tri thức, kỹ năng và kỹ xảo thích hợp và hiện đại, nhà trường sẽ cung cấp cho xã
hội đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân có trình độ cao hơn, thông minh
hơn, khéo léo hơn, làm việc có hiệu quả hơn trong các lĩnh vực kinh tế - sản xuất khác
nhau.
Để thực hiện tốt chức năng kinh tế - sản xuất, giáo dục phải thoả mãn một số
yêu cầu cơ bản sau đây:
+ Giáo dục phải gắn bó với sự phát triển kinh tế - sản xuất thoả mãn các yêu
cầu phát triển kinh tế - sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể (hiện nay là phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước).
+ Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát

triển kinh tế - sản xuất của đất nước.
+ Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh
tình trạng thừa thầy, thiếu thợ (chiếc nón ngược) như hiện nay.
+ Có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất cao, thoả mãn các yêu cầu
sản xuất hiện đại.
b). Chức năng chính trị - xã hội
Chức năng chính trị - xã hội của giáo dục bao gồm những nội dung cụ thể sau
đây:
+ Trang bị cho thế hệ đang lớn lên cũng như toàn thể xã hội lý tưởng phấn đấu
vì một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
+ Thông qua việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá cho toàn dân,
thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực góp phần xoá đói, giảm nghèo, góp phần
chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi cấu trúc lao động xã hội và tạo ra sự bình đẳng
trong các tầng lớp dân cư.
+ Góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh thần "do dân và vì
dân".
c). Chức năng văn hoá - tư tưởng
+ Giáo dục có tác dụng ta lớn trong việc hình thành và phát triển ở thế hệ trẻ
bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc như:
Tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, hiếu học, cần kiệm... của
dân tộc.
+ góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức, thế
giới quan, ý thức hệ và chuẩn mực xã hội.
Điều đáng chú ý là giáo dục thực hiện các chức năng xã hội của mình không
phải bằng con đường trực tiếp, mà chủ yếu là thông qua con người do hệ thống giáo
dục đào tạo ra.
Thông qua con người mà nó đào tạo, giáo dục đã tác động đến toàn bộ nền kinh
tế - xã hội của đất nước, cho nên người ta thường nói giáo dục tạo ra sức mạnh của
một nước, tương lai của dân tộc. Vì vậy, giáo dục là quốc sách hàng đầu trong giai
đoạn cách mạng mới.

4. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục
- Qua phân tích chức năng, nhiệm vụ của giáo dục đối với xã hội ta thấy giáo
dục có ảnh hưởng rất to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, sự phát triển


xã hội quy định mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp giáo dục. Vậy xã hội có ảnh
hưởng như thế nào đến giáo dục?
Xã hội là môi trường rộng lớn trong đó giáo dục được sinh ra, được nuôi dưỡng
và phát triển. Vì vậy, xã hội có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển giáo dục thông
qua các thành phần đa dạng của nó như: kinh tế, chính trị, văn hoá...
Một đất nước nghèo đói, khoa học, công nghệ, nền sản xuất không phát triển thì
giáo dục làm sao phát triển được?
Một chính quyền mà thi hành chính sách ngu dân, một dân tộc không biết tôn
vinh những bậc hiền tài thì văn hoá, giáo dục không thể phát triển được.
Đặc điểm trên về mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội được các nhà giáo dục
gọi là tính quy định của xã hội đối với giáo dục và xem như là một tính quy luật quan
trọng của giáo dục.
Nói nôm na, giáo dục chịu sự giới hạn, sự khống chế của xã hội; giáo dục
không vượt qua khuôn khổ, ngoài tầm cỡ của xã hội được, xã hội là "vòng kim cô" của
giáo dục.
Vì vậy, khi hoạch định các kế hoạch giáo dục cần chú ý đến sự phù hợp, sự gắn
kết giữa giáo dục với sự phát triển kinh tế xã hội, giáo dục phải phục vụ sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một
nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" thì giáo
dục cũng phải hướng vào lý tưởng đó của dân tộc qua việc thực hiện tốt các nhiệm vụ:
Nâng cao dân trí;
Đào tạo nguồn nhân lực;
Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
II. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

Chương này sẽ chứng minh rằng giáo dục học là một khoa học. Điều đó có nghĩa là
việc dạy học, giáo dục con người không phải là một việc làm tuỳ tiện. Muốn cho
việc dạy học cũng như công tác giáo dục nói chung có hiệu quả, đạt chất lượng cao
người thầy phải tuân theo những bài bản, những quy trình nhất định có tính quy
luật. Vì vậy, người thầy giáo phải học tập lý luận, rèn luyện tay nghề chu đáo trước
khi bắt tay vào nghề "làm thầy".
Vì mỗi khoa học đều có đối tượng, hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật và
phương pháp riêng, nên để chứng minh giáo dục học là một khoa học, phải trả lời
được câu hỏi: đối tượng, khái niệm, phạm trù, phương pháp... của giáo dục học là gì?
1. ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
a). Đối tượng của giáo dục học
Trước khi nghiên cứu đối tượng giáo dục học, ta hãy tìm hiểu đối tượng của
khoa học nói chung.
Đối tượng của một khoa học là vùng, miền, lĩnh vực của thực tiễn khách quan
mà khoa học đó nghiên cứu. Mỗi khoa học có một đối tượng riêng và trong việc quản
lý hệ thống các lĩnh vực khoa học nó có ký hiệu riêng mà người ta thường gọi là mã
số.
Đối tượng của giáo dục học là một vấn đề đã được trao đổi, thảo luận và biên
soạn trong nhiều tài liệu khác nhau.
Tuy nhiên, đến nay, đối tượng của giáo dục học được nhiều người thừa nhận là
quá trình dạy học - giáo dục.
Quá trình dạy học - giáo dục là một quá trình xã hội phức tạp, nhiều mặt và lâu
dài. Đó là một khái niệm rất quan trọng và khó, sẽ được giới thiệu chi tiết hơn ở mục


sau. Nhưng từ đây có thể xem quá trình dạy học - giáo dục là một hệ thống gồm các
yếu tố sau đây:
Mục đích giáo dục;
Nội dung giáo dục;
Phương pháp giáo dục;

