Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Bài tiểu luận Tranh chấp quốc tế và giải quyết tranh chấp tại ICJ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.67 KB, 46 trang )

DANH SÁCH NHÓM 10
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Nguyễn Hoàng Trà My
Nguyễn Thị Hồng Cẩm
Nguyễn Thị Thu Hiền
Nguyễn Thị Ngọc Huyền
Phan Hoàng Phi Loan
Nguyễn Thúy Mai
Bùi Thị Thảo Ngọc
Văn Thảo Nguyên

K11502 1507
K12502 1766
K12502 1787
K12502 1791
K12502 1808
K12502 1811
K12502 1818
K12502 1820

1



MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc
tế, có rất nhiều các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng,
môi trường… Tất cả đều phản ánh lợi ích đa dạng và phong phú của các chủ thể luật
quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế. Chính vì vậy khi thiết lập và thực hiện các quan
hệ diễn ra giữa các chủ thể của luật quốc tế thì tranh chấp, bất đồng giữa các chủ thể là
điều không thể tránh khỏi. Tùy thuộc vào quy mô và tính chất của tranh chấp, các tranh
chấp quốc tế luôn tiềm ẩn nguy cơ làm bất ổn và gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát
triển quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực, liên khu vực và trên toàn thế giới.
Vì vậy, khi các tranh chấp không may xảy ra thì yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết
xung đột đồng thời giảm thiểu sự tổn hại đến các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể đặc
biệt là các quốc gia xuất phát từ nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Việc
giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình có thể được thực hiện bởi nhiều cách thức
khác nhau và ngày càng trở nên hiệu quả. Và một trong những cách thức đó là giải
quyết tranh chấp thông qua Tòa án công lý quốc tế (ICJ).
Thông qua bài tiểu luận này, nhóm chúng em muốn tìm hiểu sâu hơn về các tranh
chấp quốc tế và giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể của luật quốc tế, đặc biệt là các
quốc gia, đồng thời tìm hiểu về Tòa án công lý quốc tế (ICJ) và cách thức giải quyết
tranh chấp tại Tòa.
 Chú thích từ ngữ:

Trong bài có sử dụng một số từ ngữ rút gọn:
-

Tòa: Tòa án Công lý quốc tế, gọi tắt là ICJ
Pháp viện: Pháp viện thường trực quốc tế
Nội quy: Nội quy của Tòa án Công lý quốc tế
Quy chế: Quy chế Tòa án Công lý quốc tế
Hiến chương: Hiến chương của Liên Hợp Quốc
Bị vong lục: Văn bản ngoại giao trình bày một vấn đề và khẳng định lập trường của

quốc gia

MỤC LỤC
2


3


1. Tranh chấp quốc tế và giải
1.1.
Tranh chấp quốc tế
1.1.1. Khái niệm.

quyết tranh chấp quốc tế.

Hiện nay chưa có định nghĩa thống nhất về tranh chấp quốc tế trong các văn bản
pháp lý. Tuy nhiên căn cứ vào thực tiễn của pháp luật quốc tế hiện nay. Ta có thể hiểu
một cách chung nhất về tranh chấp quốc tế như sau: “Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh
thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược nhau hoặc
mâu thuẫn với nhau, và có những yêu cầu, hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau. Đó là sự
không thỏa thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa đến sự mâu thuẫn, đối lập
nhau về quan điểm pháp lí hoặc quyền giữa các bên chủ thể luật quốc tế với nhau”.
1.1.2.

Đặc điểm
• Chủ thể của tranh chấp quốc tế

Các chủ thể của tranh chấp quốc tế là chủ thể của luật quốc tế bao gồm các quốc gia,
các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức quốc tế liên chính phủ (tổ chức

ASEAN, EU, WTO…), và các chủ thể đặc biệt khác (Tòa thánh Vatican, Công quốc
Monaco…). Trong đó các quốc gia là chủ thể cơ bản của tranh chấp quốc tế.
Xung đột giữa các chủ thể không phải chủ thể của luật quốc tế không thể là tranh
chấp quốc tế. Do đó, cần tránh nhầm lẫn tranh chấp quốc tế với các tranh chấp khác. Ví
dụ, tranh chấp giữa các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá basa và hiệp hội chống
bán phá giá của Mỹ không phải là tranh chấp quốc tế.


Đối tượng của tranh chấp quốc tế.

Đối tượng của tranh chấp quốc tế rất đa dạng, có thể là lãnh thổ, biên giới quốc gia;
các vùng lãnh thổ quốc gia có quyền chủ quyền trên biển như vùng tiếp giáp lãnh hải,
đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Đối tượng tranh chấp quốc tế cũng có thể là một điều
ước quốc tế hay tập quán quốc tế; các sự kiện pháp lý quốc tế diễn ra trong quan hệ
quốc tế nhưng chúng tạo ra tranh chấp, bất đồng về quan điểm chính trị giữa các quốc
gia trong việc giải thích hoặc ủng hộ hoặc phản đối các sự kiện đó; hoặc có thể là tư
cách thành viên của quốc gia tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ.


Nội dung của tranh chấp quốc tế
4


Nội dung tranh chấp quốc tế chính là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên
quan đến chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ, dân cư, quyền tài phán quốc gia, quyền
và nghĩa vụ của quốc gia trong các quan hệ kinh tế thương mại, an ninh quốc phòng…
Nội dung của tranh chấp quốc tế cũng có thể là cách giải thích và thực hiện luật quốc tế
(điều ước quốc tế, tập quán quốc tế), hoặc quan điểm của các chủ thể luật quốc tế khi
đánh giá, giải thích các sự kiện pháp lý quốc tế…



Khách thể của tranh chấp quốc tế.

Khách thể tranh chấp quốc tế chính là các quyền và lợi ích vật chất hoặc tinh thần
mà các bên tranh chấp hoặc cộng đồng quốc tế muốn hướng tới và đạt được. Ví dụ, vụ
việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam với các bên liên quan
như Trung Quốc, Malaixia, Philippin, Brunay, và vùng lãnh thổ Đài Loan chính là sự
mong muốn và khẳng định chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo này của các bên
tranh chấp. Hoặc là việc các quốc gia lên án, phản đối những quốc gia có hành vi phá
hoại môi trường, vi phạm nghiêm trọng quyền con người như diệt chủng, phân biệt
chủng tộc… là nhằm bảo vệ môi trường sống của nhân loại, bảo vệ con người.


Cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp quốc tế.

Dựa vào nội dung mà các điều ước quốc tế được áp dụng để giải quyết tranh chấp
quốc tế có thể chia làm hai loại.
-

Một là, các điều ước quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể luật quốc tế
như Hiến chương Liên hợp quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á,
Hiệp ước Bali (1976), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, quyền
kinh tế, văn hóa xã hội của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1966, các hiệp
định, hiệp ước… được kí kết nhằm điều chỉnh quan hệ chính trị, kinh tế, thương
mại, hàng hải, hàng không… giữa các quốc gia với nhau.

-

Hai là, các điều ước quốc tế quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết
tranh chấp quốc tế như Công ước La Haye về hòa bình giải quyết tranh chấp

quốc tế 1899; Quy chế tòa án công lý quốc tế 1945… Các điều ước này được coi
là “luật tố tụng” để các bên tranh chấp và các cơ quan tài phán quốc tế có thẩm
5


quyền giải quyết tranh chấp áp dụng để thực hiện các hành vi pháp lý trong quá
trình giải quyết tranh chấp.

