Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Hoạt động của ngân hàng thương mại và biện pháp thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.09 KB, 51 trang )

Ngân hàng thương mại

MỤC LỤC

1


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với
sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại khi kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM
cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được.
Nhất là tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực
sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn)
của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một
nền kinh tế thị trường còn non yếu. Ngân hàng thực sự là ngành tiên phong trong quá
trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta
đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển,
tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Hệ thống ngân
hàng thương mại xứng đáng là công cụ hỗ trợ đắc lực cho nhà nước đẩy lùi lạm phát, ổn
định giá cả.
Có thể nhiều người biết NHTM có một vai trò quan trọng đến nền kinh tế đến như
vậy, tuy nhiên những định nghĩa cụ thể về nó, những nghiệp vụ, chức năng hay khả năng
phân biệt giữa các loại ngân hàng đang tồn tại ở Việt Nam vẫn còn là một điều khó khăn
và chưa rõ ràng. Để giải quyết những khó khăn ấy, nhóm nghiên cứu đã đã quyết định
chọn đề tài về vấn đề ngân hàng thương mại. Với kết cấu đề tài gồm bốn chương như sau:
Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại


Chương 2. Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Chương 3. Hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Chương 4. Một số vấn đề còn tồn tại và một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển
NHTM Việt Nam

2


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Lịch sử hình thành ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển
của kinh tế hàng hoá. Chúng ta có thể khái quát lịch sử hình thành và phát triển ngân
hàng thương mại qua các giai đoạn như sau:
− Thời kì sơ khai:
+ Từ 3500-1800 trước Công Nguyên, tiền đúc bằng kim loại đã xuất hiện trong lưu
thông. Trong khi đó chiến tranh giữa các bộ tộc xảy ra ngày càng phức tạp. Điều
đó làm nảy sinh nhu cầu về bảo vệ an toàn tiền bạc và đổi những đồng tiền bị
hao mòn. Nghề ngân hàng ra đời với những nghiệp vụ đơn giản như nhận bảo
quản tiền, đổi tiền đúc…
+ Từ 1800 TCN-thế kỉ IV sau CN, hoạt động của ngân hàng đã tiến triển thêm một
bước mới: do xuất hiện lượng tiền nhàn rỗi (trong cùng một thời gian có người
đến rút tiền nhưng cũng có người đến gửi tiền vào) nên ngân hàng có thêm hoạt
động cho vay; từ thế kỉ III TCN, chính quyền La Mã cho phép những người hành
nghề ngân hàng mở tiệm kinh doanh.
− Thời kì từ thế kỉ V-XVII:
+ Các ngân hàng biết sử dụng số hiệu tài khoản để ghi chép, theo dõi tiền gửi, tiền
cho vay…
+ Các nghiệp vụ thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng bắt đầu phát triển.

+ Đến cuối thế kỉ XVII, các nghiệp vụ của ngân hàng đã hoàn thiện, bao gồm:
nhận tiền gửi, cho vay, phát hành tiền giấy có thể chuyển đổi ra vàng, chiết khấu
thương phiếu, chuyển tiền, thanh toán bù trừ…
− Thời kì từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX:
+ Nhà nước bắt đầu can thiệp vào hoạt động ngân hàng.
+ Hệ thống ngân hàng được chia thành hai nhóm: ngân hàng phát hành được phép
phát hành tiền và ngân hàng trung gian không được phép phát hành tiền.
− Thời kì từ đầu thế kỉ XX đến nay:
+ Nhà nước nắm lấy các ngân hàng phát hành để điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ
mô.
+ Hệ thống ngân hàng được cấu thành bởi hai bộ phận: ngân hàng trung ương và
ngân hàng trung gian.
1.2 Khái niệm
Cho đến thời điểm hiện nay xuất hiện rất nhiều khái niệm về ngân hàng thương mại.
Tại Việt Nam, Luật Tổ chức tín dụng (2004) đã xác định “Ngân hàng là một loại hình tổ
chức tín dụng, hoạt động của ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”. Tại Mỹ, ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ,
3


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại
là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức kí thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Như vậy, có thể nói ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về
tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung

cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Ngân hàng thương mại là tổ
chức tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất.
Ngân hàng thương mại có các đặc điểm sau:
− Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính và tín
dụng.
− Hoạt động của ngân hàng thương mại được phân vào nhóm hoạt động kinh doanh có
mức độ rủi ro cao.
− Sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại phụ thuộc rất lớn vào sự tín nhiệm
của khách hàng.
Giữa các ngân hàng thương mại có tác động trực tiếp, ảnh hưởng dây chuyền với nhau.
1.3 Phân loại ngân hàng thương mại
– Căn cứ vào hình thức sở hữu có thể phân loại gồm:
+ NHTM quốc doanh: là các ngân hàng kinh doanh bằng vốn cấp phát cùa
ngân hàng nhà nước.VD: Tại Việt Nam: Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng công thương Việt Nam
(Incombank), Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)…
+ NHTM cổ phần: là những ngân hàng hoạt động như công ty cổ phần, nguồn
vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp.VD tại Việt Nam: Ngân hàng Á châu
(ACB), Ngân hàng Đông Á (DongABank), Ngân hàng kĩ thương Việt Nam
(Techcombank)…
+ NHTM liên doanh: có vồn được góp bởi một bên là ngân hàng trong nước
và bên còn lại là ngân hàng nước ngoài.VD tại Việt Nam: Indovina bank,
Vinasiam, Shinhanvina…
+ NHTM 100% vốn nước ngoài, chi nhánh NHTM nước ngoài.VD tại Việt
Nam: Ngân hàng ANZ (Australia và New Zealand), ABN Armo Bank (Hà
Lan)…
– Căn cứ vào chiến lược kinh doanh:
+ Ngân hàng bán buôn: là ngân hàng tập trung cung cấp một vài sản phẩm
cho khách hàng, tuy số lượng sản phẩm không lớn nhưng giá trị của từng
sản phẩm là rất lớn. Khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các công ty, xí

nghiệp có quy mô lớn. các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty.

4


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

+ Ngân hàng bán lẻ: ngân hàng loại này chú trọng đến việc đa dạng hóa sản
phẩm. Số lượng sản phẩm rất nhiều, rất lớn để đáp ứng nhu cầu của nhiều
khách hàng. Tuy giá trị của từng sản phẩm không lớn nhưng bù lại là một
lượng khách hàng rất lớn. Hoạt động của ngân hàng này chủ yếu là huy
động vốn từ mọi thành phần kinh tế, và cho vay để giải quyết vần đề tiêu
dùng hoặc các dự án sản xuất với quy mô nhỏ và vừa.
+ Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ: là dạng ngân hàng bao gồm các hai
hoạt động nêu trên. Ngân hàng nhắm vào tất cả các dạng khách hàng từ
nhỏ đến lớn.
– Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động:
+ Ngân hàng chuyên doanh: chỉ hoạt động kinh doanh chuyên môn hóa
trong một lĩnh vực nào đó.
+ Ngân hàng đa năng, kinh doanh tổng hợp: là ngân hàng hoạt động ở nọi
lĩnh vực kinh tế và thực hiện bất kì nghiệp vụ nào được phép của ngân
hàng thương mại.
1.4 Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại
1.4.1 Cơ cấu tổ chức:
– Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của ngân hàng.
– Hội đồng quản trị: là cơ quan quản trị ngân hàng, có toàn quyền nhân danh ngân
hàng để quyết định, thực hiện mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền và nghĩa
vụ của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông (đối
với Ngân hàng thương mại cổ phần) hoặc chủ sở hữu (đối với Ngân hàng thương
mại nhà nước, Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài được tổ chức dưới

hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) hoặc thành viên góp vốn
(đối với Ngân hàng thương mại liên doanh, Ngân hàng thương mại 100% vốn
nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên).

