Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Cái ngông trong thơ tản đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.38 KB, 52 trang )

Cái ngông trong thơ Tản Đà

Mục lục

[Type text]

Page 1


Cái ngông trong thơ Tản Đà
I.

Cuộc đời và sự nghiệp
1.

Cuộc đời

Tản Đà( 1889- 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng,
huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê hương ông nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi
Tản Viên, bởi lẽ đó sau này ông mới lấy tên hiệu là Tản Đà.
Tản Đà thuộc dòng dõi quý tộc, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có
nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Cha là Nguyễn Danh Kế, từng thi đỗ cử nhân,
làm quan cho nhà Nguyễn đến chức ngự sử trong kinh, nổi tiếng là người có tài
văn áng trong triều. Mẹ là Lưu thị Hiền, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao- Nam
Định, hát rất hay và bà nổi tiếng có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út của hai
ông bà.
Trong số anh chị em của Tản Đà thì có Nguyễn Tài Tích ( là anh cùng cha khác
mẹ) là người có ảnh hưởng rất to lớn đến cuộc đời Tản Đà sau này.
Thời niên thiếu, Tản Đà phải trải qua nhiều giai đoạn đau khổ. Ba tuổi thì cha mất,
gia đình ông trở nên túng thiếu, một năm sau thì mẹ cũng bỏ đi, tám năm sau thì
chị gái cũng theo mẹ làm nghề ca xướng.


Tản Đà hấp thụ nền nho giáo từ nhỏ, được anh trai hướng vào con đường cử
nghiệp. Lên năm tuổi, ông đã học Tam tự Kinh, sáu tuổi học luận ngữ, kinh, truyện
và chữ quốc ngữ; mười tuổi biết làm câu đối và lúc 11 tuổi đã làm thơ văn. Năm 14
tuổi Tản Đà đã thạo các lối từ, chương, thi, phú và đến năm 15 tuổi ông đã nổi
tiếng là một thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Năm 1909, ông tham dự và bị trượt kì thi hương ở Nam Định. Rồi sau đó ông quay
về nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn thi, ở đây ông đã gặp và đem lòng yêu say đắm một
cô gái, nhưng vì gia cảnh nghèo đói nên không có tiền để làm lễ cưới, ông quyết
[Type text]

Page 2


Cái ngông trong thơ Tản Đà
định chỉ có tiếp tục con đường khoa cử thì mới đổi đời được. Nhưng trong kì thi
Hương mùa thu năm ấy, ông dự thi và lại bị trượt. Chán nản, ông bỏ về Hòa Bình
để khuây khỏa, tại đây ông đã gặp và kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi.Hai
người trở thành tri kĩ; cùng uống rượu, làm thơ, đọc sách…, thời gian này ông
cũng có cơ hội tìm hiểu về cuộc cách mạng Tân Hợi.
Năm 1913, Nguyễn Tài Tích mất, Tản đà quyết định về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ
báo mà ông cộng tác đầu tiên là “Đông Dương tạp chí”.
Năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn thị Tùng. Cũng năm này ông đã có tác phẩm
hay được đăng trên “Đông Dương tạp chí” và nó nhanh chóng có được tiếng vang
lớn trên văn đàn.
Năm 1916, ông chính thức lấy bút danh là Tản Đà và chọn con đường của một
người viết văn, làm báo chuyên nghiệp.
Từ 1915- 1916, ông có những tác phẩm hết sức đắc ý: Năm 1915 cuốn sách đầu
tiên được xuất bản, gây được tiếng vang lớn, đó là tập thơ “ Khối tình con I”. Sau
thành công đó, Tản Đà viết liền “Giấc mộng con”, tuồng “ Người cá, Tây Thi,
Dương Quý Phi…”.

Năm 1917, tác phẩm của ông được đang trên “ Nam Phong tạp chí” do Phạm
Quỳnh sáng lập.
Năm 1919- 1921, Tản Đà viết một loạt sách: Truyện “ Thần tiên”, “Đàn bà tàu”;
sách giáo khoa, luân lý; thơ thì có tập “Còn chơi”
Năm 1922, Tản Đà thành lập “Tản Đà thi điếm”. Tại đây xuất và tái bản hết những
sách quan trọng trong sự nghiệp của ông như “ Tản Đà tùng văn”, “Truyện thế
gian”…

[Type text]

Page 3


Cái ngông trong thơ Tản Đà
1926, Tản Đà sáng lập “An Nam tạp chí”.Sự ra đời của “An Nam tạp chí” cũng là
dấu mốc bắt đầu cho quãng đời lận đân của ông.Từ đây, Tản Đà bắt đầu đi du lịch
khắp nơi, nên An Nam tạp chí cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần những cuộc đi
của ông trở thành những cuộc trốn nợ hoặc giải sầu hay tìm người tài trỡ cho tạp
chí. Giai đoạn này cũng có một số tác phẩm ra đời như Nhàn tưởng (1929), Giấc
mộng lớn (1929), Thề non nước …
1931- 1932, Tản Đà có cuộc bút chiến với Phan Khôi về luân lý và Tống nho.
1933, An Nam tạp chí chính thức đình bản khi phong trào Thơ mới nổi lên.
Do ảnh hưởng của phong trào Thơ mới và phong trào theo Tân học, Tản Đàcon người thuộc phe cựu học, làn thơ cũ đã dần dần trở nên cô độc, Tên tuổi của
ông lúc này dường như bị đẩy vào dĩ vãng, nhường chỗ cho các nhà thơ mới như
Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư…
Tản Đà trở nên nghèo túng, may là những năm cuối đời ông đã được mọi người
quan tâm trở lại, các nhà thơ mới bắt đầu xem lại những cống hiến của ông, rồi ca
ngợi ông, xem ông như một ông Thánh của làng Thơ Việt Nam.
Khi sức khỏe đã suy yếu, Tản Đà giành hết tâm sức dịch thuật và biên tập “Liêu
Trai Chí dị” của Bồ Tùng Linh và “Vương Thúy Kiều chu giải tân truyện”…

