Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy Địa lí ở trường trung học phổ thông Thiên Hộ Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 39 trang )

3

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài:

Dạy học theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm được cụ thể hóa trong
khoản 2, điều 28, Luật giáo dục năm 2005, cụ thể: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng tự làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Việc
giảng dạy tăng cường tính tích cực là một hướng nghiên cứu đáp ứng những yêu cầu
đặt ra.
Trong điều kiện đất nước có nhiều đổi mới, từ kinh tế đến xã hội đều phát
triển, đòi hỏi nền giáo dục nước nhà cũng phải thay đổi, cũng phải phát triển phù
hợp với xu thế phát triển chung của đất nước. Một trong những đổi mới của giáo
dục là phải đổi mới phương pháp dạy của người thầy và phương pháp học của trò,
trong đó đề cao vai trò chủ thể nhận thức của người học.
Môn Địa lí trong trường phổ thông cùng với những môn học khác tạo nên
nền tảng kiến thức phổ thông cho học sinh. So với nhiều môn học khác thì Địa lí là
môn học có nhiều mảng kiến thức thích hợp thực hiện dạy học theo quan điểm lấy
người học làm trung tâm.
Thực tiễn giáo dục hiện nay tại các trường phổ thông chịu sự tác động của
nhiều nhân tố. Từ việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, kinh tế xã hội phát
triển, những dịch vụ cũng phát triển, tệ nạn xã hội, tâm lý nhận thức học sinh thay
đổi đã tác động nhiều đến quá trình dạy học hiện tại.
Trường THPT Thiên Hộ Dương được thành lập vào năm 2007, so với các
trường khác trong Tỉnh thì Thiên Hộ Dương là trường mới thành lập, đội ngũ giáo
viên, cơ sở vật chất và truyền thống của Trường đang được xây dựng. Với vị trí tọa


lạc tại Phường 6, Thành Phố Cao Lãnh, mặc dù thuộc địa phận thành phố nhưng về
cơ bản là một trường vùng ven, không khác gì so với một trường vùng nông thôn.


4
Với ưu thế là một trường mới thành lập, cơ sở vật chất đang trên đà được đầu
tư, giáo viên trẻ, tích cực năng động và gần trường Đại học Đồng Tháp, rất thuận lợi
để tác giả thực hiện đề tài, vì vậy tác giả lựa chọn đề tài “Vận dụng phương pháp
dạy học tích cực vào giảng dạy Địa lí ở trường trung học phổ thông Thiên Hộ
Dương” làm đề tài nghiên cứu khoa học trong năm học 2011 – 2012.
2.

Mục tiêu của đề tài:

Mục tiêu của đề tài là vận dụng những phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy Địa lí ở trường phổ thông, cụ thể trường THPT Thiên Hộ Dương.
3.

Nhiệm vụ của đề tài

Để đạt được mục tiêu của đề tài, những nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện:
-

Tìm hiểu lí luận cơ bản về quá trình dạy học, về những phương pháp

dạy học nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập.
-

Tìm hiểu về thực tế việc giảng dạy địa lí tại trường trung học phổ


thông Thiên Hộ Dương, trên cơ sở thực tế quá trình dạy học, tác giả kết hợp với
những giáo viên tại trường nhằm vận dụng những phương pháp dạy học nhằm tăng
cường tính tích cực của học sinh vào quá trình dạy học địa lí.
4.

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài quá trình dạy học tích cực môn địa lí ở
trường phổ thông.
5.

Phạm vi nghiên cứu

Trường trung học phổ thông Thiên Hộ Dương, cụ thể học sinh khối lớp 10 và
lớp 12.
6.

Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Trên cơ sở mục tiêu của đề tài, tác giả tìm những tài liệu phân tích quá trình
dạy học địa lí ở trường phổ thông, từ đó tác giả đối chiếu, so sánh và phân tích đặc
điểm quá trình dạy học ở trường THPT Thiên Hộ Dương nhằm đưa ra những nhận
định cho hướng thực hiện của đề tài.
Tác giả nghiên cứu hệ thống tài liệu về phương pháp dạy học, đặc biệt là hệ
thống phương pháp dạy học nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh.
Tác giả sưu tầm những tài liệu trình bày về những kỹ thuật thực hiện các
phương pháp dạy học tích cực.



5
Trên cơ sở những tài liệu thu thập, tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp
nhằm vận dụng vào cụ thể ở trường phổ thông.
6.2. Phương pháp quan sát
Tác giả tiến hành quan sát quá trình dạy học ở trường trung học phổ thông
Thiên Hộ Dương, từ đó định hướng thực hiện đề tài và đưa ra những đề xuất, giải
pháp hợp lí cho việc dạy học tăng cường tính tích cực của người học, cụ thể như
phương pháp phỏng vấn, phương pháp thảo luận nhóm. Cụ thể:
+ Phương pháp phỏng vấn: tác giả tiến hành phỏng vấn giáo viên về thực
tiễn quá trình dạy học địa lí tại trường; tác giả tiến hành phỏng vấn học sinh tại
trường về phương pháp học tập môn Địa lí của học sinh; tác giả tiến hành phỏng
vấn những nhà quản lí của Trường…
+ Phương pháp thảo luận nhóm: tác giả tiến hành trao đổi với những giáo
viên giảng dạy địa lí tại trường, cùng thảo luận về việc vận dụng những phương
pháp cũng như những kỹ thuật nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh trong
quá trình học tập.
6.3. Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm dựa trên quá trình giảng dạy thực tế của giáo viên, từ
đó rút ra những nhận xét việc vận dụng dạy học nhằm tăng cường tính tích cực của
học sinh trong quá trình dạy học. Trên cơ sở thực nghiệm từng giờ dạy, đút kết kinh
nghiệm và vận dụng linh hoạt các phương pháp nhằm tăng cường tính tích cực của
học sinh trong quá trình giảng dạy.
7.