Hình thức giáo dục;
Phương tiện giáo dục;
Kiểm tra và đánh giá trong giáo dục.
Quá trình dạy học - giáo dục diễn ra liên tục, bao gồm nhiều hoạt động, nhiều
quá trình kế tiếp nhau: giờ học, năm học, cấp học... Mỗi quá trình có mục đích riêng
ngày càng được nâng cao và vận động từ điểm xuất phát tới mục đích cuối cùng.
Vận dụng mô hình trên đây cho các lứa tuổi và bậc học khác nhau (mẫu giáo,
phổ thông, đại học), ở các vùng địa lý khác nhau (thành thị, nông thôn, miền núi...),
các quy mô khác nhau (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc...) ta sẽ có những mô hình dạy học giáo dục cụ thể.
Quá trình dạy học - giáo dục cũng có thể được tiếp cận dưới các quan điểm
khoa học khác nhau: nhận thức luận, tâm lý học, xã hội học, điều khiển học, kinh tế
học...
Nếu quan niệm quá trình dạy học - giáo dục như trên thì phạm vi nghiên cứu
bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn. Nhưng trước một đối tượng rộng lớn như vậy, điều
quan trọng là trong từng giai đoạn phải xác định được một số điểm trọng tâm nhằm
làm cho việc tổ chức nghiên cứu có tính định hướng và tập trung, tránh tản mạn là một
trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến hiệu quả giáo dục thấp.
Mặt khác, dạy học - giáo dục là một hiện tượng xã hội xuất hiện sớm trong lịch
sử loài người, giáo dục học và khoa học giáo dục nói chung đã ra đời từ nhiều thế kỷ.
Nhưng hệ thống tri thức giáo dục phát triển chậm, đến nay vẫn còn nghèo, chưa giải
quyết được nhiều vấn đề xã hội đặt ra. Điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm những giải pháp
kiên quyết, tích cực, có hệ thống nhằm phát triển nhanh chóng hệ thống tri thức giáo
dục học.
b)Cấu trúc của quá trình giáo dục (nghĩa rộng)
Để tìm hiểu bản chất một sự vật, hiện tượng hoặc quá trình nào đó thì nghiên
cứu cấu trúc của nó là một trong những vấn đề cơ bản nhất, bởi vì cấu trúc là nội dung
bên trong quan trọng nhất của mọi hiện tượng, quá trình.
Theo lý thuyết cấu trúc hệ thống, để mô tả cấu trúc của hệ thống nào đấy phải trình
bày:
+ Các yếu tố tạo thành hệ thống;

+ Mối liên hệ giữa các yếu tố của hệ thống.
+ Môi trường mà hệ thống tồn tại.
Vận dụng lý thuyết cấu trúc hệ thống vào việc nghiên cứu quá trình giáo dục, ta
thấy cấu trúc quá trình giáo dục như sau:
Các yếu tố:
- Nhìn từ ngoài vào thì giáo dục (nghĩa rộng) có hai yếu tố chính là: dạy học và
giáo dục (nghĩa hẹp).
Mỗi yếu tố lại là một hệ thống con với những thành phần hẹp hơn. Thí dụ, dạy
học gồm hai yếu tố tạo thành là dạy và học; giáo dục (nghĩa hẹp) có các yếu tố: tác
động giáo dục, tiếp nhận giáo dục và tự giáo dục.
- Nếu tìm hiểu sâuhơn ta thấy quá trình giáo dục là sự vận động và biến đổi, là
sự tương tác liên tục giữa các nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa thầy giáo và


học sinh để trang bị hệ thống trí thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thái độ và tạo ra sự
phát triển ở người học.
Quá trình giáo dục được tổ chức chặt chẽ và có hệ thống, bao gồm các yếu tố
sau đây: Mục đích; Nội dung; Phương pháp; Phương tiện; Hình thức; Kết quả.
Các mối liên hệ bên trong quá trình giáo dục
Giữa mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức và kết quả có
mối liên hệ rất chực chẽ. Yếu tố chỉ đạo quá trình giáo dục là mục đích giáo dục. Mục
đích giáo dục được Nhà nước quy định tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và
phát triển bản thân con người của từng giai đoạn lịch sử. Mục đích chung của quá trình
giáo dục là phát triển nhân cách toàn diện của thế hệ đang lớn lên. Bác Hồ diễn đạt nội
dung này một cách cụ thể hơn: phát triển hoàn toàn những phẩm chất và năng lực sẵn
có.
Dựa vào mục đích giáo dục, các chuyên gia biên soạn nội dung giáo dục.
Dựa vào mục đích và nội dung giáo dục, các nhà giáo dục, các thầy giáo tổ
chức quá trình giáo dục theo những phương pháp, phương tiện và hình thức đa dạng
tuỳ thuộc vào đối tượng và điều kiện giáo dục, dạy học cụ thể.

Quá trình tương tác giữa thầy, trò và nội dung giáo dục sẽ đưa đến kết quả là sự
hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và phát triển ở học sinh.
Điều đáng chú ý là kết quả giáo dục trong nhiều trường hợp có thể đánh giá
ngay, nhưng nhiều vấn đề phải một thời gian sau mới được thể hiện. Đó là điều cần
chú ý khi đánh giá các kết quả giáo dục.
Môi trường giáo dục
Quá trình giáo dục được tiến hành trong môi trường xã hội, chịu ảnh hưởng rất
to lớn của môi trường xã hội. Trước hết, nó phải đáp ứng những nhiệm vụ, những yêu
cầu do xã hội đặt ra; nó thực hiện các mục đích, nhiệm vụ giáo dục trong điều kiện mà
xã hội cung cấp cho nó, trong môi trường văn hoá, đạo đức... của xã hội.
Ngoài môi trường xã hội (vĩ mô) mà trước hết phải tính đến sự tiến bộ xã hội,
văn hoá truyền thống và sự phát triển khoa học kỹ thuật của đất nước..., cần chú ý rằng
giáo dục chịu ảnh hưởng rất lớn môi trường tự nhiên và xã hội của địa phương trường
đóng (vi mô).
Các mối liên hệ giữa môi trường và quá trình giáo dục (liên hệ bên ngoài):
Có thể kể ra một số mối liên hệ bên ngoài cơ bản nhất:
Mối liên hệ giữa yêu cầu phát triển kinh tế xã hội với mục đích giáo dục.
Mối liên hệ giữa đặc điểm truyền thống văn hoá, đạo đức và môi trường chính
trị - xã hội đối với giáo dục.
Mối liên hệ giữa điều kiện phát triển khoa học - kỹ thuật và giáo dục.
Mối liên sự giữa các phương tiện thông tin đại chúng, giữa giáo dục gia đình,
nhà trường và xã hội..
Đó là những điều mà các nhà giáo dục cần quan tâm đặc biệt.
2. Những khái niệm cơ bản của giáo dục học
- Giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình tổ chức một cách có mục đích, có kế
hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được
giáo dục, nhằm phát triển sức mạnh vật chất và tinh thần của thế hệ đang lớn lên, trên
cơ sở giúp họ chiếm lĩnh những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người.
QTGD (nghĩa rộng) = QTDH + QTGD (nghĩa hẹp)
Việc tổ chức quá trình đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên

môn, gọi là nhà giáo dục, nhà sư phạm đảm nhiệm. Nơi tổ chức chủ yếu quá trình đó
gọi là nhà trường.