Phân loại tranh chấp quốc tế.

1.1.3.

Ta có thể phân loại tranh chấp quốc tế như sau và mỗi cách phân loại được dựa trên
những tiêu chí nhất định.
-

Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia
Tranh chấp song phương: tranh chấp giữa hai bên (tranh chấp quần đảo Kurin

-

giữa Nga với Nhật Bản).
Tranh chấp đa phương: tranh chấp giữa nhiều bên bao gồm tranh chấp có tính



khu vực và tranh chấp có tính toàn cầu (tranh chấp về quần đảo Trường Sa giữa
Việt Nam với Trung Quốc, Philippin, Malaixia, Brunay, Đài Loan).



Căn cứ vào tính chất của tranh chấp
Tranh chấp có tính chính trị: Thường là tranh chấp về chủ quyền quốc gia đối

-

với dân cư, lãnh thổ, về lợi ích giữa các bên… liên quan dến các đòi hỏi phải
thay đổi các quy định hiện hành, gắn liền với quyền và nghĩa vụ của các bên.
Tranh chấp thuộc loại này thường rất nguy hiểm, do tính chất phức tạp và có thể
tiềm ẩn khả năng bùng phát các cuộc xung đột, đe dọa hòa bình, ổn định khu vực
cũng như của thế giới.
Ví dụ: Căng thẳng giữa Nicaragua và Costa Rica bùng nổ xung quanh việc
Nicaragua đang xúc tiến việc đào một con kênh và đốn hạ cây trên hòn đảo
Calero trên sông San Juan. Nicaragua bác bỏ việc binh lính của họ xâm nhập
lãnh thổ Costa Rica trong khi nước này khẳng định lãnh thổ của họ bị xâm
phạm.
Tranh chấp có tính pháp lý: là những tranh chấp giữa các bên liên quan đến sự

-

bất đồng trong viêc giải thích hoặc áp dụng các quy định hiện hành, như những
tranh chấp về giải thích điều ước quốc tế, về các sự kiện vi phạm nghĩa vụ quốc
tế; hoặc các tranh chấp về kinh tế - thương mại hoặc tranh chấp về thẩm quyền
tài phán giữa các quốc gia trong các vụ việc cụ thể…


Căn cứ vào đối tượng tranh chấp
6


-


Tranh chấp lãnh thổ biên giới quốc gia;
Tranh chấp các vùng quốc gia có quyền chủ quyền trên biển như tiếp giáp lãnh

-

hải, đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa;
Tranh chấp tư cách thành viên của quốc gia tại tổ chức quốc tế; tranh chấp thẩm

-

quyền tài phán đối với các vụ việc cụ thể giữa các quốc gia;
Tranh chấp thẩm quyền bảo hộ ngoại giao giữa các quốc gia;
Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế.


-

Căn cứ vào chủ thể của tranh chấp
Tranh chấp giữa các quốc gia với nhau;
Tranh chấp giữa quốc gia với với các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc với các
chủ thể khác của luật quốc tế (tranh chấp quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và
Đài Loan)…



Căn cứ vào sự ảnh hưởng của tranh chấp đối với hòa bình và an ninh quốc tế

-


Tranh chấp nghiêm trọng: là những tranh chấp có khả năng đe dọa đến hòa bình
và an ninh quốc tế như tranh chấp hạt nhân giữa Cộng hòa dân chủ nhân dân

-

Triều Tiên với Mỹ và các bên liên quan như Nhật Bản, Hàn Quốc…
Tranh chấp quốc tế thông thường: là những tranh chấp không có nguy cơ phá
hoại hòa bình và an ninh quốc tế như tranh chấp về kinh tế, thương mại, y tế,
môi trường… nhưng có tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên cách phân loại này chỉ mang tính tương đối, vì trên thực tế khi có tranh

chấp muốn phân biệt chúng không dễ dàng. Ví dụ tranh chấp giữa Thái Lan và
Campuchia liên quan đến ngôi đền Preah Vihear nếu xét về tiêu chí chủ thể là tranh
chấp song phương, nhưng xét về mặt tính chất thì lại là tranh chấp có tính chính trị.
1.2.
1.2.1.

Giải quyết tranh chấp quốc tế
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế

Về phương diện lý luận, tranh chấp quốc tế là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể
của luật quốc tế, chủ là giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền. Xuất phát từ những đặc
trưng cơ bản của luật quốc tế như chủ thể, đối tượng điều chỉnh,...thì thẩm quyền giải
quyết tranh chấp trong luật quốc tế cũng có những điểm rất khác biệt so với luật quốc
gia. Thẩm quyền giải quyết trong luật quốc tế suy cho cùng, đều do chính các chủ thể
quyết định.

7



Ví dụ: Điều 22 Công ước về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Bất cứ tranh chấp nào,
giữa hai hay nhiều nước thành viên có liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước này mà
không được giải quyết bằng con đường đàm phán hoặc bằng các thủ tục được quy định tại
Công ước này sẽ được chuyển đến Toà án quốc tế để giải quyết theo yêu cầu của bất cứ bên
tranh chấp nào, trừ khi các bên đồng ý phương thức giải quyết khác.” Từ ví dụ nêu trên thì
thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế có thể do:
-

Thứ nhất, các bên tranh chấp trực tiếp tự giải quyết bằng con đường đàm phán.
Thứ hai, các cơ quan tài phán quốc tế mà cụ thể là Toà án quốc tế.
Thứ ba, các biện pháp khác được quy định trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989
hoặc do các bên thoả thuận.

Như vậy, dựa trên cơ sở bình đẳng, thoả thuận mà các bên thống nhất với nhau về
việc lựa chọn cơ chế, biện pháp, phương thức hay cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp.
1.2.2.

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp

Khi giải quyết các tranh chấp quốc tế, các bên liên quan hoặc các cơ quan tài phán
quốc tế phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
-

Nguyên tắc hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế (với mọi chủ thể phải giải

-

quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình)
Nguyên tắc cấm sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.


Đồng thời các bên tranh chấp cũng phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù khi giải
quyết tranh chấp như nguyên tắc thoả thuận, nguyên tắc tôn trọng và tuân thủ phán
quyết của cơ quan tài phán quốc tế…
1.2.3. Ý nghĩa việc giải quyết tranh chấp
- Thứ nhất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp, đặc biệt là

bên có vị thế yếu hơn.
Thứ hai, góp phần thúc đẩy việc thực thi tuân thủ luật quốc tế, làm cho các bên

1.2.4.

nhận thức được rằng việc tuân thủ pháp luật là chính vì lợi ích của mình.
Thứ ba, góp phần duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế.

Các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế

Dựa trên cơ sở pháp lý là điều 33 của Hiến chương Liên Hợp Quốc thì để giải quyết
tranh chấp quốc tế, các bên có thể lựa chọn các biện pháp sau:
-

Nhóm 1: Giải quyết trực tiếp tranh chấp;
8


Nhóm 2: Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba;
Nhóm 3: Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán.

