Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

CÔNG TRÌNH DỰ THI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.77 KB, 55 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-------  ------

CÔNG TRÌNH DỰ THI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG
Lần thứ XIII Năm học 2008 – 2009

TÊN CÔNG TRÌNH: SO SÁNH MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG CỦA VIỆT NAM – SINGAPORE và
KIẾN NGHỊ

THUỘC NHÓM NGÀNH KHOA HỌC PHÁP LÝ

Họ tên tác giả, nhóm tác giả:

Mã số SV

Năm thứ

1. NGUYỄN HỒ QUẢNG GIANG

3260241

2

Trưởng nhóm: ĐINH TRƯƠNG ANH PHƯƠNG 3260121

2


Lớp: QT32B

Khoa: Luật Quốc tế

Khóa: 32

Người huớng dẫn: ThS NGUYỄN THANH MINH

Mã số công trình: ……………………..


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-------  ------

CÔNG TRÌNH DỰ THI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG
Lần thứ XIII Năm học 2008 – 2009

TÊN CÔNG TRÌNH: SO SÁNH MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG CỦA VIỆT NAM – SINGAPORE và
KIẾN NGHỊ

THUỘC NHÓM NGÀNH : KHOA HỌC PHÁP LÝ

Nam/Nữ

Mã số SV


Năm

Nam

3260241

2

Trưởng nhóm: ĐINH TRƯƠNG ANH PHƯƠNG Nam

3260121

2

Lớp: 32B

Khoa: Luật Quốc tế

Họ tên tác giả, nhóm tác giả:
thứ
1. NGUYỄN HỒ QUẢNG GIANG

Khóa: 32

Người huớng dẫn: ThS NGUYỄN THANH MINH


3
MỤC LỤC


Lời nói đầu.

4

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tham nhũng.
1.1 Khái niệm và nguyên nhân tham nhũng.

7

1.1.1 Khái niệm tham nhũng.

7

1.1.2 Nguyên nhân tham nhũng.

12

1.2 Ảnh hưởng của tham nhũng.

19

1.2.1 Ảnh hưởng đối với kinh tế.

19

1.2.2 Ảnh hưởng đối với chính trị.

20

1.2.3 Ảnh hưởng đối với xã hội.


20

Chương 2: So sánh luật phòng chống tham nhũng 2003 của Việt Nam và luật phòng
chống tham nhũng của Singapore (Prevention of Corruption Act.)

22

2.1 Tên gọi của luật.

22

2.2 Đối tượng điều chỉnh của luật.

23

2.3 Hiệu lực hồi tố.

26

2.3.1 Hiệu lực hồi tố về thời gian.

26

2.3.2 Hiệu lực hồi tố về không gian.

28

2.4 Thẩm quyền cơ quan điều tra chống tham nhũng.


30

2.5 Hình phạt đối với tội phạm về tham nhũng.

36

2.5.1 Hình phạt tiền.

36

2.5.2 Hình phạt tù.

39

2.5.3 Hình phạt tử hình.

40

KIẾN NGHỊ.

44

KẾT LUẬN.

48

Danh mục tài liệu tham khảo.


4

LỜI NÓI ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài:
Tham nhũng là một hiện tượng có tính lịch sử, đang làm đau đầu không chỉ các
nước có tỉ lệ tham nhũng cao mà còn là vấn đề của tất cả các nước trên thế giới. Theo
thống kê của Tổ chức Minh bạch quốc tế năm 2008 (Transparency International), Việt
Nam xếp hạng 121 trong số 180 nước được điều tra về vấn đề tham nhũng1. Một con số
đáng để cho những nhà lãnh đạo đất nước quan tâm và suy ngẫm. Ngoài việc gây thiệt
hại về vật chất, tham nhũng còn gây ra sự bất bình trong nhân dân, tạo nên sự bất công
trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chính phủ. Từ đó, tham nhũng ảnh
huởng rất lớn về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội và cả sự phát triển của đất nước đó
Một đất nước với tình trạng tham nhũng lâu ngày không giải quyết sẽ dẫn đến
sự mất lòng tin của dân chúng vào bộ máy lãnh đạo, đây là một điều hết sức nguy hiểm
cho sự tồn vong của mỗi quốc gia.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng lợi
dụng mọi cơ hội để chống phá đất nước thì việc chống tham nhũng lại càng quan trọng.
Bởi vì một đất nước muốn đứng vững trên sân chơi quốc tế, đứng vững trước sự chống
phá từ bên ngoài thì bắt buộc đất nước ấy phải có một nội lực mạnh mẽ, và nội lực ấy
phải bắt nguồn từ một bộ máy chính trị trong sạch từ trung ương đến địa phương. Đã
đến lúc, chúng ta phải nỗ lực hết sức, cố gắng hết mình để phòng và chống tham nhũng
nhằm làm hệ thống chính trị thêm vững mạnh.
Việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà
còn có ý nghĩa thực tế, góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tham nhũng.

Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung chính của đề tài là nghiên cứu về vấn đề tham nhũng và chống
tham nhũng. Cụ thể hơn, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về tên gọi của Luật, hiệu
lực hồi tố, thẩm quyền cơ quan điều tra phòng, chống tham nhũng và về hình phạt
đối với các tội danh về tham nhũng trong Luật phòng, chống tham nhũng của Việt
Nam (29/11/2005), đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với Luật phòng, chống

1

/>

5
tham nhũng của Singapore về các vấn đề trên để từ đó rút ra những nhận xét, đánh
giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn cơ chế phòng, chống tham nhũng ở nước ta
hiện nay. Cụ thể hơn, đề tài sẽ tập trung chủ yếu vào việc so sánh những điểm
giống nhau và khác nhau giữa Luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và
Singapore trên những khía cạnh sau:


Tên gọi của luật.



Đối tượng điều chỉnh của luật.



Hiệu lực hồi tố.



Thẩm quyền của cơ quan điều tra phòng, chống tham nhũng.



Hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng.


Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
Sản và Nhà nước Việt Nam về pháp luật, các văn bản pháp luật của Việt Nam và
Singapore, một số tác phẩm, bài viết, bài báo, những bài tham luận của các tác giả về
tội phạm, đấu tranh phòng, chống tham nhũng…
Công trình sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh,
tổng hợp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.

Tóm tắt nội dung đề tài:
Đề tài bao gồm hai phần chính. Đầu tiên, nhóm tác giả sẽ trình bày những vấn
đề lý luận khái quát về tham nhũng. Đây sẽ là tiền đề để nhóm tác giả tiến hành việc
phân tích và so sánh những điểm giống nhau và khác nhau trong pháp luật về phòng
chống tham nhũng của Singapore và Việt Nam, để từ đó có những kiến nghị, và giải
pháp.


6
Bố cục đề tài:
Đề tài được kết cấu bởi các nội dung cơ bản sau:
o Mục lục.
o Lời mở đầu.
o Nội dung chính bao gồm hai chương:


Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tham nhũng.