Lịch sử nghiên cứu đề tài
- Quan điểm giảng dạy địa lí trong trường phổ thông theo hướng tăng cường

tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học đã và đang được nghiên cứu,
những kết quả nghiên cứu cụ thể như:
+ Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc, Lí luận dạy học Địa lí, NXB ĐHSP

Hà Nội, 2003. Trong tài liệu trên, nhóm tác giả đã phân tích hệ thống phương pháp
dạy học nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học địa lí ở
trường phổ thông. Bên cạnh đó, tài liệu cũng đã đưa ra những yếu tố tác động đến
dạy và học tích cực hiện nay ở trường phổ thông.


6
+ Đặng Văn Đức, Lí luận dạy học địa lí đại cương, NXBĐHSP Hà Nội,
2005. Giáo trình cũng đã cung cấp đầy đủ hệ thống những phương pháp giảng dạy
nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học Địa lí.
+ Nguyễn Đức Vũ, Phương pháp dạy học Địa lí ở trường phổ thông, NXB
Giáo dục, 2005. Tài liệu cũng chỉ ra đặc điểm của quá trình dạy học địa lí ở trường
phổ thông và đưa ra hệ thống những phương pháp dạy học nhằm tăng cường tính
tích cực của học sinh trong quá trình dạy học.
- Bên cạnh những tài liệu trên, hệ thống lí luận về dạy học tích cực như:
+ G.S TSKH Thái Duy Tiên, Viện khoa học giáo dục với bài báo “Phát huy
tính tích cực nhận thức của người học”. Trong bài viết, tác giả đã phân tích rất rõ
những nhân tố tác động tích cực đến quá trình dạy học địa lí hiện nay. Đặc biệt, tác
giả đã phân tích rất rõ những nhân tố bên ngoài (môi trường xã hội) tác động rất
nhiều đến dạy học tích cực.
+ Nguyễn Ngọc Quang cũng đã phân tích bản chất của quá trình dạy học nói
chung và những đặc điểm của các thành tố tạo thành quá trình dạy học.
- Những công trình khoa học trên là cơ sở tác giả tiến hành vận dụng những
phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy ở trường phổ thông, cụ thể là trường
THPT Thiên Hộ Dương.
8. Giả thuyết khoa học
Đề tài phân tích rõ thực tiễn quá trình dạy học tại trường phổ thông hiện nay,
từng bước vận dụng linh hoạt các phương pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực,
chủ động của học sinh vào quá trình dạy học.
9.


Cấu trúc của đề tài

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Vận dụng dạy học tích cực vào trường THPT Thiên Hộ Dương.
2.1. Vận dụng sơ đồ nội dung môn Địa lí ở trường phổ thông vào giảng dạy
2.2. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học
2.3. Sử dụng phương tiện, thiết bị truyền thống vào giảng dạy
2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
2.5. Kỹ thuật khơi gợi động cơ, tạo và duy trì hứng thú của học sinh
2.6. Vận dụng dạy học tích cực vào giảng dạy tại trường THPT THD
Chương 3: Thực nghiệm


7

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.

Cơ sở lí luận
1.1.1.

Quá trình dạy học địa lí ở trường phổ thông

“Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự hướng dẫn, tổ chức, điều khiển
của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, biết tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện tốt mục
tiêu dạy học”[1, trang 26].
Trên cơ sở phân tích định nghĩa quá trình dạy học, những điểm cần chú ý khi

tiến hành các thao tác có liên quan đến quá trình dạy học:
Hoạt động dạy: là quá trình tổ chức nhận thức cho học sinh của người giáo
viên.
Bản chất của dạy học là tổ chức các tình huống học tập, các tình huống gia
cố, trong đó học sinh sẽ hoạt động tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm
đạt được chất lượng và hiệu quả dạy học.
Trong quá trình này, học sinh luôn luôn phải hoạt động tích cực, giáo viên
luôn tăng cường cũng cố kiến thức cho học sinh, khen thưởng, xác nhận một cách
kịp thời.
Hoạt động học tập: là một quá trình hoạt động tự giác, tích cực của học sinh
nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phát triển trí tuệ, thể chất và hình thành nhân
cách của bản thân.
Bản chất của học tập là quá trình tiếp thu, xử lí thông tin bằng các hành động
trí tuệ và chân tay, dựa vào vốn sinh học và vốn kinh nghiệm đã có của cá nhân, từ
đó có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới.
Như vậy, trong học bao giờ cũng có tự học, không thể có ai học thay được.
Tuy nhiên chúng ta muốn nhấn mạnh tự học là nói tới sự tự giác, tích cực và độc lập
cao.
Có nhiều cách học: học có chủ định và không có chủ định, học bền vững (có
thể phát triển lên được) và học không bền vững, học bị động theo kiểu hình thành
phản xạ có điều kiện cổ điển, còn gọi là điều kiện của Pavlop, học chủ động theo


8
kiểu điều kiện hoá tác động của B. F. Skinner, học giáp mặt (với thầy), học từ xa.
Cần kết hợp nhiều cách học để có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Quá trình dạy học là một hệ thống cân bằng động, gồm nhiều nhân tố tác
động qua lại lẫn nhau theo những quy luật và nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện
các nhiệm vụ dạy học, nhiệm vụ đạt chất lượng và hiệu quả dạy học.
Dạy học về bản chất là một quá trình thiết kế và góp phần thi công của người

giáo viên. Còn học tập về bản chất là một quá trình tự thiết kế và trực tiếp thi công
của người học sinh có sự hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên nhằm đạt chất lượng và
hiệu quả dạy học.
Trên cơ sở nghiên cứu những thành tố cơ bản của quá trình dạy học, để đề tài
đạt kết quả như mục tiêu đề ra, tác giả phải nghiên cứu những nội dung cơ bản sau:
phương pháp dạy học của giáo viên; phương tiện kỹ thuật vận dụng vào bài dạy;
tâm sinh lý học sinh; hoạt động của học sinh; những hình thức kiểm tra, đánh giá cơ
bản; nội dung môn địa lí ở trường phổ thông.
1.1.2.

