Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TRÀO LƯU TRIẾT HỌC (DUY) KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.06 KB, 31 trang )

MỤC LỤC


Đề tài: Triết học

MỞ ĐẦU
Đến giữa thế kỷ XIX, với việc giai cấp tư sản nhiều nước Châu Âu lần lượt giành
được chính quyền, triết học cận đại cũng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó trong cách
mạng tư sản. Từ sau đó, triết học này đã dần xa rời truyền thống duy vật và biện chứng
của triết học Anh, Pháp , Đức, trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Nó chuyển hướng
sang chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình nên không còn đưa ra được một thế giới quan
tích cực, giàu sức sống như nó đã từng thể hiện trong mấy thế kỷ trước. Từ đầu thế kỷ
XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương Tây hiện đại không ngừng
phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai trào lưu chủ yếu, đó là chủ
nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Trong đó duy khoa học là định
hướng bền vững cho tri thức, là niềm tin sâu sắc rằng khoa học có thể giải quyết tất cả
các vấn đề đang tồn tại. Chủ nghĩa duy khoa học xuất hiện như sự hưởng ứng trước sự
phát triển như vũ bão của khoa học thế kỷ XIX – thế kỷ XX. Trang đầu tiên của khuynh
hướng triết học này được viết bởi chủ nghĩa thực chứng như hình thức đặc thù của
“phiếm duy lý” (panrationalism) trong khoa học
Vậy để có thể nắm rõ được sự ảnh hưởng của Trào lưu triết học (duy) khoa học
đến xã hội phương tây hiện đại tôi đã trình bày rất chi tiết trong đề tài này. Và cuối
cùng em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã hướng dẫn để em thực hiện đề tài
này. Do thời gian có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót mong thầy và các bạn
cho ý kiến đóng góp để em hoàn thiện hơn.
.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

2




Đề tài: Triết học

1. Sự ra đời và các thời kỳ phát triển của triết học phương Tây hiện đại.
a) Sự tác động của thực tiễn xã hội và sinh hoạt tri thức
Triết học phương Tây ngay từ cổ đại triết học gắn kết hữu cơ với khoa học. Tuy
nhiên sự thống trị của thần quyền trong thời trung cổ đã loại bỏ một trong những nguyên
tắc của lý trí là tính chất khai mở, khám phá.
Phục hưng (cuối TK XIV – TK XVI) là thời quá độ từ XH phong kiến sang chủ
nghĩa tư bản. Tuyên bố chủ đạo của thời đại là trở về cổ đại Hy Lạp - La Mã, lấy cổ đại là
chuẩn mực, thước đo của tri thức.
Cận đại tiếp nối tinh thần Phục hưng, và mở ra thời đại mới bằng cách mang tư sản,
bước đầu hiện thực hóa lý tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Vị trí của độc tôn tri thức
(thần học Trung cổ) và đường trục “tôn giáo – triêt học” (Ficino, Phục hưng) được thay
bằng liên minh “triết học – khoa học”. Triết học trải qua giờ phút thăng hoa của mình,
đẩy các vấn đề bản thể luận và nhận thức luận, thế giới quan và phương pháp luận. Song
sự kỳ vọng vào lý trí và tiến bộ khoa học – kỹ thuật đưa đền chỗ chủ nghĩa con người là
trung tâm (anthropocentrism) của thời Phục hưng đã nhường vị trí của mính cho chủ
nghĩa con người là trung tâm mang đậm tính khoa học.
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của mình đã bộc lộ tính mâu thuẫn cố
hữu của một xã hội chứa đầy sự phân hoá và đối kháng. Phân hoá về tâm trạng; đối
kháng trong quan hệ xã hội.
Trong tính cách mới chủ nghĩa con người là trung tâm luận chứng cho tính tất yếu
của các phương pháp công nghiệp khai thác tự nhiên. Sự bóc lột tự nhiên chuyển hướng
thành sự bóc lột con người, sự tha hóa của con người đối với mọi thứ, đối với mọi ngưới,
và đối với chính bản thân mình.
Sự kỳ vọng hầu như tuyệt đối vào khoa học, kỹ thuật khiến cho con người trở thành
phương tiện của những mục tiêu đầy hoài nghi. Schopenhauer (1877-1860) là người đầu
tiên suy nghĩ về điều đó, khi xác lập ý chí luận và chủ nghĩa bi quan lịch sử của mình. 1)

Đời sống con người chỉ toàn là đau khổ, thất vọng; đời là bể khổ, từ sinh đến tử. 2) Đời
sống là một cuộc chiến tranh triền miên, và người ta chết tay còn cầm vũ khí. “Đời sống
các dân tộc chỉ toàn là chiến tranh, xung đột, hòa bình chỉ là những chặng nghỉ ngắn
ngủi, ngẫu nhiên”. 3) Đời sống là đáng chán; niêm vui bao giờ cũng dưới mức ta mong
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

3


Đề tài: Triết học

đợi, còn khổ đau thì ln trên mức tưởng tượng…Đời sống là một chuyến làm ăn thua lỗ.
Đời sống con người là đời sống khơng mục đích.
Mục đích thiển cận thì có, mục đích cao xa thì khơng, “đời cứ thế tiếp diễn, lo ăn
và làm tình… Chả có một cứu cánh gì soi sáng, chỉ độc một cái tình u sinh mạng
khổng lồ. Tham sống bằng bất cứ giá nào…cái động lực chính là cái đà mù qng”.
Sau đó: Nietzsche với tun bố “Chúa đã chết”, Dostoevsky bổ sung “nhưng ngay
cả con người cũng khơng thể trở thành Chúa”.
Như vậy, triết học phương Tây hiện đại ra đời vào thời kỳ khủng hoảng của tư duy
lý luận sau sự “tái bố trí” các lực lượng xã hội. Sau cách mạng tư sản mâu thuẫn xã hội
chuyển sang hướng khác, ngọn cờ lý luận mà giai cấp tư sản giương lên vào thế kỷ XVII
– XVIII chống chế độ phong kiến, là chế độ “phi lý”, “phi nhân tính”, khơng còn mang ý
nghĩa như trước. Nhà nước pháp quyền tư sản xem việc củng cố, bảo vệ lợi ích của lực
lượng thống trị mới là mục đích của mình. Tính biện hộ thay thế tính cách mạng. Mâu
thuẫn xã hội cơ bản, xun suốt lịch sử lồi người từ khi nhà nước ra đời, vẫn chưa được
giải quyết. Vì thế, đến lượt mình, trật tự xã hội tư sản cũng trở thành đối tượng phê phán
từ chính các lực lượng từng liên minh với giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống chế
độ phong kiến chun chế. Bên cạnh đó, giai đoạn phát triển mới của xã hội đòi hỏi tư
duy lý luận tìm kiếm phương thức thể hiện khác trước, khơng đi theo lối mòn truyền

thống, mà bám sát hơn nữa nhu cầu của thực tiễn ln biến động.
Như vậy là xã hội đang bước vào thời kỳ phát triển mới (xã hội tư sản), đặt ra cho
mình hai nhu cầu song song, mang tính chính trị và tính “học thuật”: ổn định và phát
triển, như cơng thức của Comte (1798-1857): Tình yêu – Trật tự – Tiến bộ. => Phê
cả hai đảng – đảng cách mạng lẫn đảng phản cách mạng => con đường thứ ba trong triết
học và trong chính trị. Nhưng thực ra con đường nào?). Để phát triển, cần đánh giá lại
truyền thống, cái truyền thống ngàn xưa, bắt đầu từ Hy Lạp.
Cùng với q trình phi cổ điển hố trong văn hố, triết học phương Tây từ những
năm 20 – 30, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX, đã tạo được những chuyển biến mang tính
bước ngoặt. Đó là thời kỳ chuyển tiếp, khi xu thế đánh giá lại truyền thống đã hình thành
và ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

4


Đề tài: Triết học

b) Phi cổ điển hoá và xu hướng vận động của triết học phương Tây sau triết học cổ
điển Đức (bức tranh phi cổ điển hóa ở thế kỷ XIX được tô đậm thêm vào thế kỷ
XX)
-

Thế nào là phi cổ điển hoá? Các khuynh hướng lớn của quá trình phi cổ điển hoá,
diễn ra từ những năm 20 của thế kỷ đến những năm 70 của thế kỷ XIX

-


3 khuynh hướng lớn (gắn với quá trình phi cổ điển hóa trong triết học thế kỷ
XIX):
+ Khuynh hướng phi duy lý như phản ứng trước sự bất lực của lý trí, khoa học
(A.Schopenhauer – sáng lập triết học sự sống, S.Kierkegaard – sáng lập
CNHS, phái tôn giáo, F.Nietzsche – sáng lập CNHS, phái “vô thần”); 4 hình
thái biểu hiện phi duy lý: ý chí (Schopenhauer, Nietzsche), linh hồn
(L.Klages), bản năng (S.Freud), sự sống (Diltey, Bergson). Vì sao? Jacobi và
Feuerbach từng cảnh báo về sự mâu thuẫn và không hoàn thiện của lý trí.