Chương 2: So sánh luật phòng chống tham nhũng 2005 của Việt

Nam và Luật phòng chống tham nhũng của Singapore.

o Kiến nghị.
o Kết luận.
o Danh mục tài liệu tham khảo.
o Phụ lục:


Luật phòng chống tham nhũng Singapore (bản tiếng Việt_người
dịch: Nguyễn Hồ Quảng Giang)



Luật phòng chống tham nhũng Singapore (nguyên gốc tiếng Anh)

Tên
Bộ luật hình sự năm 1999
Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân

Viết tắt
BLHS
UBTVQH
HĐND
UBND


7
CHƯƠNG 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG

1.1 Khái niệm và nguyên nhân tham nhũng
1.1.1 Khái niệm tham nhũng.
Tham nhũng là một hiện tượng đã và đang xảy ra phổ biến trong xã hội, trở
thành quốc nạn chung của các quốc gia, làm tổn hại đến chính phủ, làm mất uy tín của
cơ quan công quyền và có ảnh hưởng rất lớn đối với người nghèo. Chủ tịch tổ chức
International Transparency, Peter Eigen, nhận xét: “Tham nhũng là nguyên nhân chính
của đói nghèo, khoá chặt người dân trong vòng nghèo khổ”2. Quan trọng hơn, tham
nhũng còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng như uy tín và
vị thế của chính quốc gia ấy trên trường quốc tế. Giống như nhiều nước trên thế giới, ở
nước ta trong thời gian gần đây chính phủ đã quyết tâm rất cao trong việc phòng chống
tham nhũng và bước đầu đã có những biện pháp thật sự quyết liệt như việc ban hành
Luật phòng, chống tham nhũng 2005, đưa ra ánh sáng nhiều vụ án tham nhũng lớn…
Thế nhưng muốn phòng chống tham nhũng có hiệu quả, trước hết cần phải có
nhận thức rõ về cơ sở lý luận của hiện tượng này. Trong đó, việc tìm hiểu nội hàm khái
niệm và nguyên nhân tham nhũng là một việc cần thiết để giúp hiểu rõ được tận gốc
của vấn đề, từ đó có những biện pháp chính xác và hiệu quả nhằm giải quyết được triệt
tiêu và toàn diện vấn nạn đã và đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo trên khắp thế giới.
Theo định nghĩa của tổ

chức minh bạch quốc tế (Transparency

3

International_TI) tham nhũng là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn,
hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”. Theo định nghĩa trên thì
tham nhũng là hành vi của người có địa vị cao trong xã hội (thường là trong các cơ
quan công quyền) mà từ vị trí đó họ có thể dễ dàng trục lợi cho bản thân thông qua
những việc làm trái pháp luật của mình. Nhưng trên thực tế, không chỉ cán bộ lãnh đạo,

cán bộ công quyền mới tham nhũng. Ví dụ như trường hợp Nguyễn Lâm Thái, không
phải là cán bộ Nhà nước nhưng y đã thông qua một vài công ty ma, móc ngoặc với

2
3

/> />

8
quan chức ngành bưu chính viễn thông để nâng giá thiết bị bưu điện lên hàng chục lần,
rút ruột hàng chục tỷ đồng của nhà nuớc4.
Theo từ điển tiếng Việt, “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu
nhân dân lấy của”5. Tuy nhiên, với khoa học pháp lý, định nghĩa này quá đơn giản và
chung chung, chưa phản ánh hết các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng. Vì tham
nhũng không chỉ xảy ra bằng việc gây khó dễ, đối tượng chịu tác động không chỉ là
nhân dân, tham nhũng có thể diễn ra dưới rất nhiều hình thức và trong nhiều họat động,
lĩnh vực như kinh tế, chính trị, hành chính, giáo dục… Bên cạnh đó, đối tượng mà chủ
thể tham nhũng hướng tới không đơn giản chỉ là lợi ích của cải vật chất mà đó có thể là
một lời hứa hẹn về sự thăng tiến trong công việc, một sự bảo đảm khi hành vi tham
nhũng đó bị phát giác…
Theo World Bank6 (ngân hàng thế giới) không đưa ra khái niệm tham nhũng bởi
giữa các quốc gia thành viên có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có thể xác định được
hành vi tham nhũng dựa trên ba yếu tố:
Một là, hành vi tham nhũng liên quan tới việc chào mời, cho, nhận hoặc gạ gẫm
một thứ gì đó có giá trị nhằm tác động tới hành động của một công chức Nhà nước
trong quá trình mua sắm hoặc thực hiện hợp đồng.
Hai là, hành vi gian lận như: việc thể hiện sai các thông tin thực tiễn nhằm tác
động tới một quá trình mua sắm hoặc quá trình thực hiện hợp đồng gây thiệt hại cho
bên vay. Hành vi gian lận bao gồm các hành vi thông đồng giữa các nhà thầu (truớc
hoặc sau khi dự thầu) nhằm tạo ra các mức thầu giả tạo khi cạnh tranh, và tước đi

những lợi ích mà việc cạnh tranh tự do, công khai đem lại cho bên vay.
Ba là, hoạt động mua sắm sai nguyên tắc, xảy ra khi một hợp đồng do ngân
hàng tài trợ vi phạm các quy trình mà ngân hàng và các khách hàng đã thỏa thuận và
không tuân thủ các điều kiện quy định trong hợp đồng tín dụng.
Theo World Bank, tham nhũng đề cập đến hành vi chào mời, thông đồng giữa
các chủ thể tham nhũng (cả nhóm có quyền lực và không quyền lực). Tuy nhiên, vì đây
là những yếu tố do một tổ chức thiên về kinh tế đưa ra, nên định nghĩa về tham nhũng
chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ tài chính như chỉ tập trung vào những vấn đề có liên
4

/>Từ điển tiếng Việt, NXB Văn Hóa năm 2002, trang 115
6
www.worldbank.org
5


9
quan nhiều nhất tới các chính sách và quy trình của tổ chức tài chính này như các khoản
vay, đấu thầu, mua sắm… mà không có một cái nhìn bao quát toàn diện vấn đề trên các
khía cạnh khác như khía cạnh văn hóa chính trị tham nhũng. Do đó đã làm thu hẹp đi
ngoại diên của định nghĩa về tham nhũng. Bởi vì tham nhũng có thể xảy ra ở bất cứ lĩnh
vực nào, không phân biệt cấu trúc chính trị hay trình độ kinh tế - xã hội của một nước.
Nói chung, tham nhũng dễ xảy ra nhất ở nơi mà các khu vực công cộng và tư nhân gặp
nhau. Bên cạnh đó, tham nhũng còn xảy ra ngay cả trong việc bầu và bổ nhiệm các
quan chức thuộc tất cả các cấp, từ Trung ương đến địa phương. Tham nhũng còn thể
hiện trong việc bổ nhiệm các thành viên gia đình, những nguời trong họ hàng và bạn bè
vào những cơ quan công cộng có vị thế độc quyền, có thể thu lợi nhuận trong một lĩnh
vực họat động nào đó ở khu vực tư nhân hoặc công cộng. Ngoài ra, ở định nghĩa trên,
dấu hiệu về mặt chủ quan của việc tham nhũng cũng không được đề cập cụ thể, việc
tham nhũng là vì lợi ích của chính người đó hay cho những người khác có liên quan, có

quan hệ phụ thuộc? Việc tham nhũng là do chủ thể cố ý hay vô tình liên quan và không
nhận ra hành vi của mình là tham nhũng. Đây là một tình tiết đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình định tội, vì theo BLHS Việt Nam, vấn đề yếu tố lỗi là một trong
những điều cần xem xét đến, khi muốn xác định tội danh cho một hành vi nào đó, và do
vậy, hành vi tham nhũng cũng không ngọai lệ. Bởi vì mặt chủ quan là một trong những
yếu tố quan trọng trong việc cấu thành tội phạm, không một cá nhân nào phải gánh chịu
một tội phạm nếu người đó không có lỗi trong việc gây ra tội phạm đó.
Đối với pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật phòng, chống tham nhũng 2005,
ngay tại Điều 1 đã định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Về khái niệm “người có chức vụ,
quyền hạn” ngay trong bộ luật này tại khoản 3 Điều 1 cũng đã có sự giải thích bằng
phuơng pháp liệt kê. Theo đó, thuật ngữ trên bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo,
quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;


10
d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Phương pháp liệt kê thường được sử dụng đối với những định nghĩa có ngọai
diên hẹp vì sẽ giúp bao hàm được tất cả những thành tố phụ thuộc định nghĩa đó. Đối
với khái niệm “người có chức vụ, quyền hạn”, theo nhóm tác giả là một khái niệm
không dễ dàng hiểu rõ và tường tận, vì thế nếu sử dụng định nghĩa liệt kê ở đây sẽ khó
bao quát được tất cả các yếu tố thuộc ngọai diên của khái niệm này. Nhất là khi khái
niệm này lại được dùng trong định nghĩa “tham nhũng”, một định nghĩa còn nhiều tranh
cãi. Nên chăng chúng ta dùng phương pháp diễn giải sẽ hợp lý và toàn diện hơn?