Tính tích cực

Có nhiều quan điểm khác nhau về tính tích cực của học sinh trong học tập
Tích cực trong học tập là hoàn thành một cách chủ động, tự giác có nghị lực,
có hướng đích rõ rệt, có sáng kiến và đầy hào hứng, những hành động trí óc và chân
tay nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo, vận dụng chúng vào trong học tập
và thực tiễn.
Tính tích cực trong hoạt động học tập là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Lĩnh hội những tri thức của loài người đồng thời tìm kiếm “khám phá” ra
những hiểu biết mới cho bản thân. Qua đó sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã tiếp
thu được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình.
Tính tích cực nhận thức trong học tập liên quan với động cơ học tập. Động
cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai
yếu tố tâm lí tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy độc lập. Suy
nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo và ngược lại.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về tính tích cực của học sinh, tuy nhiên,
tất cả những quan điểm trên đều có những dấu hiệu như: hăng hái, chủ động, tự giác



9
tham gia các hoạt động học tập, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên
những cái đã biết. Sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.
Các cấp độ của tính tích cực:
+ Bắt chước: cố gắng thực hiện theo các mẫu hành động của thầy của bạn…
+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một vấn đề …
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới độc đáo hữu hiệu.
Trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản của tính tích cực, một điều quan
trọng muốn học sinh học theo quan điểm này thì giáo viên phải tạo ra được một cảm
giác mới, lạ, thu hút sự chú ý của học sinh trong bài dạy của mình.
1.1.3. Phương tiện, thiết bị trong dạy học hiện nay
Khoa học đã chứng minh, khi ta vận dụng tất cả các giác quan của học sinh
vào quá trình dạy học thì hiệu quả sẽ cao hơn những hoạt động thông thường, cụ
thể:
Bảng 1. Vai trò các giác quan trong việc học [1, trang 320]

Trong việc tiếp thu tri thức (%)

Trong việc lưu giữ tri thức (%)

Nếm: 1

Nghe: 20

Sờ: 1,5

Nhìn: 30

Ngửi: 3,5


Nghe + nhì: 50

Nghe: 11

Tự trình bày: 80

Nhìn: 83

Tự trình bày và làm: 90

Vì vậy, nghiên cứu vận dụng những phương tiện vào quá trình dạy học sẽ
giúp học sinh lĩnh hội tri thức tốt hơn.
“Phương tiện dạy học là những dụng cụ, máy móc, thiết bị, vật dụng cần
thiết cho hoạt động dạy và học đạt được các mục tiêu dạy học có hiệu quả hơn”[1,
trang 317].
Trên cơ sở phân tích định nghĩa, một vấn đề cần chú ý là khi sử dụng phương
tiện, phải làm cho mục tiêu dạy học đạt hiệu quả hơn.


10
Phương tiện dạy học được sử dụng trong địa lí hiện nay được phân loại thành
phương tiện dạy học địa lí truyền thống và phương tiện dạy học địa lí hiện đại.
Những phương tiện dạy học địa lí truyền thống gồm sách giáo khoa, tranh ảnh, bản
đồ giáo khoa, Atlat. Những phương tiện dạy học hiện đại gồm máy tính điện tử,
máy chiếu, hệ thống phần mềm hỗ trợ học tập…
1.1.4. Phương pháp dạy học
Trong quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, hệ thống các phương pháp
sau thường xuyên được sử dụng trong tiết dạy địa lí tại trường phổ thông.
-


Phương pháp giảng giải.

-

Phương pháp đàm thoại tái hiện.

-

Phương pháp đàm thoại tìm tòi.

-

Phương pháp thảo luận.

-

Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ bản đồ giáo khoa.

-

Phương pháp động não.

-

Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.

1.2.

Tổng quan về trường THPT Thiên Hộ Dương


Trường THPT Thiên Hộ Dương tọa lạc tại khóm 05, phường 06, TP Cao
Lãnh, Đồng Tháp, được thành lập vào năm 2007 theo quyết định số 188/QĐ-TLUBND, ngày 17.11.2006 của UBND tỉnh Đồng Tháp. Từ năm học 2007 – 2008 đến
năm học 2008 - 2009, trường phải mượn tạm cơ sở vật chất của trường Tiểu học
Thực hành Sư phạm nên gặp rất nhiều khó khăn, đến năm học 2009 – 2010 trường
đã chuyển về cơ sở mới với những thách thức mới, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ,
bóng cây xanh chưa cho bóng mát, phòng thực hành thí nghiệm vẫn chưa xây dựng
xong nhưng với 100% đội ngũ giáo viên đạt chuẩn đào tạo và 2 thạc sĩ cùng với tinh
thần quyết tâm nâng cao chất lượng giáo dục so với năm học 2008 – 2009 nên trong
năm học 2009-2010 trường đạt khá nhiều thành tích: 1 giải A, 2 giải B, 1 giải C, 1
giải KK thi đồ dùng dạy học cấp tỉnh; 4 giải thi học sinh giỏi cấp tỉnh; 6 giải phong
trào; 13 huy chương trong cuộc thi HKPĐ cấp tỉnh. Và năm học 2009 – 2010,
trường có khối lớp 12 đầu tiên, kết quả đạt được khá cao: tỉ lệ tốt nghiệp đạt 87,7%
đứng 13/39 trường trong toàn tỉnh, tỉ lệ đỗ ĐH-CĐ 2010 nguyện vọng 1 đạt 66%
đứng thứ 6/39 trường trong toàn tỉnh. Đây là động lực để thầy và trò của trường thi
đua đạt nhiều thành tích trong năm học 2010 – 2011: 5 giáo viên đạt danh hiệu giáo


11
viên dạy giỏi cấp tỉnh, 9 giáo viên được bằng khen của tỉnh, 27 giáo viên đạt danh
hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, 7 tổ nhận được giấy khen của Sở khen tặng tập thể
lao động tiên tiến, 2 giải KK thi đồ dùng dạy học và 1 giải sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh
dành cho giáo viên; về phía học sinh số giải tăng lên cả về chất và lượng: 7 giải thi
học sinh giỏi cấp tỉnh, 14 giải phong trào, 5 giải thi TNTH, 1 bằng khen UBND tỉnh
khen tặng thành tích học tập của học sinh, tỉ lệ đỗ tốt nghiệp THPT đạt cao hơn năm
trước 97,76%.
Bên cạnh những thành tựu đó, trường THPT Thiên Hộ Dương hiện nay còn
một số vấn đề cơ bản sau:
1.2.1. Về phía Trường
Trường THPT Thiên Hộ Dương thành lập tính đến năm học 2012-2013 được