Nhìn bề ngoài có thể thấy quá trình giáo dục bao gồm ba thành phần cơ bản;
thầy giáo, học sinh và tài liệu giáo khoa. Quá trình giáo dục không thể xảy ra nếu thiếu
một trong ba thành phần này.
Trong khoa học và trong đời sống, ngoài khái niệm quá trình giáo dục, ta còn
gặp các khái niệm quá trình hình thành con người, quá trình xã hội hoá con người, quá
trình hình thành nhân cách...
Quá trình hình thành con người rộng hơn quá trình giáo dục. Quá trình hình
thành con người bao gồm: các mặt sinh học, tâm lý xã hội và giáo dục học... diễn ra do
ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di truyền, kinh nghiệm, tính tích cực
của chủ thể và các nhân tố bên ngoài (ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh xã
hội...).
Quá trình hình thành con người chịu ảnh hưởng của các tác động tự phát, ngẫu
nhiên không kiểm soát được và của các tác động có mục đích, có tổ chức kiểm soát
được.
Như vậy, quá trình hình thành con người là việc làm của xã hội, chứ không
riêng của ngành giáo dục.
Quá trình xã hội hoá con người là quá trình hình thành con người nhưng chỉ bao
hàm các tác động do những nhân tố xã hội gây nên, vừa mang tính chất tự phát, ngẫu
nhiên; vừa mang tính tự giác, có mục đích, có tổ chức.
Theo nghĩa rộng, xã hội hoá con người là một quá trình hai mặt, bao gồm: một
mặt cá nhân lĩnh hội kinh nghiệm xã hội bằng cách gia nhập môi trường xã hội, hệ
thống các quan hệ xã hội; mặt khác, cá nhân tích cực tham gia vào các mối liên hệ xã
hội, bằng hoạt động sống của mình, bằng sự tham gia tích cực vào môi trường xã hội.
Tuy về lý luận hai khái niệm quá trình giáo dục và quá trình hình thành con
người được xác định tương đối rõ. Nhưng trong đời sống, trong hoạt động thực tiễn
hiện nay khái niệm quá trình giáo dục thường được mở rộng ra. Nhất là trong điều

kiện hiện đại, khi xã hội đòi hỏi phải giáo dục con người ở mọi nơi, mọi lúc, giáo dục
thường xuyên, suốt đời... thì khái niệm quá trình giáo dục trước đây được mở rộng
cũng là điều hợp lý. Đó là điều cần chú ý khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục học.
- Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng), là quá trình tác
động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo...) để phát triển những
năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục.
Thế mạnh của dạy học là hình thành hệ thống tri thức (bao gồm các khái niệm,
phạm trù, quy luật, phương pháp nhận thức...), hình thành các kỹ năng và kỹ xảo
chung và riêng, làm cơ sở cho việc hình thành năng lực chung, năng lực chuyên biệt
và phẩm chất của người học.
Bằng con đường nhận thức lý luận, những kinh nghiệm đồ sộ của xã hội loài
người có thể được khái quát hoá và truyền thụ cho thế hệ đang lớn lên trong một thời
gian ngắn và có hệ thống. Nhờ đó, họ có điều kiện để kế thừa và phát triển sức mạnh
tinh thần và vật chất của bản thân và vào việc phát triển xã hội. Đó là vai trò quan
trọng đặc biệt của dạy học.
- Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng), là
quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, tình cảm, thái độ...
Việc hình thành lý tưởng, niềm tin, thái độ... là thế mạnh của quá trình giáo dục
và thường được tiến hành thông qua sinh hoạt tập thể, các hoạt động xã hội, lao động
xã hội công ích, trong và ngoài nhà trường...


Tóm loại, mối quan hệ giữa quá trình giáo dục (QTGD) theo nghĩa rộng, quá
trình dạy học (QTDH) và QTGD theo nghĩa hẹp có thể biểu diễn dưới dạng sau:
QTGD (nghĩa rộng) = QTDH + QTGD (nghĩa hẹp)
Chú ý: Công thức trên đây tuy đơn giản, dễ hiểu và dễ nhớ, nhưng khi sử dụng
nên chú ý một số vấn đề sau:
- QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) đều có một mục đích chung là đào tạo con
người phát triển toàn diện, nhưng mỗi quá trình có một thế mạnh riêng.

- QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) trong thực tế luôn luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau, rất ít trường hợp xảy ra một cách độc lập. Thí dụ, trước khi tổ chức hoạt động
giáo dục như cho các em tham quan một di tích lịch sử, tiến hành một hoạt động xã hội
công ích, bao giờ cũng phải giới thiệu mục đích, ý nghĩa, lịch sử vấn đề... nghĩa là phải
thực hiện một quá trình dạy học.
- QTDH không chỉ làm nhiệm vụ hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng và kỹ
xảo... Bởi vì, khi các em đã nhận thức được vấn đề bao giờ cũng có thái độ với nó, dầu
thầy giáo có chú ý đến điều đó hay không. Tuy nhiên, thái độ của các em phụ thuộc rất
lớn và nghệ thuật trình bày vấn đề và thái độ của thầy giáo.
- Trong thực tiễn dạy học hiện nay, nhà trường thường tập trung mọi nỗ lực của
mình vào quá trình dạy học, ít chú ý đến quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) nghĩa là ít tổ
chức sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội, hoạt động lao động công ích và lao động sản
xuất...; ít chú ý đến việc học tập, rèn luyện trong đời sống, vận dụng kiến thức để giải
quyết các vấn đề thực tiễn, không có điều kiện rèn luyện ý chí, phẩm chất và năng lực
ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên học sinh rất bỡ ngỡ khi bước vào cuộc
sống. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng giáo dục
hiện nay.
Vì vậy, việc tách quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) ra khỏi quá trình dạy học là để
nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống nhà trường.
3. Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác
Như đã trình bày ở trên, giáo dục là một hiện tượng xã hội, do đó, giáo dục học
là một khoa học xã hội. Trong quá trình hoạt động và phát triển, giữa giáo dục học với
các khoa học xã hội cũng như với các khoa học tự nhiên đã có những mối liên hệ mật
thiết. Những mối liên hệ này càng phát triển đa dạng và nhiều chiều thì việc khám phá
những tri thức mới về giáo dục học càng tăng.
a). Trước hết phải nói đến mối quan hệ giữa triết học và giáo dục học
Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã
hội và tư duy con người, cho nên nó cũng là nền tảng khoa học cho sự phát triển của
giáo dục học. Đồng thời, có một số vấn đề chung mà cả triết học và giáo dục học đều
quan tâm. Đó là các vấn đề: sự hình thành con người và mục đích giáo dục; mối liên