Bên cạnh đó, nếu người có chức vụ, quyền hạn lạm dụng chứ không lợi dụng
chức vụ quyền hạn thì có cấu thành tội tham nhũng không? Bởi vì khái niệm và hành vi
của hai thuật ngữ “lạm dụng” và “lợi dụng” không hoàn toàn giống nhau. Theo định
nghĩa của Từ điển pháp luật Hình sự: “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hành vi
vượt quá quyền hạn làm trái công vụ được giao của người có chức vụ, quyền hạn. Tội
lạm quyền trong khi thi hành công vụ là trường hợp đặc biệt của tội lợi dụng chức vụ và
quyền hạn. Xét về bản chất, lạm quyền cũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhưng có
điểm khác là chủ thể đã vượt quá quyền hạn của mình, hoặc nói cách khác chủ thể đã
thực hiện việc làm không thuộc thẩm quyền, và nội dung việc làm đó là sai” 7. Từ đó có
thể đưa ra nhận xét: trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nội dung việc làm
của chủ thể là sai nhưng việc làm đó thuộc phạm vi và chức trách của chủ thể. Do đó,
có thể thấy rằng trường hợp lạm dụng quyền hạn sẽ có tính nguy hiểm cao hơn.
Từ những luận cứ và phân tích trên đây, nhóm tác giả đưa ra khái niệm chung
về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi,
nhằm đạt được những lợi ích vật chất, tinh thần hay những lợi ích khác, cho bản thân
hay cho người khác”.
Bàn về tham nhũng thì một trong những vấn đề thu hút nhiều sự chú ý và quan
tâm của các nhà chuyên môn chính là nguyên nhân của tham nhũng. Vì muốn giải
quyết triệt để và tận gốc vấn nạn này cần phải hiểu rõ được cội nguồn của nó. Cũng

7

Từ điển pháp luật Hình Sự_ PGS-TS Nguyễn Ngọc Hoà, PGS-TS Lê Thị Sơn_ NXB Tư pháp 2006 (trang
144, 145)


11
giống như muốn chữa được bệnh thì trước hết phải tìm được nguyên nhân, trên cơ sở
đó sẽ có được những biện pháp tốt nhất để lọai trừ. Từ những biểu hiện muôn hình vạn

trạng của tham nhũng trong thực tế, nhóm tác giả rút ra một số nguyên nhân chính hình
thành nên hiện tượng này.

1.1.2 Nguyên nhân của tham nhũng.
Nguyên nhân của tham nhũng là những nhân tố bên trong, trực tiếp tác động đến
việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội, đến những đặc điểm nhân cách bền vững
của người phạm tội và có vai trò quyết định đối với việc thực hiện hành vi phạm tội.
Điều phổ biến nhất trong tư duy chủ quan của những người có hành vi tham nhũng
chính là sự nhìn nhận, đánh giá sai lệch về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Những
người có ý thức không đầy đủ về mối quan hệ biện chứng giữa quyền và nghĩa vụ xã
hội của mình trong cộng đồng đã không chịu cống hiến và cũng không chịu tự điều
chỉnh hành vi của mình trong giới hạn có thể để thỏa mãn nhu cầu. Yếu tố “tham” trong
tham nhũng chính là biểu hiện của sự thái quá về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu
cầu đó bất chấp những đòi hỏi khách quan của cộng đồng.
Một là, nguyên nhân kinh tế:
Hiện nay trong thời buổi kinh tế thị trường, lạm phát gia tăng, gía cả các mặt
hàng hóa phục vụ cho nhu cầu cuộc sống ngày càng gia tăng. Theo bản đính kèm theo
nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ, theo đó lương đối với
một chuyên gia cao cấp trong lĩnh cực công nghệ - thông tin tối đa là 2.900.000 đồng
trong khi đó thì mức lương của nhân viên trong khu vực tư nhân thì lương của một kỹ
sư công nghệ thông tin khi mới ra trường có thể lên đến 1.000 USD hoặc 2.000 USD.
Qua những số liệu đó cho ta thấy được sự chênh lệch giữa mức lương của một nhân
viên trong khu vực Nhà nước và một nhân viên trong khu vực tư nhân. Theo Điều 44
Luật cán bộ công chức năm 2008 và theo thông tư 07/2008/TT-BNV về việc hướng dẫn
thực hiện một số quy định về thi nâng ngạch công chức thì việc nâng ngạch công chức
phải trải qua nhiều khó khăn. Do đó lương cán bộ công chức trong cơ quan Nhà nước
đã thấp, mà việc nâng ngạch để tăng lương thì lại trải qua rất nhiều công đoạn, dẫn đến
việc tăng lương là vô cùng nhiêu khê, phức tạp. Mặc dù Nhà nước cũng tiến hành điều



12
chỉnh mức lương tối thiểu từ tháng 4/1993 là 110.000 đồng nâng dần qua các mốc
12/1993 là 120.000 đồng, 1/1997 là 144.000 đồng, 1/1999 là 180.000 đồng, 1/2001 là
210.000 đồng, 1/2003 là 290.000 đồng, 10/2005 là 350.000 đồng, 10/2006 là 450.000
đồng và và sau đó tăng lên là 540.000 đồng, và đến ngày 01/05/2009 tăng lên 640.000
đồng, nhưng mức lương đó vẫn còn quá thấp so với việc leo thang của vật giá. Bàn về
vai trò của yếu tố kinh tế đối với sự phát triển, chủ nghĩa Mác kết luận rằng: “Kinh tế là
cơ sở, là căn nguyên của rất nhiều hiện tượng xã hội dựa vào đó để phát sinh và tồn tại,
trong đó không loại trừ nạn tham nhũng. Các vi phạm pháp luật thường do nhân tố kinh
tế tạo ra.” Vì vậy, một khi yếu tố kinh tế không được bảo đảm dễ dẫn đến tình trạng cán
bộ công chức Nhà nước muốn trang trải được cuộc sống buộc họ phải tìm cách để gia
tăng nguồn thu nhập, và một trong những biện pháp họ có khả năng thực hiện với chức
vụ và quyền hạn trong tay chính là tham nhũng. Đối với Singapore mức lương của cán
bộ công chức Nhà nước và mức lương của nhân viên trong khu vực tư nhân được điều
chỉnh để bằng nhau, trong đó có một số chức danh trong chính phủ có mức lương cao
hơn so với mức lương của khu vực tư nhân. “Đối với lương thủ tướng năm 2000 là hơn
1,1 triệu đôla Mỹ, ngay cả thủ tướng có thâm niên ít nhất cũng nhận được 550 000 đôla
Mỹ nhiều hơn lương tổng thống Mỹ”8, còn khi đất nước gặp khó khăn thì biểu lương
của cán bộ công chức cũng giảm xuống theo sự giảm xuống của lương nhân viên trong
khu vực kinh doanh. Việc đó không chỉ đảm bảo cho nhân viên, cán bộ công chức của
Singapore có được cuộc sống khá giả, được huởng mức luơng đúng theo tình hình cuộc
sống thực tế, mà còn hạn chế được hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức. Vì khi
đáp ứng đủ nhu cầu của mình với mức lương thì không cần thiết phải có hành vi tham
nhũng để trở thành tội phạm. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “chúng ta không sợ thiếu,
chỉ sợ không công bằng”9, và câu nói đó thể hiện một cách rõ nét về vấn đề này.
Bên cạnh đó, việc Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế cũng góp phần
hình thành tham nhũng. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo Luật doanh
nghiệp Nhà nước năm 2003, hoạt động trong các lĩnh vực nhằm mục tiêu thu lợi nhuận,
nhưng có rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã không đạt được muc tiêu này “Tổng số
tài sản của khu vực doanh nghiệp Nhà nước là 747,000 tỉ đồng, nhưng nợ phải thu