Duy lý (rationalism)
Lý trí là cơ sở của nhận thức và hành

Phi duy lý (Irrationalism)
Giới hạn hoặc phủ nhận khả năng

động; trí tuệ là phương thức cơ bản đạt được của lý trí trong quá trình nhận thức, xem
chân lý; chủ nghĩa duy lý là nét đặc trưng cơ cái phi lý tính như cơ sở cảm thụ quan,
bản (chiếm ưu thế) của triết học phương Tây đưa ý chí, trực quan, cảm giác, trực
cổ điển.

giác, linh cảm thần bí, tưởng tượng, bản

Đối lập với: phi duy lý và duy cảm năng, vô thức… lên hàng đầu  ý chí
luận (voluntarism)…
(sensualism)
+ Thực chứng – khoa học như nỗ lực phế bỏ các nguyên lý “siêu hình”, đưa các
luận chứng triết học đến gần với các khoa học (chủ nghĩa thực chứng của A.
Comte)
+ Tôn giáo như phương thức đối thoại tôn giáo – khoa học trong điều kiện mới
(chủ nghĩa Thomas mới)

-

5 khuynh hướng (sự phân loại của các nhà triết học ngoài mác xít về bức tranh
triết học thế kỷ XX tại phương Tây, tham khảo để tranh luận):
+ Duy khoa học - chủ nghĩa thực chứng (thế kỷ XIX), sau đó: chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực chứng mới, chủ nghĩa hậu thực chứng;

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

5


Đề tài: Triết học

Luận giải: đó là định hướng bền vững cho tri thức, là niềm tin sâu sắc rằng khoa
học có thể giải quyết tất cả các vấn đề đang tồn tại. Chủ nghĩa duy khoa học xuất hiện
như sự hưởng ứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học thế kỷ XIX – thế kỷ XX.
Trang đầu tiên của khuynh hướng triết học này được viết bởi chủ nghĩa thực chứng như
hình thức đặc thù của “phiếm duy lý” (panrationalism) trong khoa học.
Con đường: Chủ nghĩa thực chứng (Positivism)  Chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán (Empiriocriticism)  Chủ nghĩa thực chứng lôgíc (Logical Positivism) 
+ Hoạt động – chủ nghĩa Mác (từ thế kỷ XIX), sau đó: chủ nghĩa thực dụng 
tân thực dụng;
+ Nhân bản – triết học sự sống (từ thế kỷ XIX), chủ nghĩa Freud (cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX), sau đó: chủ nghĩa hiện sinh, nhân học triết học, chú
giải học, hiện tượng học…
+ Triết học – thần học – chủ nghĩa Thomas mới (từ thế kỷ XIX), sau đó: chủ
nghĩa nhân vị, hay nhân cách;
+ Phê phán – xã hội – Trường phái Frankfurt, chủ nghĩa Freud mới và Câu lạc

bộ Roma
[sự phân loại này chỉ mang tính tượng trưng, khó bao quát bức tranh nhiều sắc màu
của triết học phương Tây hiện đại, chẳng hạn các học thuyết liên kết hoặc thiên về ngôn
ngữ và kết cấu như phân tâm học - bán hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc – nhân học, kỹ trị hội tụ, chủ nghĩa cấu trúc – giải cấu trúc, chủ nghĩa hậu hiện đại…]
Vào thế kỷ XX sự nô lệ của tư bản được thay bằng sự nô lệ của điều phi lý (absurd).
“Thiên nhiên thứ hai” như một hệ thống kết nối đã bị đẩy ra ngoài vòng kiểm soát và làm
gay gắt thêm những vấn đề toàn cầu. Khoa học – công nghệ

trở

thành con tin của chính trị, thực hiện hợp đồng của lực lượng đang nắm giữ quyền lực.
Sự diễn biến của triết học phương Tây thế kỷ XX – thập niên đầu thế kỷ XXI cho
thấy, sự đối lập truyền thống duy vật – duy tâm đã được thế bằng chủ nghĩa đa nguyên
triết học, sự phân mảnh của triết học phi cổ điển – hiện đại thành những khuynh hướng,
những trường phái khác nhau, với mục đích thâm nhập sâu hơn nữa vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Năm khuynh hướng nêu trên chỉ mới đề cập phần nào tính đa dạng ấy.
Nhưng chính điều này lại cho thấy một nghịch lý: xã hội càng biến đổi nhanh chóng,
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

6


Đề tài: Triết học

càng thiếu một cột mốc dẫn đường để đảm bảo sự hài hòa trong hệ thống quan hệ “tự
nhiên – xã hội – con người”, và do đó tính đa dạng, (hay đa nguyên triết lý) vừa thể hiện
khả năng thích ứng của con người trước thực tại, vừa cho thấy sự vô vọng trong việc tìm
kiếm phương thức thống nhất đạt đến mục tiêu chung.
c) Các thời kỳ phát triển của triết học phương Tây từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ

XX đến nay (khái lược)
Sau thời kỳ quá độ, hay tiền đề (phôi thai, mầm mống) triết học phương Tây đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, phản ánh những chuyển biến dồn dập của xã hội.
-

Sự hiện diện rõ nét các khuynh hướng chủ đạo – từ những năm 70 của thế kỷ XIX
đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất
+

F. Nietzsche (1844-1900): từ ý chí sinh tồn (Schopenhauer) đến ý chí quyền
lực, đặt nền móng cho phi vô thần của CN hiện sinh (Existentialism) > <
Kierkegaard.

+ Chủ nghĩa Kant ở Đức  chủ nghĩa Kant-mới (Neo-Kantianism)
+ Chủ nghĩa Hegel (duy tâm tuyệt đối) ở Anh và Mỹ  chủ nghĩa Hegel-mới
(Neo-Hegelianism).
+ Những mầm mống của chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism
+ Các học thuyết tôn giáo ở nhiều nước châu Âu (chủ nghĩa Thomas-mới và chủ
nghĩa nhân vị)
+ Hình thức thứ hai của chủ nghĩa thực chứng = chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán (Empiriocriticism)
+

Chủ nghĩa thực tại-mới (Neo-realism) Anh và Mỹ (G. Moore, A. Whitehead,
B. Russell - Anh, R. Perry – Mỹ)

-

Sự bùng nổ lần lựợt hai khuynh hướng – phi duy lý và khoa học và những biến thi
của những học thuyết nhân bản – đạo đức, các học thuyết khoa học, triết lý chính

trị - hành động, triết học tôn giáo hiện đại, triết học nhân bản : từ những năm cuối
cùng của chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1917 – 1918) đến những năm 50 – tức
kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Bùng nổ:
+ Hiện tượng học (phenomenology)  ảnh hưởng xã hội

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

7


Đề tài: Triết học

+ Phân tâm học (psychoanalysis)  ảnh hưởng xã hội
+ Chủ nghĩa hiện sinh (existentialism)  ảnh hưởng xã hội
+ Các trào lưu triết học tôn giáo  ảnh hưởng xã hội
+ Chủ nghĩa thực dụng (trở thành triết học bán chính thức của lối sống Mỹ) 
ảnh hưởng xã hội
+

Chủ nghĩa thực chứng mới: triết học phân tích ngôn ngữ, toán học  ảnh
hưởng su sắc trong giới trí thức, các nhà khoa học

-

Những tìm tòi mới (từ những năm 50-60 của thế kỷ XX đến nay)
Xuất hiện không nhiều các triết thuyết gây nên những bùng nổ tinh thần như trước

đây. Dưới tác động của những khám phá kỳ diệu trong khoa học, xu hướng nghiên cứu đa

nghành,đa lĩnh vực, nhu cầu giao lưu văn hóa, khoa học giữa các dân tộc, các nhà triết
học phương tây cố gắng tạo dựng một diện mạo triết học khác trước ít nhiều. Triết học
phân tích tiếp tục phát huy tác dụng, chủ nghĩa bi quan về “thân phận con người” giảm
bớt, hoặc chỉ còn mang ý nghĩa cảnh báo.
Chủ nghĩa duy lý phê phán K.Popper lấy nguyên tắc giả mạo thay nguyên tắc kiểm
chứng; chủ nghĩa cấu trúc thay cho cá nhân (từ chủ nghĩa cấu trúc đến giải cấu trúc, hậu
cấu trúc); chủ giải học triết học (Hermenewtics) tìm kiếm những ý nghĩa và những giá trị
trong ngôn ngữ, trong cuộc sống lẫn trong nghiên cứu khoa học; vấn đề văn hóa ngày
càng thu hút sự quan tâm của nhiều trường phái và cá nhân. Các phương án khác nhau
của tương lai học, các biến tướng của chủ nghĩa hậu hiện đại gây sự chú ý của dư luận
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Trao lưu chủ nghĩa duy khoa học và sự ảnh hưởng của nó đến xã hội phương tây
hiện đại .
Các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết học
theo mô hình "các khoa học thực chứng". Theo họ, triết học không nên nghiên cứu những
vấn đề như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, v.v. mà đi tìm phương
pháp khoa học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của việc
nghiên cứu triết học. Trong các trường phái theo chủ nghĩa duy khoa học, trường phái có
ảnh hưởng lớn và lâu nhất là chủ nghĩa thực chứng.
2.1. Sự ra đời chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa thực chứng xã hội học
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

8


Đề tài: Triết học

A.Comte – người sáng lập chủ nghĩa thực chứng, hay “con đường thứ ba” trong
triết học phương Tây hiện đại

Gốc thuật ngữ Latinh : positivus – tích cực.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng vào thế kỷ XIX xuất hiện ba tên tuổi lớn, thực hiện
cải tổ trong triết học và khoa học sự sống, đó là A. Comte (1798 – 1857), K. Marx (1818
– 1883), Ch. Darwin (1809 – 1882). Auguste Comte là người sáng lập chủ nghĩa thực
chứng, cha đẻ xã hội học như một ngành độc lập.