hệ qua lại giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác; lý luận về hoạt động
của con người và phương pháp đào tạo con người; lý luận về văn hoá và nội dung học
vấn phổ thông, việc hình thành thế giới quan Mác - Lênin cho thế hệ trẻ; mối quan hệ
qua lại giữa tập thể và cá nhân v.v...
b). Xã hội học, thông qua việc nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội đối
với con người và các quan hệ giữa con người, đã vạch ra những đặc điểm phát triển
kinh tế, văn hoá của xã hội và ảnh hưởng của chúng đến sự hình thành nhân cách con
người, giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề về mục đích và nội dung giáo
dục, cũng như về sự tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc
giáo dục trẻ.


c). Đạo đức học, thông qua việc nghiên cứu các học thuyết về đạo đức, bản chất
của đạo đức, các nguyên tắc và các phạm trù đạo đức, đã trực tiếp giúp giáo dục học
giải quyết các vấn đề về giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
d). Mĩ học, thông qua việc nghiên cứu các tính quy luật về sự phát triển các
quan hệ thẩm mĩ của con người với hiện thực và với nghệ thuật, nghiên cứu các tính
quy luật về sự hình thành các lý tưởng thẩm mĩ, đã tạo cơ sở khoa học cho giáo dục
học giải quyết các con đường và các phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho thế hệ trẻ.
e). Các khoa học xã hội khác, như lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học, kinh tế
học, lý luận nhà nước và pháp quyền v.v... cũng đã cung cấp những cơ sở khoa học
quan trọng cho việc nghiên cứu các vấn đề nội dung và phương pháp giáo dục và dạy
học, tổ chức và quản lý giáo dục.
Đối tượng của công tác dạy học và giáo dục là con người đang lớn lên, đang phát
triển. Vì vậy, giáo dục học liên quan chặt chẽ với một số các khoa học nghiên cứu
về con người, nghiên cứu các tính quy luật của sự phát triển thể chất, tâm lý của
con người: Con người như một cơ thể sống là lĩnh vực nghiên cứu của sinh lý học;
Con người như một nhân cách với thế giới tâm lý bên trong của nó, là lĩnh vực
nghiên cứu của tâm lý học. Giáo dục học cũng nghiên cứu con người song không
phải nghiên cứu từng mặt riêng lẻ của sự phát triển con người, mà nghiên cứu con

người trong tính tổng thể, toàn vẹn thông qua các mặt: đức, trí, thể, mỹ... và nghiên
cứu các con đường tối ưu để hình thành nhân cách toàn vẹn của con người.
Giữa giáo dục học với sinh lý học và tâm lý học, có những mối liên hệ trực tiếp
hết sức chặt chẽ.
f). Sinh lý học được coi là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học, việc
nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào các tri thức của sinh lý học về sự phát triển hệ
thống thần kinh cao cấp, về các đặc điểm của các loại hình thần kinh, về hoạt động của
hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự vận động, về hệ thống tim mạch và hô
hấp v.v...
g). Tâm lý học là khoa học về các hiện tượng, các tính quy luật và các cơ chế
của tâm lý như là cái quy định sự phản ánh tích cực của con người đối với hiện thực
khách quan và điều chỉnh hành vi con người. Tâm lý học nghiên cứu các quá trình, các
trạng thái và các phẩm chất tâm lý muôn màu muôn vẻ, là những cái được hình thành
trong quá trình phát triển của con người, và quá trình tác động qua lại giữa con người
và môi trường xung quanh. Được xây dựng trên lý thuyết về hoạt động của con người,
tâm lý học đã võ trang cho giáo dục học những tri thức khoa học các cơ chế diễn biến
và các điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách của con
người, theo từng lứa tuổi, trong từng loại hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ
chức các quá trình sư phạm.
x. Trong thời gian gần đây, giáo dục học còn liên hệ chặt chẽ với điều khiển
học, là khoa học về việc điều khiển tối ưu các hệ thống động phức tạp, là khoa học
nghiên cứu lôgíc của những quá trình trong tự nhiên và trong xã hội, xác định những
cái chung quy định những điều kiện vận hành các quá trình đó. Cái chung đó có mặt
của một trung tâm điều khiển, có mặt của khách thể bị điều khiển, và sự thực hiện điều
khiển thông qua các kênh liên hệ thuận nghịch.
Mối liên hệ giữa giáo dục học với các khoa học kể trên được thực hiện dưới các
hình thức hết sức khác nhau; cùng nhau nghiên cứu những vấn đề chung, giáo dục
học sử dụng các cứ liệu, các thuật ngữ và các luận điểm của khoa học khác; vận
dụng phương pháp của các khoa học khác trong việc nghiên cứu giáo dục học v.v...



Mối liên hệ của các khoa học trên đây đối với giáo dục học là hết sức chặt chẽ,
nhưng từ thực tế phát triển lý luận giáo dục học và nhà trường, phải kể đến vai trò đặc
biệt quan trọng của triết học, tâm lý học, xã hội học, điều khiển học...