8
9

/>o/4rum/archive/index.php/t-1030.html


13
chiếm 22% và nợ đáo hạn 449,000 tỉ (bao gồm 76% từ vay ngân hàng thương mại, và
số còn lại do chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác hoặc vay của người lao động
trong đơn vị). Tiền vay của nhiều tổng Công ty Nhà nước gấp từ 5- 35 lần vốn điều lệ.
Hơn 20% doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ, 9% hoà vốn”10. Một trong số những nguyên
nhân đó là do khi các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà
nước năm 2003 thua lỗ, Nhà nước đã bơm vốn vào để cho các doanh nghiệp đó tiếp tục
tồn tại, như vậy đã đi trái lại với nguyên tắc của nền kinh tế, không chỉ thế còn tạo cho
các doanh nghiệp trạng thái dựa dẫm vào việc Nhà nước bù lỗ vốn. Bên cạnh đó tại
Điều 1 Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 “Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách
pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động,
kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”, nhưng khi doanh nghiệp
thua lỗ Nhà nước lại bù lỗ vốn vào, dẫn đến trái lại với quy định do Luật doanh nghiệp
Nhà nước năm 2003 quy định. Không chỉ thế trong Luật doanh nghiệp Nhà nước năm
2003 quy định là Nhà nước chỉ cung cấp vốn một lần và không có quy định là khi
doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ lại được cấp thêm vốn nhưng khi thua lỗ lại được thêm
vốn, do đó đã đi trái lại với nguyên tắc là Nhà nước chỉ được làm những việc mà pháp
luật đã quy định. Trong 10 vụ án tham nhũng lớn thì có nhiều vụ án liên quan đến
doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có vụ án tham ô do Lã Thị Kim Oanh tổ chức với số
tiền gây thiệt hại lên đến 100 tỷ đồng "Trong hơn sáu năm làm giám đốc, Lã Thị Kim
Oanh đã chiếm dụng hơn 72 tỉ đồng và 110.000 đôla; đồng thời làm thiệt hại của Nhà
nước trên 34,3 tỉ đồng và 3.000 đôla"11. Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc
trên là do khi doanh nghiệp thua lỗ, Nhà nước rót thêm vốn vào, dẫn đến tình trạng một

số cá nhân trong doanh nghiệp Nhà nước đã lợi dụng việc này mà có hành vi tham ô tài
sản. Trái lại với Singapore, các doanh nghiệp Nhà nước của Singapore lại hoạt động
khá hiệu quả, do trong đó, các doanh nghiệp Nhà nước đều được đối xử ngang bằng với
doanh nghiệp tư nhân, và Nhà nước Singapore không có tình trạng bơm vốn vào cho
doanh nghiệp khi doanh nghiệp thua lỗ, mà để doanh nghiệp Nhà nước tự hoạt động.

10
11

/> />

14
Hai là, nguyên nhân chính trị.
Hiện nay Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu Nhà nước mới được hình thành
trong lịch sử. Do đó, trong quá trình xây dựng Nhà nước gặp phải nhiều khó khăn và
trong đó gặp phải khó khăn trong việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Trong báo cáo lên thủ tướng, bộ trưởng bộ nội vụ Đỗ Quang Trung cho biết trong số 23
vấn đề cần xin ý kiến, có 8 vấn đề chồng chéo, 9 vấn đề phân công chưa rõ, chưa hợp lý
và 6 vấn đề chưa phân công hoặc bỏ sót12.
Đơn cử như: chồng chéo trong vấn đề quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm giữa
Bộ y tế với Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Thuỷ sản, Khoa học và công nghệ,
Thương mại và một số bộ khác.
Chồng chéo trong quản lý nhà ở công vụ, công sở giữa Bộ xây dựng với Bộ tài
chính và các bộ khác; chưa phân công rõ, chưa hợp lý trong quản lý về chi ngân sách
Trung ương đầu tư cho phát triển giữa Bộ kế hoạch và đầu tư với Bộ tài chính.
Còn bỏ sót, chưa phân công cho bộ nào thực hiện quản lý Nhà nước về biển,
quản lý Nhà nước về di cư dân số ra nước ngoài, quản lý Nhà nước về cơ sở hạ tầng kỹ
thuật phát thanh, truyền hình…
Chính vì việc hệ thống pháp luật hiện nay còn nhiều bất cập, nhiều sơ hở vì thế
đã làm cho một số người lợi dụng việc đó để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của

mình, trong đó có cả hành vi tham nhũng. Như trong thông tư Hướng dẫn thực hiện một
số nội dung của Quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hoá từ ngân sách Nhà nước
theo phương thức tập trung ban hành kèm theo Quyết định số 179/2007/QĐ-TTg ngày
26/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ tại điểm d khoản 8 Mục VIII có quy định về việc
đơn vị được giao tổ chức mua sắm tài sản, hàng hoá theo phương thức tập trung được
thu các khoản là “Hoa hồng từ mua sắm tài sản, hàng hoá; quà tặng, quà khuyến mãi
của nhà cung cấp (nếu có)”. Theo đó các đơn vị đó sẽ được quyền nhận các khoản hoa
hồng từ việc mua sắm tài sản hàng hóa, như vậy cũng dẫn đến việc dễ dàng làm phát
sinh hành vi tham nhũng trong cơ quan. Bởi vì ranh giới giữa hoa hồng và tiền hối lộ
thường rất khó phân biệt. Tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Tuyền trong một bài
phỏng vấn gần đây cũng đã phải thừa nhận: “Chưa có ranh giới thế nào là "hoa hồng"
bình thường còn thế nào là phạm tội hối lộ. Tới đây, Chính phủ cũng sẽ nghiên cứu để
12

vietbao.vn/Xa-hoi/Chinh-phu-nhiem-ky-moi-duoc-co-cau.../157/ -


15
quy định rõ thêm về việc tặng, nhận quà. Trường hợp nào được xem như bình thường,
trường hợp nào coi là bất bình thường, nhận hối lộ”13 Đối với Singapore, tiền hoa hồng
trái pháp luật là khoản tiền ăn chia lén lút mà người nhận không được phép nhận, vượt
quá khoản hoa hồng cho phép mà người chủ đã quy định trong hợp đồng của công ty.
Do đó, những khoản tiền được xem là hoa hồng trái pháp luật cũng được xem là đối
tượng của hành vi tham nhũng, và việc điều tra những hành vi tham nhũng này cũng
thuộc thẩm quyền của CPIB.
Cũng theo thông tư trên tại Mục III quy định về “Đối tượng áp dụng mua sắm
theo phương thức tập trung”, nhưng lại không quy định chất lượng của các loại hàng
hóa đó phải như thế nào, những loại hàng hóa đó chỉ cần sử dụng được hay phải là
những mặt hàng hiện đại. Theo quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hoá từ ngân sách
Nhà nước theo phương thức tập trung (Ban hành kèm theo Quyết định số