Comte sinh tại Montpellier trong gia đình Kytô giáo. Là người có cá tính mạnh,
ngay từ tuổi 14 Comte đã tuyên bố không tin vào Chúa. Comte chống lại cả gia đình,
từng chỉ trích cha ông, một quan chức nhỏ, là tham lam và đạo đức giả. Do có tư tưởng
phản kháng, Comte bị đuổi học ngay từ năm đầu trường Đại học bách khoa. Comte chịu
ảnh hưởng trực tiếp của thế hệ các nhà khai sáng cùng thời với cách mạng 1789.
1817 – làm thư ký cho Saint Simon
1824 – tuyệt giao với Saint Simon
1825 – cưới vợ, nhưng chia tay ngay sau đó
1826 – thuyết trình tư tưởng, công bố phác thảo đầu tiên về chủ nghĩa thực chứng,
bắt tay vào việc biên soạn “Giáo trình triết học thực chứng”.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

9


Đề tài: Triết học

1830 – công bố phần đầu “Giáo trình triết học thực chứng” (đến năm 1842 kết thúc
toàn bộ)
1845 – hôn nhân lần thứ hai; vợ chết sau đó một năm
1851 – 1854 soạn “Hệ thống chính trị thực chứng”
1857 – qua đời trong cô đơn và khốn khổ.
Chủ nghĩa thực chứng của Comte thuộc vào loại thực chứng xã hội học.

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” có nghĩa gì ? Comte giải thích : chủ nghĩa thực
chứng – đó là triết học của tri thức khoa học tự nhiên thực chứng nghiệm. Các tri thức
khác đều là giả hiệu, tầm thường. Nhiệm vụ của chủ nghĩa thực chứng là chỉ ra tri thức
nào là tri thức khoa học đích thực, tri thức nào là tri thức giả hiệu, tầm thường. Tri thức
giả hiệu, tầm thường là Siêu hình học truyền thống.
Theo suy nghĩ của Comte tôn giáo truyền thống và chủ nghĩa duy tâm không còn
thích hợp nữa. Giờ đây cách mạng xã hội đã phát huy hết tác dụng của mình, thay vào đó
là nhu cầu cách mạng kỹ thuật, góp phần kiến tạo xã hội mới. Chủ nghĩa duy tâm giàu
sức tưởng tượng và vượt lên trên hiện thực khó mà đáp ứng đòi hỏi bám sát hiện thực để
làm thay đổi chính nó. Trong khi đó chủ nghĩa duy vật và vô thần lại quá cứng nhắc,
không tính đến nhu cầu phong phú của đời sống. Comte chống cả ba : chống chủ nghĩa
duy vật thô thiển, chống chủ nghĩa duy tâm tư biện, chống tôn giáo thần quyền. Comte
gọi triết học truyền thống là siêu hình tư biện. Giải pháp khắc phục nó chỉ có thể là thứ
triết học vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đối đầu duy vật – duy tâm, vô thần – tôn
giáo, hay nói thẳng ra là vứt bỏ cả hai sự đối đầu, thay các suy luận mơ hồ bằng tri thức
hữu dụng, dựa trên các thành tựu và các dữ kiện của khoa học cụ thể. Comte tuyên bố,
nếu triết học được xây dựng trên nền tảng khoa học tự nhiên thực nghiệm, loại trừ siêu
hình học cũ, thì chắc chắn nó sẽ tiến bộ hơn so với triết học truyền thống. Trong Giáo
trình triết học thực chứng Comte chỉ ra bốn chức năng, đồng thời là bốn ưu thế của triết
học thực chứng. Một là, việc nghiên cứu triết học thực chứng tạo nên một công cụ lý tính
duy nhất làm bộc lộ các quy luật lôgíc của tư duy con người, cái mà cho đến nay được
xác định bằng các phương pháp không mấy phù hợp. Comte cho rằng kể từ thời F. Bacon
đến nay chủ nghĩa thực chứng đã có được diện mạo rõ ràng đến mức các nhà siêu hình
học đã “lợi dụng” nó để phổ biến tri thức giả hiệu của mình. Tuy nhiên, do thói quen tư
duy sáo mòn, bất chấp những đòi hỏi của cuộc sống đang ngày thêm đa dạng, mà Siêu
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

10



Đề tài: Triết học

hình học chỉ dừng lại ở những phán quyết thiếu tính hiệu quả. Đối lập với phương pháp
của Siêu hình học cũ, phương pháp thực chứng có thể được đánh giá chỉ trong hành
động, và thông qua “ứng dụng chuyên nghiệp”. Hai là, triết học thực chứng đóng vai trò
tích cực trong việc cải cách nền giáo dục, vốn bị thương tổn bởi thần học, Siêu hình học
và văn chương. Giáo dục thực chứng cần thay thế nền giáo dục thiếu hiệu quả và thiếu
sâu sắc, từng bước nâng nó lên tầm cao mới, phù hợp với thời đại bằng phương pháp
tổng hợp tri thức và áp dụng “chuyên sâu”. Ba là, khả năng khái quát và phân loại khoa
học theo quan điểm thực chứng. Khả năng xác lập các lĩnh vực khoa học thực chứng
riêng biệt trên cơ sở khoa học thực chứng căn bản tạo điều kiện trình bày hệ thống tri
thức khoa học theo một trình tự hợp lý và mang tính phát triển , kế thừa. Quan điểm thực
chứng đòi hỏi từ bỏ sự nghiên cứu phù phiếm phía sau những quan niệm tuyệt đối, nguồn
gốc, giới hạn của vũ trụ và những thứ tương tự, kết hợp một cách chính xác lý luận và
quan sát, tư duy và thực chứng; triết học này chắc chắn thúc đẩy sự phát triển của các
khoa học thực chứng riêng biệt. Bốn là, triết học thực chứng, với đặc điểm của mình,
đem đến cơ sở vững chắc để tái tổ chức đời sống xã hội, khắc phục tình trạng hỗn loạn và
trì trệ, hướng xã hội vào trật tự, ổn định và không ngừng phát triển.
Kết thúc Giáo trình, Comte tuyên bố về sự tất thắng của “cách mạng trong tư duy
con người”, khẳng định rằng mình đã hoàn thành hoạt động trí tuệ lớn lao, được bắt đầu
từ Bacon, Descartes và Galilei, bằng việc xây dựng một hệ thống tư tưởng chung, cái mà
từ nay về sau phải trở thành cái chủ đạo trong hoạt động của con người Như vậy chủ
nghĩa thực chứng đặt ra cho mình hai nhiệm vụ là nêu và chứng minh tri thức đích thực;
phê phán, tiến tới thủ tiêu tri thức tầm thường, với sự hỗ trợ của lôgíc học.
Những dấu hiệu đặc trưng của khoa học “đích thực”, theo Comte, là tính khách
quan, tính hiện thực(khoa học nói về các hiện tượng được quan sát, chứ không phải trí
tưởng tượng), tính chính xác (khoa học xét về tính chính xác cần phải đến gần với toán
học), tính hữu dụng (khoa học cần phải đem đến cho con người thành quả hiện thực, nói
cách khác khoa học phục vụ cho hành động), tính tương đối (khoa học chỉ đem đến cho

chúng ta tri thức tương đối, dựa trên cơ sở cảm tính, gắn liền với cơ cấu tâm, sinh lý nhất
định của con người; tri thức đem đến cho chúng ta “vật cho ta”, chứ không phải “vật tự
nó”).
Quy luật về ba giai đoạn phát triển lịch sử của tri thức:
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