5


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

Hình: Cơ cấu tổ chức ngân hàng thương mại
– Ban kiểm soát: do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, là cơ quan giám sát hoạt động
ngân hàng nhằm đánh giá chính xác hoạt dộng kinh doanh, thực trạng tài chính
của ngân hàng, việc chấp hành chế độ hạch toán, kế toán, hoạt động của hệ thống
kiểm tra và kiểm toán nội bộ của ngân hàng.
– Tổng giám đốc: là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của ngân
hàng, chịu sự giám sát của hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, chịu trách nhiệm
trước Hội Đồng Quản Trị và trước pháp luật về thực hiện quyền và nhiệm vụ hợp
với quy định.
– Phòng nghiệp vụ: là bộ phận chuyên trách thực hiện các hoạt động tác nghiệp kinh
doanh cụ thể của Ngân hàng thương mại, là các bộ phận trực tiếp giao dịch với
khách hàng.
1.4.2 Mạng lưới hoạt động:
– Hội sở: là cơ quan quản lí và chỉ đạo hoạt động của toàn hệ thống, đồng thời trực
tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng.
– Sở giao dịch: là đơn vị phụ thuộc trụ sở chính của ngân hàng thương mại, hạch
toán phụ thuộc, có con dấu, thực hiện hoạt động kinh doanh theo ủy quyền của
Ngân hàng thương mại.
– Chi nhánh: là đơn vị phụ thuộc ngân hàng thương mại, có con dấu, thực hiện hoạt
động kinh doanh theo ủy quyền của ngân hàng thương mại.

– Văn phòng đại diện: là đơn vị phụ thuộc Ngân hàng thương mại, có con dấu, thực
hiện chức năng đại diện theo ủy quyền của ngân hàng thương mại. Văn phòng đại
diện không được thực hiện hoạt động kinh doanh.
– Đơn vị sự nghiệp: là đơn vị phụ thuộc ngân hàng thương mại, có con dấu, thực
hiện một hoặc một số hoạt động kinh doanh theo ủy quyền của Ngân hàng thương
mại ( hoạt động trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, quản lý, khai thác, bán tài sản).
6


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

– Phòng giao dịch: là bộ phận phụ thuộc sở giao dịch hoặc chi nhánh của Ngân hàng
thương mại, hạch toán báo sổ, có con dấu, thực hiện một số giao dịch với khách
hàng theo ủy nhiệm của đơn vị trực tiếp quản lý.
1.5 Chức năng của ngân hàng thương mại
1.5.1 Chức năng trung gian tín dụng:
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người
có nhu cầu về vốn. Ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai
trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là các khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và
lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay.
1.5.2 Chức năng trung gian thanh toán:
Ở đây Ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các Ngân hàng
thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy
nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu,
khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ

thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải
thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện
các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời
gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông
hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển
kinh tế.
1.5.3 Chức năng tạo tiền:
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân Ngân hàng
thương mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại
và phát triển của mình, các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính
đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức
năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng thương mại là
chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng,
ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách
hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử
dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống Ngân hàng
thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu
thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng mà hoạt
động chủ yếu của nó là kinh doanh tiền tệ.
Ví dụ: Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là
10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người
vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu
7


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khoản. Và số tiền đó đến tay người được
chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một

lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000.
Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được
chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng
C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi
mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là
10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do
cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.
Tên các ngân hàng

Tiền gửi mới

Thanh toán cho Dự trữ
vay mới
buộc

A

1.000.000

900.000

100.000

B

900.000

810.000

90.000


C

810.000

729.000

81.000









Tiền toàn hệ thống ngân hàng

10.000.000

9.000.000

1.000.000

bắt

1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại
1.6.1 Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ:
Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ

cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc
trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ
sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng
làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Các sản phẩm dịch vụ
mới đã có ảnh hưởng tốt đến ngành công nghiệp này thông qua việc tạo ra những nguồn
thu mới cho ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch vụ không phải lãi, một bộ phận có xu
hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
1.6.2 Sự gia tăng cạnh tranh:
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt khi
ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng
địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài
chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí,
dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải
đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân
hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm
như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch
vụ cho tương lai.

8


Chương 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại

1.6.3 Sự gia tăng chi phí vốn:
Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực
tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ,
ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi.
Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một
nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt
giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời

bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn
mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng
được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo
bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn
và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho
ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).
1.6.4 Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất:
Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả
năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho
các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây
được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không
sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài
khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra
rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất
hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh
trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý thích thay
đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
1.6.5 Cách mạng trong công nghệ ngân hàng:
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và
đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống
dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và
cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, cho phép
khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được
lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán
hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch
một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.

9



Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại

Chương 2. NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1 Nghiệp vụ tài sản Nợ - Huy động vốn
Là nghiệp vụ huy động, tạo nguồn vốn kinh doanh cho NHTM. Hoạt động huy động vốn
được phản ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn của NHTM, bao gồm:
− Vốn của ngân hàng
− Vốn tiền gửi
− Vốn đi vay
− Các nguồn vốn khác
2.1.1 Vốn của ngân hàng: là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, bao gồm : vốn tự
có và vốn coi như tự có.
a. Vốn tự có gồm:
− Vốn điều lệ: là khoản vốn mà ngân hàng phải có để đi vào hoạt động và được ghi
trong bản điều lệ, được hình thành từ khi NHTM mới thành lập. Mức vốn này không
được nhỏ hơn vốn pháp định ( là số vốn tối thiểu theo luật định mà NH phải có để đi vào
hoạt động). Tùy theo loại hình mà nó được hình thành từ những nguồn khác nhau:
+
NHTM quốc doanh: do nhà nước cấp
+
NHTM cổ phần: là vốn góp của cổ đông
+
NH liên doanh: do các đối tác góp vốn
− Các quỹ và lợi nhuận chưa phân phối ( Quỹ dự trữ) bao gồm: quỹ dự trữ để bổ sung
vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận
ròng hàng năm theo những tỷ lệ quy định.
b. Vốn coi như tự có: bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Là
những khoản vốn đã được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng tạm thời
chưa được sử dụng như: lợi nhuận chờ phân bổ, tiền lương chưa đến hạn thanh toán, quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định…

Theo hiệp định Basel (chỉ áp dụng cho các nước tham gia ký kết) do ủy ban Basel về
giám sát hoạt động ngân hàng ( thuộc Ngân hàng thanh toán quốc tế - BIS) ban hành, vốn
của NH được chia thành 2 loại:
a. Vốn cấp 1 (vốn tự có cơ bản): gồm cổ phần thường, cổ phần ưu đãi dài hạn, thặng dư
vốn, lợi nhuận không chia, dự phòng chung các khoản dự trữ vốn khác…
b. Vốn cấp 2 (vốn tự có bổ sung): gồm cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu bổ
sung và giấy nợ. Vốn cấp 2 chỉ có thể đạt mức cao nhất là 50% so với tổng số vốn chủ sở
hữu của 1 ngân hàng. Các phương tiện tài chính trong vốn tự có bổ sung phải loại bỏ dần
khỏi vốn tự có của NH khi đến ngày đáo hạn.
2.1.2 Vốn tiền gửi: là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của
các NHTM, bao gồm:
a. Tiền gửi không kì hạn: được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai.