179/2007/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ) tại khoản 1
Điều 1 thì mục đích của việc mua sắm tài sản, hàng hoá theo phương thức tập trung là
“Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng trong sử dụng ngân sách Nhà
nước”, nhưng theo Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về việc mua sắm, quản lý và sử
dụng tài sản công tại các ban quan lý dự án thuộc 4 bộ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục- Đào tạo, và 4 địa phương: Hà
Nội, TPHCM, Ninh Bình và Đồng Nai thì số tiền mà các ban quản lý dự án của 4 bộ và
4 địa phương mua sắm tài sản thiết bị vượt tiêu chuẩn chế độ, sai mục đích là hơn 95 tỷ
đồng. Cụ thể, tài sản nhà đất vượt tiêu chuẩn hơn 19 tỷ đồng, xây dựng vượt tiêu chuẩn
hơn 4,5 triệu đồng. Các phương tiện đi lại mua cao hơn tiêu chuẩn, không đúng nguồn
lên tới hơn 53 tỷ đồng. Trong đó, 73 ô tô vượt chuẩn gần 33 tỷ đồng, 160 xe máy ngoài
chế độ trang bị cho cán bộ trị giá 4,3 tỷ đồng… Đáng chú ý là 61 máy tính xách tay trị
giá 1,3 tỷ, 26 chiếc điện thoại di động trị giá 172 triệu đồng (trung bình 6,6 triệu
đồng/chiếc), gấp rưỡi so với tiêu chuẩn”14. Như vậy đã đi trái lại với mục đích là tiết
kiệm và chống lãng phí mà quyết định trên đã nêu.
Bên cạnh đó một trong những nguyên nhân dẫn đến tham nhũng phát triển đó
chính là cơ chế quản lý, giám sát vẫn còn yếu kém. Mặc dù trong luật đã quy định cơ
13

/> />14


16
chế giám sát, nhưng việc thực hiện giám sát đó vẫn còn mang nặng tính hình thức và
không được áp dụng thường xuyên, do đó đã tạo cơ hội cho những kẻ tham nhũng có
thể thực hiện được hành vi của mình. Đơn cử trong luật doanh nghiệp Nhà nước năm
2003 có quy định tại khoản 1 Điều 36 "Hội đồng quản trị thành lập Ban kiểm soát để
giúp Hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc hoặc
giám đốc, bộ máy doanh nghiệp và các đơn vị thành viên (nếu có) trong hoạt động tài
chính, chấp hành điều lệ doanh nghiệp, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị,

chấp hành pháp luật", theo đó trong các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật
doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 thì sẽ có ban kiếm soát với nhiệm vụ giám sát các
hoạt động điều hành của giám đốc và tổng giảm đốc, nhưng trọng vụ án Lã Thị Kim
Oanh là giám đốc của doanh nghiệp Nhà nước nhưng lại là người trực tiếp quản lý con
dấu, két bạc, tự quyết định chi tiêu, không thông qua thủ quỹ cũng không qua sổ sách,
vậy trách nhiệm ban kiểm soát lúc này ở đâu? Bên cạnh đó "Trong hơn sáu năm làm
giám đốc, Lã Thị Kim Oanh đã chiếm dụng hơn 72 tỉ đồng và 110.000 đôla; đồng thời
làm thiệt hại của Nhà nước trên 34,3 tỉ đồng và 3.000 đôla"15, không chỉ thế bên cạnh
đó tại khoản 2 Điều 8 thông tư Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Quy chế tổ
chức mua sắm tài sản, hàng hoá từ ngân sách Nhà nước theo phương thức tập trung ban
hành kèm theo Quyết định số 179/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 của Thủ tướng
Chính phủ quy định "Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan Trung ương và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm kiểm tra việc
thực hiện mua sắm tài sản, hàng hoá theo phương thức tập trung theo đúng các quy
định của pháp luật" theo đó việc mua sắm tài sản công sẽ được các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan Trung ương và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chịu trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện mua sắm tài sản, hàng hoá theo
phương thức tập trung nhưng việc mua sắm tài sản, hàng hoá theo phương thức tập
trung lại vượt tiêu chuẩn chế độ, sai mục đích là hơn 95 tỷ đồng, vậy lúc này trách
nhiệm của các cơ quan giám sát nằm ở đâu? Qua đó ta thấy được mặc dù trong luật của
ta quy định cụ thể về việc giám sát các hoạt động nhưng việc giám sát đó trên thực tế
vẫn còn quá nhiều bất cập và hoạt động không hiệu quả, do đó đã tạo cơ hội, thuận lợi
cho việc tham ô tài sản công.
15

/>

17
Ba là, nguyên nhân xã hội:
Ngoài hai nguyên nhân về kinh tế, chính trị, một số yếu tố khác trong đời sống

xã hội cũng góp phần hình thành nên hành vi tham nhũng. Đó là lối sống trọng tình đến
thái quá, tâm lý quà cáp có đi có lại cũng như sự đấu tranh kém hiệu quản các thiết chế
mang tính dân chủ trong đời sống xã hội…
Phần lớn những hành vi tham nhũng bị phát hiện chỉ được xử lý nội bộ, chỉ có
một phần rất ít những hành vi như thế phải chịu trách nhiệm hình sự. Chính vì thế, mặc
dù xã hội lên án, các phương tiện thông tin đại chúng nói nhiều về các kiểu hành vi
tham nhũng nhưng những con số thống kê hình sự về lĩnh vực này hết sức ít ỏi. Thực tế
cho thấy phần lớn các cuộc thanh tra theo đơn tố giác của quần chúng nhân dân được
kết luận bằng một trong hai cách phổ biến: không đủ căn cứ kết luận; hoặc chưa đến
mức phải thi hành kỷ luật, và đã được nhắc nhở. Muốn đấu tranh chống tội phạm tham
nhũng thì bản thân những cán bộ cấp cao phải kiên quyết và nghiên khắc với bản thân
mình, phải khắc phục thái độ vô trách nhiệm trước những lợi ích của Nhà nước, xã hội
và công dân, không vì vị nể mà bao che, khoan nhượng đối với những hành vi tiêu cực,
tham nhũng trong chính ngành mình, cơ quan mình. Bởi vì, nghiên cứu các vụ án có
tính chất tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức… đều ở thể “khép kín”, trong đó giám
đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ và những cán bộ có trách nhiệm khác móc nối, che
chắn cho nhau để thực hiện tội phạm, đồng thời cùng nhau ăn chia tài sản chiếm đoạt.
Chúng dựa dẫm vào nhau, câu kết chặt chẽ với nhau để cùng ăn chia, bảo vệ cho nhau
tránh khỏi bị phát hiện, bị xử lý. Bên cạnh đó, lối sống trọng tình của người Việt còn
được thể hiện rất rõ mỗi khi nhận được sự giúp đỡ của người khác, thường tri ân quà
cáp theo kiểu “bánh ít đi, bánh quy lại”. Thông thường, người dân sẽ phải thiết lập mối
quan hệ với Nhà nước thông qua một người đại diện của Nhà nước để từ đó, người dân
thực hiện một nghĩa vụ, bổn phận hay được hưởng một quyền lợi nào đó. Và sau khi
những yêu cầu này đã được thoả mãn, người dân thể hiện sự biết điều của mình bằng
một món quà cụ thể. Hơn nữa, hiệu quả của công việc còn phụ thuộc vào thái độ, sự
nhiệt tình của những người có chức vụ, quyền hạn. Một trong những cách để họ nhiệt
tình hơn chính là thể hiện sự biết điều ngay khi công việc còn chưa bắt đầu. Kết quả
điều tra xã hội học do tổ chức SIDA và ban nội chính trung ương tiến hành năm 2006
cho thấy: có đến 41% số người dân được hỏi cho rằng việc đưa quà cáp chỉ là “món quà