11


Đề tài: Triết học

Giai đoạn thần học, phạm vi tri thức bị hạn chế, sự hoang tưởng thống trị trong tư
duy. Con người giải thích giới tự nhiên một cách lệch lạc, vì thừa nhận sự tồn tại của
những lực lượng siêu nhiên huyền bí – Thượng đế, thần thánh, ma quỷ. Trong cuộc sống
thực tiễn uy quyền thống trị với sức mạnh vô hạn. Trong đời sống chính trị – giai đoạn
thống trị của nền quân chủ.
Giai đoạn siêu hình, thay Thượng đế bằng tự nhiên hay một bản thể trừu tượng nào
đó như bản nguyên đầu tiên. Các sức mạnh bị phân tán. Đây là trạng thái chuyển tiếp
trong sự phát triển của xã hội. Uy quyền suy yếu, mối liên hệ xã hội suy giảm, chủ nghĩa
vị kỷ gia tăng trong mỗi cá nhân. Tư duy giác tính (trí năng) phát triển. Trong đời sống
chính trị quyền lực quân chủ được thay bằng quyền lực của nhân dân.
Giai đoạn thực chứng, hay khoa học, đoạn tuyệt với thần học và siêu hình học, cải
cách đời sống xã hội trên cơ sở tri thức thực chứng nghiệm. Tri thức này không chỉ do
toán học, thiên văn học, vật lý học, hóa học, mà còn do sinh học và xã hội học, tức khoa
học về xã hội, đem đến.
Mục đích của khoa học thực chứng, cũng như khả năng của nó, là làm sáng tỏ trật
tự và các quy luật của tự nhiên và xã hội. Tất cả những vấn đề siêu hình, vấn đề bản chất
của tồn tại, được tuyên bố là không thể giải quyết, vô bổ. Comte hiểu các quy luật của tự
nhiên và xã hội như kết quả của quá trình quan sát những mối quan hệ thường xuyên giữa

các hiện tượng. Chỉ có khoa học đích thực, khoa học thực chứng, mới nhận thức tương
đối đầy đủ và chuẩn xác những mối quan hệ này. Giai đoạn thực chứng khắc phục mâu
thuẫn giữa lý luận và thực tiễn, vốn có ở giai đoạn siêu hình. Nhận thức các quy luật cho
phép dự báo những diễn biến trong tương lai của tự nhiên và xã hội.
Nhận xét gì về học thuyết ba giai đoạn tri thức của Comte ? Học thuyết ba giai đoạn
cố gắng bám sát vào sự vận động của tri thức, và gắn với nó là các bước trưởng thành của
loài người. Nhưng đó là một thiết kế duy tâm. Động lực của tiến bộ xã hội được gán cho
sự tiến bộ của tri thức, thể hiện ở bước chuyển từ quan niệm tôn giáo về các thực thể siêu
nhiên sang khái niệm trừu tượng về tự nhiên, và từ khái niệm này sang khoa học thực
chứng.
Phân loại khoa học. Xã hội học.
Comte phân chia các lĩnh vực khoa học theo nấc thang thấp dần (cấu trúc hình
chóp) căn cứ vào tính giản đơn và tính trừu tượng của chúng.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

12


Đề tài: Triết học

Khoa học cơ bản đầu tiên là toán học, khoa học về những khách thể đơn giản nhất,
đồng thời là khoa học trừu tượng nhất trong số các khoa học.
Các khoa học tiếp theo gồm có thiên văn, vật lý, hóa học, sinh học, và cuối cùng là
“vật lý xã hội”, hay xã hội học. Các khoa học đi sau không thể đơn giản rút ra từ các
khoa học đi trước, bởi lẽ chúng phức tạp hơn về cấp độ. Cái sau tuân thủ các quy luật
chung của tất cả các giai đoạn phát triển từ trước cho đến lúc đó, đồng thời lại có các quy
luật đặc trưng của riêng mình. Bảng phân loại khoa học này, theo Comte, sẽ phục hồi trật
tự tự nhiên và trật tự lịch sử của các khoa học đã hình thành từ lâu. Chẳng hạn, toán học
chiếm vị trí đầu tiên trong bảng phân loại khoa học không chỉ vì nó là khoa học ra đời

sớm nhất, mà còn vì nó là khoa học đơn giản xét như khoa học thực chứng, gắn với sự
sinh thành loài người.Tương tự như vậy xã hội học, khoa học cuối cùng trong bảng phân
loại, được xác định bằng các dấu hiệu của tính phức tạp và tính cụ thể, cũng đồng thời là
khoa học muộn nhất gia nhập vào khoa học thực chứng.
Hiểu theo nghĩa rộng xã hội học là khoa học về các lĩnh vực hoạt động của con
người và xã hội, là khoa học tổng hợp, thống nhất các ngành khoa học khác. Chức năng
của xã hội học là tìm hiểu các vấn đề của con người, phát hiện và phân tích các quy luật
vận động của xã hội, qua đó góp phần tổ chức đời sống xã hội. Vấn đề mấu chốt, theo
Comte, là “phát hiện”quy luật vận động. Quy luật xã hội phức tạp hơn quy luật tự nhiên,
bởi lẽ đời sống con gnười phức tạp hơn tự nhiên. Cái thứ nhất hình thành từ hoạt động
của con người, cái thứ hai – từ hoạt động mù quáng và vô thức của tự nhiên. Thuật ngữ
“vật lý xã hội” mà đôi khi Comte dùng thay cho “xã hội học” là sự vay muợn từ T.
Hobbes, nhà triết học Anh thế kỷ XVII với học thuyết Khế ước xã hội nổi tiếng. Vật lý xã
hội, theo Hobbes, xem các “vật thể xã hội” là đối tượng nghiên cứu của mình. Nếu trong
tự nhiên có lực hút và lực đẩy, thì trong trạng thái tự nhiên của loài người có “chiến tranh
của tất cả chống lại tất cả”. Comte chỉ vay mượn thuật ngữ, chứ không vay mượn cách
tiếp cận đã thuộc về quá khứ của Hobbes.
Theo môtíp vật lý học Comte chia xã hội học ra thành tĩnh lực học xã hội và động
lực học xã hội.
Tĩnh lực học nghiên cứu trạng thái “tĩnh” của xã hội, gồm các qunn hệ, kết cấu, tính
chất xã hội, những điều kiện tồn tại của xã hội, nói khác đi, nó nghiên cứu trật tự bền
vững tương đối của xã hội.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

13


Đề tài: Triết học


Ba vấn đề cơ bản của tĩnh lực học : cái gì chi phối thường xuyên hoạt động (có lý
trí) của con người ? Đơn vị nền tảng của xã hội là gì ? Nguyên tắc nào đóng vai trò chủ
đạo trong đời sống cộng đồng ?
Đối với vấn đề thứ nhất câu trả lời là tình cảm, ý chí và bản năng nói chung, trong
đó có bản năng sinh tồn, hoạt động truyền giống, hướng đến lợi ích. Trong hai loại bản
năng – bản năng cá nhân (tìm kiếm lợi ích cho mình) và bản năng xã hội (xem lợi ích xã
hội là căn bản) - thì cái nào chi phối cái nào ? Do chỗ xã hội được hình thành từ những cá
nhân sống, nên lợi ích cá nhân chi phối lợi ích xã hội. Điều này có nghĩa là nếu thủ tiêu
lợi ích cá nhân, thì hoạt động xã hội cũng trở nên vô nghĩa và mất phương hướng. Lẽ cố
nhiên cá nhân được đề cập đến ở đây không phải là những cá nhân vị kỷ tàn nhẫn, mà tự
đặt mình trong quan hệ hài hòa, bền chặt với những người khác, với cái toàn thể, với
cộng đồng.
Đối với vấn đề thứ hai câu trả lời đơn giản hơn. Theo Comte, xã hội không phải là
phép cộng của những cá nhân riêng lẽ, mà là tổng thể quan hệ giữa các thành tố hữu cơ,
trong đó gia đình là đơn vị nền tảng, hay nói một cách hình tượng, là hình ảnh thu nhỏ
của xã hội.
Nếu gia đình là tế bào của xã hội, thì các nguyên tắc hình thành trong sinh hoạt gia
đình có ý nghĩa to lớn đối với việc xác lập các chuẩn mực và các quy tắc ứng xử xã hội.
Đồng cảm và phục tùng là nguyên tắc chủ đạo trong đời sống chung. Đồøng cảm liên
quan đến đạo đức, phục tùng thuộc về lĩnh vực pháp luật. Tác dụng của việc tuân thủ
nguyên tắc này là đời sống xã hội không bị xáo trộn. Nguyên tắc đồng cảm của Comte
mang đậm dấu ấn của “tình yêu phổ quát” của triết học nhân bản Feuerbach. Sự đồng
cảm quy về quan hệ chân chính, đích thực con người, còn lòng hận thù, đố kỵ – quan hệ
không chân chính, không con người.
Động lực học nghiên cứu trạng thái “động”, nghĩa là phát hiện các quy luật vận
động và phát triển của xã hội, tìm hiểu tiến bộ xã hội. Vai trò quyết định của tiến bộ xã
hội là hoạt động tinh thần, lý trí, là giáo dục – sự chuẩn bị thường xuyên cho mỗi cá nhân
nắm lấy vận hội lịch sử để phát triển và điều chỉnh hành vi của mình. Hoàn thiện đạo đức
là tác nhân kích thích sự dấn thân của con người trong cuộc sống. Tiến bộ của nhân loại
về mặt thời gian là minh chứng cho những đổi thay của hoạt động lý trí, tinh thần, đạo