6 năm. Với 6 năm hình thành và phát triển cho thấy Nhà trường còn không ít khó
khăn về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giáo viên.
Qua phỏng vấn học sinh và nghiên cứu hồ sơ học sinh, đa số học sinh trong
trường có hộ khẩu tại Phường 6, Xã Tân Thuận Đông, Xã Tịnh Thới, Xã Tân Thuận
Tây, một số học sinh còn lại của các phường khác trong thành phố. Về kinh tế,
những xã, phường trên chủ yếu là nông nghiệp. Chính vì vậy thu nhập của người
dân so với các phường khác trong tỉnh chưa cao. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình đầu tư vào học tập của con em họ.
Do là trường mới thành lập nên phương tiện dạy học đáp ứng những yêu cầu
cơ bản của giáo viên và học sinh.
1.2.2. Về phía giáo viên
Trường THPT Thiên Hộ Dương hiện nay có 65 giáo viên và cán bộ. Trong
số đó, có khoảng 7 giáo viên có tuổi đời từ 50 tuổi trở lên, còn lại có tuổi đời trung
bình khoảng 30 tuổi, giáo viên trẻ tuổi nhất là 26 tuổi (nguồn: Website Trường). Đối
với môn địa lí, trường có hai giáo viên nữ, tuổi đời trung bình 29 tuổi. Bên cạnh hai
giáo viên, Hiệu trường nhà trường cũng có chuyên môn Địa lí. Mặc dù có dạy ít tiết
để đủ chuẩn, nhưng Hiệu trưởng không thuộc biên chế chuyên môn Địa lí.
Qua những số liệu trên, một vấn đề quan trọng đầu tiêu của giáo viên trường
Thiên Hộ Dương hiện nay là đa số tuổi đời giáo viên là trẻ. Chính yếu tố trẻ này tạo
nên một nguồn nhân lực dồi dào cho Trường, giáo viên năng động, tích cực trong


12
giảng dạy, nhưng kinh nghiệm chuyên môn chưa nhiều. Chính đều này gây không ít
khó khăn cho quá trình phát triển của nhà Trường.
Nhà trường đã trang bị hệ thống phương tiện thiết bị vào dạy học. Về cơ bản,
những phương tiện đó đáp ứng được yêu cầu. Để nâng cao trình độ của học sinh
cũng như tạo được một môi trường mới trong học tập của học sinh, giáo viên nên
tạo thêm nhiều phương tiện dạy học khác. Chính việc tạo thêm phương tiện dạy học
và sử dụng chúng vào quá trình dạy học mới tạo được sự tò mò, gây hứng thú cho

học sinh, từ hứng thú mới tạo động cơ, từ động cơ mới sinh ra tính tích cực. Trên cơ
sở tò mò, hứng thú dần dần hình thành cho học sinh tính tự giác trong học tập và
nghiên cứu.
Việc sưu tầm những vật thật hay tái tạo vật thật thành mô hình dạy học ít
được giáo viên sử dụng. Thông qua việc khảo sát thì sách giáo khoa, bản đồ giáo
khoa treo tường, atlat địa lí là những phương tiện giáo viên thường sử dụng, còn
những phương tiện khác như mô hình, vật thật, bản đồ giáo khoa tự làm, tranh ảnh
tự tìm, mô hình tự làm thì giáo viên ít sử dụng. Chính việc sử dụng những phương
tiện truyền thống đã làm giảm khả năng tập trung cũng như chưa khuyến khích
hứng thú của học sinh trong quá trình học tập.
Tổng thể cả quá trình dạy học giáo viên chưa khai thác hết khả năng của học
sinh. Cụ thể qua khảo sát những hình thức học tập mà học sinh thích nhất đó là môi
trường tự nhiên, khu di tích lịch sử, khu du lịch, sân trường; những hình thức kiểm
tra, đánh giá học sinh thích là tìm tài liệu học tập, phát biểu ý kiến tại lớp, viết bài
thu hoạch; những phương tiện dạy học của giáo viên mà học sinh thích là vật thật,
sách giáo khoa, tranh ảnh có sẵn ở trường, tranh ảnh tự tìm, mô hình từ làm, video
giáo khoa… nhưng giáo viên chỉ thực hiện được một số thao tác sau: giảng dạy trên
lớp; đánh giá qua phát biểu trên lớp, đầu giờ, 15 phút, một tiết; sử dụng những
phương tiện quen thuộc như sách giáo khoa, bản đồ treo tường, atlat địa lí.
1.2.3. Đặc điểm học sinh
Học sinh các lớp được chia theo nguyên tắc điểm. Những học sinh có điểm
cao được xếp vào các lớp đầu. Những học sinh có điểm thấp được xếp vào các lớp
cuối. Việc phân chia này có những đặc điểm nổi bậc là phân loại được trình độ để
đào tạo cho tốt, nhưng chính phân chia này dẫn đến hệ quả là những lớp đầu học tập


13
tốt, còn những lớp sau lại là những lớp học trung bình, hoặc yếu, rất khó “kéo” học
sinh lên.
Việc sử dụng thời gian trong ngày của học sinh hiện nay nhiều nhất là học tại