Ngày 07/06/1939, Tản Đà mất khi tròn 50 tuổi.
Sau khi ông mất, trên văn đàn lại càng ca ngợi ông hơn và đặt ông lên ghế “chủ
súy” của hội tao đàn, xem Tản Đà như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước
vào một giai tươi đẹp mới.
2.

Sự nghiệp sáng tác

Sự nghiệp sáng tác của Tản Đà hết sức phong phú và đa dạng.
[Type text]

Page 4


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Thơ là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú ấy của ông. Có thể nói,
từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có
một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Tản Đà sáng tác rất nhiều
thơ, ở nhiều thể loại cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ Tản Đà hay diễn tả cảm
giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với
người tri kỉ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện
thực. Thơ ông thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi theo thể đường luật,
đường luật phá thể, hay thể lục bát, song thất lục bát. Ngoài ra thể loại ca trù hay
hát nói cũng là một lĩnh vực nổi bật trong sáng tác của ông. Nội dung của nó thể
hiện triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man
mác nỗi sầu nhân thế.
Bên cạnh đó, các lĩnh vực như thơ ca dân gian, văn, báo chí cũng là một thành
công lớn cho sự nghiệp của Tản Đà. Đặc biệt là báo chí, từ khi có bài được đăng
trên “Nam Phong tạp chí” cho đến về sau Tản Đà luôn cho người đọc thấy được
mình là một cây bút đầy tài năng. Chỉ tiếc thay cho sự nghiệp báo chí ấy cũng gian

nan như chính cuộc đời ông vậy.
Tản Đà đã để lại cho nền nghệ thuật Việt Nam những tác phẩm vô cùng giá trị. Có
thể kể đến là những tập thơ “ Khối tình con I, II, III”, “Tản Đà xuân sắc”, “ Thơ
Tản Đà”… Về văn phải kể đến “Giấc mộng con I, II”, “Giấc mộng lớn”, “Thề non
nước”…Ông cũng để lại nhiều tác phẩm kịch đặc sắc như Tây Thi, Tống biệt và
một số bản dịch thuật như Liêu Trai chí dị…
Với một tâm hồn mới mẻ, “cái tôi” lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng,
ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục thế hệ độc
giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng,
vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc
[Type text]

Page 5


Cái ngông trong thơ Tản Đà
đáo, tài hoa. Thơ văn Tản Đà có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn
học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
Cũng như Xuân Diệu từng nói: “ Tản Đà là thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt
Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một
cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi” (Công của
thi sĩ Tản Đà- Thơ Tản Đà, tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, 2007, tr 173).
II.

Cái “ngông” trong thơ Tản Đà
1.

Khái niệm “ngông”

Nói về “ngông”, theo cuốn “Tản Đà thơ và đời” (NXB Văn học, 1995, tr 100)

cho rằng: “Ngông trước hết là một tính cách. Biểu hiện của tính cách đó là những
hành động khác đời gây nên sự chú ý của số đông, những hành động ngông
thường mang tính chất ngang tàng, phóng túng, đùa cợt.Tính cách ngông biểu hiện
một mâu thuẫn với số đông bình thường, nó tách ra, nổi lên.Tính cách ngông vừa
mang tính bi kịch lại vừa mang tính hài kịch và nó là sự phủ định thực tại, chỉ
trích thực tại bằng sự giễu cợt và khinh thường.
Ngông cũng là một cách sống, cách sống ấy vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội
đương thời, trở thành một thách thức với xã hội đó.Cách sống ấy mang tính chất
chủ quan và coi thường dư luận xã hội.
Ngông còn là một hiện tượng tư tưởng: đó là tư tưởng bất mãn, bất đắc chí, bất
cần đời, khinh thế ngạo vật.
Một con người không có bản lĩnh không thể ngông, không có tâm sự không thể
ngông, không đối kháng và phủ định thực tại trong những khía cạnh nào đó cũng
không thể ngông”.

[Type text]

Page 6


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Như vậy, ta có thể hiểu “ngông” thể hiện thái độ, phản ứng của người nghệ sĩ
tài hoa có cốt cách, tâm hồn khác biệt với người thường, không chấp nhận sự đơn
điệu mà luôn phá cách, sống phóng túng, tự do khẳng định cá tính và bản lĩnh của
mình.
2.

Những biểu hiện của cái “ngông” trong thơ Tản Đà
2.1.
Sự thể hiện mạnh mẽ cái tôi cá nhân

2.1.1.