đức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Các điều kiện khác, trong đó có điều kiện vật
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

14


Đề tài: Triết học

chất, khí hậu, khoáng sản tự nhiên …làm nhanh hay chậm sự phát triển xã hội, nhưng
không quyết định. Không có con người hoạt động thì những yếu tố vừa nêu mất đi giá trị
nhân bản của chúng.
Trong việc xác định dòng chảy không ngừng của lịch sử Comte chủ trương quan
điểm về tính thống nhất, bất khả phân của lịch sử. Theo Comte, cách phân chia các thời
kỷ lịch sử phổ biến đối với các dân tộc trên thế giới là cách phân chia theo niên đại, nhờ
đó mà chúng ta có thể hình dung về một bức tranh lịch sử sống động nhưng thống nhất
trong tiến trình chung, mà ở đó mỗi dân tộc đều để lại dấu ấn của mình.
Quan hệ tĩnh lực học – động lực học là quan hệ chi phối và lệ thuộc vào nhau. Tư
tưởng chủ đạo là ổn định để phát triển, phát triển trong ổn định, tiến bộ trong khuôn khổ
trật tự. Comte không thừa nhận cách mạng xã hội, vì nó phá vỡ trật tự. Không tiến bộ
nào, không sự phát triển nào, nhất là trong đời sống con người, lại rắp tâm phá vỡ những
chuẩn mực đã được thừa nhận, để rơi vào trạng thái vô chính phủ. Chủ nghĩa thực chứng
ở bình diện xã hội học = Tình yêu – Trật tự – Tiến bộ. Những năm cuối đời Comte suy
nghĩ về việc xác lập tôn giáo mới theo kiểu “tôn giáo không có Chúa” của Feuerbach, với
tên gọi khác – Nhân đạo giáo, biến đối tượng sùng bái từ Chúa trời sang Loài người (chứ
không phải Con người). Nhân đạo giáo, cũng như Kytô giáo, có tổ chức của mình, với
những phẩm hàm và thứ bậc khác nhau, từ tín đồ, đến các tăng lữ, và cao nhất là giáo
chủ.
Khởi đầu sự nghiệp bằng tư tưởng chống tôn giáo, giờ đây Comte lại trở về với tôn
giáo đặc biệt của ông – Nhân đạo giáo.

Một số đánh giá về triết học thực chứng của Comte :
Comte là người khai sinh khuynh hướng “khoa học” trong triết học phương Tây
hiện đại. Cần phân biệt duy lý cổ điển và duy lý phi cổ điển (khoa học). Hy Lạp là nơi
xuất phát của truyền thống duy lý phương Tây. Chủ nghĩa duy lý gắn liền với các khám
phá trong “triết học tự nhiên” bắt đầu từ trướng phái Milet. Ngay cả đạo dức học của
Xôcơrát (Socrates) cũng được gọi là đạo đức học duy lý, thống nhất tri thức với cái thiện,
sự hiểu biết với đức hạnh, quy cái ác về sự dốt nát. Theo Xôcơrát “không ai biết thế nào
là tốt mà làm điều ngược lại”. Chủ nghĩa duy lý cũng gắn liền với cách hiểu triết học như
hệ thống tri thức phổ quát, bao trùm. Khuynh hướng duy lý phi cổ điển hình thành trong
quá trình khủng hoảng của truyền thống cổ điển, đời hỏi những tìm tòi mới nhằm khắc
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

15


Đề tài: Triết học

phục siêu hình học, bị xem là mơ hồ, trống rỗng và thiếu tính hiệu quả. Duy lý theo
phong cách phi cổ điển không có tham vọng trở thành tri thức phổ quát như hệ thống
Descartes, Kant, hay Hegel. Sau Comte, khuynh hướng này thiên về phương pháp và
ngôn ngữ, thậm chí quy giản các vấn đề triết học về phương pháp, xem nó là vấn đề cốt
lõi của mọi hệ thống triết học, xác định vị trí, vai trò của nó trong nhận thức và hoạt động
xã hội.
Chủ nghĩa thực chứng Comte là chủ nghĩa thực chứng xã hội học, vì ở đó các
nguyên tắc thực chứng đều hướng đến xã hội học với tính cách là khoa học thực chứng
trung tâm, có chức năng khám phá quy luật của lịch sử và cải tổ đời sống xã hội. Comte
là người khởi xướng thuật ngữ “xã hội học”; ông vừa là người khai sinh chủ nghĩa thực
chứng, vừa là người đặt nền móng cho xã hội học, vừa là nhà chính trị.
Phê phán truyền thống duy lý cổ điển, Comte dự định xác lập “con đường thứ ba”

trong triết học, loại bỏ vấn đề cơ bản của triết học, vốn gắn liền với sự phát triển của triết
học ngay từ cổ đại, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm. Tuy nhiên với
những gì đã trình bày chủ nghĩa thực chứng chưa thể vượt qua thế giới quan duy tâm
(xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính phát triển tri thức thuần túy, ý tưởng về “Nhân đạo
giáo” …). Triết học thực chứng tỏ ra thiếu nhất quán và mâu thuẫn.
Tính chất biện hộ chính trị của chủ nghĩa thực chứng Comte thể hiện ở lập luận
nước đôi theo kiểu “chống cả cách mạng và phản cách mạng” (cách mạng đòi hỏi tiến bộ
không cần trật tự, còn phản cách mạng đòi hỏi trật tự không cần tiến bộ). Phủ nhận cách
mạng xã hội, Comte tuyên bố “tiến bộ trong trật tự”, “phát triển trong ổn định”. Oån định
để phát triển là cần thiết, song vấn đề là ở chỗ nên hiểu mệnh đề này như thế nào, trong
bối cảnh nào.
Những người kế thừa: J. S. Mill vaø H. Spencer.
Đại biểu của chủ nghĩa thực chứng xã hội học J. Mill (1808 – 1873) đồng thời là
nhà kinh tếhọc và nhà hoạt động xã hội. Khoảng thời gian 1823 – 1858 Mill hoạt động
kinh doanh, tranh thủ làm quen với các tác phẩm của Saint – Simon, nhưng không tán
thành quan điểm của nhà cộng sản không tưởng này về quyết định luận xã hội trong hoạt
động của con người. Từ 1865 đến 1868 Mill trở thành đại biểu nghị viện, và với tính cách
đó ông tuyên truyền cho các cải cách tự do và dân chủ hóa đời sống xã hội.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

16


Đề tài: Triết học

Thế giới quan của Mill hình thành dưới ảnh hưởng của kinh tế chính trị học D.
Ricardo, học thuyết vị lợi của I. Bentham ( chủ nghĩa vị lợi – utilitarism – xuất phát từ
tiếng latinh “utilitas”, nghĩa là tác dụng, công dụng, lợi ích), triết học của G. Berkeley, D.

Hume, tâm lý học của D, Hartley và J. Mill.
Triết học của Mill được trình bày trong “Tổng quan triết học của ngài William
Hamilton” (1865). Tại đây từ lập trường của chủ nghĩa thực chứng hiện tượng học Mill
phản bác các nhà triết học siêu nghiệm Anh. Toàn bộ tri thức, theo Mill, xuất phát từ kinh
nghiệm, đối tượng của nó là các cảm giác. Cách tiếp cận không duy vật, không duy tâm
thể hiện rõ trong sự lý giải vật chất và ý thức. Vật chất, theo Mill, chỉ là khả năng thương
xuyên của các cảm giác, còn ý thức – khả năng cảm thụ chúng. Chúng ta tin vào sự tồn
tại của thế giới vật chất bên ngoài nhờ dựa vào khả năng cảm giác. Mill chống cả chủ
nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về ý thức, tinh thần. Chủ nghĩa duy
tâm tuyệt đối hóa tinh thần, xem nó như một bản thể độc lập, còn chủ nghĩa duy vật
(ngầm hiểu chủ nghĩa duy vật tầm thường ?) xem tinh thần là thuộc tính của vật chất, sản
phẩm của vật chất. Tinh thần, theo Mill, là một tập hợp các trạng thái tâm lý, các dạng
cảm thụ của con người. Tính khó xác định của cơ cấu tinh thần càng chứng tỏ sự phong
phú và phức tạp của đời sống tình cảm, tinh thần của con người.
Tán thành hàng loạt quan điểm triết học và lôgíc học của Comte, Mill lại bác bỏ học
thuyết chính trị, xã hội của người đi trước, phát hiện ở đó hiện thân của chủ nghĩa độc tài
chính trị và tinh thần, xem nhẹ tự do và tính cá thể của con người. Mill cho rằng cần dành
cho con người khoảng không tự do, thay vì quàng lên cổ nó một thứ định mệnh luận xã
hội nhân tạo nào đó. Tư tưởng chống đối này được Mill trình bày trong “A. Comte và chủ
nghĩa thực chứng” (1865).
Tác phẩm chủ yếu của Mill - Hệ thống lôgíc – nhấn mạnh phép quy nạp lôgíc như
phương pháp luận chung của các khoa học. Theo Mill mọi suy luận, chứng minh, mọi
phát hiện về chân lý đều do phép quy nạp tạo nên; đặc điểm chung của nó từ cái đã biết
suy luận về cái chưa biết. Phép quy nạp của Mill thực chất là sự kế thừa và phát triển
phương pháp quy nạp khoa học do F. Bacon xây dựng trong điều kiện khoa học thực
nghiệm đương đại. Lôgíc học là mảnh sân trung lập dành cho các trường phái triết học
gặp gỡ nhau và cùng bàn về một đề tài lớn là làm sao tư duy con người phản ánh một
cách có hiệu quả toàn bộ hoạt động của con người và môi trường thiên nhiên, Tuy nhiên
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên


17


Đề tài: Triết học

sau khi trách cứ các nhà triết học chỉ loay hoay với vấn đề cơ sở của tồn tại và bản chất
của thế giới, Mill kêu gọi hướng đến chủ nghĩa hiện tượng như cơ sở của phương pháp
luận phổ biến. Là người theo chủ nghĩa quy nạp ôn hòa Mill phê phán sự đề cao thái quá
phép diễn dịch và các mệnh đề duy lý, nhưng thừa nhận tác dụng của nó trong nhận thức
khoa học.
Tác phẩm tập trung về tư tưởng đạo đức của Mill là “Chủ nghĩa vị lợi” (1863). Tuy
nhiên ông không phải là người sáng lập chủ nghĩa vị lợi. Người khai sinh chủ nghĩa vị lợi
là J. Bentham (1748 – 1832), người có tác động đáng kể đến sự hình thành và chuyển
biến tư tưởng của Mill. Mill xuất phát từ quan điểm về nguồn gốc kinh nghiệm của tình
cảm và các nguyên tắc đạo đức. Ông bổ sung một số điểm vào đạo đức học vị lợi của J.
Bentham (1748 – 1832), theo đó giá trị của hành vi được quy định bởi sự thỏa mãn mà nó
đem đến. Mill thừa nhận cả sự ích kỷ lẫn vô tư như bản tính đối lập nhau trong mỗi con
người: trong đời sống xã hội quyền lợi cộng đồng, tương hỗ có thể vượt qua thói ích kỷ.
Tình cảm đạo đức tốt thể hiện ở sự phấn đấu vươn đến hạnh phúc chung. Đây cũng là
điểm tương đồng giữa Mill với Comte, dù người sáng lập chủ nghĩa thực chứng tỏ ra
mềm yếu hơn trong tình cảm tôn giáo vào cuối đời.
Một trong những đại diện của chủ nghĩa thực chứng xã hội học là H. Spencer (1820
– 1903), người Anh. Spencer từng là kỹ sư đường sắt (1837 – 1841), sau đó cộng tác với
tạp chí “Economist” (1848 – 1853). Trong triết học Spencer là người phát triển tiếp tục
chủ nghĩa thực chứng của Comte, mặc dù phủ nhận sự lệ thuộc về tư tưởng của mình vào
Comte.
2.2. Chủ nghĩa thực chứng thế kỷ XX
a) Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán:
(Empiriocriticism) do E. Mach (1838 – 1916) và R. Avenarius (1843 – 1896) xác

lập với chủ trương xem xét kinh nghiệm một cách có phê phán, kiểm chứng tính chặt chẽ
và tính xác thực của kinh nghiệm. Để thanh tẩy kinh nghiệm cần giải thoảt nó khỏi mọi
sự khảm nhập siêu hình học.CNKNPP có quan hệ cội nguồn với chủ nghĩa duy tâm chủ
quan G. Berkeley, hoài nghi luận kinh nghiệm của D. Hume, yếu tố bất khả tri của I.
Kant (qua cách đặt vấn đề về hiện tượng và “vật tự nó”). Theo V.I. Lenin, về mặt triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

18


Đề tài: Triết học

CNKNPP là sự phục hồi chủ nghĩa Kant trong điều kiện khủng hoảng thế giới quan của
vật lý học.
Mach là nhà vật lý lừng danh của thời đại mình, nhưng trong lĩnh vực lịch sử triết
học và triết học ông chỉ là một kẻ tài tử, cho dù đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa kinh
nghiệm thâm nhập vào vật lý học. Chủ nghịa kinh nghiệm phê phán, theo ý tưởng của
Mach và Avenarius, là học thuyết phê phán kinh nghiệm. Tuy nhiên không nên nói về sự
phủ nhận kinh nghiệm, bởi lẽ các nhà lý luận của CNKNPP cho rằng triết học chân chính
của sự phê phán – đó là kiểm chứng tính thuyết phục và tính xác thực của kinh nghiệm.
Cũng chớ nên lầm lẫn sự phê phán với bệnh sính phê phán, chỉ nhằm đến sự thủ tiêu, loại
bỏ đối thủ để tự nâng mình lên. Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán tiếp tục công việc của
Comte không ở sự phân tích lý trí thuần túy, mà ở sự phân tích kinh nghiệm thuần túy.
Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đặt ra mục tiêu thanh tẩy tri thức khoa học khỏi
những tri thức ngoài kinh nghiệm, mà Mach gọi là những tri thức siêu hình. Theo ông,
mỗi một khái niệm khoa học cần có một “giấy uỷ nhiệm của kinh nghiệm”, nghĩa là cần
phải dựa vào kinh nghiệm. Do đó, để tách tri thức khoa học ra khỏi những yếu tố không
khoa học chúng ta cần kiểm chứng tri thức trên nội dung kinh nghiệm của nó. Mà để tiến

hành thanh tẩy kinh nghiệm cần phải có bộ lọc, bảng kiểm kê tri thức khoa học, giải thoát
nó khỏi siêu hình học.
Đâu là cội nguồn của sự nhiểm bẩn kinh nghiệm? Avenarius trả lời : ở Introjection
(tạm dịch : đầu nhập tác dụng, khảm nhập). Introjection – đó là sự sai lầm siêu hình học
theo cách hiểu của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, là “đặt kinh nghiệm vào thực thể”,
biến cảm giác thành thuộc tính của một thực thể nào đó. So sánh : hình thức duy vật của
khảm nhập – cảm giác là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao đặc biệt; hình thức duy
tâm của khảm nhập – đặt cảm giác vào linh hồn. Như vậy, theo Avenarius, khảm nhập là
sự sai lầm căn bả, thâm nhập vào khoa học, bất chấp nó là duy vật hay duy tâm. Để thanh
tẩy kinh nghiệm, chúng ta cần giải thoát nó khỏi khảm nhập. Kinh nghiệm cần được xem
xét tự thân – không gắn nó với bất kỳ thực thể nào , vật chất hay linh hồn. Chúng ta cần
kinh nghiệm thuần túy, nghĩa là kinh nghiệm không có substrat (thể cốt, thể nền).
Avenarius cho rằng kinh nghiệm mang tính trung lập (trung hòa), không nên xem nó là
mang tính vật chất hay tinh thần. Kinh nghiệm là cái xuất phát từ cảm giác, thậm chí là
chính cảm giác. Chúng ta tư duy về những cảm giác nói chung, tư duy về chúng đơn giản
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

19


Đề tài: Triết học

như chúng vẫn tồn tại. Cảm giác mang tính trung lập, vì đó không phải là những cảm giác
của tôi, mà là, xét chung nhất, là cảm giác chung, “đơn giản là các cảm giác”. Sự khác
nhau giữa tâm lý và vật lý nằm ở mối liên hệ chức năng của các yếu tố của thế giới.
Như vậy triết học Avenarius toan tính chiếm vị thế trung lập, vượt lên trên chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm : thế giới là thế giới kinh nghiệm, cái mang tính
trung lập, đằng sau nó không có gì cả, không vật chất, không tinh thần. Chúng ta hãy thử
hỏi : chẳng lẽ kinh nghiệm, cảm giác là trung lập ư? Không, quan điểm đó phản ánh lập