trường, trung bình 8 giờ, ngủ 8 giờ, chuẩn bị bài 2 giờ, xem lại bài 1 giờ, xem tivi 2
giờ, đi chơi với bạn 1 giờ, thời gian còn lại trong ngày thì thực hiện các công việc
khác. Trong các khoảng thời gian hoạt động trong ngày, thời gian chú ý học tập tại
nhà ít. Trong khảo sát, thời gian chuẩn bị bài học tại nhà của học sinh cao nhất là 3
giờ/ngày, thấp nhất là 20 phút/ngày. Tương tự, thời gian xem lại bài đã học nhiều
nhất là 4 giờ, ít nhất là 15 phút, đa số trả lời là 1 giờ.
Qua việc khảo sát, tất cả học sinh đều rất quan tâm đến Internet, đều biết
Internet và sử dụng Internet thành thạo. Tuy nhiên, sau khi phỏng vấn từng học sinh
về việc sử dụng những gì trên Internet thì trên 90% là chơi game, số còn lại là chat,
mail, đọc báo… Khi được hỏi có giáo viên nào hướng dẫn cách ứng dụng Internet
vào học tập chưa hoặc có hình thức nào khuyến khích học tập thông qua Internet thì
học sinh trả lời rất ít. Việc biết sử dụng Internet là một nội dung tốt, cần phát huy.
Tuy nhiên, do thiếu định hướng sử dụng Internet trong học tập đã dẫn đến việc học
sinh phí thời gian trên những phương tiện hiện đại.
Bên cạnh việc một số học sinh không có thời gian phụ giúp gia đình thì vẫn
còn đại đa số học sinh có khoảng thời gian phụ giúp gia đình. Thời gian phụ giúp
gia đình nhiều, từ 1 đến 5 giờ/ngày, đa số là 2 giờ/ngày. Chính việc thời gian phụ
giúp gia đình nhiều đã ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập của học sinh.
Thông qua việc phát phiếu khảo sát và dự giờ chuyên môn của hai giáo viên,
tác giả đề tài đã rút ra những kết luận về hiện trạng giảng dạy địa lí tại trường THPT
Thiên Hộ Dương. Trên cơ sở hiện trạng, tác giả tiến hành vận dụng lí luận cụ thể để
nâng cao tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập địa lí.


14
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO TRƯỜNG
THPT THIÊN HỘ DƯƠNG
2.1. Vận dụng sơ đồ nội dung môn Địa lí ở trường phổ thông vào giảng
dạy
Một đặc điểm quan trọng trong việc dạy học địa lí ở trường phổ thông

hiện nay không chỉ riêng giáo viên địa lí tại trường Thiên Hộ Dương mà còn một số
trường khác trong tỉnh là chưa chú ý nhiều đến sơ đồ nội dung môn địa lí ở trường
phổ thông. Việc này dẫn đến việc giảng dạy nội dung theo trình tự Sách giáo khoa,
ở mức độ Biết (theo thang phân loại nhận thức của Bloom), rất khó để giúp học sinh
hiểu toàn bài, phân tích từng nội dung, vận dụng vào thực tiễn,… Từ đó, học sinh
chỉ học thuộc lòng, học biểu hiện bên ngoài của kiến thức, chưa đi sâu vào vấn đề.
Bảng 2: Sơ đồ nội dung môn địa lí ở trường phổ thông
NỘI DUNG
MÔN ĐỊA LÍ

Kĩ năng

Kiến thức


thuyết

Khái niệm,
Mối quan hệ
nhân quả,
Quy luật,
Học thuyết,
Tư tưởng,…

Thực
tiễn

Bản
đồ


Sd
dụng cụ
NC ĐL

Làm
việc tài
liệu ĐL

Học tập
và NC
ĐL

Số liệu
Sự kiện
Biểu tượng
Mô hình sáng
tạo…

Qua sơ đồ này, khi tiến hành giảng dạy, giáo viên cần phải phân tích được
nội dung có trong bài đang dạy thuộc mảng nào, kiến thức hay kỹ năng, trong kiến


15
thức là kiến thức gì, mối liên hệ giữa các kiến thức; đối với kỹ năng là kỹ năng gì,
hướng dẫn học sinh thực hiện từng kỹ năng đó như thế nào.
Bên cạnh việc chú ý đến sơ đồ trên, giáo viên cần chú ý đến các mức độ nhận
thức của Bloom có trong bài học (được quy định trong chuẩn kiến thức). Việc xác
định đúng mức độ và dạy học theo các mức độ của thang phân loại nhận thức
Bloom giúp học sinh tiếp thu bài nhanh hơn, tích cực hơn.
2.2. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học

Trong thực tế dạy học, giáo viên thường chọn các phương pháp dạy học
nhưng chưa chú ý đến bản chất của phương pháp, quy trình thực hiện.
Bảng 3: Một số phương pháp giảng dạy thường sử dụng trong môn Địa lí
Phương
pháp

Định nghĩa

Bản chất

Giảng giải

Là phương pháp Những

Nội dung môn
địa lí có thể
vận dụng
viên Khái niệm, quy

Quy trình
kiến Giáo

người giáo viên thức mang tính giảng và giải luật
khéo léo dùng logic cao

thích, học sinh

lời nói để giảng

nghe


và giải thích
Đàm thoại

Là phương pháp Câu hỏi phải Giáo viên hỏi

Những dấu hiệu

người giáo viên dễ, đáp án có Học sinh suy của khái niệm,
khéo léo dùng sẵn

nghĩ

trong quy

hệ thống câu hỏi

khoảng

để hỏi học sinh

gian ngắn (10

luật,

Sự

thời kiện, Số liệu

đến 30 giây)

Học sinh trả
lời
Giáo

viên

nhận xét
Thảo luận

Là phương pháp Chủ đề không Chuẩn bị thảo Mối quan hệ
người giáo viên có đáp án sẵn luận
đặt

ra

những có,

chủ

đề Tiến

nhân quả
hành Học thuyết

chủ đề để học không phải chỉ thảo luân (nêu Quan điểm, tư


16
sinh giải quyết


một hướng giải chủ đề chung, tưởng
quyết

chia

nhóm,

nêu yêu cầu cụ
thể nhóm, các
nhóm

làm

việc, GV quan
sát, các nhóm
báo cáo)
Hướng dẫn Là phương pháp Phải có bản đồ 3 mức độ đọc Quy luật
học

sinh giáo viên hướng giáo khoa

khai thác tri dẫn

sinh

khoa: liệt kê,

thức từ bản tiếp thu tri thức

giải thích và


đồ

liên hệ.

khoa

học

bản đồ giáo

giáo từ những bản đồ
giáo khoa

Quy trình đọc
bản đồ giáo
khoa: tên bản
đồ, tỉ lệ bản
đồ, bảng chú
giải, các đối
tượng có trên
bản đồ

Vận dụng linh hoạt các phương pháp vào quá trình dạy học đòi hỏi người
giáo viên phải biết được tâm lí của học sinh, mức độ nhận thức của học sinh.
Để giờ học không nhàm chán, học sinh chủ động trong quá trình dạy học thì
học sinh phải biết được hôm nay các em làm gì, bằng cách nào, sản phẩm đạt được
là gì.
Trên cơ sở những mục tiêu, phương tiện, trình độ nhận thức của học sinh,
người giáo viên phải luân phiên thực hiện các phương pháp dạy học, kết hợp nhuần

nhuyễn các phương pháp nhằm tạo thêm những tình huống học tập mới cho học
sinh. Có như thế, tính tích cực mới được phát huy.