10


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại

Là loại tiền gửi mà người gửi có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào. Do tính chất đó nên
dạng tiền gửi này chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được NH trả lãi. Mục đích
của người gửi là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các hoạt động thanh toán
qua NH chứ không phải là để hưởng lãi. Vì vậy loại tiền gửi này còn gọi tiền gửi thanh
toán.
Hầu hết các tài khoản vãng lai đều ở dạng tài khoản có khả năng phát séc, tức là NH
cho phép người chủ tài khoản được phép phát hành séc để thanh toán. Chúng thường tồn
tại dưới các dạng sau:
− Tài khoản séc: là dạng tài khoản tiền gửi có khả năng phát séc phổ biến nhất, được trả
lãi rất thấp. Có 2 loại tài khoản séc là tài khoản séc của doanh nghiệp và tài khoản séc cá
nhân
− Tài khoản NOW: về bản chất đây là 1 dạng tài khoản tiền gửi cho phép phát hành séc

nhưng được hưởng lãi cao hơn tài khoản séc thông thường. Tài khoản này ra đời tại Mỹ
năm 1972. Những người gửi tiền vào tài khoản này với mong muốn vừa hưởng lãi cao,
vừa có thể thanh toán khi cần, tuy vậy các lệnh thanh toán này không thuận lợi như séc.
− Tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ: tiền gửi loại này dùng để đầu tư vào thị trường
tiền tệ và cho phép những người chủ tài khoản ( các cổ đông) được phép kí phát séc. Tiền
gửi loại này không phải dự trữ bắt buộc.
− Tài khoản ATS: loại tài khoản này cho phép chủ tài khoản được phép phát séc nhưng
có thêm 1 đặc tính đặc biệt là khi số dư trên tài khoản vượt quá một mức nhất định thì
phần tiền vượt quá sẽ tự động chuyển sang một tài khoản tiết kiệm được hưởng lãi cao
hơn. Ngược lại khi số dư trên tài khoản ATS xuống thấp hơn mức tối thiểu thì tiền trong
tài khoản tiết kiệm sẽ được chuyển ngược trở lại tài khoản ATS để phục hồi số dư tối
thiểu.
− Tiền gửi không kì hạn là một nguồn vốn quan trọng của NH. Tuy nhiên do người gửi
tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào nên nguồn vốn này thường xuyên biến động, vì vậy NH
chủ yếu dùng nó để cho vay ngắn hạn.
b. Tiền gửi có kì hạn: là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất
định từ một vài tháng đến vài năm.
Mức lãi suất của tiền gửi có kì hạn thường cao hơn tiền gửi không kì hạn nhưng những
người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng ( ví dụ như
không được kí phát séc).
Mục đích chủ yếu của người gửi có kì hạn là để lấy lãi.
Theo nguyên tắc tiền gửi có kì hạn không được phép rút trước hạn, song để cạnh tranh thì
các ngân hàng vẫn cho rút nhưng sẽ phải chịu một khoản phạt, chẳng hạn như không
được hưởng lãi suất hoặc lãi suất chỉ bằng lãi suất của tiền gửi không kì hạn.
Ở Việt Nam, tiền gửi có kì hạn tồn tại dưới 2 dạng:
i. Tiền gửi có kì hạn theo tài khoản
11


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại


ii. Tiền gửi có kì hạn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng.
Kỳ phiếu được phát hành theo 2 phương thức:
i. Phát hành theo mệnh giá: người mua trả tiền mua kỳ phiếu theo mệnh giá ghi trên
kỳ phiếu. Khi đến hạn ngân hàng sẽ hoàn trả vốn gốc và thanh toán lãi cho người
mua kỳ phiếu.
ii. Phát hành dưới hình thức chiết khấu: người mua sẽ trả số tiền mua kỳ phiếu bằng
mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng. Khi đến hạn ngân hàng sẽ hoàn trả
cho khách hàng theo mệnh giá của kỳ phiếu. Như vậy trong trường hợp này khách
hàng được trả lãi trước.
c. Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích hưởng lãi theo định kì. Các kì hạn thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên 1
năm ( 18, 24 tháng…). Hình thức phổ biến và cổ điển nhất của loại tiền gửi này là tiết
kiệm có sổ. Khi gửi tiền, ngân hàng cấp cho người gửi 1 quyển sổ dùng để ghi nhận các
khoản tiền gửi vào và rút ra. Ngân hàng không cung cấp các dịch vụ trung gian thanh
toán cho khách hàng gửi tiết kiệm. Ngoài ra còn có những hình thức khác như chứng chỉ
tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm.
Ở Việt Nam bao gồm 3 hình thức gửi tiết kiệm phổ biến sau:
i. Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm mà ngưởi gửi tiền có
thể gửi vào và rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho ngân hàng.
Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi này nhưng rất thấp. Loại tiền gửi này gần giống
với tiền gửi không kì hạn, chỉ khác là nó luôn dược hưởng lãi, nhưng đổi lại không
được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Người gửi tiền dạng này nhằm
đảm bảo an toàn cho khoản tiền và dự phòng cho các nhu cầu chi tiêu trong thời
gian ngắn, đồng thời lại muốn hưởng 1 chút lãi dù thấp.
ii. Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: là loại tiền tiết kiệm có thời hạn gửi cố định trước.
Loại tiền gửi này tương tự như tiền gửi có kì hạn ở chỗ không được rút trước hạn
(nếu rút trước sẽ phải chịu phạt), được hưởng lãi cao hơn các dạng gửi không kì hạn
và không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền gửi này,
người gửi chỉ được gửi tiền vào 1 lần và rút ra cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Mức tối

thiểu của mỗi lần gửi do ngân hàng quy định.
iii. Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục
đích xây dựng nhà ở. Những người gửi tiền ngoài hưởng lãi còn được ngân hàng
cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng nhà ở. Mức cho vay tối
thiểu tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm.
Như vậy tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch, có cùng
tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được phát séc.
Lý do phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào 2 dạng tiền gửi không kì
hạn và tiền gửi có kì hạn mặc dù tính chất của chúng giống nhau là vì đây là tiền gửi tiết