trường của chủ nghĩa hiện tượng (phenomenalism). Những người theo chủ nghĩa hiện
tượng vạch ra sự khác nhau không phải giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, mà
chỉ giữa cảm giác bên trong và cảm giác bên ngoài. Tuy nhiên, theo họ, sự khác nhau
này không mang tính bản chất, mà mang tính chức năng, nghĩa là cùng một yếu tố (cảm
giác) có thể vừa là hiện thực vật lý, vừa là hiện thực tâm lý. Hiện thực vật lý – đó là tổng
thể các yếu tố của thế giới, được xem xét ở bên ngoài mối quan hệ với con người, không
lệ thuộc vào con người. Hiện thực tâm lý - cũng vẫn những yếu tố đó, nhưng được xem
xét trong mối quan hệ của con người với chúng. Tóm lại, sự khác nhau giữa vật lý và tâm
lý mang tính thứ hai so với kinh nghiệm trung lập. Sự khác nhau này phụ thuộc vào
cách tiếp cận, vào quan hệ, vào tình thái, vào sự xếp đặt…Thực chất của chủ nghĩa nhất
nguyêntrung lập “sự khác nhau giữa vật lý và tâm lý” chỉ ở cách xếp đặt. Có nghĩa là,
chẳng hạn, hòn đá không phải là vật chất khác với linh hồn, nhưng ở hpương diện này nó
là nó, ở phương diện khác nó là cái khác. Quan điểm đó mang tính chất duy tâm đã được
nguỵ trang, mặc dù ở đây không có những kết luận duy tâm trực tiếp.
Khách quan hoá cảm giác, đó là chủ nghĩa duy tâm, nhưng ẩn giấu dưới vỏ bọc của
sự phê phán chủ nghĩa duy tâm truyền thống. Xét các tiền đề thế giới quan và phương
pháp luận hình thức thứ hai của chủ nghĩa thực chứng khác với hình thức đầu tiên ở chỗ,
chủ nghĩa thực chứng xã hội học trong nhận thức luận đã được hiệu chỉnh sang nhị
nguyên luận của Kant; chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được xác lập trên chủ nghĩa nhất
nguyên kinh nghiệm. Sự thay thế nhị nguyên thành nhất nguyên của các cảm giác là đặc
trưng của chủ nghĩa thực chứng thời kỳ thứ hai. Sự định hướng lại này có nghĩa là
chuyển từ cơ sở triết học Kant sang Hume. Hume trở thành người kế tục Berkeley, quan
điểm của Hume là sự phục hồi nguyên tắc “tồn tại nghĩa là được tri giác” của Berkeley.

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

20



Đề tài: Triết học

Sự khác nhau cơ bản giữa triết học của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và triết học
của Berkeley : chủ nghĩa duy tâm Berkeley là chủ nghĩa duy tâm của triết học tôn giáo,
còn chủ nghĩa duy tâm Mach là chủ nghĩa duy tâm mong muốn tánh khỏi sự ảnh hưởng
của tôn giáo. Hume tạo nên khau trung gian giữa Berkeley và Mach.
Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đưa ra quan điểm sự phối hợp có tính nguyên tắc
trong mối liên hệ giữa ý thức và môi trường. Theo Avenarius, trong sự phối hợp ấy ý thức
đóng vai trò là thành viên trung tâm, còn môi trường đóng vai trò phụ thuộc., nghĩa là
môi trường tồn tại chỉ xét theo mối quan hệ với ý thức – một kết luận của hiện tượng luận
duy tâm. Ở Avenarius môi trường bị hoà tan vào ý thức, kinh nghiệm thuần túy đồng nhất
với cảm giác, cái chủ quan được khách quan hóa và cái khách quan được chủ quan hóa.
Kết quả của sự tâm lý hoá nhận thức là chân lý khách quan mất hết ý nghĩa. Tâm lý
không thể thay thế cho nhận thức. Sự tâm lý hóa nhận thức dẫn đến chỗ đánh đồng tiêu
chuẩn chân lý thành cảm giác chân lý.
Như vậy là có ba thời kỳ phát triển của chủ nghĩa thực chứng, mà mỗi thời kỳ đều
có cơ sở của mình : 1) cơ sở nhị nguyên của Kant; 2) cơ sở nhất nguyên của Hume; 3) cơ
sở ngôn ngữ. Bàn thêm: một số nhà nghiên cứu xem chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
như sự chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa thực chứng, chứ không tách
ra thành một thời kỳ.
b) Chủ nghĩa thực chứng lôgíc
Chủ nghĩa thực chứng lôgíc sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là của
lôgíc toán lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh đề có
thể dùng lôgíc toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm vụ tiến hành sự
phân tích kết cấu lôgíc đối với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa trên các tài liệu thực
chứng (kinh nghiệm).
Trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong triết học phân tích đã xuất hiện phái
ngôn ngữ học thường ngày. Các đại biểu của phái này đều là các giáo sư trường Đại học
Oxpho (Oxford) cho nên trường phái đó cũng được gọi là trường phái Oxpho. Những
người theo chủ nghĩa thực chứng lôgíc thường phê phán các khái niệm của ngôn ngữ tự

nhiên là mơ hồ, không rõ ràng, nên không phù hợp với tư duy chính xác. Trái lại, trường
phái ngôn ngữ lại nhấn mạnh tính phong phú của khái niệm và sự phân biệt tỉ mỉ giữa các
khái niệm trong ngôn ngữ tự nhiên. Nếu chủ nghĩa thực chứng lôgíc quy nhiệm vụ triết
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

21


Đề tài: Triết học

học thành sự phân tích lôgíc, thì trường phái ngôn ngữ luôn luôn quy triết học thành sự
phân tích ngôn ngữ tự nhiên, cả hai đều phủ định ý nghĩa thế giới quan của triết học.
Các trường phái triết học khoa học có ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây, bao gồm
các đại biểu như Pốppơ, Cun và Lacatốt, v.v.. Học thuyết, quan điểm của họ không giống
hệt nhau, nhưng cái giống nhau ở họ là đều phản đối chủ nghĩa thực chứng lôgíc, vì chủ
nghĩa thực chứng lôgíc chỉ tiến hành phân tích lôgíc ở trạng thái tĩnh đối với lý luận khoa
học, không quan tâm nghiên cứu sự phát triển của tri thức khoa học, cho rằng các tri thức
khoa học chỉ tích luỹ về lượng. Họ cho rằng khoa học tiến bộ thông qua con đường cách
mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự phân tích lịch sử khoa học theo trạng thái
động, thông qua giải quyết mâu thuẫn.
Pốppơ phủ định phép quy nạp, nhấn mạnh rằng khoa học bắt đầu từ vấn đề chứ
không phải bắt nguồn từ việc quan sát, thực nghiệm. Ông nhận định rằng, phương pháp
khoa học không phải là chứng thực trực tiếp mà là chứng thực bằng sự giả hóa, tức là phê
phán sai lầm của nó. Ông đưa ra nguyên tắc giả hóa của lý luận khoa học để bác bỏ
nguyên tắc về tính có thể chứng thực trực tiếp được của chủ nghĩa thực chứng lôgíc.
Theo ông thì sự phát triển của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả thuyết có tính quy
ước, tiếp đó dùng thực nghiệm để kiểm nghiệm, cố gắng chứng thực nó bằng sự giả hóa,
sau đó lại xuất hiện vấn đề mới. Như vậy khoa học phát triển theo phương thức "cách
mạng không ngừng".

Kuhn dùng thuyết các giai đoạn phát triển của khoa học để thay thế cho thuyết
"cách mạng không ngừng" của sự tăng trưởng tri thức khoa học. Ông chia sự phát triển
khoa học thành hai thời kỳ, thời kỳ phát triển bình thường và thời kỳ cách mạng. Theo
ông, ngay trong thời kỳ phát triển bình thường của khoa học đã xuất hiện những hiện
tượng trái với bình thường. Việc tích luỹ các hiện tượng trái với bình thường, đến một
chừng mực nào đó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng trong khoa học, do đó tạo ra cuộc cách
mạng khoa học
Lacatốt, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm của Pốppơ và Cun đã nêu lên phương
pháp luận "cương lĩnh nghiên cứu khoa học", trả lời rõ câu hỏi thế nào là một khoa học,
thế nào là tính hợp lý trong sự phát triển của khoa học.
Chúng ta đều biết, trong xã hội tư sản hiện đại, một mặt đang tồn tại cuộc khủng
hoảng xã hội trầm trọng, nhưng mặt khác, khoa học tự nhiên lại có sự tiến bộ to lớn.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

22


Đề tài: Triết học

Đứng trước mâu thuẫn đó, một số nhà triết học cảm thấy bó tay không có cách gì giải
quyết. Về mặt lý luận, họ chán ghét loại triết học thuần túy tư biện, cho rằng loại triết học
này căn bản không thể góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra. Trong khi đó, sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên lại đưa đến cho họ niềm hy vọng và chỗ dựa
tinh thần mới. Vì vậy, họ chuyển hướng nghiên cứu triết học từ phương diện thế giới
quan sang phương diện phương pháp luận của khoa học. Một loạt trường phái và phong
trào được gọi là chủ nghĩa duy khoa học đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Ngoài bối cảnh xã hội, còn một nguyên nhân nữa xuất phát từ đặc điểm của khoa học tự
nhiên hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của nhiều môn khoa học mới, sự phân công
trong nội bộ khoa học ngày càng tỷ mỷ hơn, sự ứng dụng rộng rãi toán học và lôgíc toán,