17

2.3. Sử dụng phương tiện, thiết bị vào giảng dạy
Phương tiện, thiết bị có vai trò to lớn trong việc tạo hứng thú, khơi gợi
động cơ để hình thành tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học hiện nay.
Những phương tiện dạy học truyền thống của Địa lí như bản đồ giáo khoa
(Atlat, Bản đồ giáo khoa treo tường, Bản đồ giáo khoa trong sách giáo khoa), tranh
ảnh, mô hình… về cơ bản được trang bị đầy đủ tại trường nhưng chưa đủ để thực
hiện dạy học tích cực. Người giáo viên cần phải đầu tư nhiều hơn nữa để bài dạy
sinh động, hiệu quả hơn.
Những phương tiện người giáo viên cần chuẩn bị gồm:
+ Sơ đồ tóm lượt những nội dung cơ bản của bài;
+ Những số liệu liên quan đến bài và những bài liền kề để học sinh liên hệ,
phân tích, so sánh;
+ Tranh ảnh để học sinh tìm tri thức. Tranh ảnh là nguồn tài liệu cơ bản nhất
người giáo viên sử dụng. Tranh ảnh tạo biểu tượng nhằm hình thành những khái
niệm trừu tượng cho học sinh. Việc sử dụng tranh ảnh đòi hỏi người giáo viên phải
khéo léo, linh hoạt. Nếu sử dụng tranh ảnh không đúng cách, hình ảnh chỉ mang
tính chất minh họa cho kiến thức, không phải là nguồn tri thức, vì thế giờ dạy chỉ
mang tính thụ động, trình chiếu là chính, không phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh;
+ Bản đồ là nguồn tư liệu vô cùng quan trọng, là đặc thù của môn Địa lí. Bản
đồ có nhiều nguồn, từ sách giáo khoa, Atlat, bản đồ treo tường. Những bản đồ hiện
tại đã được biên soạn từ trước, một số bản đồ không phù hợp với nội dung mới của
sách giáo khoa. Một yêu cầu thiết yếu trong dạy học địa lí là người giáo viên phải
tạo ra được những bản đồ trống, từ những bản đồ trống thiết lập những phiếu học

tập, trên cơ sở phiếu học tập, người giáo viên tổ chức các hoạt động của lớp theo
hướng tăng cường tính tích cực của học sinh.
Để sử dụng phương tiện thiết bị mang hiệu quả cao, giáo viên cần chú ý lựa
chọn những phương tiện phù hợp với nội dung bài dạy, thời gian treo phương tiện
lên, kết hợp phương tiện với phương pháp dạy học.


18
2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
Để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, giáo viên cần phải chú ý
những vấn đề sau:
- Sử dụng hệ thống phần mềm và Internet để cập nhật thông tin, kiến thức
giảng dạy. Một vấn đề khi ứng dụng công nghệ thông tin mà giáo viên thường “bỏ
quên” là ứng dụng công nghệ thông tin để thu thập kiến thức, dữ liệu mới, hình ảnh,
phim giáo khoa… trên cơ sở đó, giáo viên mới hệ thống hóa lại kiến thức giảng dạy
của mình, phần nào là kiến thức địa lí cơ bản, phần nào cần giảng giải thêm để mở
rộng, phần nào hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phần nào yêu cầu báo cáo…Có thực
hiện công đoạn này, giáo viên mới có sức thu hút của học sinh, tạo nên hứng thú
học tập.
- Thiết kế giáo án: trên cơ sở những dữ liệu đã có, giáo viên phải thiết kế
giáo án. Giáo án có sử dụng công nghệ thông tin sẽ khác hẵn so với giáo án không
ứng dụng công nghệ thông tin. Đối với giáo án có ứng dụng công nghệ thông tin,
những hoạt động sẽ nhanh hơn, nhiều hơn và khoa học hơn. Học sinh sẽ xem nhiều
hiệu ứng hơn, hoạt động nhiều hơn và phải ghi bài ít hơn. Để học sinh có được
những kiến thức cơ bản của bài, giáo viên cần chuẩn bị cho học sinh những phiếu
học tập có sẵn để học sinh dễ theo dõi.
- Thiết kế giáo án điện tử: thiết kế giáo án điện tử là công đoạn cuối cùng,
công đoạn chuyển những hoạt động giản đơn trên lớp lên máy tính điện tử. Một vài
điểm chú ý khi thiết kế giáo án điện tử là chọn màu nền không quá chói, tránh thiết
kế những hiệu ứng không cần thiết. Cần khai thác tốt các hiệu ứng để giải thích

những quy luật, những hiện tượng, mối quan hệ…
Ứng dụng công nghệ thông tin là một xu hướng tất yếu ở các trường phổ
thông hiện nay. Nếu giáo viên biết cách thiết kế và khai thác hợp lý thì hiệu quả dạy
học được cải thiện đáng kể, nếu không, hiệu quả chẳng những không cải thiện mà
quá trình dạy học trở thành quá trình “chụp – chiếu”.
2.5. Kỹ thuật khơi gợi động cơ, tạo và duy trì hứng thú của học sinh
Do thành lập các lớp học dựa trên nguyên tắc là điểm số nên những lớp đầu,
có điểm số cao, học sinh học rất tốt, tác phong học nghiêm túc, còn những lớp cuối
của từng khối thì ngược lại, học sinh thụ động, kết quả học tập không cao.
Đối với trường hợp này, người giáo viên cần chú ý một số kỹ thuật sau:


19
+ Đối với lớp giỏi: cần nâng mức độ nhận thức trong bài học. Cụ thể, hạn
chế mức độ biết, tăng cường mức độ hiểu, vận dụng. Đối với phương pháp dạy học,
giáo viên hạn chế sử dụng phương pháp giảng giải và đàm thoại tái hiện, tăng
cường sử dụng đàm thoại tìm tòi, thảo luận, nêu vấn đề, báo cáo.
+ Đối với những lớp trung bình và yếu: đối với những lớp này, học sinh thụ
động, ít phát biểu.
- Nguyên nhân cơ bản:
* Nguyên nhân cơ bản là học sinh chưa hiểu hết những kiến thức những môn
cơ bản trên lớp giáo viên dạy, như toán, lý, hóa, anh văn, văn…từ đó có những mặc
cảm, không chủ động trong đóng góp ý kiến của bài học. Nguyên nhân này có yếu
tố khách quan và chủ quan. Khách quan là do lớp đông, giáo viên đặt mục tiêu dạy
theo mức trung bình chung của lớp, chính vì vậy những học sinh chậm về mặt nhận
thức sẽ có những hiểu biết chậm hơn những học sinh khác. Vì lớp đông, giáo viên ít
chú tâm vào những học sinh này nên những kiến thức hỏng ngày càng nhiều, dẫn
đến học sinh ngán học, ham chơi. Còn chủ quan là do học sinh không chịu học.
* Hoàn cảnh gia đình: bên cạnh việc có một số gia đình học sinh có kinh tế
khá, có rất nhiều gia đình học sinh có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Điều này ảnh

hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh. Không phải tất cả những học sinh
có hoàn cảnh gia đình khó khăn đều học không tốt, thậm chí một số học sinh đã
vượt lên hoàn cảnh để có kết quả học tập tốt. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên
thời gian học sinh phụ giúp gia đình nhiều, thời gian tập trung học thêm, học bài,
xem bài trước khi đi học ít. Bên cạnh việc gia đình khó khăn, thì một số học sinh lại
rơi vào trường hợp bố mẹ ly dị, ly thân, gia đình không hạnh phúc, mồ côi… Những
trường hợp trên cũng tác động không nhỏ đến quá trình học tập của học sinh trong
quá trình học tập.
* Do sức khỏe: một số học sinh vì sinh lý cá biệt nên e dè, nhút nhác.
* Học sinh bị môi trường bên ngoài tác động nên thời gian tập trung cho bài
học tại lớp và tại nhà ít. Với sự phát triển của kinh tế xã hội ngày nay thì học sinh
rất dễ bị môi trường cám dỗ.
- Một số kỹ thuật cơ bản khuyến khích học sinh phát biểu trong giờ học
Đối với những lớp học có học sinh thụ động trong quá trình học tập, đòi hỏi
người giáo viên phải đầu tư nhiều hơn cho bài dạy của mình. Ngoài việc đầu tư nội


20
dung giảng dạy, phương tiện dạy học mới, hình thức tổ chức thì người giáo viên cần
chú ý những kỹ thuật sau:
+ Động viên: muốn động viên học sinh đòi hỏi người giáo viên phải hiểu tâm
tư, nguyện vọng cũng như hoàn cảnh của từng học sinh. Để làm được việc này đòi
hỏi người giáo viên phải trò chuyện bên ngoài lớp với học sinh nhiều hơn, hoặc trao
đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp để biết tình hình từng em trong lớp của mình.
Trên cơ sở biết được hoàn cảnh của từng học sinh, giáo viên từng bước giáo
dục tư tưởng học sinh, chú ý vào học tập của bản thân. Điều quan trọng là từng
bước giáo viên tìm cách lấp “lỗ trống” về mặc kiến thức cho học sinh.
+ Biết tên học sinh: hiện nay, do dạy nhiều lớp nên rất nhiều giáo viên không
biết tên học sinh trong lớp hoặc biết không hết tên của học sinh. Việc này cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến việc tích cực, chủ động của học sinh. Nếu giáo viên gọi đích

danh học sinh A, B hay C trả lời câu hỏi thì cảm giác của học sinh sẽ vui hơn, thích
hơn là gọi em “đầu bàn 3”, tổ trưởng, lớp trưởng.
Để biết và nhớ tên học sinh, giáo viên cần phải làm quen và hỏi tên học sinh
ngay từ buổi đầu, định vị chỗ ngồi và lập lại nhiều lần. Giáo viên nên nhớ tên ban
cán sự trước, gồm lớp trưởng, các lớp phó, tổ trưởng, sau đó nhớ tên các thành viên
trong lớp. Việc ghi nhớ này phải từ từ, không nóng vội. Ngoài ra, giáo viên cần phải
chuẩn bị một số cái tên thông thường, dễ nhớ như Cúc, Thanh, Tuấn, Minh… để gọi
học sinh trong lớp một cách ngẫu nhiên, từ đó định vị chỗ ngồi, nhớ gương mặt.
+ Đánh giá học sinh lúc phát biểu ý kiến
Đánh giá là khâu rất quan trọng trong quá trình học tập. Mục tiêu cơ bản của
đánh giá là xác nhận mức độ của học sinh để học sinh biết được năng lực bản thân ở
đâu trong hệ thống chuẩn kiến thức cần lĩnh hội mà tự học, tự nâng cao trình độ
theo yêu cầu chung.
Đánh giá có nhiều khâu, nhiều hình thức, từ đánh giá đầu vào, đánh giá quy
trình, đánh giá kết quả, với nhiều hình thức như tự đánh giá, kiểm tra, tìm thông
tin,…
Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh hiện nay chưa thể hiện được mục
tiêu của đánh giá, mà trái lại, đánh giá làm cho học sinh “ngán ngẫm” việc học tập
của mình.