18
nhỏ” cám ơn người đã giúp đỡ mình giải quyết công việc; 39,1 % người dân tự nguyện
hoặc chấp nhận việc đưa tiền mỗi khi đến cơ quan công quyền để được thực hiện ngay
cả những quyền lợi chính đáng nhất của mình. Nhóm cán bộ doanh nghiệp, những
người hay có quan hệ làm ăn thì lại cho rằng, đây là cách giải quyết công việc nhanh
nhất và dễ thực hiện nhất (48,9%), hoặc chi phí đó rất nhỏ so với lợi ích công việc
mang lại (46,4%) và nhận thức việc gì cũng cần mang lại lợi ích cho cả hai bên
(24,2%)… 16. Do đó, việc đưa và nhận quà cáp đã trở thành một hành vi khá phổ biến
trong lĩnh vực công quyền. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật để điều chỉnh vấn đề này
thì còn nhiều việc phải bàn.
Theo quy chế được ban kèm với quyết định của Thủ tướng chính phủ số
64/2007QĐ-TTg ngày 10 tháng 05 năm 2007 về việc nhận tặng quà, nhận quà và nộp
lại quà tặng của cơ quan, đơn vị có sử dụng ngân sách của Nhà nước và của cán bộ,
công chức, viên chức theo đó trong khoản 1 Điều 12 quy định “Khi cán bộ, công chức,
viên chức Nhà nước khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải giao lại quà
tặng cho bộ phận chịu trách nhiệm quản lý quà tặng của cơ quan, đơn vị đó để xử lý
theo quy định tại Điều 13 Quy chế này”, và theo Điều 13 “Khi quà tặng được nộp lại
cho cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đó phải tổ chức tiếp nhận, bảo quản và
phải xử lý ngay số quà tặng”. Qua đó ta thấy được là khi cán bộ, công chức, viên chức
nhận được quà không đúng quy định thì phải giao lại cho người đứng đầu cơ quan, đơn
vị, thủ trưởng cơ quan, nhưng nếu người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cơ quan
là người trực tiếp nhận những món quà đó thì sẽ phải giao lại cho ai? Và ai là người sẽ
tiếp nhận? Vấn đề này luật lại không quy định rõ. Bên cạnh đó tại khoản 1 Điều 19 của
quy chế này “Các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức nhận quà không đúng
quy định nhưng không báo cáo hoặc báo cáo không trung thực thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật”, theo đó cũng không quy
định rõ mức xử phạt với hành vi không báo cáo hoặc báo cáo không trung thực. Việc đó
càng làm tăng khả năng bao che lẫn nhau. Và trong suốt 19 điều của quy chế không quy
định rõ thế nào là quà tặng “không thể từ chối được”, mức quà tặng bao nhiêu thì phải

giao nộp lại. Đã tạo điều kiện cho viện nhận quà tặng càng dể dàng thực hiện. Đối với
Singapore thì trong luật phòng chống tham nhũng của mình tại khoản 1 Điều 14 Luật
16

Ths Phan Thế Lực-Góp phần nhận diện tham nhũng


19
phòng, chống tham nhũng của Singapore “có thể nhận món quà đó bằng cách đưa lại
cho người hối lộ một khoảng tiền tương ứng với giá trị của món quà”, theo đó có thể
hạn chế được tình trạng cán bộ, công chức nhận quà cáp. Và có thể tránh được tình
trạng là “không thể từ chối được”, vì những món quà tặng phải được trả lại cho người
đưa bằng đúng giá trị của nó.
Nhóm tác giả cho rằng việc tặng quà thể hiện tình cảm không phải là một việc
làm sai trái. Tuy nhiên, sự lạm dụng nó một cách thái quá, nhất là tại chốn công quyển
là điều không thể chấp nhận được. Trong tác phẩm Tinh thần pháo luật, Montesquieu
cho rằng: “Trong Nhà nước, chuyện quà cáp, đút lót là điều ô nhục; vì đạo đức chính trị
không cần đến tác động đó… Rõ ràng là, kẻ đưa quà cáp đều mong muốn mang về một
lợi ích to hơn món quà; kẻ đã nhận quà sẽ mong muốn được một món quà to hơn nữa;
và họ cố tìm ra lý lẽ hoặc viện cớ để tha thứ cho hành động tham nhũng của mình…”17

1.2 Ảnh hưởng của tham nhũng.
1.2.1 Ảnh huởng đối với kinh tế.
Ảnh hưởng đầu tiên của tham nhũng đối với kinh tế đó là hạn chế sự đầu tư của
nước ngoài vào đất nước, gây ra sự trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ muốn
đầu tư vào Việt Nam, dẫn đến nền kinh tế kém phát triển hơn các nước có nhiều nguồn
vốn đầu tư vào quốc gia. Tham nhũng còn làm thất thoát nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Những nguồn vốn đáng lẻ phải dùng để phục vụ cho nhân dân Việt Nam, nay lại để
dùng phục vụ những lợi ích riêng của những kẻ tham nhũng.
Tham nhũng còn làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Theo báo cáo, thống kê

của tổ chức Thanh tra ở 64 tỉnh, thành phố, 18 Bộ ngành, trong năm 2006 đã triển khai
14.034 cuộc thanh tra, kiểm tra hành chính, chuyên ngành trên các lĩnh vực quản lý
Nhà nước, trong đó đã kết thúc 12.603 cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện sai phạm với
tổng giá trị là 4.822 tỷ 616 triệu đồng, hơn 11.346 ha đất.”18 và “năm 2007, ngành
Thanh tra đã kết thúc 13.937 cuộc thanh tra, qua đó phát hiện vi phạm về tài chính hơn
8.327 tỷ đồng; 1.261.806 USD và vi phạm về đất đai 8.783,76 ha.”19 đó quả là những
con số biết nói. Chỉ trong vòng một năm từ 2006 đến 2007 số tiền thất thoát của Nhà
17

Hoàng Thanh Đạm – Montesquier và Tinh thần pháp luật – NXB Giáo dục, năm 1996
/>19
/>18


20
nước đã tăng gấp 5.96 lần từ 4.822 tỷ 616 triệu đồng lên hơn 8.327 tỷ đồng. Với số tiền
thất thoát do nạn tham nhũng, thì đất nước có thể đầu tư vào các hạng mục, công trình
để phục vụ, cải thiện đời sống của người dân, đồng thời giúp phát triển kinh tế. Bên
cạnh đó, tham nhũng gia tăng dẫn đến tình trạng nhiều công trình nâng cấp hạ tầng cơ
sở để phát triển nền kinh tế đã bị rút ruột. Dẫn đến hệ quả là chất lượng công trình kém,
làm cho hạ tầng cơ sở của đất nước ngày càng xuống cấp nghiêm trọng, không chỉ dừng
lại ở đó mà nó còn kéo theo hệ quả của việc đó là nhà nước lại phải đầu tư sửa chữa lại
các công trình bị hư hỏng khiến cho ngân sách bị thâm hụt nghiêm trọng.