Cái tôi thoát ly

Cái tôi thoát ly được biểu hiện qua thái độ chán ghét thực tại của Tản Đà và tìm lí
tưởng trong một thế giới mới- thế giới thần tiên, thế giới của mộng ảo.Thoát ly
thực tại, thoát ly cõi trần để sống và mơ ước ở chốn thần tiên, thơ Tản Đà đưa ta
vào thế giới mới, khác xa cuộc sống tù túng thường ngày.Ở thời đại lúc bấy giờ,
cảm hứng thoát ly là một cảm hứng mới mẻ, độc đáo, khác hẳn cách sống của
nhiều nho sĩ đời xưa.Thơ ông chính là một nỗi khát vọng thiết tha cháy bỏng thoát
ly ra ngoài cái tù túng, vượt ra khỏi sự giả dối, khô khan của đời sống thực. Ông
quan niệm cuộc đời là một giấc chiêm bao:
Đời người như giấc chiêm bao
Nghìn xưa đã mấy ai nào trăm năm.
(Thơ rượu)
Một phần cũng vì cuộc sống thực tế của ông lúc bấy giờ rất khó khăn, bế tắc nên
ông muốn vượt ra ngoài những bế tắc đó, mà muốn thoát ly ra khỏi những bế tắc
ấy thì cách mà Tản Đà chọn lại khác với mọi người. Đó là ông chọn cách thoát ly
vào trong cái mộng, có thể vì ông là nhà thơ lãng mạn nên ông chọn cách thoát ly
khác người như vậy.Nhưng chúng ta phải nhìn vào thực tế lúc bấy giờ để hiểu
được rằng vì sao ông lại chọn cách thoát ly thực tế, quay lưng lại với cuộc sống để
hướng về cõi mộng như thế. Hết “ giấc mộng con” rồi đến “giấc mộng lớn”, chìm
[Type text]

Page 7


Cái ngông trong thơ Tản Đà
đắm trong hoang tưởng khi gặp trời, tiên, cùng danh nhân kim cổ. Cõi mộng là nơi
thể hiện “cái tôi thoát ly” của nhà thơ và mộng là một tính chất, một nội dung đặc

biệt trong thơ Tản Đà. Tản Đà từng nói: “ Mộng là mộng, đời người cũng là mộng,
mộng là cái mộng con, đời là cái mộng lớn chỉ khác nhau về dài ngắn lớn nhỏ mà
thôi”. Như vậy, ông cho rằng trong đời người ta có hai thứ mộng: Mộng con là
những điều ta thấy trong chiêm bao, mộng lớn là cuộc đời ta. Mà cái mộng của Tản
Đà lại khác, nó mang màu sắc riêng rất Tản Đà.
Mộng là lối thoát cho tâm hồn mơ mộng và bế tắc của Tản Đà.Nhà thơ yêu mộng,
ngất ngây, đắm chìm trong mộng.Giấc mộng của Tản Đà mang tính chất lãng
mạn thoát ly.Cuộc đời thực không lấy gì làm hạnh phúc, Tản Đà mong muốn
thoát ly bằng mộng, triền miên trong cõi mộng để quên đời. Khi ông mộng, ông
được sống những cuộc đời mới mẻ, đẹp đẽ, tự ông vẽ ra theo trí tưởng tượng của
ông. Chính trong những cuộc đời như vậy mà ông mới tìm lại được cái tôi của
mình, gặp được những người trong ý tưởng và suy nghĩ của mình.
Tản Đà đã từng muốn làm thằng Cuội lên cung trăng chơi với chị Hằng. Đến “Hầu
trời” thi nhân lại mượn chuyện hầu trời để bộc lộ cái tôi “ngông” của mình:
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng
Thật hồn! thật phách! thật thân thể
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Lên trên đó, nhà thơ được dịp khoe hết tài năng của mình. Bởi có lẽ vì người đời
quá khắt khe lại thêm “văn chương hạ giới rẻ như bèo” nên ông mộng được đem
văn lên bán chợ Trời:

[Type text]

Page 8


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Văn đã giàu thay lại lắm lối
Trời nghe trời cũng bật buồn cười

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
“ Anh gánh lên đây bán chợ trời”
( Hầu trời)
Dư luận của Trời thật rộng rãi, trời đã khen văn thơ của Tản Đà đây chính là
điều mà nhà thơ ao ước bấy lâu nay. Thoát ly hẳn cuộc sống trần gian, ông tìm đến
nơi cõi trời hi vọng sẽ có người hiểu được thơ ca mình và nhà thơ đã thực hiện
được mong ước thoát ly đó. Và phải chăng khi mộng như vậy, ông lại cảm thấy tin
tưởng, lại tiếp tục sáng tác, để cho đời một sự nghiệp văn chương to lớn.
Hết mộng lên cõi trời, Tản Đà lại mộng lên cõi tiên. Ông lại mơ ước được như Lưu
Thần – Nguyễn Trệu lên chơi cõi tiên trong bài “ Tống biệt”
Lá đào reo rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai…
Bài thơ làm theo điệu từ khúc tả cuộc chia ly giữa hai nàng tiên nữ và Lưu
Thần, Nguyễn Triệu lúc hai chàng trở lại trần gian. Ở đây Tản Đà tưởng tưởng ra
bức tranh tiên cảnh thật đẹp nhưng thật quạnh quẽ, bài thơ mang ý nghĩa tượng
trưng giấc mộng không ở mãi với hồn thơ.