12


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại

kiệm của tầng lớp dân cư, là tài sản tích lũy của quốc gia, được xem là nguồn vốn nội lực
của đất nước, cho nên cần có chính sách ưu tiên bảo vệ.
Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn, là nguồn
vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để
cho vay. Chính vì vậy, người ta gọi NHTM là ngân hàng tiền gửi.
2.1.3 Vốn đi vay
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng còn có thể vay vốn từ NHTW hay các tổ chức
tín dụng khác, hoặc từ thị trường tài chính trong và ngoài nước.
a. Vay từ NHTW: bất kì NHTM nào khi được NHTW cho phép thành lập đều hưởng
quyền vay tiền tại NHTW khi thiếu hụt qua 2 hình thức:
- Chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá
- Cho vay thế chấp hay ứng trước
b. Vay ngắn hạn các khoản dự trữ từ các tổ chức tín dụng khác:
Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo quy định của
NHTW. Trong quá trình hoạt động, 1 số NHTM cho vay nhiều dẫn đến thiếu hụt dự trữ

bắt buộc, trong khi đó lại có 1 vài ngân hàng khác thừa. Để đảm bảo theo đúng quy định
thì các NH thiếu sẽ vay của các NH thừa. Thời hạn vay ngắn, không quá 1 tuần.
c. Vay từ các công ty: ở các nước phát triển, NHTM có thể vay trực tiếp từ các công ty
bằng các hình thức:
- Vay ngắn hạn bằng các Hợp đồng mua lại: Hợp đồng mua lại là hợp đồng trong đó NH
bán các tín phiếu kho bạc mà mình đang nắm giữ cho các tổ chức kinh tế đang tạm thời
thừa tiền mặt, có kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau 1 vài ngày hay 1 vài
tuần với mức giá cao hơn.
- Vay từ công ty mẹ: khi NHTM phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền từ thị
trường, nó sẽ chịu sự quản lý và ràng buộc của NHTW về dự trữ, lãi suất và thủ tục.
Trong khi đó nếu công ty mẹ thực hiện điều này, nó không bị ràng buộc bởi NHTW.
d. Vay từ thị trường tài chính trong nước: các NHTM có thể vay từ thị trường tài chính
thông qua phát hành các chứng từ có giá như:
- Chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng: là các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá
lớn, có thể mua đi bán lại trên thị trường khi chưa đáo hạn. Thời gian đáo hạn của loại
chứng chỉ này không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành.
- Trái phiếu ngân hàng: là công cụ vay nợ dài hạn của NH từ thị trường chứng khoán.
Thời hạn vay từ 2 năm trở lên. Có thể mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán khi
chưa đáo hạn.
e. Vay nước ngoài: các NHTM có thể vay vốn từ nước ngoài, loại tiền phổ biến là USD,
Euro…
2.1.4 Các nguồn vốn khác
− Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác đầu tư để cho vay theo các chương
trình, dự án xây dựng…

13


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại


− Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ví dụ như trong nghiệp vụ
qua lại đồng nghiệp, trong nghiệp vụ trung gian của ngân hàng…
2.2 Nghiệp vụ tài sản có – sử dụng vốn
2.2.1 Nghiệp vụ ngân quỹ: với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên,
NH luôn giữ 1 lượng tiền mặt dưới các dạng sau:
− Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng: tùy theo quy mô hoạt động, tính thời vụ ( ví dụ
như lễ tết khách hàng sẽ có nhu cầu rút tiền nhiều), các ngân hàng phải duy trì mức tồn
quỹ tiền mặt để thực hiện chi trả trong ngày.
− Tiền gửi tại các NHTM khác: để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền
cho khách hàng
− Tiền gửi tại NHTW: bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán để
phục vụ các hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng thông qua vai trò trung gian thanh
toán của NHTW
− Tiền mặt trong quá trình thu: là khoản phát sinh do quan hệ thanh toán vãng lai
giữa các ngân hàng, khi ngân hàng đã ghi bên nợ nhưng thực chất lại chưa nhận được
tiền.
Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có tính lỏng cao để có
thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần như tín phiếu, thương phiếu… Lượng tiền
mặt trong nghiệp vụ ngân quỹ này chỉ chiếm 1 tỷ trọng nhỏ và tỷ trọng nhỏ này đang bị
giảm.
2.2.2 Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng trung gian
nói chung và các NHTM nói riêng. Một số loại hình chủ yếu:
a. Cho vay ứng trước: là hình thức cho vay trong đó NH cung cấp cho người đi vay 1
khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi lúc hoàn trả vốn
gốc.
Cho vay ứng trước có 2 loại:
i. Cho vay ứng trước có đảm bảo :
+
Bảo đảm bằng các động sản như hàng hóa, tài sản hay chứng từ (cho vay cầm
cố): là cho vay trên cơ sở cầm cố tại NH các tài sản, hiện vật như vật tư hàng hóa,

giấy tờ như các giấy sở hữu hàng hóa, chứng từ thanh toán, vàng, bạc, đá quý…số
tiền cho vay bằng một tỷ lệ phần trăm của giá trị tài sản cầm cố.
+
Bảo đảm bằng bất động sản như đất đai, nhà cửa: là cho vay trên cơ sở nắm
giữ các giấy tờ chứng thực quyền sở hữu hợp pháp về bất động sản đem thế chấp.
cho vay thế chấp khác với cầm cố ở chỗ trong thời hạn vay, người đi vay vẫn được
phép sử dụng tài sản thế chấp, NH chỉ nắm giữ hồ sơ gốc
+
Bảo đảm bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba: bên bảo lãnh lập hồ sơ bảo lãnh tại
NH và cam kết hoàn trả nợ nếu bên đi vay không có khả năng thanh toán.

14


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại

ii.

Cho vay ứng trước không có đảm bảo: là cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách
hàng đối với NH mà không cần có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh. Do
vậy còn gọi là cho vay tín chấp. NH quyết định cho vay thông qua việc đánh giá
các chỉ tiêu như mức vốn tự có, lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp, phẩm chất
của người quản lý công ty…
b. Cho vay theo mức tín dụng: là hình thức cho vay trong đó NH và khách hàng thỏa
thuận trước số tiền tối đa ( gọi là mức tín dụng) mà khách hàng được vay từ NH trong 1
khoảng thời gian nhất định. Khách hàng có thể vay nhiều lần trong khoảng thời gian thỏa
thuận mà không phải làm đơn xin vay với điều kiện tổng số tiền của các lần vay không
vượt quá hạn mức tín dụng.
c. Cho vay thấu chi: là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó NH cho pháp
khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai trong 1 hạn mức và thời hạn

nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa NH với khách hàng. Dành cho khách hàng
có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.
d. Cho vay chiết khấu: là cho vay dưới hình thức NHTM mua lại các thương phiếu chưa
đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu. Khi đến hạn trả tiền, NH
sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của
NH chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.
e. Tín dụng ủy thác thu hay bao thanh toán: là nghiệp vụ trong đó công ty con của NH
cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất
khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn
hạn (30 đến 120 ngày).
f. Cho vay thuê mua: còn gọi là tín dụng thuê mua, là hình thức tín dụng trung, dài hạn
được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và
bất động sản khác. NH sẽ dùng vốn của mình để mua tài sản theo yêu cầu của người thuê
và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh
toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được 2 bên thỏa thuận và không được hủy bỏ
hợp đồng trước hạn. Khi hết hạn bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp
tục thuê tài sản đó tùy theo các điều kiện đã thỏa thuận.
g. Cho vay bằng chữ kí: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng không trực tiếp cho
khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín ( chữ kí) của mình, ngân hàng tạo điều kiện
để khách hàng sử dụng vốn vay của người khác và đảm bảo thanh toán hộ khách hàng.
Chính vì vậy, mặc dù là 1 hình thức tín dụng nhưng trong hạch toán, nó không làm thay
đổi bảng quyết toán tài sản của ngân hàng mà được hạch toán ngoại bảng.
Có 2 hình thức:
− Nghiệp vụ chấp nhận: hiện nay trong thương mại quốc tế, thương phiếu được sử dụng
rất phổ biến. Nghiệp vụ chấp nhận chia ra làm 2 loại:

15


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại


+
Chấp nhận trả tiền: là nghiệp vụ mà NHTM cho phép người bán
có quyền ký phát hối phiếu đòi tiền NH chấp nhận. Thông thường muốn được hưởng
loại chấp nhận này, người mua phải ký quỹ cho NH. Nghiệp vụ này được áp dụng phổ
biến torng phương thức thanh toán tín dụng chúng từ.
+ Bảo đảm trả tiền: là nghiệp vụ mà NHTM chỉ đảm bảo khả năng thanh toán của
người vay nợ, còn người có nghĩa vụ trả tiền ghi trong hối phiếu phải trực tiếp trả tiền
cho người hưởng lợi hối phiếu. Chỉ trừ khi người vay nợ không có khả năng thanh toán
thực sự thì NH chấp nhận mới đứng ra thanh toán cho người hưởng lợi.
− Nghiệp vụ bảo lãnh: là nghiệp vụ trong đó NH đứng ra cam kết bằng văn bản ( gọi là
thư bảo lãnh) rằng sẽ thực hiện 1 nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh nếu người này
không thực hiện được nghĩa vụ đó. Có nhiều hình thức bảo lãnh như bảo lãnh để tham gia
dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh thanh
toán, bảo lãnh chất lượng sản phẩm theo hợp đồng…
h. Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng tài trợ cho nhu cầu tiêu
dùng cá nhân. Tín dụng tiêu dùng thường dưới hình thức cho vay để mua trả góp ( tín
dụng trả góp) hoặc cho vay bằng phát hành thẻ tín dụng
Nghiệp vụ cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM. Nó thường
chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản Có của ngân hàng.
2.2.3 Nghiệp vụ đầu tư: là nghiệp vụ mà NHTM dùng vốn của mình mua các chứng
khoán hoặc đầu tư theo dự án.
2.2.4 Tài sản có khác: đó là những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc, trang
thiết bị dùng cho hoạt động do NH sở hữu.
2.3 Nghiệp vụ ngoại bảng (nghiệp vụ trung gian)
Ngân hàng ngoài những nghiệp vụ nội bảng (nghiệp vụ được phản ánh trên bảng cân
đối tài sản của ngân hàng), còn thực hiện những nghiệp vụ ngoại bảng được thực hiện
theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Tuy không liên quan trực tiếp đến nguồn vốn và sử
dụng nguồn vốn của ngân hàng, nghiệp vụ ngoại bảng lại có thể hỗ trợ cho nghiệp vụ nội
bảng.

Những nghiệp vụ ngoại bảng của ngân hàng thương mại như:
− Nghiệp vụ chuyển tiền - thanh toán hộ: là nghiệp vụ mà ngân hàng nhận sự ủy thác
của khách hàng, dùng phương tiện mà khách hàng yêu cầu để chuyển một số tiền nhất
định cho một người khác ở một địa điểm quy định trong hay ngoài nước. Về mặt kĩ thuật,
nghiệp vụ này được thực hiện thông qua các phương tiện lưu thông tín dụng như séc, thư
chuyển tiền, điện chuyển tiền…
− Nghiệp vụ thu hộ: là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại nhận sự ủy thác của khách
hàng để thu hộ các khoản tiền căn cứ vào các chứng từ của khách hàng giao như séc,

16


Chương 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại

thương phiếu, các chứng khoán… Khi tiến hành nghiệp vụ này, ngoài việc thu thủ tục phí
của khách hàng, ngân hàng cón có thể tranh thủ sử dụng tiền của khách hàng.
− Nghiệp vụ tín thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại nhận sự ủy thác của khách
hàng, đứng ra mua bán hộ các loại chứng khoán, kim loại quý, ngoại hối hoặc quản lí tài
sản, vốn đầu tư của của tổ chức hay cá nhân theo hợp đồng (ví dụ tài sản dăng tranh chấp,
tài sản thanh lí trong quá trình phá sản, tài sản của cô nhi, quả phụ…).
− Nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp: Là nghiệp vụ mà các ngân hàng thương mại thu chi
hộ lẫn nhau trên cơ sở ngân hàng này mở một tài sản vãng lai tại ngân hàng kia và việc
thanh toán giửa hai ngân hàng được tiến hành theo định kì sau khi đã thanh toán bù trừ
những khoản tiền mà hai bên đã thu chi hộ cho nhau trong thời gian của định kì đó.
Trong nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp, các ngân hàng không thu thủ tục phí. Khi tiến hành
thu chi hộ, nếu trên tài khoản vãng lai không còn tiền thì ngân hàng này sẽ cung cấp tín
dụng cho ngân hàng kia theo phương thức tín dụng cho vay vượt chi.
− Kinh doanh vàng bạc đá quý.
− Làm tư vấn tiền tệ, tài chính như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tài chính
tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư…


17


Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

Chương 3. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
3.1 Sơ lược về ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua gần 60 năm (6.5.1951-6.5.2011)
xây dựng và phát triển. Trước năm 1986, Việt Nam theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, mọi giao dịch tài chính chính thức đều do nhà nước thực hiện thông qua Ngân
hàng nhà nước. Bắt đầu từ năm 1986, hệ thống ngân hàng của Việt Nam bắt đầu có sự
đổi mới căn bản và toàn diện. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh thần của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng chính phủ) ký quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển hoạt
động ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN (đầu tiên tại TP.HCM từ
tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...). Sau khi tổng kết, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ban
hành Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng
VN, với sự ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên doanh. Chức năng kinh doanh ngân
hàng được tách khỏi Ngân hàng nhà nước để giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Hệ
thống ngân hàng hai cấp được hình thành, tạo nên các chuyển biến về tự do tài chính.
Đến năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được hoàn thiện thông qua việc công bố hai
Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp
lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Hai pháp lệnh này đã góp phần
củng cố hệ thống ngân hàng hai cấp, bắt đầu hình thành các công cụ quản lý và điều hành
tiền tệ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân hàng duy nhất được phát hành, là ngân
hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ,
tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao
gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên

doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Trước
yêu cầu của thực tiễn, tháng 12.1997, hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc hội nâng
lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998). Sau đó, Luật Ngân hàng
nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, 2004.
Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã chính thức đánh dấu sự ra đời và
phát triển khoảng trên 20 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ
không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu quả trong
kinh doanh. NHTM nhà nước sau nhiều lần bổ sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu
của 05 NHTM nhà nước lên trên 20.000 tỷ đồng năm 2006, tăng gấp 3 lần so với thời
điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTM cổ phần được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận
giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng
vốn điều lệ NHTM cổ phần đến cuối năm 2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam gồm:
− Ngân hàng thương mại Quốc doanh: Là ngân hàng thương mại được thành lập bằng
100% vốn ngân sách nhà nước. Thuộc loại này gồm:


Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

+ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Bank for Agriculture
and Rural Development)
+ Ngân hàng Công thương Việt Nam (Industrial and commercial Bank of viet nam –
ICBV) gọi tắt là VietIncombank
+ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (Bank for Investement and
Development of Viet nam – BIDV)
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Bank for Foreign Trade of Vietnam –
Vietcombank)
− Ngân hàng thương mại cổ phần (Joint Stock Commercial bank): là ngân hàng thương
mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Trong đó một cá nhân hay pháp nhân

chỉ được sở hữu một số cổ phần nhất định theo qui định của ngân hàng nhà nước Việt
Nam.
− Ngân hàng liên doanh (thuộc loại hình tổ chức tín dụng liên doanh): là Ngân hàng
được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại Việt nam và
bên khác là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ sở đặt tại Việt nam, hoạt động theo
pháp luật ở Việt Nam.
− Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp luật nước
ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
3.2 Hoạt động của một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vai trò của các ngân hàng thương mại là hết sức quan trọng bởi đó là
nhân tố giúp mạch máu của 1 nền kinh tế còn non nớt được thông suốt. Chúng ta sẽ tìm
hiểu về 4 ngân hàng thương mại tiêu biểu có ảnh hưởng mạnh với thị trường, đó là ACB,
Agribank, BIDV và Vietcombank để hiểu rõ hơn tình hình hoạt động các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam.
ACB (Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu)
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phép số
0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993, và Giấy phép số
533/GPUB do Ủy ban Nhân dân Tp. HCM cấp ngày 13/5/1993. Ngày 04/6/1993, ACB
chính thức đi vào hoạt động. Tính đến ngày 28/02/2010 tổng số nhân viên của Ngân
hàng Á Châu là 6.749 người. Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93%,
thường xuyên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo riêng của
ACB.
Các hoạt động chính của ACB bao gồm: huy động vốn ngắn, trung và dài hạn
theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, chứng chỉ tiền gửi; tiếp nhận
vốn ủy thác đầu tư; nhận vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước; cho vay
ngắn, trung và dài hạn; chiết khấu thương phiếu, công trái và giấy tờ có giá; đầu tư vào
chứng khoán và các tổ chức kinh tế; làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng; kinh
doanh ngoại tệ, vàng bạc; thanh toán quốc tế, bao thanh toán, môi giới và tư vấn đầu tư
chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bảo lãnh phát hành; cung cấp



Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài chính và các dịch vụ
ngân hàng khác.
Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất của ACB cho thấy, năm 2010, hai lĩnh vực
hoạt động thế mạnh của ngân hàng này là dịch vụ, kinh doanh ngoại hối và vàng đều có
sự giảm sút đáng chú ý. Ở hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng, trong quý 4/2010,
ACB ghi nhận khoản -128,9 tỷ đồng; lũy kế cả năm chỉ đạt 191,1 tỷ đồng, giảm mạnh
so với mức 422,33 tỷ đồng của năm 2009. Tuy nhiên, thu nhập lãi và các khoản thu
nhập tương tự của ACB trong năm 2010 lại tăng mạnh trong năm 2010, đạt 14.970,77
tỷ đồng so với 9.613,88 tỷ đồng năm 2009. Kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2010,
ACB đạt 3.105,6 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế; lợi nhuận sau thuế là 2.339,01 tỷ đồng,
tăng nhẹ 6,3% so với năm 2009 và từ ngày 31/12/2010 vốn điều lệ của ACB là 9.376,96
tỷ đồng.
ACB đang xây dựng tầm nhìn mới, chiến lược mới để hoàn thành kế hoạch 5 năm
2011-2015, phấn đấu đến 2020 trở thành tập đoàn tài chính đa năng hàng đầu Việt Nam
và ngân hàng quy mô quốc tế và khu vực. Để duy trì được tốc độ cao trong những năm
tới, ACB tiếp tục xây dựng và phát triển ngân hàng truyền thống, kênh phân phối đa
dạng trên nền tảng công nghệ cao phù hợp với nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của
khách hàng, bởi nhu cầu đối với sản phẩm ngân hàng truyền thống sẽ vẫn tăng rất cao
trong bối cảnh thị trường tài chính - ngân hàng còn sơ khai của Việt Nam.
Agribank (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam)
Agribank từ khi thành lập (26/3/1988) đến nay luôn khẳng định vai trò là Ngân
hàng thương mại lớn nhất, giữ vai trò chủ đạo, trụ cột đối với nền kinh tế đất nước, đặc
biệt đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện sứ mệnh quan trọng dẫn dắt
thị trường; đi đầu trong việc nghiêm túc chấp hành và thực thi các chính sách của Đảng,
Nhà nước, sự chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chính sách
tiền tệ, đầu tư vốn cho nền kinh tế.
Agribank là ngân hàng lớn nhất, dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam về

vốn, tài sản, nguồn nhân lực, màng lưới hoạt động, số lượng khách hàng. Đến
31/12/2009, Agribank có tổng tài sản 470.000 tỷ đồng; vốn tự có 22.176 tỷ đồng; tổng
nguồn vốn 434.331 tỷ đồng; tổng dư nợ 354.112 tỷ đồng; đội ngũ cán bộ nhân viên
35.135 người; 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch; quan hệ đại lý với 1.034 ngân hàng
tại 95 quốc gia và vùng lãnh thổ; được trên 13 triệu khách hàng tin tưởng lựa chọn…
Agribank cũng là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam tiếp nhận và triển khai các dự án
nước ngoài, đặc biệt là các dự án của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB), Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB)…
Agribank hiện là Chủ tịch Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn châu Á- Thái
Bình Dương (APRACA). Trong những năm gần đây, Agribank còn được biết đến với
hình ảnh của một ngân hàng hàng đầu cung cấp các sản phẩm dịch vụ tiện ích, hiện đại.
Bước vào giai đoạn mới hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng
phải đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh, thách thức sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) ngày 07/11/2006, cam kết mở cửa hoàn toàn thị trường tài
chính - ngân hàng vào năm 2011, Agribank xác định kiên trì mục tiêu và định hướng


Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

phát triển theo hướng Tập đoàn tài chính - ngân hàng mạnh, hiện đại có uy tín trong
nước, vươn tầm ảnh hưởng ra thị trường tài chính khu vực và thế giới.
Năm 2010 và những năm tiếp theo, Agribank xác định mục tiêu chung là tiếp tục
giữ vững, phát huy vai trò ngân hàng thương mại hàng đầu, trụ cột trong đầu tư vốn cho
nền kinh tế đất nước, chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính, tiền tệ ở nông thôn, kiên
trì bám trụ mục tiêu hoạt động cho “tam nông”. Tập trung toàn hệ thống và bằng mọi
giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước. Duy trì tăng trưởng tín
dụng ở mức hợp lý. Ưu tiên đầu tư cho “tam nông”, trước tiên là các hộ gia đình sản
xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm đáp ứng được
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tăng tỷ lệ dư
nợ cho lĩnh vực này đạt 70%/tổng dư nợ. Để tiếp tục giữ vững vị trí là ngân hàng hàng