-


Giải quyết trực tiếp tranh chấp


-

Khái quát

Phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện thông qua việc đàm phán
trực tiếp giữa các bên tranh chấp. Khi xảy ra tranh chấp thì các bên tiến hành thoả
thuận, đấu tranh, thương lượng, nhượng bộ để đi đến thống nhất giải quyết xung đột.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế đã chứng minh rằng, đại đa số các tranh
chấp quốc tế được giải quyết bằng biện pháp đàm phán trực tiếp (thương lượng
ngoại giao) vì đàm phán đóng vai trò rất quan trọng và được áp dụng phổ biến, rộng
rãi từ rất sớm trong lịch sử. Do đó đây là biện pháp phổ biến và hiệu quả nhất, luôn
chiếm vị trí hàng đầu trong số danh mục các biện pháp mà các chủ thể luật quốc tế
áp dụng.
Trên thực tế, đàm phán trực tiếp không chỉ sử dụng để giải quyết tranh chấp giữa
các chủ thể của luật quốc tế mà còn là phương tiện được sử dụng để trao đổi thông
tin, ý kiến về các vấn đề khác nhau, thống nhất quan điểm, đường lối, ký kết các
điều ước quốc tế.
Đàm phán có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp giải quyết tranh chấp
khác, chẳng hạn, đàm phán có thể chỉ là giai đoạn khởi đầu của một phương thức
giải quyết tranh chấp khác hoặc có thể là hệ quả của việc áp dụng các phương thức
giải quyết tranh chấp khác. Như ví dụ nêu trên về điều 22 Công ước về quyền trẻ em
năm 1989 thì nếu tranh chấp không được giải quyết bằng đàm phán trực tiếp thì se
được chuyển đến Toà án quốc tế để giải quyết.
-

Ưu điểm


So với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác thì đàm phán trực tiếp có rất
nhiều ưu thế.
+

Thứ nhất, các bên có thể dễ dàng thể hiện tự do ý chí, không bị khống chế hay
bị gây áp lực từ bên thứ ba. Và có thể do tính chất này nên đàm phán trực tiếp

+

thường được các bên lựa chọn để giải quyết hầu hết các tranh chấp.
Thứ hai, các bên có thể chủ động về thời gian và địa điểm giải quyết tranh
chấp
9


Thứ ba, do không có sự can thiệp của bên thứ ba nên với những tranh chấp có

+

tính bí mật được giữ kín và uy tín của các bên không bị ảnh hưởng trên trường
quốc tế.
+ Thứ tư, các bên tiết kiệm được chi phí giải quyết vì các bên không phải tốn lệ
-

phí mà vẫn giải quyết được tranh chấp.
Nhược điểm

Tỉ lệ thành công thấp vì phải phụ thuộc rất lớn vào thiện chí giữa các bên nên
không đảm bảo tranh chấp được giải quyết một cách hoàn toàn.



Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba
Biện pháp trung gian
-

Khái quát:

Giải pháp trung gian được quy định trong các Công ước La Haye 1899 và 1907
như là một trong các biện pháp hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Nhiệm vụ của các bên trung gian là khuyến khích, động viên các quốc gia có liên
quan đến tranh chấp giải quyết vụ tranh chấp bằng biên pháp hoà bình nào đó, cụ
thể là việc tác động để các bên tiếp xúc ngoại giao và tiến hành các cuộc đàm phán
chính thức. Bên trung gian không tham gia vào đàm phán và không đưa ra các điều
kiện giải quyết tranh chấp. Biện pháp này thực chất là các bên chấp nhận sự tham
gia của bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là một hoặc một số quốc gia; một hoặc một số
cá nhân có uy tín và cũng có thể là thông qua cơ quan của tổ chức quốc tế.
Việc đề nghị trung gian dù không có tính chất bắt buộc mà chỉ có thể là cơ sở
cho các cuộc đàm phán và thỏa thuận giữa các bên tranh chấp và họ có thể từ chối
sử dụng biện pháp trung gian qua bên thứ ba.
Giải quyết tranh chấp thông qua trung gian thường được kết thúc khi các bên
tranh chấp ký được điều ước quốc tế về giải quyết tranh chấp. Bên đóng vai trò
trung gian cũng có thể tham gia ký kết điều ước quốc tế loại này.
Ưu điểm
+ Thứ nhất, nhờ sự tác động của bên thứ ba mà các bên dễ dàng tiến đến đàm
-

phán và cùng nỗ lực giải quyết tranh chấp nên biện pháp này có tỉ lệ thành
công cao.
+ Thứ hai, do bên thứ ba là trung gian nên những kiến nghị có tính tham khảo có
thể giúp các bên trung hoà lợi ích với nhau.

10


Thứ ba, các bên chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, do bên thứ ba chỉ khuyến khích các bên ngồi lại đàm phán mà không

+
+

tham gia vào cuộc đàm phán nên các bên vẫn giữ được bí mật.
Nhược điểm
+ Thứ nhất, trong thực tế, cơ quan trung gian, nhất là khi các cường quốc giữ vai
-

trò này, không chỉ tạo cơ hội cho các bên tranh chấp tiếp xúc gặp gỡ, khuyến
nghị một số vấn đề mà còn dùng ảnh hưởng của mình để gây tác động mạnh
me với các bên nhằm mục đích để họ chấp nhận giải pháp nào đó. Vì thế các
bên bị chi phối bởi bên thứ ba.
+ Thứ hai, có thể bị sụt giảm uy tín (do sợ bên thứ ba gây ảnh hưởng lớn)
+ Thứ ba, các bên phải tốn những chi phí kèm theo.

Biện pháp hoà giải
-

Khái quát:

Biện pháp hoà giải cũng được tiến hành bởi sự tham gia của bên thứ ba. Tuy
nhiên, trong thực tế, khác với bên trung gian, vai trò của bên hoà giải thể hiện qua
việc tham gia tích cực trong các cuộc đàm phán giữa các bên tranh chấp. Người hoà
giải có thể đưa ra các kiến nghị cùng cách giải quyết của mình và soạn các dự thảo

để các bên thảo luận.
Với tư cách tham gia tích cực vào đám phán giữa các bên tranh chấp, bên hoà
giải có phạm vi quyền hạn và nghĩa vụ rộng lớn hơn, thể hiện ở việc tham gia vào
đàm phán từ đầu cho đến khi kết thúc, thậm chí có thể điều khiển cả cuộc đàm phán,
đưa ra kiến nghị hoặc đưa ra đề nghị thay đổi yêu sách của các bên tranh chấp nhằm
làm cho các bên xích lại gần nhau hơn.
Kiến nghị của bên thứ ba không có tính chất bắt buộc đối với các bên. Hoạt động
hoà giải được tiến hành theo đề nghị của các bên tranh chấp hoặc theo sáng kiến của
bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là một hoặc một số quốc gia, cá nhân hoặc tổ chức
quốc tế, không tham gia vào vụ tranh chấp.
Nhiều điều ước quốc tế song hoặc đa phương cũng quy định hoà giải là một
trong các biện pháp mà các thành viên kết ước có thể sử dụng khi có tranh chấp liên
quan đến điều ước quốc tế đó. Ví dụ như Công ước Viên năm 1969 về Luật điều
ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia, Công ước Luật biển năm 1982,…
11


Hoà giải được coi là kết thúc trong ba trường hợp sau:
Vụ tranh chấp đã kết thúc;
Các bên tranh chấp chấp nhận các kết luận, khuyến nghị,…của bên hoà giải;
Ít nhất một bên tranh chấp bác bỏ các kết luận hoặc khuyến nghị đó.
Ưu điểm
+ Thứ nhất, các bên nỗ lực giải quyết thông qua bên thứ ba có uy tín trên trường
+
+
+
-

quốc tế khuyến khích các bên ngồi vào bàn đàm phán.
+ Thứ hai, có tỉ lệ thành công cao do bên thứ ba trực tiếp tham gia vào cuộc đàm

phán bằng đưa đưa ra dự thảo giải quyết để các bên tham khảo và có tính chất
dung hoà các yêu sách của các bên.
- Nhược điểm:
+ Thứ nhất là sự can thiệp sâu của bên thứ ba nên không đảm bảo lợi ích một
cách tuyệt đối của các bên và không bảo đảm được bí mật và uy tín dễ bị sụt
giảm trên trường quốc tế.
+ Thứ hai, các bên không chủ động được về thời gian và địa điểm giải quyết
tranh chấp vì có sự tham gia trực tiếp của bên thứ ba.
+ Thứ ba, các bên tốn kém nhiều chi phí cho việc hoà giải.