[Type text]

Page 9


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Nhưng xét kĩ, chúng ta thấy rằng trong cái mộng thoát ly của Tản Đà thì có hai thứ
mộng.Có thứ mộng do chán đời gây nên, do sự yếm thế của tác giả trực tiếp lôi
cuốn mà đến:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi

Cung quế đã ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
( Muốn làm thằng Cuội)
Trong cảnh đêm thu Tản Đà cảm thấy buồn chán cuộc đời. Ông mộng thoát
khỏi cuộc đời đầy đổi thay, nhố nhăng. Ông hình dung ra nơi cung quế và mong
ước được lên sống ở đó. Thi sĩ ước muốn được lên cung trăng, được tâm sự với
Hằng Nga rồi “tựa nhau trông xuống thế gian cười”.Đó quả là một ước muốn thật
ngông cuồng, ngạo nghễ.Ông muốn nhìn xuống thế gian, muốn đứng hơn người để
mà trông, mà ngắm, mà suy xét việc đời. Mộng vì chán đời nhưng có khi vì chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang bao giờ cũng tiềm tàng trong tâm hồn vô số nhà
nho – coi cuộc đời là mộng:
Trăm năm một giấc mơ màng
Nghĩ chi cho bận gan vàng hỡi ai?
( Đời lắm việc)
Lại có thứ mộng Tản Đà bịa đặt ra để làm một trò tiêu khiển. Tản Đà thường cho
rằng đời là buồn tẻ, không có gì đáng lưu luyến, chỉ muốn mộng để giải khuây vì
mộng đẹp hơn thực tế:
[Type text]

Page 10


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
( Nhớ mộng )
Giấc mộng là lối thoát cho tâm hồn mơ mộng và bế tắc của Tản Đà. Điểm nổi bật
trong thơ văn Tản Đà là ở đâu, lúc nào cũng thấy ông nói đến mộng. Nhà thơ yêu

mộng, ngất ngây trong mộng, đắm chìm trong mộng. Nhiều lúc chợt tỉnh giấc, trở
về với thực tại, ông lại thấy chán ngán, lại tiếc nuối với giấc mộng ông xây bằng
tưởng tượng vì thế ông lại ao ước được trở lại cõi mộng, cõi thần tiên:
Trông khắp trần gian hết thú chơi,
Thèm trông con hạc nó lên trời,
Hạc kia bay bổng tuyệt vời,
Hỏi thăm cung Nguyệt có người trọ không?
(Trông hạc bay)
Với ông mọi thứ vui trên trần gian đều đã hết, chơi, say…mãi cũng chán.
Thưởng thức những của cải vật lại, Tản Đà cũng đã từng.Đi khắp đó đây ngắm
cảnh đẹp, ông cũng đã trải.Khi đã nắm hết những mùi vị ngọt ngào cũng như cay
đắng của cuộc đời, Tản Đà cảm thấy buồn chán.Ông luôn mong muốn một cuộc
sống mới ở một nơi xa xôi nào đó, phóng khoáng hơn, tự do hơn.Đó là cuộc sống
cách xa trần thế, nơi cung nguyệt. Mộng ước của Tản Đà thật lãng mạn biết chừng
nào!
[Type text]

Page 11


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Tuy nhiên những giấc mộng ấy thật nhẹ nhàng, chỉ là những mơ tưởng hão huyền,
phản ánh một tâm hồn thoát tục của thi sĩ.Đáng chú ý hơn là những “mộng” có sắp
đặt, ý tứ và hình ảnh bố trí gọn gàng và duyên dáng, không những thỏa mãn được
ít nhiều bao ước vọng của thi sĩ mà còn gây hứng thú cho người đọc. Chẳng hạn
như trong bài “ Hầu trời”, Tản Đà mộng thấy mình một đêm kia lên hầu trời, vừa
uống trà ngon vừa ngâm thơ cho trời và chư tiên nghe, dễ dãi và tự nhiên vì tự cho
mình là một vị tiên bị đày xuống hạ dưới nay lại trở về trời, đến khi ra về mọi
người tiễn đưa nuối tiếc. Trong cái mộng này ta thấy mọi sự đều sắp đặt để thỏa
mãn những ước vọng của Tản Đà: ước vọng của một người nhiều tình cảm muốn

được tình thương trìu mến của người khác, ước vọng của một kẻ nhiều kiêu hãnh,
làm một nhà nho muốn người ta hiểu cái nhiệm vụ trọng đại của mình… Một cái
mộng gây cho thi sĩ nhiều hứng thú như thế, nên ông rất ưa mộng. Do đó “mộng”
chiếm một phần quan trọng trong thơ văn Tản Đà.Mộng chứng tỏ xu hướng muốn
vươn lên cao, nhẹ nhàng, phiêu diêu tìm sự thỏa thích trong một trạng thái xa lìa
thực tế.
Nói đến cái tôi cá nhân của Tản Đà thì có rất nhiều khía cạnh để chúng ta bàn luận
mà thoát ly cũng là một khía cạnh lớn nói lên tư tưởng của nhà thơ. Thoát ly không
phải là quên hết sự đời chỉ sống với giấc mộng của mình mà thoát ly là tìm về một
nơi mà con người ta có thể thỏa mãn được cái mong ước lớn lao của mình. Có
người vì không thích với cuộc sống hiện tại mà họ muốn thoát ly bằng cách say
men lao vào những cuộc chơi vô bổ, còn với nhà thơ thì khác ông thoát ly bằng
cách tìm vào cõi mộng. Bởi chỉ trong mộng, trong một thế giới không có thật ấy thì
nhà thơ mới có thể tỏ rõ lòng mình, mới phát huy hết tài năng của mình. Và cũng
có thể chỉ những lúc này tài năng của nhà thơ mới được mọi người để ý và công
nhận. Ở đây cái tôi cá nhân của nhà thơ được trỗi dậy mạnh mẽ và có thể nói cái
tôi cảm xúc trữ tình của Tản Đà được thời đại bắt đầu “cởi trói” đã phơi bày ra một
[Type text]

Page 12


Cái ngông trong thơ Tản Đà
cách mà lâu nay ta quen gọi là lãng mạn như thế. Ở Việt Nam, do những điều kiện
lịch sử của mình mà cái tôi này chậm phát triển và cái tôi của Tản Đà cũng vậy
nhưng đáng quý ở chỗ, dù cái tôi cảm xúc đó biểu hiện dưới dạng lãng mạn thoát
ly nhưng rõ ràng là nó hoàn toàn không tách khỏi cái ta dân tộc.
2.1.2.

