Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích bài thơ việt bắc của tố hữu (theo từng đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.77 KB, 9 trang )

Đề 01. Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao anh nắng dao gài thắt lưng.
Ngày xuân hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung."
(Việt Bắc- Tố Hữu)
Bài làm
Tố Hữu là lá cờ đầu của văn học cách mạng Việt Nam thế kỉ XX. Thơ ông mang
đậm chất trữ tình- chính trị, giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết,... Thơ ông có ảnh
hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ bạn đọc. Một trong những tập thơ, bài thơ tiêu biểu là ‘Việt
Bắc”. Việt Bắc của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân
tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ
như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến”,
thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương.Trong tâm trạng kẻ ở - người đi, hình bóng của núi
rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động.
Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi
rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả :
“ Ta về , mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang
Ve kêu rùng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình


Rừng thu trăng dọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Bài thơ được Tố Hữu viết về buổi chia tay của cán bộ kháng chiến với người dân
Việt Bắc. Bằng tiếng nói ngọt ngào tha thiết của khúc hát giao duyên trong ca dao, nhà thơ
đã ca ngợi tình cảm gắn bó thủy chung với cách mạng, với đất nước, với nhân dân. Khổ
thơ được phân tích thuộc đoạn hai của bài thơ. Đây được coi là mười câu thơ hay nhất diễn
tả nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc của người ra đi. Qua nỗi nhớ ấy người đọc
liên tưởng tới thiên nhiên Việt Bắc giống như một bức tranh tứ bình.
Hai câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã thể hiện rõ tâm trạng của người ra đi:
1


“ Ta về , mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Hai câu thơ sử dụng từ “mình” và “ta” quen thuộc trong ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”.
“ta” chỉ người ra đi và “mình” chỉ người ở lại. Cụm từ “ta về”, “nhớ” được nhắc đi nhắc lại
tới hai lần, trong câu thơ đầu tiên là người ra đi hỏi người ở lại, còn trong câu thơ thứ hai là
để bày tỏ tâm trạng của người ra đi: nỗi nhớ “hoa cùng người”. “Hoa” tượng trưng cho
thiên nhiên Việt Bắc, “người” là để chỉ nhân dân Việt Bắc. Nỗi nhớ hoa và người đan xen
hòa trộn trong tâm trạng của người ra đi. Trong tám câu thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy lần lượt
hiện lên với tất cả những gì đẹp nhất, thơ mộng nhất.
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa đông, một mùa đông mang vẻ đẹp lạ
lùng:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Câu thơ tả những cánh rừng Việt Bấc tràn ngập một màu xanh của cây lá, màu xanh
của sự sống. Giữa màu xanh bạt ngàn bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối, màu đỏ tươi
sáng ấm áp như xua đi không khí lạnh lẽo, hoang sơ của núi rừng. Hai màu xanh đỏ tương

phản nhưng cùng tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm đẹp rực rỡ. Và giữa khung cảnh
rừng núi thơ mộng ấy bỗng hiện lên bóng người trên đèo cao. Nhà thơ không tả dáng
người, không tả gương mặt mà tả tư thế con người trong công việc, một tư thế khỏe khoắn
của người làm chủ thiên nhiên. Trên trời cao ánh nắng hắt xuống lưng người, chiếu vào
con dao làm ánh lên một màu sáng kì diệu. Cái nắng hiếm hoi của mùa đông đã tô điểm
cho bức tranh thiên nhiên thêm tươi tắn, mang một vẻ đẹp riêng độc đáo.
Màu xanh vô tận của những cánh rừng bỗng thay đổi thành một màu trắng của hoa mơ:
“Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang”.
Hai câu thơ trên miêu tả mùa xuân của Việt Bắc. “Ngày xuân” là từ báo hiệu thời
gian thay đổi, một mùa đông qua đi một mùa xuân mới đến. Rừng Việt Bắc vào xuân trên
khắp núi rừng những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoe một màu trắng tinh khiết. Nghệ
thuật đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có tác dụng nhấn mạnh rừng Việt Bắc bạt ngàn
một màu trắng. Màu trắng tinh khiết của hoa mơ như lấn át tất cả màu xanh của cây lá làm
bừng sáng cả khu rừng .Câu thơ đem lại cho người đọc một cảm nhận không khí xuân lan
tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên Việt Bắc giàu sức sống. Trong sắc xuân
của thiên nhiên đất trời hiện lên hình ảnh con người lao động làm việc chăm chỉ cần cù,
miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là một từ chỉ động tác làm đi làm lại, người dân
Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận trong công vịêc bằng đôi bàn tay khéo léo tạo nên những sản phẩm
đẹp.
Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp
tục sống cuộc sống của họ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
2


Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc
đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh
nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng

ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. Rừng phách
là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy cảm với
thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái
lạnh đang tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo
mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại
càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ “hái
măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong thơ
Nguyễn Bính, một nhà thơ của đồng quê:
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ “Cô hái mơ”. Ta thấy có sự giống nhau rất
ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chớ
không phải “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ
có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử
tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như
thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật
bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào
nhau, tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh
trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên
đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán
bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với
cách mạng với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo

nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”.
Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây
là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương “nhớ ai
tiếng hát ân tình thủy chung”.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm
hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý
kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô
“mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức.
Từ “rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng
không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động.
3


Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng
hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc. Bên cạnh đó,nhạc điệu dịu dàng
trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru –
khúc hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của “ta” và cho người nhận
là “mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “Tiếng hát ân tình” và
ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Chúng ta có thể thấy, ở đoạn thơ trên thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp
đa dạng trong những thời gian và ko gian khác nhau, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa.
Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình dị, bằng những việc làm
tưởng chừng như nhỏ bé của mình, họ đã góp phần ko nhỏ vào sức mạnh vĩ đại của cuộc
kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ
cùng chung mọi gian khổ và niềm vui,cùng gánh vác những trách nhiệm nặng nề khó
khăn ....càng làm cho “Việt Bắc” ngời sáng lung linh trong ánh hào quang của kỉ niệm.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh thiên
nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức
sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng
chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc./.


4


Đề 2.
Phân tích đoạn thơ sau:
“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"
(Việt Bắc- Tố Hữu)
Gợi ý làm bài.
Tố Hữu là lá cờ đầu của văn học cách mạng Việt Nam thế kỉ XX. Thơ ông mang
đậm chất trữ tình- chính trị, giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết,... Thơ ông còn ảnh
hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ bạn đọc. Một trong những tập thơ, bài thơ tiêu biểu là
‘‘Việt Bắc”. ‘‘Việt Bắc” ra đời vào tháng 10 năm 1954, khi những người kháng chiến từ
căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
về lại thủ đô. “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng
trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó không chỉ thể hiện những
tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết tinh trong đó
những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Đó là những đặc trưng về chất trữ
tình chính trị của thơ Tố Hữu, là đặc trưng về tính dân tộc, về màu sắc dân gian trong ngôn
ngữ thơ của Tố Hữu. Vì thế bài thơ vừa đem đến cho người đọc những nhận thức sâu sắc
về niềm tự hào đối với cuộc khchiến thần thánh của chúng ta, lại vừa đem đến cho người
đọc những rung cảm thẩm mỹ hết sức mạnh mẽ. Có thể thấy những đặc sắc này ngay từ
những dòng thơ mở đầu của "Việt Bắc”:
“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.


Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?"
Người ta thường nói đến một đặc trưng nổi bật của thơ Tố Hữu, đó là chất trữ tình
chính trị vì mỗi chặng đường thơ của Tố Hữu dường như đều gắn liền với mỗi chặng
đường cách mạng của dân tộc chúng ta, từ thuở “Từ ấy” cho đến “Một tiếng đờn” sau này.
Nói như thế cũng là nói về “Việt Bắc”, bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao vời
vợi của thơ Tố Hữu. Bởi vì bài thơ đã ra đời từ một sự kiện chính trị hết sức lớn lao trong
đời sống của dân tộc, sự kiện các cơ quan của trung ương Đảng, của chính phủ, các cơ
quan kháng chiến, các cán bộ chiến sĩ kháng chiến sau khi hoà bình lập lại đã giã từ Việt
Bắc để về xuôi, về tiếp quản Thủ đô. Tố Hữu muốn thông qua “Việt Bắc” để dựng lại bức
tranh tổng quát của cuộc kháng chiến chín năm rất đáng tự hào của dân tộc ta trên chiến
khu Việt Bắc, lại vừa ghi lấy cái thời điểm chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với các cơ
quan kháng chiến. Nhưng Tố Hữu đã không làm bản tổng kết về cuộc kháng chiến, không
làm bản thông báo về sự kiện chính trị kia mà đã trữ tình hoá tất cả những nội dung thấm
đẫm màu sắc chính trị ấy. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái
5


tim để trở thành trí tuệ”, nghĩa là từ cảm xúc mãnh liệt của trái tim mà thức nhận những
chân lý sống, chân lý cách mạng.
Với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước,
viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát đối đáp
trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những khúc hát đối đáp ấy khơi
gợi những kỉ niệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm
kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân
dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Vì thế ngay từ những câu thơ
mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa “mình” và “ta” vô
cùng tha thiết, mặn nồng. Tố Hữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất quen thuộc trong ca
dao, dân ca để cuộc chia tay trở nên đằm thắm như của đôi lứa yêu nhau. Những chữ
“mình”, “ta” từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi

những tình cảm mặn nồng, không bao giờ phai nhạt giữa Việt Bắc và cách mạng, kháng
chiến.
Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của Việt Bắc đối với người về xuôi, khúc
hát chia tay đã được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố Hữu như muốn nói lòng
người Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào. Ngay từ câu thơ mở đầu, trong
sáu tiếng đã có tới hai tiếng “mình” thân thương. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với “mình”
như để nói lòng người Việt Bắc không nguôi nhớ người về xuôi, nhưng lại cũng như xoáy
sâu vào ký ức của người về xuôi những kỉ niệm chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu
thơ mở đầu, những chữ “mình”, “ta” đã như quấn quýt lấy nhau như sự gắn bó không
muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ chủ yếu được tạo bởi thanh
bằng: “Mình về mình có nhớ ta”, với một chữ “ta” ở cuối làm cho tình cảm nhớ thương
vừa lắng vào lòng người trong cuộc chia tay lại vừa lan xa mênh mang.
Kết cấu của hai câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi khơi gợi
những kỉ niệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của mười lăm năm ấy.
Câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại
khơi gợi những kỉ niệm đầy xúc động của mười lăm năm cách mạng đã gắn bó với Việt
Bắc để làm nên một Việt Nam dân chủ cộng hoà, bởi Tố Hữu đã sử dụng một thứ ngôn
ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ “mười lăm năm ấy” gợi ta nhớ tới “cái thuở ban đầu”
của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ đã ai quên”
Người về làm sao có thể quên được mười lăm năm ấy của mối tình đầu giữa cách mạng và
Việt Bắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm “nghìn
năm hồ dễ đã ai quên”, câu thơ còn được tiếp tục bởi những chữ “thiết tha mặn nồng”. Một
câu thơ viết về mười lăm năm của cách mạng, của kháng chiến mà nồng nàn, mà tha thiết
và trữ tình biết bao.
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách xưng hô
hết sức tình tứ “mình” với “ta”, nhưng ở hai dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả
không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của những kniệm qua suốt mười lăm
năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian

của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông núi,
6


cả đất trời trong khung cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự
hoà hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa “mình” với “ta” là một sự kiện lớn
lao trong đời sống của đất nước.
Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ xưng
hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể phú, thể tỉ trong ca
dao. Đọc câu thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Ta ngỡ như câu ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. Bốn
câu thơ như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trăn trở của người
ở lại, của Việt Bắc vô cùng thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để
khơi nguồn cho cảm xúc xuyên suốt “Việt Bắc” hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong những câu
mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.
Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng bốn dòng thơ diễn tả tâm trạng
người về xuôi, tạo nên sự cân đối với bốn dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng của
lòng người về xuôi với Việt Bắc, tương xứng với sự thuỷ chung của Việt Bắc. Ở bốn dòng
thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với thiết tha, cái bịn rịn
không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch cảm xúc như của
tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu buông một câu thơ rất tình tứ:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn”
Chỉ một chữ “ai” thôi đủ làm say đắm lòng người. Chữ “ai” đâu phải để hỏi vì muốn biết
ai; chữ “ai” đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác
định bởi ở đây cả “ta” lẫn “mình” đang lên tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này.
Chữ “ai” chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tình cảm yêu thương, để câu nói trở nên tình
tứ mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi
lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để rồi bày tỏ
tình cảm của mình. Đó là trạng thái “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Những chữ
“bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi.
Bâng khuâng chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, đối với người, đối với cuộc sống
đã trở thành kỉ niệm của những ngày kháng chiến, những kỉ niệm còn vương vấn, còn dâng
đầy trong tâm trí người về xuôi. Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương
với Việt Bắc. Còn “bồn chồn” là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi,
những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua mười lăm năm ấy. Mỗi bước đi mỗi
bước nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương nhớ ấy.
Với câu thơ thứ ba ở khổ thơ này, Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc
chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đầu trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của “mình”
7


với “ta”, của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của
cả Việt Bắc đối với người kháng chiến từ một hình ảnh hoán dụ:
“Áo chàm đưa buổi phân ly”
Cả Việt Bắc như “ngẩn ngơ” trong cuộc chia tay lịch sử ấy. Hình ảnh “áo chàm” dùng để
chỉ hình ảnh của Việt Bắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái “ngẩn ngơ” của Việt Bắc hiện ra ở
những chữ “đưa buổi phân ly”. Trong khi đó, câu thơ:
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giây phút xúc động của người về xuôi mà còn diễn tả
cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân của người về xuôi qua sự đột biến của
nhịp điệu câu thơ, bởi câu thơ lục bát vốn có kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang

cái dìu dặt của khúc hát chia tay, đã chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2
“Cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay”
Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ
“Bước đi một bước, giây giây lại dừng”
Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối với cảm xúc của
người đọc. Câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu quá đều đặn qua suốt tám
dòng thơ mà trở nên mòn, chán.
Sự tiếp nối của mười hai dòng thơ nằm trong mạch cấu trúc của hoài niệm như một
sự xuất hiện tất yếu, bởi sau những băn khoăn của Việt Bắc đối với tình cảm của người về
xuôi là tiếng hát đầy nghĩa tình của kẻ đi, là sự khẳng định niềm thuỷ chung của cách mạng
đối với Việt Bắc. Tiếng hát ấy đã làm cảm động người ở lại khiến bao nhiêu kỉ niệm, bao
nhiêu hồi ức đầy nghĩa tình đã trào dâng mạnh mẽ trong tâm trí người tiễn đưa. Mười hai
dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một dòng chảy của những kỉ niệm cuồn cuộn, nồng nàn,
tha thiết. Mỗi cặp sáu-tám lại khơi gợi một kỉ niệm về những tháng ngày sâu nặng nghĩa
tình của Việt Bắc. Và những câu sáu tiếp nối nhau đều là những câu hỏi như một sự khơi
gợi nỗi nhớ đối với người về xuôi. Mỗi câu sáu lại hướng tới “mình”, những chữ “mình”
tiếp nối nhau như một điệp khúc của tình cảm. Và đặc biệt ở những câu sáu, chữ “mình”
tha thiết bao giờ cũng gắn với chữ “đi” đầy nhớ thương (ở đây về cũng là đi, đi cũng là về).
Chữ “mình”, chữ “đi” bao giờ cũng kèm với chữ “nhớ”, mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ
về xuôi biết bao:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mình đi mình có nhớ mình”
Sử dụng chữ “mình”, một đại từ xưng hô tiềm ẩn bao tình cảm thân thương, Tố Hữu cũng
cho thấy cái biến hoá linh hoạt trong cách nói năng, trong sự cảm nhận sắc thái ý nghĩa của
từ này. Ở đây “mình” là mình nhưng cũng lại là “ta”. Mình và ta tuy hai mà một. Cho nên
người ở lại mới nói với người về xuôi:
“Mình đi mình có nhớ mình”
Đây là đoạn thơ khơi gợi những kỉ niệm của một thời cách mạng để dựng nên cộng hoà, vì
thế mỗi câu tám trong cặp lục bát là mỗi câu nhắc nhở một kỉ niệm không bao giờ quên,
như kỉ niệm về những ngày gian khổ xây dựng phong trào trong hình ảnh “mưa buồn suối

lũ những mây cùng mù”, về những ngày “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, về
những ngày náo nức trong phong trào kháng Nhật của thuở còn Việt Minh và những ngày
tưng bừng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám nơi “Mái đình, Hồng Thái, cây đa, Tân
8


Trào”. Song cái đặc sắc trong câu tám này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ
thuật đối. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu tám ở đây,
nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng
mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kỉ niệm.
Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: “Miếng cơm chấm muối /mối thù nặng
vai” để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và cách mạng. Khó khăn lại càng
làm chồng chất mối thù đối với thực dân, phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc
sống gian khổ và lòng người qua những hình ảnh đối chọi nhau:
“Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của Việt Bắc đối với cuộc chia tay:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ, nhưng với Tố Hữu, nghệ thuật đối
đã có những sáng tạo. Ở đây không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế
đối. Ở đây có lối đối giữa các vế trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối
ngay trong một vế câu như “mưa nguồn / suối lũ” rồi “những mây / cùng mù”; lại có
những biến thể lồng chéo tạo nên các vế đối như trong trường hợp “Tân Trào, Hồng Thái,
mái đình, cây đa” vốn nằm trong những cụm từ đã tương đối cố định, đó là “Mái đình
Hồng Thái, cây đa Tân Trào”. Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc điệu được
tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.
Thơ Tố Hữu với “Việt Bắc”, đặc trưng trữ tình không chỉ hiện ra từ những câu thơ
lục bát vốn mang âm điệu tha thiết mà còn thể hiện ở cấu tứ, ở ngôn ngữ luôn luôn tràn đầy
cảm xúc. Vì thế khúc hát mở đầu cho “Việt Bắc”, khúc hát về cuộc chia tay lớn gắn liền
với đời sống chính trị của dân tộc, khúc hoài niệm về những tháng ngày cách mạng mà vẫn
có sức lay động tình cảm của người đọc, làm rung động trái tim mỗi con người Việt Nam ở

thời điểm tràn đầy sung sướng và hạnh phúc kia. Với đoạn thơ mở đầu này, ta cũng đã thấy
“Việt Bắc” của Tố Hữu rất giàu chất dân tộc, chất dân gian, giàu nhạc tính./.

9



×