BÀI 2 : GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Có 3 nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển nhân cách. Đó là:
Di truyền;
Môi trường;
Và giáo dục.
Trong ba nhân tố này thì giáo dục giữ vai trò quan trọng và quyết định.
Sau đây ta nghiên cứu vai trò của di truyền và môi trường đối với việc hình thành và
phát triển nhân cách.
1. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách
Từ thực tiễn ta thấy rằng: da bố trắng thi da con cũng trắng; mắt bố đen thì mắt con
cũng đen, mà đen ngay từ khi mới sinh. Nhưng bố nói giỏi tiếng Pháp chẳng hạn, thì khi mới
đẻ ra con có nói được tiếng Pháp không? Như vậy, hiện tượng di truyền là có thật, nhưng cái
gì di truyền được, cái gì không, và di truyền có ảnh hưởng thế nào đến sự phát triển nhân
cách? Đó là một vấn đề rất phức tạp.
Di truyền là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những phẩm chất và những đặc điểm
nhất định đã được ghi lại trong chương trình các gen. Một số thuộc tính sinh học trẻ có ngay
sau khi mới sinh, được gọi là những thuộc tính bẩm sinh.
Chương trình mang tính di truyền về sự phát triển con người bảo đảm cho loài người
tiếp tục tồn tại, đồng thời giúp cho con người thích ứng với những biến đổi của các điều kiện
tồn tại của nó. Những thuọc tính được di truyền của cơ thể bao gồm cấu trúc giải phẫu - sinh
lý của cơ thể, những đặc điểm của cơ thể người như màu da, màu mắt, màu tóc, vóc dáng, thể
trạng, về dáng đi đứng thẳng, các phẩm chất của hệ thần kinh v.v...
Vấn đề di truyền những tư chất và những năng lực thuộc một lĩnh vực hoạt động nhất
định (nghệ thuật, toán học, xây dựng...) ở trẻ em là một vấn đề quan trọng trong lý luận giáo

dục học.
Nhà giáo dục cần phải khai thác những tư chất và những năng lực vốn có của trẻ, phải
xác định tính chất và phương hướng của những sức sống đó, những đặc điểm của những say
mê, những khuynh hướng và những hứng thú của trẻ.
Song khả năng này có trở thành hiện thực hay không, còn phụ thuộc vào những điều
kiện sống và giáo dục của người đó.
Hiện tượng thừa kế tài năng trong một số gia đình, nghĩa là sự xuất hiện liên tục nhiều
người có tài, qua nhiều thế hệ, phần lớn không chỉ là do sự di truyền những tư chất nhất định,
mà còn do trong những gia đình đó, trẻ em được giáo dục trong bầu không khí hoà hứng, say
mê đối với một loại hình hoạt động nhất định và được lôi cuốn tham gia rất sơm vào những
hoạt động đó.
Cần chú ý thêm là những tư chất được di truyền chỉ đặc trưng cho những lĩnh vực hoạt
động hết sức rộng rãi, bao quát. Những tư chất đó không định hướng vào một lĩnh vực hoạt
động hay sáng tạo cụ thể nào.
Những tư chất đó có sẵn trong cấu trúc của não, trong các cơ quan cảm giác, các cơ
quan vận động ngôn ngữ và trở thành một trong những điều kiện để sau này thực hiện có kết
quả một hoạt động cụ thể nào đó, mà bản thân con người đã chọn lựa dưới ảnh hưởng của
những điều kiện và những hoàn cảnh sống. Song sự thành công trong lĩnh vực hoạt động đó
phần lớn phụ thuộc vào lao động học tập và rèn luyện cần cù, vào thực tiễn và vào việc tích
luỹ những kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động đó của mỗi cá nhân.


Nhìn chung, sự phát triển các quá trình nhận thức và khả năng tiếp thu học vấn của
những người lành mạnh về thể chất và bình thường về tâm lý phần lớn là do những điều kiện
dạy và học quyết định.
Tuy thừa nhận hiện tượng không đồng đều về mặt sinh học song chúng ta chủ yếu tập
trung vào việc tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tất cả mọi người, để mỗi người đều có thể
phát triển những tư chất và những năng lực hiện có của mình. Một hệ thống giáo dục tiến bộ
phải đảm bảo những điều kiện bình đẳng cho sự phát triển toàn diện của mọi người, đồng thời
không coi nhẹ việc đối xử thích hợp với từng học sinh theo những đặc điểm cá nhân của họ.

Khoa học giáo dục đã khẳng định rằng tất cả các phẩm chất tâm lý của nhân cách đều
chỉ có thể có được trong quá trình hoạt động hoạt động và giao lưu với người khác. Khi mới
lọt lòng, con người không có sẵn một chương trình định trước nào cả về các hành vi tốt hay
xấu. Quá trình hình thành những phẩm chất nhân cách ở con người khi mới sinh là bắt đầu từ
số 0.
Ở mỗi người, quá trình hình thành các phẩm chất đó được diễn ra trong những điều
kiện độc đáo, không lặp lại (và ngay trong trường hợp các điều kiện bên ngoài có giống nhau
đi nữa, thì phản ứng của mỗi người đối với cái đó cũng sẽ khác nhau); do đó mỗi người đều
được phát triển theo kiểu của mình, đều hình thành cho mình thái độ cá nhân đối với thế giới.
Sự phát triển con người về mặt sinh học là một quá trình hết sức phức tạp. Những cơ
quan và các hệ thống khác nhau trong con người trong các giai đoạn lứa tuổi khác nhau
thường phát triển một cách khác nhau.
2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách
Tục ngữ ta có câu: "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", như vậy, từ xa xưa ông cha đã thừa
nhận môi trường ảnh hưởng đến tâm lý - nhân cách con người. Vậy môi trường có ảnh hưởng
như thế nào đến sự hình thành nhân cách, đó là vấn đề các nhà giáo dục cần nắm vững.
- Môi trường là hệ thống phức tạp các hoàn cảnh, các điều kiện tự nhiên và xã hội
xung quanh trẻ. Có môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm
các điều kiện tự nhiên - sinh thái, phục vụ cho học tập, lao động, rèn luyện sức khoẻ, vui chơi,
nghỉ ngơi của con người. Môi trường xã hội bao gồm: môi trường chính trị, môi trường kinh
tế - sản xuất, môi trường sinh hoạt xã hội, môi trường văn hoá...
Khi nói đến ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách, giáo
dục học trước hết và chủ yếu muốn nhấn mạnh đến môi trường xã hội và quan niệm rằng, để
phát triển các tư chất, vốn chỉ có ở người (ngôn ngữ, tư duy, dáng đi đứng thẳng) thì cần phải
có xã hội loài người.
Nếu những trẻ em sơ sinh bị lạc và sinh sống trong các bầy đàn động vật, thì những tư
chất có tính người nói trên sẽ không phát triển được.
Môi trường xã hội được phân thành môi trường lớn và môi trường nhỏ. Môi trường
lớn được đặc trưng chủ yếu bởi tính chất của nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, hệ
thống các quan hệ sản xuất, và các quan hệ xã hội, tính chất diễn biến của quá trình xã hội,