21
Trong dạy học theo quan điểm tăng cường tính tích cực của học sinh trong
quá trình học tập, yếu tố học sinh tích cực đóng góp bài là một khâu then chốt. Để
học sinh tích cực phát biểu, giáo viên nên đánh giá học sinh. Tùy theo bản chất câu
hỏi là tái hiện hay tìm tòi, nếu tái hiện, giáo viên không nên đánh giá điểm tối đa,
còn câu hỏi tìm tòi, giáo viên nên đánh giá điểm tối đa. Nếu kỹ thuật này thực hiện
thường xuyên, liên tục thì chỉ cần giáo viên đặt câu hỏi, không cần biết giáo viên có
cho điểm hay không, học sinh có biết hết nội dung hay không thì tự nhiên học sinh
sẽ xung phong phát biểu ý kiến của mình, vì bản thân học sinh luôn luôn mong

muốn được đánh giá những ý kiến của mình.
Bên cạnh thực hiện kỹ thuật này, giáo viên phải duy trì và kết hợp với những
hình thức đánh giá truyền thống là kiểm tra đầu giờ, kiểm tra 15 phút, vì nếu không
thực hiện, học sinh sẽ chủ quan, không học bài mà chỉ chú tâm vào tìm hiểu kiến
thức mới.
+ Hướng dẫn học sinh học tập
Trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy, phải chú ý đến khâu đổi
mới phương pháp học tập. Vì không đổi mới phương pháp học tập của học sinh thì
mục tiêu đổi mới giáo dục không đạt, vì chỉ giáo viên đổi mới, còn học sinh thì
không.
Giúp học sinh học tập trong điều kiện hiện nay giáo viên cần nhiều thời gian
hơn trong khâu cũng cố, dặn dò của tiết học. Trong khâu này, giáo viên cần định
hướng cho học sinh tiết sau học sinh cần chuẩn bị những nội dung nào, phương tiện
gì, thông tin gì, tranh ảnh gì… Nên nhớ một điều ra yêu cầu học sinh chuẩn bị là
phải kiểm tra vào tiết sau, xem học sinh có chuẩn bị không, chuẩn bị đến đâu. Nếu
học sinh nào chuẩn bị tốt, khen ngợi hoặc đánh giá, còn học sinh nào không chuẩn
bị phải nhắc nhở, thậm chí phạt học sinh. Có như thế mới hình thành và duy trì
được cách học của học sinh.
Cụ thể, giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài trong SGK trước ở nhà, chuẩn bị
những câu hỏi để học sinh tự trả lời.
Hướng dẫn những sách, báo, tài liệu, địa chỉ website học sinh có thể tìm tài
liệu để trả lời những phần giáo viên đã hỏi.
+ Hướng dẫn học sinh tìm thông tin bài học thông quan Internet


22
Internet ngày nay đã phát triển mạnh mẽ, không nơi nào không có Internet và
không ngành nào không vận dụng Internet vào. Đối với trường Thiên Hộ Dương,
việc tiếp xúc với Internet của học sinh rất dễ dàng.
Giáo viên cần giáo dục học sinh Internet là một kho tri thức vô tận, nhưng

cũng là một thứ thuốc độc hại, nếu biết sử dụng sẽ rất tốt, nếu quá lạm dụng Internet
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và thời gian học tập.
Đối với môn địa lí, giáo viên nên cung cấp cho học sinh những tên miền có
chứa những nội dung địa lí như tự nhiên, kinh tế xã hội, địa lí các quốc gia trên thế
giới…
Bên cạnh đó, giáo viên cần đưa ra những chủ đề và hướng dẫn học sinh khai
thác thông tin từ Internet để học sinh có cơ hội, điều kiện sử dụng Internet vào học
tập.
Một mặc khuyến khích, mặc khác, giáo viên cũng phê bình, nhắc nhở những
học sinh thường xuyên sử dụng Internet cho những công việc khác như chơi game,
chat, xem những nội dung không tốt… để răn đe học sinh.
+ Đối với hệ thống kỹ năng, như kỹ năng đọc bản đồ giáo khoa, kỹ năng
phân tích bảng số liệu, vẽ biểu đồ, giáo viên phải làm mẫu, đến việc khuyến khích
học sinh làm theo và từ làm theo khuyến khích học sinh tự suy nghĩ, tự làm và phải
duy trì liên tục những mảng kỹ năng đã hình thành cho học sinh.
2.6. Vận dụng dạy học tích cực vào giảng dạy địa lí tại trường THPT
Thiên Hộ Dương
2.6.1. Giáo án 1
Nội dung trọng tâm của vận dụng dạy học tích cực vào giảng dạy trong giáo
án 1 là vận dụng triệt để nội dung môn địa lí vào trường phổ thông và sử dụng thang
phân loại nhận thức của Bloom vào giảng dạy.
a. Phân tích nội dung môn Địa lí có trong bài 12, Sự phân bố khí áp. Một số
loại gió chính, chương trình Địa lí 10, ban cơ bản:


23

Hình 1: Bài 12, SGK Địa lí 10, Cơ bản



24


25


26


27

Trong bài 12 có những khái niệm riêng sau: khí áp, tỉ trọng không khí, gió
tây ôn đới, gió mậu dịch, gió mùa, gió biển, gió đất, gió phơn.
Trong bài có quy luật địa lí là sự phân bố các đai khí áp trên Trái Đất.
Để học sinh có thể phân tích được mối quan hệ giữa khí áp và gió; nguyên
nhân làm thay đổi khí áp, biết được nguyên nhân hình thành một số loại gió thổi
thường xuyên trên Trái Đất, gió mùa và một số loại gió địa phương thì giáo viên cần
phải phân tích, giảng giải một số nội dung sau:
+ Đối với các loại gió: là một khái niệm riêng nên cần phân tích rõ những
dấu hiệu riêng biệt của các loại gió gồm khái niệm, tính chất, hướng chuyển động,
thời gian chuyển động và nguyên nhân.
+ Đối với quy luật sự phân bố các đai khí áp trên Trái Đất, vì là quy luật địa
lí nên có những tính chất bất biến trong những điều kiện nhất định, cần nêu sự phân
bố các đai khí áp trên Trái Đất trước và sau đó giảng giải 3 nguyên nhân cơ bản của
sự phân bố đó là do độ cao, nhiệt độ, độ ẩm.


×