việc khoa học ngày càng đi sâu hơn vào kết cấu vật chất, vai trò của mô hình và kết cấu
lý luận tăng lên, v.v.. Tất cả những điều đó đòi hỏi các môn khoa học thực chứng không
những phải nghiên cứu những nội dung cụ thể mà còn phải nghiên cứu những vấn đề
chung của khoa học, đặc biệt là vấn đề phương pháp luận nhận thức của khoa học. Chủ
nghĩa duy khoa học dựa vào yêu cầu mới đó trong khoa học tự nhiên hiện đại để đưa ra
các quan điểm triết học thực chứng của mình.
c) Chủ nghĩa cấu trúc.
Trước tiên chủ nghĩa cấu trúc xuất hiện như một khuynh hướng khoa học cụ thể ,
gắn với bước chuyển của hàng loạt khoa học nhân văn từ mô tả - thực nghiệm sang trình
độ nghiên cứu mang tính lý luận trừu tượng; cơ sở của bước chuyển này là sử dụng
phương pháp cấu trúc, mô hình hóa, cũng như một số yếu tố hình thái và toán học. Là cơ
sở của khoa học cụ thể phương pháp cấu trúc được xác lập trước tiên trong ngôn ngữ học
cấu trúc, sau đó phổ biến sang nhân học, nhân chủng học và một số khoa học nhân văn
khác. Xu hướng chung của xã hội hóa triết học, cũng như tri thức tại phương Tây thể hiện
ở việc đưa ngôn ngữ lên hàng đầu với tư cách là một yếu tố thuần túy xã hội. Luận điểm
“mọi thứ đều mang yếu tố quan hệ xã hội” chuyển thành “tất cả đều có quan hệ với ngôn
ngữ”, vì ngôn ngữ là hình thức rõ ràng nhất của quan hệ vật chất và tinh thần giữa người
với người. Người đi tiên phong trong CN cấu trúc là Ferdinand de Saussure (1857 –
1917). Ông là người nhấn mạnh tính tiên nghiệm của hệ thống kết cấu ngôn ngữ - hệ
thống ký hiệu. Phân biệt sự nghiên cứu ngôn ngữ theo tính đồng đại (ngôn ngữ như một
hiện tượng xã hội) và theo tính lịch đại (ngôn ngữ gắn với sự phát triển của cá nhân).
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

23


Đề tài: Triết học

Cùng với yêu cầu dành sự quan tâm nhất định đến nghiên cứu lịch đại, ông khẳng định

ưu thế giá trị của nghiên cứu đồng đại, ưu thế của xác định lát cắt theo chiều ngang so
với quá trình phát triển lịch sử. Chủ nghĩa cấu trúc theo nghĩa rộng bao chứa hàng loạt
lĩnh vực tri thức khác nhau. Theo nghĩa hẹp chủ nghĩa cấu trúc là tổng hợp (tổ hợp, phức
hợp) các tư tưởng triết học và khoa học, gắn với sự ứng dụng phương pháp cấu trúc, phổ
biến rộng rãi từ những năm 60 tại Pháp, với các đại biểu Levi-Strauss, Foucault, Derrida,
Lacan... Trên thực tế chủ nghĩa cấu trúc không phải là một trào lưu tư tưởng thống nhất,
mà bao gồm nhiều nhà nghiên cứu vận dụng các nguồn chất liệu khác nhau của các
ngành khoa học khác nhau, trước hết là ngôn gnữ, rồi khái quát thành một phương pháp
tiếp cận có ý nghịa triết học. Chủ nghĩa cấu trúc của Levi-Strauss (1908 - ) là sự phản
ứng đối với chủ nghĩa hiện sinh của J.P.Sartre. Cơ sở của phương pháp cấu trúc là làm
sáng tỏ cơ cấu như tổng thể các quan hệ không thay đổi (bất biến) dưới bất kỳ những
thay đổi nào. Điều đó cũng có nghĩa chủ nghĩa cấu trúc không phải là hiện tượng tinh
thần của riêng thế kỷ XX, mà đã có từ thời Phục hưng, được tiếp tục phát triển trong thời
cận đại. Trong cách lý giải này khái niệm cấu trúc được xác định không chỉ như “bộ
khung” bền vững (ổn định) của một khách thể nào đó, mà là tổng hợp các quy tắc mà
theo đó từ một khách thể (đối tượng) có thể rút ra (nhận ra) khách thể thứ hai, thứ ba …
bằng con đường sắp xếp lại, hoán vị các yếu tố của nó và một số thay đổi đối xứng (cân
xứng, simmetric) khác. Tóm lại, việc làm sáng tỏ những tính quy luật thống nhất về cấu
trúc của tập hợp một số khách thể ở đây đạt được không do loại trừ những khác biệt của
các khách thể ấy, mà bằng con đường rút ra những khác biệt như những phương án cụ thể
chuyển hóa lẫn nhau của một tính bất biến trừu tượng thống nhất. Do chỗ với cách tiếp
cận này trọng tâm hướng vào thao tác linh hoạt, vận dụng vào các khách thể của chính
bản tính khác nhau, nên việc chuyển sự quan tâm từ các yếu tố và thuộc tính “tự nhiên”
của chúng sang mối quan hệ giữa các yếu tố và các thuộc tính tương đối, nghĩa là các
thuộc tính hệ thống lệ thuộc vào chúng tạo nên đặc trưng của phương pháp cấu trúc. Có
thể nêu ra một số tiêu chí cơ bản của phương pháp cấu trúc như sau: 1) rút ra tập hợp thứ
nhất (tính thứ nhất) các khách thể (cái cốt lõi, cái thân của đối tượng) mà ở đó ta thiết
định được sự hiện diện của cấu trúc thống nhất; đối với các khách thể của khoa học nhân
văn điều này có nghĩa là mô tả chúng theo một “lát cắt” chung xét như thông số của tính
thống nhất bền vững – giới hạn bởi các khách thể đồng tồn tại, và tạm tách khỏi sự phát

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

24


Đề tài: Triết học

triển của chúng (như vậy đòi hỏi ưu thế về phương pháp luận của đồng đại – đồng bộ
trước lịch đại (biến đổi theo thời gian), để xác định chúng như kết cấu vĩnh hằng, bất
biến, vượt khỏi tính quy định thời gian ; 2) phân tích các khách thể (bản văn) ra các phần
đơn giản, còn gọi là các đơn nguyên (segment), ở đó những mối quan hệ điển hình, lặp
lại liên kết những cặp không đồng nhất của các yếu tố, làm rõ trong mỗi yếu tố các thuộc
tính tương quan (relation) căn bản đối với quan hệ đó; 3) vạch ra những mối quan hệ
thay đổi giữa các đơn nguyên (segment), sự hệ thống hóa chúng và xác lập cơ cấu trừu
tượng bằng con đường tổng hợp trừu tượng hoặc mô hình hóa lôgíc hình thức và toán
học; 4) rút ra từ cơ cấu tất cả các kết quả lý thuyết có thể (các phương án cụ thể) và kiểm
chứng chúng trong thực tiễn. Phân loại khía cạnh cơ cấu trong lĩnh vực nhân văn được
thực hiện, như ta biết, trên một hệ thống ký hiệu nào đó, nhờ đó mà chủ nghĩa cấu trúc ,
xét như học thuyết khoa học cụ thể, liên kết chặt chẽ với ngữ nghĩa học (semantics). Nét
nổi bật của chủ nghĩa cấu trúc là đằng sau sự thao tác (điều khiển, vận dụng, sử dụng =
manipulation) có ý thức các dấu hiệu, ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng tìm ra những cơ cấu
chiều sâu vô thức, những cơ chế tiềm ẩn của các hệ thống ký hiệu. Đừng nghĩ rằng cái
chiều sâu vô thức ấy thuộc về xúc cảm, bản năng như cách phân tích của phân tâm học.
Ngược lại cái vô thức này cũng gắn với “giấy thông hành” của con người, nhìn từ khía
cạnh thực thể có lý trí. Cái ẩn giấu về lý trí được phát hiện ra trong tầng sâu của bản ngã
con người. Từ góc độ của chủ nghĩa cấu trúc bước chuyển đến việc tìm hiểu những cơ
cấu vô thức như thế đảm bảo tính khách quan khoa học trong nghiên cứu, vì nó giúp hoặc
tách ra từ khái niệm của chủ thể, hoặc đạt được cấu tố của nó như cái thứ hai, phái sinh
từ những kết cấu ấy.

Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa cấu trúc khoa học cụ thể là văn hóa như tổng
thể các hệ thống ký hiệu, trong đó quan trọng nhất là ngôn ngữ, ngoài ra còn có khoa học,
nghệ thuật, tôn giáo, thần thoại, phong tục tập quán, các hình thức hoạt động ngày càng
đa dạng của con người, gắn với nhu cầu văn hóa, cuộc sống. Chính trên những khách thể
đó sự phân tích cấu trúc – ngữ nghĩa giúp phát hiện ra những tính quy luật tiềm ẩn mà
con người tuân thủ một cách vô thức. Phù hợp với những tính quy luật này là những tầng
sâu (lớp, vỉa) của văn hóa, được xác định theo những cách khác nhau ở những quan điểm
khác nhau (các khái niệm “tri thức” - epistemie, và “hình thái tranh luận” quy định các
cấp độ tầng sâu của tri thức ở Foucault, khái niệm “bức thư” ở Barthes, Derrida, “cơ cấu
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa.
HVTH: Mạc Thị Biên

25


×