1.2.2 Ảnh hưởng đối với chính trị.
Không dừng lại ở đó tham nhũng còn ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật. “Pháp
luật là điều khoản do cơ quan lập pháp đặt ra để quy định hành vi của mọi người dân
trong quan hệ giữa người với người, giữa người với xã hội, và bắt buộc phải tuân
theo.”20. Theo đó, ta thấy pháp luật là những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành nhằm
quy định hành vi của mọi người để bảo đảm xã hội phát triển, thông qua hệ thống pháp

luật của một quốc gia cũng giúp chúng ta đánh giá được sự phát triển của quốc gia đó.
Nhưng chính tham nhũng lại làm ảnh hưởng đến luật pháp của quốc gia. Khi những quy
định trong pháp luật được áp dụng một cách đúng đắn sẽ không bao giờ xảy ra được
tình trạng tham nhũng. Bộ máy nhà nước của nước ta tổ chức theo phương pháp tập
trung quyền lực vào nhân dân, mà cơ quan đại diện cao nhất là Quốc hội “Quốc hội là
cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân”21. Với quyền lực đó Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Nhưng do chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ
mới xuất hiện, nên trong quá trình xây dựng chính quyền đã xuất hiện nhiều vấn đề.
Với hệ thống các cơ quan chồng chéo lên nhau, quyền lực giữa các cơ quan không có
sự phân định một cách rõ ràng càng làm cho tham nhũng ngày một phát triển.

1.2.3 Ảnh hưởng đối với xã hội.
Để các công việc được suôn sẻ, các nhà đầu tư chấp nhận hối lộ các quan chức
trong nước để công việc họ được thuận lợi “Vì thực sự muốn được đầu tư vào lĩnh vực

20
21

/>Điều 83, Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung vào năm 2001


21
du lịch tại Khánh Hoà, ông Lee Sang Hyeok đã chuyển tiền cho Phan Xuân Tùng
khoảng 7 lần (thông qua 1 phiên dịch viên tên là Thành và chuyển vào tài khoản của
Tùng ở ngân hàng), tổng cộng 81.000USD.”22. Nguyên nhân của thực trạng này xảy ra
là do một số kẻ tham nhũng muốn nhận được tiền, nên đã tìm mọi cách để làm khó các
nhà đầu tư, dẫn đến đối tượng đó muốn công việc thực hiện nhanh đành phải hối lộ các
quan tham này. Từ đó dẫn đến hệ quả, nếu muốn công việc thực hiện nhanh thì phải hối
lộ, muốn nhận hối lộ thì phải tạo ra “rào cản” để có thể nhận được tiền.
Trong Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 có quy

định “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân”, Hiến pháp được xem là văn bản pháp luật có
quyền lực cao nhất. Qua đó cũng thấy được Nhà nước đã coi trọng nhân dân. Nhưng
chính tham nhũng đã làm cho người dân mất lòng tin vào Nhà nước. Đó có thể coi là
ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của tham nhũng, vì Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà
nước phục vụ cho nhân dân nhưng giờ đây lại vì những kẻ tham lam mà ảnh hưởng đến
lòng tin. Đã làm cho nhân dân, những người bất hạnh phải gánh chịu hậu quả do hành
vi của những kẻ tham nhũng gây ra
Tham nhũng còn là nguyên nhân làm cho nạn chảy máu chất xám ở nước ta
ngày càng gia tăng. Hiện nay trong thời buổi Việt Nam hội nhập vào thế giới, thời buổi
của nền kinh tế nông nghiệp, nên luôn chú trọng đến tác phong công nghiệp. Nhưng
cũng chỉ vì lợi ích riêng, đã làm ảnh hưởng đến tác phong công nghiệp, dẫn đến thái độ
bê trể “Công chức 9 giờ đi làm, 10 giờ đã "chạy đâu đó"”23. Nhưng giới trẻ hiện nay
đều tiếp thu những giá trị văn hóa tiến bộ trên thế giới trong đó có cả tác phong công
nghiệp hiện đại, nhưng với cách thức làm việc bê trễ của một số quan chức như hiện
nay chỉ vì mục đích muốn “kiếm lời” từ việc đó. Đã dẫn đến làm cho một số trí thức
tiến bộ của Việt Nam, buộc phải rời khỏi đất nước, đưa đến hậu quả là việc hao hụt
nhân tài của đất nước. Không chỉ thế, tham nhũng còn tạo ra rào cản ảnh hưởng đến
việc tuyển chọn nhân tài. Khi một quốc gia tuyển chọn người vào bộ máy chính quyền
không phải do thực tài của họ mà là do hai chữ “quen biết” thì sẽ ảnh hưởng như thế

22

23

/>Bà Nguyễn Thị Anh Nhân (ĐBHN)_ />

22
nào đến sự phát triển của bộ máy chính quyền. Mà đó chính là cơ sở để dẫn đến sự phát
triển của đất nước.

Tóm lại: có thể nói tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
theo quy định của pháp luật đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi,
nhằm đạt được những lợi ích vật chất, tinh thần hay những lợi ích khác, cho bản thân
hay cho người khác. Theo đó, nguyên nhân chính gây ra tham nhũng là do hệ thống
pháp luật của nước ta chưa thật sự hoàn chỉnh, thêm vào đó chưa có một cơ chế quản lý
việc tuân thủ, thực hiện đúng pháp luật. Do đó đã dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng của
tham nhũng đến lòng tin của nhân dân vào Nhà nước và Đảng.

CHƯƠNG 2:
SO SÁNH LUẬT PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG 2005 CỦA VIỆT
NAM VÀ LUẬT PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA SINGAPORE

2.1 Tên gọi của luật
Đây là một vấn đề quan trọng vì tên gọi của Luật hay Bộ luật sẽ xác định nội
dụng và những vấn đề mà Luật hay Bộ luật đó liên quan đến. Ngày 17/6/1960,
Singapore ban hành Luật phòng chống tham nhũng (Prevention Corruption Act.). Ngày
29/11/2005, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật với tên gọi: “Luật phòng chống tham
nhũng” nhằm điều chỉnh những vấn đề liên quan đến lĩnh vực này. Qua đó, ta thấy
được mục tiêu của cả hai Luật đều là phòng tham nhũng và chống tham nhũng. Theo
nhóm tác giả: Phòng tham nhũng: đó là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đưa ra
các biện pháp cần thiết để nhằm hạn chế tình trạng tham nhũng phát triển. Chống tham
nhũng: đó là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đưa ra các biện pháp trừng phạt
những người có các hành vi tham nhũng.
Nhưng đối với Luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam xuyên suốt 90 điều
luật, không có sự đề cập đến các quy định để chống tham nhũng, mà chỉ có các quy
định về phòng tham nhũng; như các quy định về kê khai tài sản, công khai minh bạch
hoạt động cơ quan Nhà nước. Dường như trong Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005 của nước ta không hề đề cập đến các quy định về chống tham nhũng. Có thể là do