Giải quyết tranh chấp thông qua tổ chức quốc tế:
-

Khái quát:

Theo biện pháp này, các quốc gia là thành viên của tổ chức quốc tế Liên Chính
phủ khi có tranh chấp xảy ra se tuân thủ theo quy trình giải quyết tranh chấp của tổ
chức quốc tế Liên Chính phủ được quy định trong các Điều ước quốc tế mà các chủ
thể trong tranh chấp đã ký kết.
Việc nâng cao vai trò của tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế và việc gia tăng
số lượng các tổ chức quốc tế đã mang lại sự thay đổi nhất định trong hệ thống các
biện pháp hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Mỗi tổ chức
quốc tế đều có đặc trưng riêng trong cơ chế giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền
của mình.
Ví dụ 1: Theo Hiến chương của Tổ chức thống nhất châu Phi (nay là Liên minh châu Phi
- AU) đã quy định việc giải quyết hoà bình các tranh chấp cần phải được thực hiện bằng
biện pháp đàm phán, trung gian, hoà giải và trọng tài (điều 3).
Ví dụ 2: Theo Hiến chương của Liên đoàn các nước Ả Rập, Hội đồng Liên đoàn có thể
đóng vai trò hoà giải, trung gian, thậm chí có thể thực hiện cả chức năng trọng tài
12



Ưu điểm:
+ Có tỉ lệ thành công cao vì các bên tranh chấp nỗ lực thực hiện do những ràng
-

buộc pháp lý với cùng một tổ chức quốc tế Liên Chính phủ.
Biện pháp này có quy trình, trình tự, thủ tục được quy định cụ thể, rõ ràng

+

trong các điều ước quốc tế mà các chủ thể trong tranh chấp đã ký kết.
- Nhược điểm:
+ Các bên trong tranh chấp se phải nhượng bộ lợi ích của mình rất nhiều do chịu
sự tác động khá sâu của tổ chức quốc tế Liên Chính phủ.
+ Không đảm bảo được bí mật cũng như uy tín trên trường quốc tế, đặc biệt là
trong nội bộ tổ chức.
+ Mất nhiều thời gian để giải quyết do quy trình phức tạp và phải chịu chi phí
cao khi giải quyết.

Giải quyết thông qua Ủy ban điều tra
-

Khái quát

Điều tra thực chất không giải quyết được tranh chấp mà chỉ giúp cho việc hiểu
một cách rõ ràng, khách quan về các sự kiện đã làm nảy sinh tranh chấp và tạo điều
kiện cho các bên tranh chấp xác nhận lại một sự kiện hoặc một hành động dẫn đến
sự bất đồng, từ đó có thể thương lượng để giải quyết tranh chấp.
Việc điều tra dựa trên cơ sở các điều ước quốc tế như Công ước Lahaye 1907 về

giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, Hiến chương Bôgôta 1948, các Công
ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh 1949,…
Cơ quan điều tra là một uỷ ban gồm một số thành viên nhất định, trong đó
thường có cả công dân các bên tranh chấp nhưng họ không đại diện cho quốc gia
mình (gần giống với Ủy ban hòa giải và cơ quan trọng tài)
Ủy ban điều tra có hai loại là Ủy ban đặc biệt (Ad hoc) và Ủy ban thường trực.
Báo cáo của Ủy ban điều tra chỉ xác nhận một cách khách quan những tình hình, sự
kiện đã xảy ra chứ không có tính chất như quyết định của trọng tài hay phán quyết
của toà án. Các bên tranh chấp có toàn quyền trong việc chấp nhận hay bác bỏ báo
cáo của Ủy ban điều tra.
-

Ưu điểm:

Vì là cơ quan chuyên môn tiến hành điều tra nên có thể biết được nguyên nhân
của tranh chấp, từ đó giúp các bên thương lượng nhằm chấm dứt tranh chấp.
13


-

Nhược điểm:

Thực tế, hoạt động của Ủy ban điều tra nhiều khi vượt quá nhiệm vụ của họ, cụ
thể là Ủy ban điều tra không chỉ “nhận xét” các sự kiện mà còn đề cập cả đến hậu
quả, bình luận về yêu sách đòi hỏi của các bên,…Ngoài ra, các bên cũng phải tốn rất
nhiều chi phí cho cuộc điều tra này.

Giải quyết thông qua Ủy ban hoà giải
-


Khái quát

Các quy định chi tiết về trình tự thành lập và hoạt động của Ủy ban hoà giải
được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng, như Văn kiện chung
về giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế năm 1928.
Thông thường, thành phần của cơ quan hoà giải gồm một số lẻ các thành viên,
được lựa chọn với tư cách cá nhân, trong đó thường có thành viên là công dân của
các bên tranh chấp và thành viên là công dân của một nước thứ ba, do cả hai bên
tranh chấp cùng thoả thuận lựa chọn. Những người được chọn thường là những nhà
ngoại giao, những luật gia có kinh nghiệm trên trường quốc tế.
Ủy ban hoà giải tự quy định thủ tục làm việc. Các kết luận hoặc khuyến nghị của
Ủy ban hoà giải được thông qua với đa số phiếu. Trong quá trình làm việc, Ủy ban
hoà giải thu thập các tin tức, tài liệu cần thiết nhằm làm sáng tỏ vụ tranh chấp, trình
bày những giải pháp được cho là hợp lý, lấy ý kiến các bên, xem xét yêu cầu và
phản đối,…Báo cáo do Ủy ban hoà giải soạn thảo không có giá trị ràng buộc các
bên tranh chấp mà chỉ là những khuyến cáo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giải
quyết tranh chấp.
-

Ưu điểm:

Các chuyên gia của Ủy ban hòa giải thường làm việc một cách khách quan nên
kết quả hoà giải se có lợi và thoả mãn cho các bên dẫn đến tỉ lệ thành công cao.
-

Nhược điểm:

Không giữ được bí mật cũng như uy tín trên trường quốc tế và Ủy ban hoà giải
có thể can thiệp quá sâu và các bên se tốn rất nhiều chi phí.