Cái tôi hưởng lạc


Nói đến cái ngông trong thơ Tản Đà thì không thể không nhắc đến cái tôi
hưởng lạc trong thơ ông.Hưởng lạc là một quan niệm sống, một thái độ sống, một
phản ứng của cái tôi cá nhân độc đáo vì chán đời, vì muốn quay lưng với đời mà
tìm đến sự hưởng lạc. Ta thường thấy, các nhà nho coi cuộc sống nhàn lạc là một
thú vui, một cách sống thanh cao, tao nhã thì đến với Tản Đà ông nêu cao tinh
thần hưởng lạc và sống theo cách riêng của mình. Nguyễn Công Trứ cũng từng
quan niệm rằng:
Nhân sinh bất hành lạc
Thiên tuế diệc vi thương
(Ở đời không hành lạc
Sống ngàn năm cũng chết yểu)
(Đánh thức người đời)
(Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Kiều Văn, NXB Đồng Nai,
2000, tr 121)
Ở Tản Đà cũng vậy, thơ ông là tiếng nói cá nhân mạnh mẽ và đầy cá
tính.Ông không bị gò bó bởi một khuôn phép nào, một lẽ sống nào.Với ông, sống
là phải biết hưởng lạc, vui thú với đời.Dù sống trong cảnh nghèo, cuộc sống khó
khăn, thiếu thốn đủ bề nhưng ông vẫn luôn lạc quan và tận hưởng những gì mà
[Type text]

Page 13


Cái ngông trong thơ Tản Đà
cuộc sống mang lại cho mình, nghèo thì vẫn có cái thú vui của nghèo. Trong thơ
của ông cái tôi hưởng lạc được thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh đó là say trong
men rượu và sự ăn chơi.
Hình như đối với ông cuộc đời này rượu đem đến cho ông những cái cảm
giác tận hưởng, ông mượn rượu để thỏa niềm hưởng lạc của mình. Như trong bài

“Say”ông đã thể hiện cái hưởng lạc trong men say:
Đêm xuân một trận nô cười
Dưới đèn chẳng biết là người hay hoa
Khi vui quên cả cái già
Khi say chẳng dốc giang hà cũng say
(Say)
Một đêm xuân ấm áp với men rượu nồng, những người bạn nhậu đang nâng chén
say sưa, ca hát và nô đùa bên nhau, còn gì bằng trong ngày xuân ấy, thật sảng
khoái biết bao. Say trong men rượu mọi thứ đều trở nên mơ hồ, dưới ánh đèn mờ
kia không còn nhận ra là người hay hoa nữa, hay dưới cảm nhận của người đang
say mọi thứ đều trở nên đẹp và lung linh, Tản Đà mượn rượu để say, để thỏa niềm
vui hưởng lạc của mình và phải chăng ông mượn rượu để quên đi cái thực tại chán
chề kia, khi vui thì mọi thứ đều có thể quên hết:
Nhãn ngoại trần ai không nhất thế,
Hung trung khối lũy thuộc tiền sinh
( Ngoài mắt không biết cõi trần là gì nữa, trong bụng toàn chứa những gì kiếp
trước). Có thể nói khi say thì những thứ ngay thực tại đều tan biến, trong mắt nhà
[Type text]

Page 14


Cái ngông trong thơ Tản Đà
thơ mọi thứ trong quá khứ hiện về với những gì đẹp và sâu sắc nhất, hơn thế nữa
khi men rượu say vào người làm cho ta cảm giác lâng lâng như được làm thần
tiên. Với ông rượu là phương tiện để đem đến cái hưởng lạc thích thú nhất: “Tử
trung ưng thị thần tiên” (trong lúc uống rượu là lúc làm thần tiên).
Đến với thơ của ông, ta sẽ còn bắt gặp nhiều bài thơ ông mượn rượu để thỏa
niềm hưởng lạc của mình như trong bài “Lại say”:
Say sưa thì cũng thói hư đời,

Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười.
(Lại say)
Tản Đà cũng biết suốt ngày say sưa cũng phải là tốt, cũng là thói hư ở đời
nhưng ở câu tiếp theo ông khẳng định hư thì hư nhưng say thì vẫn cứ say, cách nói
thể hiện cái ngông trong hưởng lạc của ông cũng rất đậm nét, say là thú vui để
được nhàn, để được thoải mái trong tâm hồn ông thì làm sao có thể bỏ được. Ở
đây ông còn liên tưởng đến cả trời đất cũng say, khi say thì đều như ông, có ai
cười đâu thì ông cũng sợ gì tiếng đời chứ, ở đây ông mượn luôn hình ảnh trời đất
để bào chữa cho cái thói hư của mình thật là ngông. Đối với người ta có khi say có
khi tỉnh nhưng với ông hình như lúc nào cũng say, say mãi để tận hưởng thú vui ở
đời:
Say chẳng biết phen này là mấy
Nhìn non sông chẳng thấy, lại là say.