đầu cung cấp sản phẩm dịch vụ tiện ích, hiện đại có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu
của đông đảo khách hàng, đồng thời tăng nguồn thu ngoài tín dụng, Agribank không
ngừng tập trung đổi mới, phát triển mạnh công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại
hóa. Năm 2010, Agribank phấn đấu đạt được các mục tiêu tăng trưởng cụ thể, đó là: so
với năm 2009, nguồn vốn tăng từ 22%-25%; tỷ lệ cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt
70%/tổng dư nợ; nợ xấu dưới 5%; tỷ lệ thu ngoài tín dụng tăng 20%; lợi nhuận tăng
10%; hệ số an toàn vốn (CAR) theo chuẩn quốc tế.
Để đạt được các mục tiêu trên, Agribank tập trung toàn hệ thống thực hiện đồng
bộ các giải pháp. Trước tiên, tiếp tục thực hiện nghiêm túc, kịp thời chủ trương của
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chính sách tiền tệ. Đẩy mạnh huy động
vốn từ nhiều nguồn. Tăng cường hợp tác, kết nối thanh toán với các tổ chức, doanh
nghiệp lớn. Tăng cường huy động vốn tại các đô thị, thành phố để bổ sung vốn cho
nông thôn, đảm bảo các yêu cầu vốn phục vụ “tam nông”. Thực hiện đầu tư có chọn lọc
và có trình tự ưu tiên, tập trung thu hồi nợ đến hạn và nợ xấu để quay vòng vốn đáp ứng
vốn cho ‘tam nông” và các chương trình trọng điểm của Chính phủ, đảm bảo tăng
trưởng tín dụng toàn hệ thống theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Tổ chức
đánh giá triển khai thực hiện chiến lược 10 năm (2001-2010), xây dựng chiến lược kinh
doanh giai đoạn 2011-2015, tầm nhìn đến 2020; xây dựng chiến lược phát triển thương
hiệu Agribank. Phát triển mạnh công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại hóa trên hệ
thống IPCAS II để phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ mới có chất lượng nhằm đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nâng cao thế cạnh tranh, trong đó chú trọng phát triển
các sản phẩm thanh toán như thanh toán biên giới, chi trả kiều hối, kinh doanh ngoại tệ,
đầu tư giấy tờ có giá. Không ngừng hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ theo mô hình
quản lý mới phù hợp với thông lệ quốc tế của ngân hàng hiện đại. Đặc biệt, chú trọng
xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực mạnh về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu
phát triển của Agribank trong giai đoạn mới, đưa thương hiệu, văn hóa Agribank không
ngừng lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng trong nước và vươn xa hơn trên thị trường khu vực
và quốc tế, với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững của ngân hàng,
khách hàng, đối tác và cộng đồng.



Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

BIDV (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam)
Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV) thành lập ngày 26/4/1957 với
tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, đến ngày 24/6/1981 chuyển thành Ngân hàng
Đầu tư và Xây dựng Việt Nam và ngày 14/11/1990 chuyển thành Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam.
Các hoạt động của BIDV gồm có 4 dịch vụ chính là: ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khoán và đầu tư tài chính. Ngân hàng cung cấp đầy đủ, trọn gói các dịch vụ ngân hàng
truyền thống và hiện đại và bảo hiểm, tái bảo hiểm tất cả các loại hình nghiệp vụ bảo
hiểm phi nhân thọ. Chứng khoán gồm có môi giới chứng khoán, lưu ký chứng khoán, tư
vấn đầu tư (doanh nghiệp, cá nhân), bảo lãnh, phát hành. Còn hoạt động đầu tư tài
chính của BIDV là bán chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu…), góp vốn thành lập doanh
nghiệp để đầu tư các dự án
BIDV đã chủ động xây dựng Đề án cổ phần hóa BIDV, trình và được Chính phủ
chấp thuận. Nỗ lực nâng cao năng lực tài chính bằng việc phát hành 3.200 tỷ đồng trái
phiếu tăng vốn cấp 2, minh bạch hóa hoạt động kinh doanh với việc thực hiện và công
bố kết quả kiểm toán quốc tế, thực hiện định hạng tín nhiệm và đạt mức trần quốc gia
do Moody’s đánh giá.
Kế hoạch hoạt động của BIDV năm 2011 được đặt ra như sau: Huy động vốn
năm 2011 phấn đấu tăng trưởng 23% (huy động thêm khoảng 61.500 tỷ đồng), trong đó
tăng trưởng huy động vốn VND là 25%, ngoại tệ là 8%, tăng trưởng tín dụng đặt ra
năm 2011 của BIDV không quá 19% (doanh số cho vay phát sinh trong kỳ khoảng
540.000 tỷ đồng). Ngân hàng sẽ tập trung ưu tiên vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh
doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các dự án trọng điểm nhà nước, các dự án của các Doanh nghiệp tạo lập cân đối
vĩ mô với tỷ trọng từ 85%-87%/Tổng dư nợ. Bên cạnh đó, sẽ kiểm soát và giảm tối đa
tăng trưởng tín dụng cho khu vực phi sản xuất (khống chế mức tăng trưởng cho vay bất
động sản dưới 9%/tổng dư nợ (kể cả các công trình hạ tầng); tỷ trọng cho vay chứng

khoán dưới 0,5% tổng dư nợ, dành doanh số cho vay từ 50.000-55.000 tỷ đồng cho các
Doanh nghiệp thu mua xuất khẩu (gấp 2 lần so với năm 2010, nâng tỷ trọng cho vay
doanh nghiệp thu mua hàng xuất khẩu chiếm 5%/Tổng dư nợ) và doanh số cho vay
khoảng 165.000 - 170.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (gấp 1,5 lần so với
năm 2010), nâng tổng tỷ trọng cho DNV&N lên 20%/Tổng dư nợ, kiểm soát cho vay
ngoại tệ không vượt quá 20%/Tổng dư nợ trên nguyên tắc chỉ phục vụ cho các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thiết yếu của nền kinh tế và doanh nghiệp vay có nguồn thu
ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc đẩy mạnh công tác Cổ phần hóa trong
năm 2011 để tăng vốn điều lệ tối thiểu từ 4.000-5.000 tỷ đồng, đưa vốn chủ sở hữu lên
29.000-30.000 tỷ đồng và vốn điều lệ lên 18.000-19.000 tỷ đồng (vốn điều lệ hiện tại
của BIDV là 14.374 tỷ đồng - Nguồn: NHNN) được xem là trọng điểm, và cuối cùng là
tiếp tục làm việc với các cơ quan Nhà nước để tổ chức phát hành 500 triệu USD trái
phiếu quốc tế của BIDV nhằm tăng vốn cấp 2 khi điều kiện thị trường cho phép.


Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

Vietcombank (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam)
Ngày 01 tháng 04 năm 1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức
được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30
tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng
Trung ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NH Ngoại thương đóng vai trò
là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các
dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh doanh
ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính
phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)...
Ngoài ra, NH Ngoại thương còn tham mưu cho Ban lãnh đạo NHNN về các chính sách
quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước và về quan hệ với Ngân
hàng Trung ương các nước, các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.

Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm
2006, NH Ngoại thương đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58
Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn
quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần
6.500 người. Ngoài ra, NH Ngoại thương còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với
các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh
doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của NH Ngoại thương tại thời
điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương đương 10,4 tỷ USD), tổng
dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND,
đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn quốc tế.
Với mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và trở thành
ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới, hoạt động đa năng, kết hợp với
điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện tốt phương châm “Luôn mang đến cho khách
hàng sự thành đạt” trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân
hàng Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển từ nay đến
2010 với những nội dung chính như sau:
i. Nâng cao năng lực, nâng cao sức cạnh tranh bằng việc phấn đấu nâng chỉ số
CAR đạt 10-12% và các chỉ số tài chính quan trọng khác theo chuẩn quốc tế,
phấn đấu đạt mức xếp hạng “AA” theo chuẩn mực của các tổ chức xếp hạng
quốc tế.
ii. Hoàn thành quá trình tái cơ cấu ngân hàng để có một mô hình tổ chức hiện đại,
khoa học, phù hợp với mục tiêu và bảo đảm hiệu quả kinh doanh, kiểm soát
được rủi ro, có khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng,
tổng hợp, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và nhu
cầu của khách hàng thuộc mọi thành phần.
3.3 Tác động của các ngân hàng thương mại đến kinh tế Việt Nam
Chúng ta có thể nhận thấy hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam chưa “phủ
sóng” được toàn nền kinh tế. Một dấu hiệu rõ rệt cho thấy ở Việt Nam, mức độ “ngân



Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

hàng hóa” còn rất thấp chính là tình trạng đôla hóa và tiền mặt hóa của nền kinh tế vẫn
phổ biến quá mức. Vấn đề này là trở lực lớn gây tác động tiêu cực đến hiệu quả của
chính sách tiền tệ quốc gia và của việc huy động và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm và
nhàn rỗi trong dân cư.
Hệ thống ngân hàng thương mại của chúng ta từ ngày được sinh ra cho đến nay
hầu như đang bị “đô thị hóa” hoàn toàn, và tình trạng đô thị hóa đó không phải vì lợi
ích chung của toàn nền kinh tế. Hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long và cả miền
Đông Nam bộ chỉ còn một ngân hàng cổ phần nông thôn hoạt động cầm chừng. Trên
thực tế, các ngân hàng nông thôn trước đây, tuy mang tiếng là ngân hàng nông thôn
nhưng chẳng những không tập trung mở rộng tín dụng cho nông dân - những người thật
sự cần vốn - mà dần dần có xu hướng đô thị hóa, tham gia tích cực các hoạt động cho
vay thương mại cùng các hoạt động kinh doanh chứng khoán và đầu cơ bất động sản.
Bản thân ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng không mặn mà lắm với
việc cho vay nông nghiệp và phát triển nông thôn như tên gọi của mình.
Quy mô về vốn của các ngân hàng thương mại VN còn nhỏ, quy mô về tín dụng
chưa cao, trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các NHTMVN còn thấp. Nhóm
NHTM nhà nước tuy chiếm gần 70% tổng nguồn vốn huy động và gần 80% thị phần tín
dụng nhưng chỉ có tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, từng NHTM trong nhóm các
NHTM nhà nước đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chưa tới 5% (thông lệ tối thiểu của
ngân hàng quốc tế đạt tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản là 8%). Khối NHTM cổ phần với 36
ngân hàng chỉ chiếm 11% tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần tín dụng. Nhóm
chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh (30 ngân hàng) có tiềm lực khá
mạnh với 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống NHTM đang hoạt động tại VN nhưng
nhìn chung họ có ưu thế hơn các NHTMVN về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược
khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản.
Dịch vụ ngân hàng của các NHTMVN, còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích
chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế

trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh
doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các ngân hàng, các nghiệp vụ như môi giới, thanh toán
dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo
chỉ định của Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của NHTMVN.
Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những chuyển biến
tích cực nhưng còn nhiều vướng mắc. Hầu hết các chủ trang trại và các công ty tư nhân
khó tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng và vẫn phải huy động vốn bằng các hình
thức khác. Bên cạnh đó, một số loại hình nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại VN
hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại hiệp định cho phép các
ngân hàng nước ngoài được thực hiện, sẽ buộc NHNNVN phải khẩn trương nghiên cứu
và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới.
Năm 2010 ghi lại nhiều biến động của kinh tế Việt Nam qua các hoạt động của
ngân hàng:
Kỷ lục của chênh lệch tỷ giá
Khoảng 10% là chênh lệch kỷ lục giữa giá USD trên thị trường tự do so với giá
niêm yết chính thống. Đây cũng là điểm nhấn của năm có nhiều biến động trên thị


Chương 3. Hoạt động của NHTM tại VN

trường ngoại hối và sự điều chỉnh của chính sách, mà mức tăng chung cuộc 5,53% của
tỷ giá USD/VND không thể phản ánh hết.
Ngay đầu năm là quyết định hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, tiếp đó là mở
rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, áp trần lãi suất tiền gửi USD tối đa
1%/năm đối với các tổ chức, thực hiện “kết hối” đối với các tập đoàn, tổng công ty lớn
của Nhà nước, hai lần trực tiếp tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng, triển khai loạt giải
pháp nắn dòng tín dụng ngoại tệ… Phía sau loạt chính sách này là trạng thái khá ổn
định của tỷ giá và cung - cầu ngoại tệ trong khoảng 7 tháng đầu năm.
Nhưng căng thẳng trên thị trường bắt đầu bùng phát từ trung tuần tháng 10 và
trong tháng 11; chênh lệch khoảng 10% nói trên có trong thời điểm này. Bên cạnh

những giải pháp kỹ thuật, một lần nữa quyết định bán ra ngoại tệ được công bố.
Quy mô các ngân hàng phát triển mạnh
Năm 2010 đánh dấu sự hiện diện và hoạt động một cách toàn diện của các ngân
hàng 100% vốn nước ngoài với sự mở rộng mạng lưới, sản phẩm dịch vụ một cách
nhanh chóng. Vào thời điểm cuối năm, thị trường đón nhận loạt thông tin các ngân
hàng ngoại tăng mạnh vốn được cấp. Sức cạnh tranh từ khối này chính thức bước vào
giai đoạn mới.
Đi cùng với những chuyển động này là sự gia tăng lợi ích của khách hàng. Bên
cạnh các sản phẩm truyền thống, năm 2010 ghi nhận sự mở rộng của các dịch vụ tiện
ích như ngân hàng điện tử, đặc biệt là dịch vụ thẻ với việc triển khai kết nối mạng lưới
ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc.
Lãi suất đột ngột đảo chiều
Từ tháng 6, nhiều lần Chính phủ nhấn mạnh đến định hướng hạ lãi suất VND.
Nỗ lực theo hướng này ghi nhận ở điểm đến 11%/năm của lãi suất huy động. Tuy
nhiên, lạm phát gia tăng, cuộc đua lãi suất đột ngột bùng phát vào cuối năm và đỉnh
điểm là sự kiện Techcombank “3 ngày vàng” khuyến mại, thị trường nhiều xáo trộn.
Đi cùng với diễn biến trên, lãi suất trong năm 2010 có sự song hành của các cam
kết đồng thuận và sự mong manh của nó. “Phá trần”, “giao dịch ngầm”, “lãi suất
chui”… là những cụm từ được một số phương tiện truyền thông dùng để phản ánh cho
thực trạng của lãi suất những tháng cuối năm. Phải đến trung tuần tháng 12, Ngân hàng
Nhà nước vào cuộc qua cam kết giữa các nhà băng, tình hình mới tương đối ổn định.


×