23
các nhà làm luật đã quy định chủ yếu các tội danh về tham nhũng trong BLHS ở
chương XXI mục A Các tội phạm về chức vụ. Vì bản thân tên luật hiện nay, đã bao
hàm nội dung là chống tham nhũng, nhưng việc đó lại được quy định trong BLHS hiện
hành và trong Luật phòng, chống tham nhũng hiện nay cũng không có các quy định về
chống tham nhũng. Vì thế để thể hiện đúng nội dung của luật thì tên Luật phòng, chống
tham nhũng của nước ta hiện nay nên sửa lại là Luật phòng ngừa tham nhũng hoặc có
thể quy định các biện pháp chống tham nhũng vào trong Luật phòng, chống tham
nhũng hiện nay. Đều đó, không có nghĩa là chúng ta loại trừ hoàn toàn các tội danh đó
ra khỏi BLHS, mà chỉ những tội danh được cho là gắn liền với hành vi tham nhũng.
Bên cạnh đó thì Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore đã thể hiện được
cả hai phương diện đó là phòng và chống tham nhũng. Ngoài việc phòng tham nhũng
như trong luật quy định về việc kê khai tài sản, và chống tham nhũng như quy định tại
điểm ii khoản b Điều 5 "bất kỳ thành viên nào, cán bộ hay nhân viên của cơ quan công
quyền làm hoặc không làm một việc có liên quan đến một vấn đề gì đó hay giải quyết
một việc có mục đích mà có liên quan đến cơ quan công quyền đó, sẽ bị coi là phạm tội
và sẽ bị phạt tiền lên tới 100.000 đôla Singapore hoặc phạt tù tối đa 5 năm hoặc cả hai",
nhưng không vì thế mà các tội tham nhũng không được quy định trong BLHS của
Singapore cụ thể là tại Điều 165 hoặc từ Điều 213 đến Điều 215.

2.2 Đối tượng điều chỉnh của luật:
Theo khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam năm 2005 quy
định "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi", theo quy định trên thì tham nhũng chỉ có thể là hành vi của
người có chức có quyền, do đó chủ thể của tội này chỉ có thể là người có chức vụ,
quyền hạn và theo khoản 3 Điều 1 của luật này thì người có chức vụ quyền hạn là "Cán
bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là

người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực
hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó" và


24
theo quy định trên thì đó chỉ là những người có chức vụ quyền hạn phục vụ trong các
cơ quan Nhà nước. Hay nói cách khác đối tượng điều chỉnh theo Điều 1 của Luật phòng
chống tham nhũng chỉ dành cho những người có chức vụ quyền hạn trong khu vực công
mà không đặt ra đối với những người có chức vụ quyền hạn ở khu vực tư nhân. Trong
khi đó đối với Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng Singapore quy định "cá nhân" có
nghĩa là bất kỳ người nào làm việc hay được thuê làm việc cho người khác, và bao gồm
cả người được ủy quyền, quản lý và người thực hành, người phục vụ của Chính phủ hay
ở bất kỳ tổ chức hay cơ quan công quyền nào, và theo tinh thần của Điều 8 bao gồm
“những người làm hợp đồng và bất kỳ người nào đang làm hợp đồng được ủy quyền",
theo đó thì đối tượng điều chỉnh của Luật phòng, chống tham nhũng Singapore là đối
với tất cả mọi người bao gồm những người làm việc trong khu vực Nhà nước và cả
những người làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước.
Qua đó thấy được sự giống nhau của cả hai Bộ luật phòng chống tham nhũng
của Việt Nam và Singapore đó là phạm vi chịu tác động đầu tiên của tham nhũng là
những người làm việc trong cơ quan Nhà nước. Tham nhũng là một hiện tượng xã hội,
xuất hiện ở mọi quốc gia và không một quốc gia nào có thể tránh khỏi, chỉ khác nhau ở
chỗ là ở hình thức và mức độ tham nhũng. Tham nhũng luôn gắn liền với một cá nhân
có chức vụ và quyền hạn; và “chức vụ, quyền hạn” đó chỉ xuất hiện rõ nét nhất là ở
những người làm việc trong cơ quan Nhà nước. Vì họ được Nhà nước giao cho một
chức vụ và quyền hạn cụ thể, và họ đã sử dụng những quyền lực Nhà nước giao cho để
làm lợi cho bản thân. Do đó, phạm vi tác động đầu tiên của cả hai Luật phòng, chống
tham nhũng của Việt Nam và Singapore đều chú trọng đến người có chức vụ quyền hạn
ở các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, giữa phạm vi điều chỉnh của hai bộ luật này cũng
có điểm khác nhau: Luật phòng, chống tham nhũng của Singapore thì còn quy định
thêm phạm vi tác động là đối với cả khu vực ngoài Nhà nước, còn Luật phòng, chống

tham nhũng Việt Nam lại không điều chỉnh các đối tượng này. Mặc dù biểu hiện rõ nét
nhất của người có chức vụ quyền hạn là nằm ở cán bộ công chức trong khu vực Nhà
nước, nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những người thuộc khu vực ngoài Nhà nước vẫn
lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn
để làm lợi cho bản thân. Theo ThS Đinh Văn Minh “Đối với khu vực ngoài Nhà nước,
mặc dù cũng đã có trường hợp xảy ra hành vi lợi dụng vị trí công tác để “rút ruột” tài


25
sản của tổ chức, doanh nghiệp, nhưng do đây không phải là tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước nên đã xử lý bằng cơ chế khác, các hiện tượng này không phổ biến”24 và theo
giảng viên Nguyễn Ngọc Trí khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội25 “về tính chất của
tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so
với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm
tội, người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất
và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai
bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở
một số nước trên thế giới... Hàng năm, thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm
tỷ đồng... tham nhũng ở một số nước châu Phi, châu Mỹ Latinh, Đông Nam Á, Nga,
Trung Quốc, Hàn Quốc... lại có quy mô lớn. Những vụ tham nhũng thường lên đến
hàng trăm triệu đôla, thậm chí hàng tỷ đôla, gây khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế quốc
gia, dẫn đến khủng hoảng chính trị”. Qua đó thấy được mặc dù tình trạng tham nhũng ở
nước ta hiện nay được xem là quốc nạn nhưng vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các cơ quan
Nhà nước, do đó các nhà làm luật chỉ quy định phạm vi tác động của Luật phòng,
chống tham nhũng của đất nước chỉ nằm ở trong phạm vi là đối với các cơ quan Nhà
nước. Có thể coi phạm vi điều chỉnh Luật phòng, chống tham nhũng của nước ta hiện
nay phù hợp với tình hình bây giờ, nhưng trong tương lai có lẽ sẽ cần có sự thay đổi.
Tuy tham nhũng luôn được gắn liền với người có chức vụ, quyền hạn nhưng để có thể
hạn chế tham nhũng phát sinh thì cần phải hạn chế mọi việc dẫn đến tình trạng tham
nhũng, do đó cần phải mở rộng phạm vi tác động của Luật phòng, chống tham nhũng

Việt Nam vào cả khu vực ngoài Nhà nước. Để từ đó, chúng ta mới có thể chống tham
nhũng được một cách toàn diện và triệt để, đồng thời hạn chế tình trạng tham nhũng
phát triển. Một lý do nữa để trong tương lai, Việt Nam nên mở rộng đối tượng điều
chỉnh của luật ra khu vực tư là vì tại Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng
năm 2005 (sau đây gọi tắt là Công ước về chống tham nhũng) mà Việt Nam đã tham
gia thảo luận và ký kết vào ngày 10 tháng 12 năm 2003, theo Công ước trên tại Điều 12
quy định các quốc gia thành viên Công ước, trên cơ sở luật pháp quốc gia, áp dụng các
biện pháp phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các chuẩn
24

Th.s ĐINH VĂN MINH, Một số vấn đề về tệ nạn và những nội dung cơ bản của luật phòng, chống tham
nhũng năm 2005, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2006, tr. 87
25
/>

×