[Type text]

Page 15


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Quái! Say sao say mãi thế này?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh.
Ông muốn say để không can sự đời nữa, không muốn bận tâm những
chuyện trong dân gian, phải chăng ông quá bất mãn với cuộc đời này, thôi thì ai
muốn làm gì thì làm, ông cứ say, cứ say để vui thú chính mình, ngay cả vợ khuyên
ngăn ông cũng mặc, cứ say rồi lại say, say để giải sầu và để tự cho mình niềm vui:
Việc trần ai, ai tỉnh ai lo
Say túy lúy nhỏ to đều bất kể

Trời đất nhỉ, cái say là sướng thê1
Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay?
Muốn say lại cứ mà say.
Không phải chỉ say trong men rượu mà trong lúc say ấy ông làm thơ, đọc
thơ thể hiện tài năng của mình, một cách chứng tỏ bãn lĩnh của ông, ông tìm thấy
niềm vui, hạnh phúc ở trong đó, cuộc đời của ông thơ và rượu như hai người bạn
tâm giao không thể thiếu, và đó còn chính là phương tiện để ông đến được với cái
vui, cái hưởng lạc ở đời này, điều đó được thể hiện rõ nét qua bài “ Ngày xuân thơ
rượu”:
Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa

Còn thơ còn rượu còn xuân mãi

[Type text]

Page 16


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Còn mãi xuân, còn rượu với thơ
(Ngày xuân thơ rượu)
Ở hai câu cuối ông đã khẳng định một điều, còn thơ và rượu thì cuộc đời này
với ông mới còn mùa xuân, mới còn niềm vui và thích thú, còn mùa xuân, còn
cuộc đời này thì thơ và rượu luôn gắn bó với ông. Có thể nói Tản Đà rất ngông
ngay cả trong niềm vui hưởng lạc, vui trong cơn say, tận hưởng niềm vui trong
chính tài năng và bản lĩnh của mình. Cái ngông có ý thức, có năng lực chứ không
phải là sự ba hoa, múa mép.
Đến với sự hưởng lạc của ông, ta còn bắt gặp qua những vần thơ thể hiện sự
ăn chơi, một sự ăn chơi ngông đến lạ thường. Ông đi khắp mọi nơi, từ nơi này

sang nơi khác, từ vùng nọ tới vùng kia trong đất nước, ông đi đây đi đó để thể
hiện sự ăn chơi của mình, để tìm đến những cái vui trong thiên hạ và điều đó được
thể hiện rất ấn tượng qua bài” thú ăn chơi” của ông:
Giời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông
Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió giăng
Hành trang lên đường của ông là túi thơ, ông đi khắp ba kỳ đất nước,
tham quan và biết rõ đặc tính của từng vùng miền, ông cho rằng thú chơi của mình
ở thế gian khó ai bằng được:” Thú ăn chơi cũng gọi rằng. Mà xem ai chửa dễ bằng
[Type text]

Page 17


Cái ngông trong thơ Tản Đà
thế gian”. Qua bài thơ ta có thể thấy ông đã đi khắp mọi nơi như Tu Ran, Long
Xuyên, Nghệ An, Sài Gòn, …, hầu như khắp các địa danh trong nước, đúng là sự
ăn chơi của ông thật đáng nể và ngưỡng mộ:
Hà tươi cửa biển Tu Ran
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
Sài Gòn nhớ vị cá tra
Cái xe song mã, chén trà Nhất Thiên
Đa tình con mắt Phú Yên
Hữu tình rau bí ông quyền Thuận An

Đi khắp mọi nơi, được biết mọi thứ, những món ngon ở đời thì đó là
niềm vui hưởng lạc mà ông mong muốn, ông không muốn sống bó buộc trong sự

nhàm chán, để rồi phải chứng kiến những chuyện không vui ở đời, ông muốn tìm
cho mình sự thoải mái trong tâm hồn nhưng ông không sống ẩn dật, nhàn hạ như
nhưng người khác, đó là điểm nổi bật trong tính cách của ông và hơn thế nữa ông
đã khẳng định sự ăn chơi của mình là mãi mãi, chuyện đời thế nào cũng mặc, rất
ngông ngay cả trong việc ăn chơi:
Trăm năm hai chữ Tản Đà
Còn sông, còn núi, còn là ăn chơi
Dở hay muôn sự ở đời
Mây bay nước chấy mặc người thế gian.