tính chất hoạt động của các thể chế xã hội. Chính hệ thống các quan hệ chính trị, kinh tế, tư
tưởng được thiết lập trong xã hội đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân
cách, thông qua việc quy định địa vị giai cấp, địa vị xã hội của người đó.
Môi trường nhỏ là một bộ phận của môi trường lớn, trực tiếp bao quanh trẻ, bao gồm:
gia đình, họ hàng, làng xóm, nhà trường, đoàn đội, bạn bè, người thân... Chính môi trường
nhỏ, môi trường trực tiếp bao quanh trẻ này mang tính cá biệt, độc đáo, không lặp lại. Môi
trường nhỏ tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến trẻ. Môi trường lớn ảnh hưởng đến trẻ thông
qua môi trường nhỏ. Đồng thời môi trường nhỏ mang tính độc lập tương đối, chịu sự biến đổi
dễ dàng và nhanh chóng hơn.
- Trong sự tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường cần chú ý hai mặt của vấn
đề: a) Sự tác động của hoàn cảnh sinh hoạt đã phản ánh vào nhân cách; b) Tính tích cực của
nhân cách tác động đến hoàn cảnh nhằm làm cho hoàn cảnh đó phục vụ nhu cầu và lợi ích của
mình. Hai mặt nói trên có mỗi liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau.


Điều đó có nghĩa là cần thống nhất quá trình giáo dục con người với quá trình cải tạo
xã hội, cần gắn chặt từng bước giáo dục và học tập với các nhiệm vụ chính trị - xã hội. Đó là
một quy luật quan trọng của quá trình giáo dục. Do đó, phải tổ chức cho học sinh tích cực
tham gia vào việc cải tạo và xây dựng môi trường theo những yêu cầu của xã hội.
3. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
Giáo dục là sự tác động của những nhân cách này đến những nhân cách khác: tác động
của người giáo dục đến người được giáo dục, tác động của những người được giáo dục với
nhau.
Đó là nhìn bề ngoài. Thực chất, đó là sự truyền kinh nghiệm xã hội loài người từ
người này sang người khác.
Tác động đó có thể trực tiếp giữa thầy và trò, giữa tập thể và cá nhân, có thể gián tiếp
thông qua sách giáo khoa, tài liệu khoa học, tác phẩm văn hoá. Dưới dạng thông báo, truyền
đạt, chỉ bảo, làm mẫu, nêu gương v.v... tác động đó luôn luôn có tính mục đích: người tác
động luôn luôn ý thức được hậu quả của tác động. Đồng thời, tác động đó mang tính chất
tương tác: hành động bắt chước, thực hành của người được giáo dục buộc người giáo dục phải

ý thức lại những tác động của mình để điều chỉnh và hoàn thiện những tác động đó.
Những đặc trưng của loại tác động này là: a) Tính mục đích, tính chủ động, tính tổ
chức của nó, chứ không mang tính tản mạn, ngẫu nhiên như các tác động khác của môi
trường; b) Do những người được xã hội phân công chuyên trách có sự cộng tác với các lực
lượng xã hội, có dẫn dắt của đội ngũ chuyên trách này.
Nếu môi trường xã hội được cải tạo và xây dựng theo những mục đích trùng hợp với
những mục đích giáo dục, thì tác dụng của giáo dục được nhân lên gấp bội và rất to lớn. Khi
đó, mục đích xây dựng xã hội cũng như mục đích giáo dục đều hướng vào việc hình thành
những nhân cách phát triển toàn diện và hài hoà - những người lao động chủ động, sáng tạo
của xã hội.
Chúng ta đang phấn đấu theo hướng xã hội hoá giáo dục để nhà trường trở thành một
trung tâm giáo dục của địa phương, có nhiệm vụ tập hợp, phối hợp tất cả các nhân tố của môi
trường, tác động đến sự hình thành nhân cách của trẻ, đặc biệt là kết hợp chặt chẽ các lực
lượng giáo dục trong xã hội: nhà trường, gia đình, đoàn thanh niên và đội thiếu niên, các cơ
sở sản xuất, các tổ chức, các đoàn thể xã hội khác ở địa phương.
2. Mối quan hệ giữa giáo dục và tính tích cực cá nhân trong sự phát triển nhân cách
Mặt khác, không nên quan niệm giáo dục chỉ là sự tác động một chiều của các lực
lượng giáo dục đến nhân cách người được giáo dục. Giáo dục bao gồm cả hoạt động tích cực,
đa dạng của người được giáo dục.
Chính thông qua những loại hình hoạt động tích cực, tự giác của người học mà nhân
cách của người học được hình thành và phát triển. Như vậy, tác động của nhà giáo dục chủ
yếu được thực hiện dưới các dạng: tổ chức, chỉ dẫn, điều chỉnh, kích thích, kiểm tra, đánh giá
v.v... hoạt động và giao lưu của người được giáo dục.
Nói cách khác, giáo dục phải bao gồm cả dạy và học, bao gồm cả hoạt động tích cực,
chủ động, có ý thức, có mục đích của người học nhằm hình thành và phát triển nhân cách của
bản thân. Có kết hợp chặt chẽ tác động tích cực, chủ động của người được giáo dục, có kết
hợp chặt chẽ giáo dục với tự giáo dục, có biến quá trình giáo dục thành một hệ thống các loại
hình hoạt động và giao lưu có tổ chức và có lãnh đạo của người được giáo dục, thì giáo dục
mới có tác động to lớn đến sự hình thành nhân cách của trẻ.
3. Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách

Để giáo dục đạt được hiệu quả cao và giữ được vai trò chủ đạo trong việc hình thành
và phát triển nhân cách, nhà giáo dục cần phải tính đến và phát huy triệt để những điều kiện
bên trong, bao gồm các sức sống tự nhiên vốn có ở trẻ, các tư chất vốn có ở con người.
Những thí nghiệm "giáo dục" vượn con trong những điều kiện giống hệt như với trẻ
em, đã chứng minh rằng những vượn con đó, mặc dù cũng được tiếp xúc với người, được


nuôi dưỡng và chăm sóc như trẻ nhỏ, vẫn không thể có được một phẩm chất tâm lý nào của
người.
Những tư chất tự nhiên của con người chịu ảnh hưởng khác nhau đối với từng mặt
giáo dục, do đó vai trò của giáo dục đối với từng mặt phát triển nhân cách cũng không giống
nhau. Việc dạy âm nhạc làm phát triển thính giác và các dây thanh quản; việc tập luyện thể
dục thể thao góp phần phát triển cơ thể, tăng cường sức khoẻ...
Trong sự phát triển các sức mạnh trí tuệ và các năng lực nhận thức, việc dạy học lại có
tác dụng to lớn, nếu được xây dựng theo nguyên tắc phát triển, hướng vào "vùng phát triển
gần", "đòn trước" sự phát triển của quá trình tâm lý. Đặc biệt, giáo dục và các điều kiện sinh
hoạt có thể làm ức chế hoặc hưng phấn các kiểu hoạt động thần kinh cấp cao có tính chất bẩm
sinh, do đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quá trình nhận thức cũng như các phẩm chất tâm
lý nhân cách.
Trong việc phát huy những điều kiện bên trong, cần làm cho người học ý thức được và
chấp nhận những yêu cầu của nhà giáo dục, như là yêu cầu của chính mình, như là nguyện
vọng của bản thân và mong muốn thực hiện những yêu cầu đó; cần giúp cho người học tự đề
ra những mục tiêu phấn đấu cho mình trong các hoạt động và trong cuộc sống, tự thiết kế
chương trình và kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng và tự rèn luyện những phẩm chất và những
năng lực mới cho bản thân.
Với một nền giáo dục quán triệt các yêu cầu nói trên: cùng chung tính chất và phương
hướng với môi trường xã hội; kết hợp chặt chẽ với các tác động đa dạng của môi trường xã
hội; tổ chức các loại hình hoạt động toàn diện và sáng tạo của người học trong các quan hệ xã
hội tích cực, đặc biệt là việc học tập được kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, tính đến các
tư chất tự nhiên, các đặc điểm của quá trình tự giáo dục v.v... giáo dục học khẳng định vai trò

quyết định và hướng dẫn của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách của học sinh: và quá
trình giáo dục chính là hình thức phổ quát và tất yếu, hình thức tổ chức chủ yếu sự phát triển
nhân cách của trẻ.
4. Mối tương quan giữa di truyền, môi trường và giáo dục trong việc hình thành và phát
triển nhân cách
Trên đây ta đã nói có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân
cách: di truyền, môi trường và giáo dục, trong đó giáo dục đóng vai trò chủ đạo.
Thật vậy, giáo dục với tính: Mục đích; Kế hoạch; Chuyên trách; Xã hội...
Như đã nêu trên, có thể tổ chức đào tạo theo một chương trình hợp lý và khoa học
nhất, đảm bảo việc hình thành và phát triển nhân cách đạt hiệu quả tối ưu, mà di truyền và
môi trường không thể nào đạt được.
Thí dụ: Một em bé phát triển bình thường, nghĩa là nhân tố di truyền bình thường,
được nuôi trong một môi trường tốt, thì em đó sẽ trở thành người tốt, nhưng nếu không được
học hành thì không thể biết đọc, biết viết, càng không giải được những bài toán phức tạp,
không nắm được khoa học, công nghệ và những thông tin cần thiết cho một thế giới hội
nhập... là điều mà mỗi con người hiện đại đều phải biết.
Như vậy, giáo dục giữ vao trò chủ đạo, có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và
phát triển nhân cách. Chính vì vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục trong việc đào tạo con
người như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xem "Giáo dục là quốc sách hàng đầu".

BÀI 3: MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC
4. Những nhiệm vụ giáo dục nhằm thực hiện mục đích, mục tiêu giáo dục
Để thực hiện được những mục đích, mục tiêu giáo dục, người thầy giáo phải thực hiện
nhiều nhiệm vụ khác nhau. Những nhiệm vụ này được phân thành nhiều nhóm, cụ thể là:
- Võ trang tri thức và giáo dục trí tuệ (goi tắt là trí dục);
- Giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức (đức dục);
- Giáo dục lao động, đào tạo kỹ thuật tổng hợp và huấn luyện nghề nghiệp (giáo dục lao
động);



- Giáo dục thẩm mỹ (mỹ dục);
- Giáo dục thể chất và huấn luyện quân sự phổ thông (thể dục).
Những lĩnh vực này còn được xem như là những mặt giáo dục. Nội dung của những
nhiệm vụ này chính là những nội dung cơ bản của sự phát triển toàn diện nhân cách của người
học sinh Việt Nam. Một số nhiệm vụ khác như: giáo dục pháp luật, giáo dục kinh tế, sinh thái,
môi trường, giáo dục giới tính, giáo dục dân số được tích hợp vào 5 lĩnh vực đã nêu trên. Sau
đây ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn từng nhiệm vụ.
4.1. Trí dục bao gồm:
- Võ trang cho học sinh vốn tri thức phổ thông cơ bản, có hệ thống, hiện đại, phù hợp với
những yêu cầu của tiến bộ khoa học - kỹ thuật và tiến bộ xã hội, phản ánh thực tiễn đất nước.
- Phát triển những sức mạnh trí tuệ và những năng lực hoạt động nhận thức (quan sát, ghi nhớ,
tưởng tượng, tư duy) của học sinh, bồi dưỡng những phẩm chất tư duy (mềm dẻo, hệ thống,
sâu, rộng, độc lập, sáng tạo...) cho học sinh.
- Hình thành ở các em những cơ sở của thế giới quan khoa học, duy vật biện chứng.
- Rèn luyện kỹ năng vận dụng và thói quen thực hành những tri thức đã học để giải quyết
những nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn.
- Phát triển nhu cầu về học vấn, nhu cầu thường xuyên bổ sung và mở rộng hiểu biết, nắm
vững phương pháp để tiếp tục học thêm mãi, rèn luyện những thói quen văn hoá lao động trí
óc.
4.2. Đức dục bao gồm
- Làm cho học sinh có được thế giới quan khoa học, hiểu được những tính quy luật cơ bản của
sự phát triển xã hội.Tin tưởng và có ý thức phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
- Làm cho học sinh nắm vững những vấn đề chủ yếu trong đường lối chính sách đối nội và
đối ngoại của Đảng trong sự nghiệp cải tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nắm được những cơ
sở pháp luật của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có ý thức sống và làm việc theo
pháp luật.
- Làm cho học sinh thấm nhuần nguyên tắc và những chuẩn mực của đạo đức như: yêu nước,
đoàn kết, nhân ái, hiếu học, dũng cảm, cần kiệm, giản dị, lạc quan, ý thức trách nhiệm, tinh
thần kỷ luật, tinh thần quý trọng và bảo vệ của công, ý thức bảo vệ môi trường, động cơ và