14


Giải quyết thông qua cơ quan tài phán



Thông qua Trọng tài quốc tế
-

Khái quát:

Biện pháp giải quyết thông qua trọng tài đã có từ rất sớm và được sử dụng rộng
rãi trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong tranh chấp liên quan đến việc giải thích
các điều ước quốc tế, được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế song và đa
phương như Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước Viên 1696, Công ước Luật
biển 1982,…
Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập dựa trên sự tự do
thoả thuận lựa chọn giữa các bên, vì vậy thẩm quyền của trọng tài không đương
nhiên mà chỉ phát sinh khi các bên nhất trí giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó
cho trọng tài. Thành phần của hội đồng trọng tài cũng do các bên thoả thuận và phải
đảm bảo nguyên tắc công bằng.
Có hai hình thức trọng tài:
+

Ad hoc (Trọng tài vụ việc): là những trọng tài hoạt động không thường xuyên và
là một hội đồng trọng tài với số lượng trọng tài viên là số lẻ, được thành lập để

+


giải quyết những vụ tranh chấp cụ thể, sau khi giải quyết sau thì se tự giải tán.
Trọng tài thường trực: là hội đồng trọng tài có trung tâm hoạt động thường
xuyên, có trụ sở ổn định, có cơ cấu tổ chức chặt che. Ví dụ: Trung tâm trọng tài
thường trực Lahaye (trụ sở ở Hà Lan), Trung tâm trọng tài thường trực Luật

biển,…
- Ưu điểm:
+ Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự giải quyết linh hoạt, mềm dẻo dựa trên
sự thoả thuận của các bên do đó tiết kiệm được thời gian và giải quyết kịp thời.
+ Việc giải quyết bằng trọng tài được giữ kín nên có thể giữ uy tín và bí mật.
- Nhược điểm:
Quyết định của trọng tài không có một cơ chế cưỡng chế buộc các bên thực hiện
nên việc thi hành dựa vào thiện chí của các bên và các nguyên tắc của luật quốc tế.

Thông qua Toà án quốc tế
Toà án quốc tế có hai chức năng chính là xét xử cá nhân và giải quyết tranh chấp
quốc tế (chủ yếu).
15


+

Đối với xét xử cá nhân thì do một số Tòa án có thẩm quyền như Toà Tokyo xét
xử tội phạm chiến tranh sau Thế chiến 2, Toà Campuchia xét xử Pôn Pốt Khơme đỏ, Toà Nurnberg, Toà hình sự quốc tế (ICC),… Các Tòa này xét xử các cá
nhân phạm các tội phạm chiến tranh, chống lại loài người (ví dụ như giết người
man rợ), diệt chủng (ví dụ như phát xít Đức diệt chủng người Do Thái), tội

xâm lược…
+ Đối với giải quyết tranh chấp quốc tế thì có các toà sau: Toà án Công lý quốc
tế (ICJ), Toà án châu Âu, Toà án nhân quyền châu Âu,…

Nội dung giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua Toà án công lý quốc tế se
nghiên cứu kỹ hơn ở phần sau.
2. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại Tòa án
2.1.
Khái quát về Tòa án công lý quốc tế
2.1.1. Giới thiệu

công lý quốc tế

Tòa án Công lý quốc tế (International Court of Justice - gọi tắt là ICJ) là một trong
sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc (Đại hội đồng; Hội đồng bảo an; Hội đồng kinh tế
- xã hội; Hội đồng bảo trợ; Ban thư ký và Tòa án công lý quốc tế). Trụ sở chính của
Toà đặt tại Cung điện Hòa Bình, La Hay, Hà Lan (Điều 22 khoản 1 của Quy chế).
Tòa án Công lý quốc tế được tổ chức và hoạt động theo quy chế riêng (Quy chế Tòa
án Công lý quốc tế) và là cơ quan thường trực, vì Tòa án có trụ sở cố định, có quy chế,
điều lệ, nội quy của Tòa án. Các thẩm phán của Tòa án được bầu và làm việc theo
nhiệm kỳ.
Tòa án công lý quốc tế là cơ quan chuyên môn, vì Tòa thực hiện ba chức năng cơ
bản liên quan đến pháp luật quốc tế là giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia khi các
quốc gia đồng thuận yêu cầu, đưa ra các kết luận tư pháp luật cho Hội đồng bảo an, Đại
hội đồng và các cơ quan, tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Đồng thời, Tòa án
công lý quốc tế là cơ quan có vai trò quan trọng trong việc pháp điển hóa pháp luật
quốc tế (án lệ).
Tòa án Công lý quốc tế là cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập với các cơ quan
khác của Liên Hợp Quốc. Quá trình giải quyết tranh chấp tại ICJ hoàn toàn độc lập với
các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc như Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Ban thư ký,
Hội đồng kinh tế - xã hội và Hội đồng quản thác lãnh thổ. Chính vì vậy, phán quyết của
16



Tòa không bị ràng buộc và ảnh hưởng bởi các cơ quan này trong hệ thống Liên Hợp
Quốc.
2.1.2.

Cơ sở pháp lý

Cơ sở pháp lý để Tòa hoạt động là Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945 , Quy chế
Tòa án Công lý quốc tế thông qua năm 1946 và nội quy của Tòa. Cụ thể Tòa án Công
lý quốc tế được quy định tại chương XIV, từ điều 92 đến điều 96. Theo điều 92 của
Hiến chương Liên hợp quốc, Tòa án công lý quốc tế là cơ quan tư pháp chính của Liên
hợp quốc, được thành lập và hoạt động theo quy chế của Tòa án công lý quốc tế thường
trực. Quy chế của Tòa án công lý quốc tế là một bộ phận không thể tách rời của Hiến
chương.
2.1.3.

Lịch sử hình thành

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ đã làm gián đoạn hoạt động của Pháp
viện thường trực quốc tế (Permanent Court of International Justice - PCIJ), một cơ quan
thuộc Hội quốc liên (tiền thân của tổ chức Liên Hợp Quốc ngày nay). Tình hình thế giới
thay đổi sau chiến tranh đòi hỏi phải có một tổ chức liên quốc gia mới, nhằm duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế. Cùng với đó, vấn đề đặt ra là có cần duy trì Pháp viện như
một cơ quan tài phán quốc tế hay không. Pháp viện thường trực quốc tế (PCIJ) là cơ
quan tài phán do Hội quốc liên quyết định thành lập, song tổ chức này đã giải tán. Vì
vậy, việc quyết định đổi mới thành phần các thẩm phán của Pháp viện và duy trì hoạt
động của Pháp viện đã đặt ra những khó khăn kỹ thuật khó vượt qua.
Tháng 5 -1943, một Uỷ ban không chính thức gồm 12 luật gia quốc tế của các nước
Đồng minh có mặt tại London đã được thành lập để xem xét vai trò và hoạt động của
Pháp viện thường trực quốc tế. Báo cáo năm 1944 của Uỷ ban này đã chỉ ra rằng việc
tồn tại một cơ quan tài phán quốc tế là cần thiết và Quy chế của Pháp viện se là cơ sở

cho hoạt động của một tòa án tương lai. Tuy nhiên, bản thân họ cũng không đủ thẩm
quyền để trả lời câu hỏi mang tính chính trị là tiếp tục duy trì Pháp viện thường trực
quốc tế hay thành lập một cơ quan xét xử quốc tế hoàn toàn mới.
Trong tuyên bố Mat-xcơ-va ngày 30-10-1943, Chính phủ các nước Liên Xô, Anh và
Mỹ (sau đó Trung Quốc cũng tham gia) kêu gọi sớm thành lập một tổ chức quốc tế
nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên, tuyên bố này không đề cập việc
thành lập một toà án mới cũng như cơ cấu tổ chức của nó.
17