[Type text]

Page 18


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Một lần nữa ông khẳng định sự ăn chơi, hưởng lạc của mình qua bài
thơ “Còn chơi” của ông:
Ai đã hay đâu tớ chán đời
Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi
Chơi cho thật chán, cho đời chán
Đời chán nhau thời tớ sẽ thôi
Nói thế can gì tớ đã thôi
Đời đương có tớ, tớ còn chơi
Người ta chơi đã già đời cả
Như tớ năm nay mới nửa đời.
Với ông cuộc đời này là để ông chơi, chơi để mang đến niềm vui, mang
đến tiếng cười sảng khoái cho riêng mình, chơi để mà hưởng lạc, chơi cho đến khi
nào cuôc đời này chán ông thì thôi, nhưng qua câu thơ ông viết ta cảm nhận được
rằng đó như một lời khẳng định vĩnh cữu về cuộc chơi của ông, đời làm sao mà

chán ông được, cuộc đời không bao giờ mất, chỉ sợ ông đi trước cuộc đời mà
thôi:” Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi”. Đối với ông người ta chơi cả cuộc đời, còn
ông thì mới nửa đời mà thôi, thì làm sao không chơi được, ông chơi cho sướng
cuộc đời, nhưng ông chơi bằng chính tài năng của mình, bằng những bài thơ văn
ông viết:
Nửa đời chín độ tớ đương chơi
Chơi muốn sao cho thật sướng đời
Đời người ai có chơi như tớ
[Type text]

Page 19


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Chơi cứ bằng văn mãi chửa thôi.
Hơn thế nữa ông dám nói đời vắng ông rất nhớ nên ông quay lại với đời
để chơi:” Vắng tớ bấy lâu đời nhớ tớ. Nhớ đời nên tớ vội ra chơi.” Cuộc đời là
người bạn để ông chơi, một người bạn tâm giao tri kỉ mà không ai có thể thay thế
được, ông cho rằng chỉ cuộc đời mới có thể làm ban, mới có thể cùng chơi với ông
được, trong bài thơ cụm từ tớ còn chơi được lặp đi lặp lại nhiều lần khẳng định sự
vui chơi, hưởng lạc bất tận của nhà thơ. Chúng ta còn có thể thấy sự vui chơi,
hưởng lạc của ông qua một số bài thơ như “chơi trại Hàng Hoa”, ông đi ngắm
cảnh đẹp, thả hồn theo những dòng hồi tưởng xa xưa, để giải buồn, để quên hết
những gì không vui, ở đây muôn vàn cây cỏ xanh tốt, có bách thú, có dòng người
tấp nập, thật đẹp và vui biết bao, là một điều lí tưởng để quên hết những cái không
vui:”Có dịp đi chơi buồn giải buồn…”. Hay trong bài thơ chơi chùa Hương Tích,
ông đã đi tìm những nơi vui vẻ giờ đây là yên tĩnh, để lắng đọng trong ông sự nhẹ
nhàng, thanh thoát, một chốn bình yên mà ở phàm trần không có được:” Chốn ấy
muôn chơi còn mỏi gối. Phàm trần chưa biết nhắn nhe nhe cho”.
Qua những bài thơ của ông ta có thể cảm nhận rằng dù trong cuộc sống

nghèo khổ nhưng ông đã cố thoát ra khỏi cái thực tại ấy để đến với những niềm
vui, hưởng lạc của mình nhưng ông cũng thật đặc biệt khi cái cách hưởng lạc của
ông cũng rất khác người, rất ngông, tìm đến niềm vui hưởng lạc trong những cuộc
say, trong văn chương, trong tài năng của mình để thỏa cái tôi hưởng lạc đó.
Chính vì vậy đã tạo ra một ấn tượng, một nét rất mới trong ông.
2.1.3.

Cái tôi đa tình

Trần Đình Hượu gọi đa tình là “một cái tật dễ thương” mà bất kì một người
tài tử nào cũng mắc phải, bởi có tài ắt sẽ có tật, Tản Đà cũng không nằm ngoài “cái
tật” ấy.
[Type text]

Page 20


Cái ngông trong thơ Tản Đà
“Đa tình” không có nghĩa là đam mê sắc đẹp, mà là dễ xúc động, nhiều tình
cảm. Nhưng cũng bởi dễ xúc động và nhiều tình cảm nên họ dễ bị cuốn theo sắc
đẹp và những số phận éo le của những con người tài sắc. Tình thường đi liền với
“dục”, tức là những ham muốn, những say mê và từ những ham muốn, say mê ấy
thường dẫn dắt, che lấp làm thui chột cái “tính”, cái “tâm”đạo lí trời cho có sẵn
trong mỗi con người. “Tình” làm con người ta đi trệch ta khỏi những lẽ thường,
trệch ra khỏi khuôn khổ của lễ giáo.Cũng chính vì vậy mà Nho giáo không chấp
nhận và đồng tình.Các nhà Nho thường tỏ ra nghi ngại trước tình yêu, đặt ra nhiều
lễ tiết, lo nghĩ, phòng phạm cẩn thận nhất. Và sắc đẹp, đối với họ là thứ của “làm
mất nước tan nhà” hay như câu “hồng nhan họa thủy” là vậy.
Nhưng Tản Đà là nhà nho tài tử, tự coi mình là người có tài và đa tình. Khi
nhìn vào ảnh mình, ông đã tự trào một cách hết sức duyên dáng:

Người đâu cũng giống đa tình,
Tưởng là ai, lại là mình với ta.
Cái tình của ông là thứ tình yêu đặc biệt, đậm đà, lai láng, không bờ không
bến, có sức lan tràn, cần phải san sẻ. Đến nỗi, hết gửi thư tình cho người tình nhân
có quen biết đến đưa thư cho người tình nhân không quen biết (Khối tình con,
quyển 2, trang 56, 57):
Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết bức thư này gửi đến ai
Non nước xa khơi, tình bỡ ngỡ
Ai tri âm đó, nhận mà coi…

[Type text]

Page 21


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Rồi đến: “thư tình trách người tình nhân không quen biết” (Tản Đà vận văn,
tập 1, trang 91)
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết bức thư này gửi trách ai
Non nước bấy lâu lòng tưởng nhớ
Mà ai tri kỉ vắng tăm hơi
Hay:
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi
Viết bức thư này gửi trách ai
Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ
Để ai luống những nhớ ai hoài
(Trách người bạn tình vu vơ, Tản Đà vận văn, tập 1, trang 93)
Tản Đà là người đa tình nhưng lại không có may mắn gặp được giai nhân.