thái độ học tập đúng đắn v.v...
- Xây dựng cho học sinh tính tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội, đấu tranh
chống các tư tưởng phản động, chống lối sống lạc hậu, bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan.
4.3. Giáo dục lao động bao gồm:
- Giáo dục cho học sinh thái độ quý trọng mọi công việc lao động có ích cho xã hội và quý
trọng người lao động; có thói quen lao động hăng say, cần cù, bền bỉ, chu đáo, có trách nhiệm,
có kỷ luật, có kỹ thuật; không ngừng vươn tới năng suất và hiệu quả cao;
- Cung cấp học vấn kỹ thuật tổng hợp cho học sinh, cung cấp cho học sinh những tri thức về
kinh tế, về quản lý sản xuất, phát triển tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế, những năng lực lao
động sáng tạo của học sinh;
- Tổ chức việc định hướng và lựa chọn ngành nghề cho học sinh và biết đánh giá khả năng
của bản thân để lựa chọn đúng đắn những ngành nghề thích hợp và tự giác rèn luyện bản thân
về mọi mặt để chuẩn bị tốt cho những ngành nghề đó...
4.4. Thể dục bao gồm:
- Giữ gìn, bồi bổ, rèn luyện sức khoẻ cho học sinh, góp phần phát triển đúng đắn thể chất và
nâng cao năng lực làm việc của cơ thể;
- Xây dựng và hoàn thiện các kỹ năng vận động của học sinh, huấn luyện các hình thái vận
động mới cùng với việc vũ trang những tri thức liên quan;
- Phát triển các phẩm chất vận động cơ bản như: mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo, bền bỉ v.v.
- Xây dựng thói quen và hình thành hứng thú tập luyện thể dục thường xuyên và có hệ thống;
- Trau dồi các thói quen và các tri thức về vệ sinh cá nhân và xã hội, vệ sinh học tập và lao
động, vệ sinh tập luyện cơ thể và sinh hoạt;


- Rèn luyện tính dũng cảm, tính kiên trì, tinh thần kỷ luật, tinh thần tập thể, tính đồng đội, nếp
sống văn minh;
- Cung cấp cho học sinh những hiểu biết phổ thông về quốc phòng, tập luyện cho học sinh
những kỹ năng quân sự thường thức, giáo dục lòng trung thành với Tổ quốc và lòng tự hoà
dân tộc, ý thức cảnh giác và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, tính tổ chức, tính kỷ luật v.v...
4.5. Mỹ dục bao gồm:

- Phát triển ở học sinh những năng lực cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, trong nghệ thuật, trong
đời sống, trong quan hệ giữa người và người.
- Giáo dục cho học sinh thị hiếu thẩm mỹ, năng lực đánh giá cái đẹp.
- Xây dựng cho học sinh thái độ thẩm mỹ tích cực đối với hiện thực, bao gồm những hành
động tích cực nhằm giữ gìn và bảo vệ cái đẹp; lòng mong muốn sáng tạo cái đẹp, đem cái đẹp
vào đời sống xung quanh.
Việc phân tích các nhiệm vụ chủ yếu của trí dục, đức dục, giáo dục lao động, thể dục,
mỹ dục... là cốt để hình dung được đầy đủ về nội dung cơ bản của quá trình giáo dục và phát
triển toàn diện nhân cách. Trong thực tế, các "mặt" giáo dục: trí tuệ, đạo đức, lao động v.v...
không tồn tại một cách riêng biệt và mỗi mặt đều chứa đựng những khả năng giải quyết đồng
thời một số nhiệm vụ giáo dục khác, trong đó có những nhiệm vụ được giải quyết đầy đủ hơn,
mạnh mẽ hơn, "trội" hơn.
Do đó, cần thiết phải có quan điểm tiếp cận phức hợp trong việc tổ chức quá trình giáo
dục, nhằm kết hợp tối ưu tất cả các loại tác động sư phạm để thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo
dục nhằm phát triển toàn diện và hài hoà nhân cách ở mỗi học sinh. Trái lại, nếu thổi phồng
một cách phiến diện ý nghĩa của một mặt hay một nhiệm vụ giáo dục nào đó mà bỏ quên,
hoặc coi nhẹ các nhiệm vụ khác, thì ngay cả mặt giáo dục, nhiệm vụ giáo dục đó sẽ không
được thực hiện tốt, mà còn tạo nên những lệch lạc, méo mó trong sự phát triển nhân cách
người học, gây trở ngại lớn cho những bước phát triển về sau của nhân cách học sinh.
Trong thực tế hiện nay, phần lớn các trường tập trung mọi nỗ lực vào công tác trí dục,
học cốt để thi để đạt tỷ lệ lên lớp nhiều, tốt nghiệp cao, mà chưa chú ý đúng mức tới giáo dục
toàn diện.
Đó là nguyên nhân cơ bản làm giảm chất lượng giáo dục, cần có biện pháp khắc phục
hữu hiệu và kiên quyết.
Trên đây ta đã trình bày 5 mặt giáo dục để hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện. Khi đánh giá nhân cách người ta thường dựa vào những tiêu chí này.
Tuy nhiên, đánh giá nhân cách còn được tiến hành qua một hệ thống tiêu chí mới. Đó
là: Định hướng giá trị; Khả năng thích ứng; Đặc điểm trí tuệ; Thực trạng sức khoẻ; Trách
nhiệm công dân...
Đặc biệt, "Định hướng giá trị" là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng về lý thuyết và

thực tiễn giáo dục.



×