Vấn đề chỉ được giải quyết với đề nghị của 4 cường quốc Anh, Liên xô, Mỹ và
Trung Quốc tại Dumbarton Oaks (ngày 9-10-1944) liên quan tới cơ cấu tổ chức của tổ
chức chính trị toàn cầu mới - Liên Hợp Quốc, theo đó:
- Toà án công lý quốc tế là cơ quan pháp lý chính của Liên Hợp Quốc.
- Các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc (đương nhiên) là thành viên quy chế
-

của Toà án Công lý quốc tế.
Quy chế của Toà, bộ phận hữu cơ của Hiến chương Liên hợp quốc, cần được

phát triển trên cơ sở kế thừa quy chế của Pháp viện thường trực.
- Tất cả các quốc gia không phải là thành viên Liên Hợp Quốc có thể tham gia Quy chế
của Toà với điều kiện chấp nhận các điều kiện do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đưa ra
căn cứ vào các khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.
Quyết định này đã đặt nền móng cho việc ra đời một cơ quan tài phán thường trực
mới, thay thế cho Pháp viện thường trực và mở rộng khả năng cho các quốc gia tại các
châu lục ngoài Châu Âu tham gia vào cơ chế này.
Tại hội nghị San Francisco năm 1945, với việc thông qua Hiến chương Liên Hợp
Quốc và quy chế của Liên Hợp Quốc, Toà án Công lý quốc tế, cơ quan pháp lý chính
của Liên hợp quốc, đã được khai sinh, mở ra một chương mới trong lịch sử tài phán

quốc tế. Ngày 31-1-1946, tất cả các thẩm phán của Tòa án thường trực công lý quốc tế
tuyên bố từ chức và ngày 5-2-1946, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tiến hành bầu chọn
các thẩm phán của Tòa án công lý quốc tế. Toà chính thức đi vào hoạt động từ ngày 62-1946 và chính thức thay thế Tòa án thường trực công lý quốc tế từ ngày 18-4-1946.
2.1.4.


Cơ cấu tổ chức
Thẩm phán:
Tòa án Công lý quốc tế là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn,

không căn cứ vào quốc tịch, trong số những nhân vật có phẩm chất đạo đức cao, đáp
ứng các yêu cầu đề ra ở nước họ để chỉ định giữ chức vụ xét xử cao nhất hoặc
những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế (điều 2 Quy chế của Tòa).
Quy chế của Tòa cố gắng bảo đảm sao cho không một nước nào hay một nhóm
nước có ưu thế đối với nước khác trong khi bầu cử Thẩm phán.
Tòa gồm 15 Thẩm phán, trong đó không thể có hai người có cũng một quốc tịch
(Điều 3 quy chế của Tòa).

18


Các Thẩm phán có nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại ( riêng lần bầu cử đầu
tiên có một phần ba số Thẩm phán có nhiệm kỳ 3 năm và một phần ba số Thẩm
phán có nhiệm kỳ 6 năm). Các Thẩm phán do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an bầu
ra. Bầu cử được tiến hành ba năm một lần nhằm thay đổi một phần ba thành phần
Tòa với mục đích đổi mới sức mạnh của Tòa. Trong trường hợp Đại hội đồng và
Hội đồng Bảo an lựa chọn nhiều công dân của cùng một nước trùng nhau thì người
được trúng cử se là người cao tuổi nhất. Trong khi tiến hành bầu cử các Thẩm phán
của Tòa, lá phiếu của các ủy viên thường trực cũng như không thường trực đều có
cùng giá trị. Nói một cách khác, các ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an

không được sử dụng quyền phủ quyết cho trường hợp này. Điều này đảm bảo cho
tính độc lập của các Thẩm phán không bị ảnh hưởng.
Sau khi bầu cử, khi đã có đủ 15 Thẩm phán, Tòa tiến hành bỏ phiếu kín để bầu
Chánh án và Phó Chánh án cho nhiệm kỳ 3 năm ( Điều 21 khoản 1 của Quy chế,
Điều 3 khoản 5, Điều 10 – 14, Điều 18 khoản 2 và Điều 32 của Nội quy). Điều kiện
bầu cử ở đâu cũng là đạt được đa số và không phụ thuộc vào điều kiện quốc tịch.
Danh sách của Tòa bao gồm Chánh án, Phó Chánh án, và các thẩm phán khác được
sắp xếp theo trật tự nhậm chức và sau đó là theo tuổi.
-

Tiêu chuẩn của các thẩm phán:
Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, thành viên của Tòa còn được

lựa chọn căn cứ vào các tiêu chuẩn mang tính chính trị - pháp lý.
Điều 9 của Quy chế quy định: “Khi bầu cử, các bên bỏ phiếu cần phải cân nhắc
không chỉ mỗi ứng cử viên nói riêng mà phải thỏa mãn tất cả các yêu cầu đã nêu mà
còn bảo đảm toàn bộ cơ cấu thành phần của các thẩm phán phải đại diện cho các
hình thái văn minh chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản nhất của thế giới”,
theo đó châu Phi có 3 Thẩm phán, châu Á có 3 Thẩm phán, châu Mỹ Latinh có 2
Thẩm phán, Tây Âu và các nước khác có 5 Thẩm phán, Đông Âu có 2 Thẩm phán.
Cụ thể thành phần thẩm phán hiện nay bao gồm: Hishashi Owada (Nhật Bản); Ronny
Abraham (Pháp); Kenneth Keith (New Zealand); Mohamed Bennouna (Morocco); Leonid
Skotnikov (Nga); Antonio Augusto Cancado Trindade (Braxin); Abdulqawl Ahmed Yusuf
(Somalia); Christopher Greenwood ( Anh Quốc và Bắc Ireland; Xue Hanqin (Trung Quốc);
19


Joan E. Donoghue (Hoa Kỳ); Giorgio Gaja (Ý); Julia Sebutinde (Uganda) và Dalveer
Bhandari (Ấn Độ).


Thẩm phán không được đảm nhiệm bất kỳ chức vụ chính trị hoặc hành chính nào
khác và cũng không được hoạt động nghề nghiệp nào khác. Thẩm phán được bầu
vào Tòa án công lý quốc tế phải có trình độ chuyên môn giỏi trong lĩnh vực pháp
luật quốc tế, thông thạo các ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên Hợp Quốc mà
chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Pháp (ngôn ngữ làm việc chính thức của Tòa án) và có
uy tín trên trường quốc tế.
-

Tính độc lập của các thẩm phán:

Các thẩm phán của Tòa là các thẩm phán độc lập. Họ không đại diện cho chính
phủ mình cũng như đại diện cho bất kỳ chính phủ nào.Các thành viên của Tòa án
Công lý quốc tế trong khi thực hiện chức năng của mình đều được hưởng quyền ưu
đãi và miễn trừ ngoại giao (Điều 19 Quy chế của Tòa).
Các đặc quyền này đòi hỏi các thẩm phán phải có nghĩa vụ toàn tâm toàn ý phục
vụ cho Tòa.Họ không được đảm nhận bất kỳ một nhiệm vụ chính trị hay hành chính
nào, không được tiến hành bất kỳ công việc nào khác mang tính nghề nghiệp, không
được thực hiện chức năng đại diện, luật sư, tư vấn trong bất kỳ một vụ việc nào khác
(Điều 16,17 của Quy chế Tòa án).
 Thẩm phán Ad hoc của Tòa