Những thứ không thể thỏa mãn được trong thực tế lại khúc xạ vào trong văn
chương thành những giấc mộng yêu đương, thành những khối tình tha thiết. Khao
khát yêu đương, muốn có một bạn tình để chia sẻ trong ông nhiều khi nó gần như
trở thành một căn bệnh, làm ông âu sầu đau đớn, thế nhưng nỗi đau ấy được ông
thể hiện hết sức kín đáo và không ầm ĩ, một cách thể hiện đậm chất phương Đông:
Quái lạ vì sao cứ nhớ nhau?
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn phương mây nước người muôn ngả
[Type text]

Page 22


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Hai chữ tương tư một gánh sầu”
Không thể gặp được người giai nhân trong cuộc đời thực, ông tìm tới những
giai nhân đã thành thiên cổ như: Ngu Cơ, Dương Quý Phi, Tây Thi, Hằng Nga,…
Trong “giấc mộng con”, Nguyễn Khắc Hiếu yêu Chu Kiều Oanh như một người
đàn bà đẹp, có tài, có đức; thổ lộ với Chu Kiều Oanh những tâm sự của mình như
với một người tri kỉ, bình đẳng hoàn toàn với mình. Nàng Vân Anh trong “Thề non
nước” chỉ mới là “tương đắc” với Tản Đà, Chu Kiều Oanh mới là người yêu lí
tưởng. Đó là nét mới trong quan niệm về người yêu.Người đàn bà lí tưởng đối với
Tản Đà không phải chỉ là mĩ nhân mà còn phải là giai nhân.“Mỹ nhân khác giai
nhân ở đức.Người đàn bà đẹp thì các chỗ phồn hoa, nơi phú quý có lấy gì làm
thiếu”.Nhưng tiêu chuẩn về đức của ông cũng rộng rãi, không khắt khe như tiết,
nghĩa hay công, dung, ngôn, hạnh trước đây, nên cả Ngu Cơ, Trác Văn Quân cũng
trúng tuyển.
Lại nói tới Tản Đà và Chu Kiều Oanh, tình cảm của họ chỉ dừng lại ở mức
trên tình tri kỉ một chút, giống như yêu nhưng lại giống như bạn.Chỉ dừng lại ở
mức chia sẻ, cảm mến, dừng lại ở chỗ “tương kính, tương thân”. Tản Đà hay nói về

tình yêu, đem bản thân ra làm nhân vật si tình, bộc lộ những khát khao, say mê của
tình yêu. Lòng yêu của ông lại càng thổn thức hơn trong những ngày xuân tươi
thắm:
Trách cái tầm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư
Sương mù mặt đất người theo mộng
Nhạn lảng chân giời kẻ đợi thư
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy
[Type text]

Page 23


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa
Tương tư một mối hai người biết
Ai đọc thơ này đã biết chưa?
(Tản Đà vận văn, quyển 3, trang 26)
Cái đa tình của Tản Đà không chỉ dành cho những người tình của mình mà
còn dành cho những người phụ nữ chưa chồng hoặc có chồng mà không được ở
gần nhau:
Đêm thu gió lọt song đào
Chồng ai xa vắng, gió vào chi đây
(Khối tình con 1, trang 31)
Hay khuyên những người con gái khi còn trẻ thì nên đi lấy chồng, đừng để
đến khi má đào tàn phai:
Người ta có vợ có chồng
Em như con sáo trong lồng kêu mai
Má đào gìn giữ cho ai
Răng đen, đen quá cho hoài luống công

(Khối tình con 1, trang 33)
Thế nhưng khi tưởng tượng tới cảnh biệt li, thân gái dặm trường thì lại ngậm
ngùi, có ý ghen tuông:
Ai đi đường ấy cùng mình
[Type text]

Page 24


Cái ngông trong thơ Tản Đà
Mình đi để lại gánh tình ngổn ngang…
(Khối tình con 1, trang 36)
Bềnh bồng mặt nước chân mây
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa
Ấy ai bến đợi sông chờ,
Tình kia sao khép lững lờ với duyên?
(Khối tình con 2, trang 24)
Những tình cảm, sự đa tình của Tản Đà cuối cùng cũng chỉ là sự thương hoài
nhớ hão nên kết quả vẫn là sự thất vọng, đành một mình ôm nỗi nhớ thương:
Nước non vắng khách hữu tình
Non xanh nước biếc cho mình nhớ ai”
(Tản Đà vận văn, quyển 3, trang 65)
Trong tình yêu, Tản Đà vẫn thể hiện được một cái tôi rất ngông, rất khác
người.Ông không tìm lí tưởng tình yêu ở thực tại, ở cõi trần mà luôn có xu hướng
thoát lên tiên, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cuộc sống để khẳng định cái tôi
của mình. Ông từng lên trời xin cưới Hằng Nga để rồi bị trời mắng:
Cớ sao suồng sã dám đưa thơ?
Chốn Thiên cung ai kén rể bao giờ,
Chỉ những sự vẩn vơ mà giấy má!
(Trời mắng)

[Type text]

Page 25


×