Thẩm phán Ad hoc là thẩm phán do một hoặc các bên tranh chấp không có thẩm
phán mang quốc tịch nước mình trong thành phần thẩm phán mà Tòa đề cử. Đây có
thể coi là một hình thức Tòa tiếp thu kinh nghiệm từ phương thức trọng tài mà lý do
chủ yếu là duy trì các thẩm phán được các bên tranh chấp lựa chọn một cách đặc
biệt.
Các thẩm phán của Tòa được lựa chọn không phụ thuộc vào quốc tịch, như vậy
se có trường hợp một trong các bên tranh chấp có thẩm phán mang quốc tịch nước
mình trong thành phần của Tòa. Để cho các bên bình đẳng trước Tòa, se có hai khả
năng: hoặc loại bỏ thẩm phán có quốc tịch của một trong các bên tranh chấp, hoặc

cho phép bên kia lựa chọn một thẩm phán Ad hoc bổ sung vào thành phần của Tòa.
20


Các thẩm phán được lựa chọn phải là những nhân vật có phẩm chất đạo đức cao,
đáp ứng các yêu cầu đề ra ở nước họ để chỉ định giữa chức vụ xét xử cao nhất, hoặc
những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế.
 Các phụ thẩm của Tòa

Quy chế ( Điều 30, Khoản 2) và nội quy (Điều 9) của Tòa còn cho phép Tòa có
thể tự quyết hoặc theo yêu cầu của các bên đưa ra trước khi kết thúc thủ tục viết, các
phụ thẩm tham gia vào các phiên họp của Tòa hay các Tòa rút gọn của Tòa, nhưng
không có quyền biểu quyết. Quy định này nhằm mục đích tranh thủ thêm sự đóng
góp của các chuyên gia lớn trong các lĩnh vực liên quan đến các hoạt động của Tòa,
nhất là trong các lĩnh vực kỹ thuật.
 Thư ký Tòa

Điều 21, khoản 2 Quy chế Tòa án cử thư ký của mình và có thể áp dụng những
biện pháp đề cử những người khác giữ trách nhiệm như vậy nếu thấy cần thiết. Ban
thư ký của Tòa là một cơ quan hành chính thường trực của Tòa và chỉ phụ thuộc vào
Tòa. Đây là một cơ quan đảm trách các dịch vụ tư pháp, là bên liên lạc giữa Tòa và
các quốc gia có chủ quyền. Đồng thời Ban thư ký cũng làm nhiệm vụ thư ký của
một cơ quan thuộc tổ chức quốc tế. Hoạt động của ban này vừa mang tính chất tư
pháp và ngoại giao, vừa đảm nhận các hoạt động hành chính, tài chính, tổ chức các
cuôc hội thảo, hội nghị và thông báo trao đổi tin tức với các tổ chức quốc tế khác.
Nhân viên của Ban thư ký được hưởng chế độ miễn trừ và các ưu đãi ngoại giao như
nhân viên của Liên hợp quốc.
Tổ chức của ban thư ký bao gồm một Chánh thư ký, có hàm ngang với Phó Tổng
thư ký Liên hợp quốc và một Phó chánh thư ký. Cả hai chức vụ này có nhiệm kỳ
bảy năm và đều do Tòa bầu theo phương thức bỏ phiếu kín. Họ chịu trách nhiệm về

các hoạt động của Ban thư ký; làm trung gian giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế
với Tòa; làm biên bản các phiên họp của Tòa; chứng thực, chuyển và lưu các quyết
định của Tòa; giữ dấu của Tòa. Thư ký Tòa còn có trách nhiệm tổ chức xuất bản các
ấn phẩm của Tòa như tuyển tập các phán quyết, các kết luận tư vấn và các quyết
định của Tòa; các bị vong lục, phản bị vong lục và các văn kiện; niên giám và danh
mục của Tòa án.
21


 Các Tòa đặc biệt của Tòa (Ban)
-

Tòa rút gọn trình tự tố tụng: Tòa này được thành lập hằng năm theo yêu cầu của
các bên (điều 29 Quy chế của Tòa) nhằm thúc đẩy giải quyết các vụ việc. Tòa gồm 5
thẩm phán, tòa cũng có quyền chọn thêm 2 thẩm phán “dự bị” để thay những thẩm
phán tự thấy mình không thể tham gia vào các phiên họp. Tòa này có thể xem xét và

-

giải quyết các vụ việc theo trình tự xét xử sơ bộ.
Tòa đặc biệt: Điều 26, khoản 1 Quy chế Tòa án quy định: Ở mức độ cần thiết, Tòa
án có thể lập ra một hay nhiều ban gồm ba thẩm phán hoặc nhiều hơn theo sự suy
xét của Tòa để phân tích các phạm trù nhất định của vụ việc, nhất là các vụ kiện liên
quan đến lao động, quá cảnh, liên lạc quốc tế. Một hay nhiều Tòa như vậy có thể lập

-

khi các bên yêu cầu.
Tòa rút gọn thành phần hay Tòa Ad hoc đối với từng vụ việc. Trường hợp này,
thành phần của Tòa được xác định trên cơ sở chấp nhận của các bên (điều 26, khoản

2, Quy chế). Vụ việc đầu tiên sử dụng phương thức này là vụ vịnh Maine (Canada và Mỹ)
năm 1982. Sau đó là 6 Tòa rút gọn được thành lập cho các vụ tranh chấp biên giới
Buốckina Phaxô và Mali năm 1985, Electronica Sicula năm 1987, tranh chấp biên giới đất
liền, đảo, biển En Xanvado và Ônđurat - Nicaragoa năm 1990, tranh chấp biên giới Bênanh
và Nigiê năm 2002 và áp dụng xem xét lại phán quyết ngày 11/9/1992 trong vụ tranh chấp
biên giới đất liền, biển đảo En Xanvado -Nicaragoa. Trong cả 6 trường hợp, thành phần của
Tòa là 5 thẩm phán. Trong vụ vịnh Maine, Tòa có 4 thẩm phán được bầu và Canada có một
thẩm phán Ad hoc. Trong vụ tranh chấp biên giới Buốckina Phaxô/ Mali, mỗi bên cử một
thẩm phán Ad hoc cũng ngồi với ba thẩm phán của Tòa. Trong vụ Electronica Sicula, Tòa
rút gọn có hai thẩm phán có quốc tịch của các bên tranh chấp. Cuối cùng trong vụ tranh
chấp biên giới đất liền, biển, đảo En Xanvado/Ônđurat-Nicaragoa, mỗi bên cử một thẩm
phán Ad hoc của mình.

22


2.2.
Giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua Tòa án công lý quốc tế
2.2.1. Thẩm quyền chính của Tòa án công lý quốc tế

Tòa án công lý quốc tế có hai thẩm quyền chính là :
- Giải quyết các tranh chấp quốc tế phù hợp với Quy chế của mình.
Tại điều 36 khoản 1 Quy chế của Tòa có quy định: “Tòa án có thẩm quyền xét
xử tất cả các tranh chấp mà các bên đưa ra và tất cả các vấn đề được nêu riêng
trong Hiến chương Liên Hợp Quốc hay các điều ước quốc tế hiện hành”.
Tòa giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là các quốc gia, không
phân biệt quốc gia đó có phải là thành viên của Liên Hợp Quốc hay không (Điều
-

34, 35, 36 Quy chế của Tòa).

Đưa ra các kết luận tư vấn về các vấn đề pháp lý mà Đại hội đồng, Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc cũng như yêu cầu của các cơ quan khác của Liên Hợp
Quốc, các tổ chức chuyên môn được Đại hội đồng cho phép (Điều 65 Quy chế
của Tòa).
Điều 96 của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định:
1. Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an có thể hỏi ý kiến của Tòa án quốc tế về mọi
vấn đề pháp lý. Ý kiến của Tòa án quốc tế không có tính cách ràng buộc Đại Hội
đồng hay Hội đồng bảo an.
2. Tất cả các cơ quan khác của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn, trong
một lúc nào đó, được Đại hội đồng cho phép cũng có quyền hỏi ý kiến Tòa án
quốc tế về những vấn đề pháp lý có thể đặt ra trong phạm vi hoạt động của họ. Ý
kiến này cũng không ràng buộc các cơ quan và tổ chức ấy.
Các tổ chức quốc tế khác và các quốc gia không được sử dụng cơ chế tư vấn này của
Tòa.

Ngoài ra Tòa còn có thẩm quyền phụ: chỉ định các Chánh án của Tòa trọng tài. Uỷ
ban Trọng tài hoặc Hòa giải và các ủy viên khi cần hoặc theo yêu cầu của các quốc gia.
2.2.2. Cơ sở pháp lý và phương thức xác lập thẩm quyền giải quyết tranh chấp

Như đã nói ở trên, khác với Tòa Trọng tài hay Tòa công lý của Cộng đồng chung
Châu Âu (Tòa Luxembourg), Tòa quyền con người ở Châu Âu (Tòa Strasbourg), Tòa
án công lý quốc tế không giải quyết những tranh chấp của các quốc gia với các tổ chức
quốc tế (kể cả Liên Hợp Quốc) hay với các cá nhân mà chỉ giải quyết tranh chấp giữa
các quốc gia (Điều 34 của Quy chế).
Những đối tượng được sử dụng cơ chế của Tòa để tham gia giải quyết tranh chấp:
- Các thành viên của Liên Hợp Quốc
23


Các quốc gia không phải là thành viên của Liên Hợp Quốc cũng có thể yêu cầu


-

Tòa giúp đỡ. Điều này chỉ đạt được khi các quốc gia đáp ứng được các điều kiện
do Đại hội đồng đặt ra trong từng trường hợp trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng
Bảo an. Thông thường các điều kiện này là: chấp nhận quy chế của Tòa, cam kết
tôn trọng và thực hiện các quyết định của Tòa (việc này được thực hiện thông
qua việc đệ trình cho Thư kí Tòa một tuyên bố chính thức) và đóng một khoản
niêm liễn lệ phí cho Tòa.
Thẩm quyền của Tòa được xác định dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên tranh
chấp. “Tòa không thể thực hiện thẩm quyền tài phán của mình đối với quốc gia đó nếu
không có sự đồng ý của quốc gia đó”. Việc lựa chọn thẩm quyền của Tòa là sự tự do
của quốc gia. Hội đồng Bảo an có quyền khuyến nghị các bên áp dụng các biện pháp
giải quyết tranh chấp thích hợp và nên đưa ra trước Tòa. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa là Hội đồng Bảo an cũng như Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bắt buộc các bên phải
đưa tranh chấp của mình cho Tòa xử lý mà không thể sử dụng các biện pháp khác .
Việc thỏa thuận của các bên biểu hiện thông qua những cách như sau:
• Chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc (Special Agreement)
Các quốc gia tranh chấp thỏa thuận đưa vụ việc ra tòa sau khi xảy ra tranh
chấp bằng một hiệp ước gọi là thỏa thuận thỉnh cầu, đề nghị Tòa xem xét giải
quyết tranh chấp của mình. Hình thức của thỏa thuận này theo quy định của Tòa.
Hình thức thỏa thuận thỉnh cầu được sử dụng trong các vụ tranh chấp sau chiến
tranh thế giới thứ II. Tiêu biểu là Hungary và Slovakia đã ký một bản thỏa thuận vào
ngày 7 tháng 4 năm 1993 để đưa vụ việc liên quan đến một dự án Gabcikovo
Nagimaros ra ICJ. Đó là dự án xây dựng đập Gabcikovo rên sông Danube, trong đó
Hungary kiện Tiệp Khắc (hiện nay chỉ còn Slovakia) đã vi phạm nghĩa vụ hợp tác thiện
chí (nguyên tắc láng giềng thân thiện – good neighborliness), gây tác hại đến những
nguồn tài nguyên dùng chung. Theo bản thỏa thuận đó, ICJ có thẩm quyền giải quyết
vụ việc trên. Một số cuộc tranh chấp khác như các vụ quy chế tỵ nạn giữa Côlômbia và
Pêru năm 1950, các đảo Minquiers và Ecrehous giữa Pháp và Anh năm 1953…, các vụ

tranh chấp liên quan đến phân định thềm lục địa và biên giới như các vụ Biên giới trên
bộ giữa Bỉ và Đức năm 1959, Thềm lục địa biển Bắc năm 1969, thềm lục địa Libi và
Tuynidi năm 1982, thềm lục địa Libi/Sát năm 1994…


Quy định trong các điều ước quốc tế các bên có tham gia (Jurisdictional
clause)
24


Theo phương thức này, các quốc gia có thể chấp nhận trước thầm quyền của
Tòa bằng cách ký kết các điều ước quốc tế có điều khoản quy định về biện pháp
giải quyết tranh chấp hoặc điều ước quốc tế chuyên ngành về giải quyết tranh
chấp, có quy định rõ rằng khi có tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực theo điều
ước quốc tế đã kí kết quy định, các bên tranh chấp se đồng thuận chuyển vụ việc
ra giải quyết tại ICJ.
Trong trường hợp điều ước quốc tế (vẫn còn hiệu lực) lựa chọn Pháp viện
thường trực quốc tế như là cơ quan tài phán chính giải quyết thì thẩm quyền của
Tòa (với vai trò cơ quan kế thừa Pháp viện) cũng có cơ sở được xác lập nếu các
quốc gia có tranh chấp là thành viên của ICJ (Điều 37 Quy chế của Tòa).
Một số điều ước quốc tế có điều khoản xác lập trước thẩm quyền của Tòa án
như:
-

Công ước Châu Âu về giải quyết hòa bình các tranh chấp năm 1957
Công ước Vienna về Luật điều ước quốc tế, ngày 23-5-1969
Công ước La Hay về ngăn chặn việc bắt giữ bất hợp pháp tàu bay, năm 1970
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu năm 1992
Ví dụ: Vụ Gruzia đưa đơn kiện Nga vi phạm công ước quốc tế về loại bỏ mọi hình


thức phân biệt chủng tộc (International Convention in the Elimination of all form of
Racial Descrimination – CERD) mà cả Gruzia và Nga đều là thành viên. Trong đó, điều
22 quy định: “Bất cứ tranh chấp nào giữa hai hay nhiều quốc gia liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng công ước này mà không thông qua việc đàm phán hay những thủ tục
được quy định riêng trong công ước này se được giao cho ICJ theo đề nghị của một bên
trừ khi các bên liên quan đồng ý lựa chọn phương thức giải quyết khác.” Vì vậy thông
qua điều ước này Tòa có thẩm quyền giải quyết vụ việc.


Tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Tòa (Declaration
clause)
Thẩm quyền ICJ còn được xác định thông qua việc tuyên bố của các quốc gia
chấp nhận thẩm quyền xét xử của Tòa (như là một nghĩa vụ bắt buộc) trong quan
hệ với bất kì quốc gia nào khác cũng chấp nhận nghĩa vụ tương tự, trong tất cả
các tranh chấp liên quan đến các vấn đề được liệt kê tại Điều 36 Khoản 2 Quy
chế Tòa án quốc tế bao gồm :
- Việc giải thích các điều ước quốc tế
- Các vấn đề bất kỳ liên quan đến điều ước quốc tế
25


×