Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

thực trạng gian lận thương mại qua giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.39 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là một nguồn thu ổn định của Nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập
quốc dân, thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế và là công cụ bảo vệ kinh tế
trong nước, cạnh tranh với nước ngoài. Việc thực thi một số chính sách thuế
có hiệu quả là thu đúng, thu đủ và đúng hạn theo quy định của pháp luật về
thuế, sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này và từ đó tạo điều kiện để mở
rộng sản xuất và phát triển kinh tế xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu
cầu đơn giản và hài hòa hóa thủ tục hải quan theo Công ước Kyoto và để có
được những cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu khoa học,
phù hợp với quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện nay, đòi hỏi phải
nhận thức đúng đắn về cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đề ra những giải pháp
thiết thực nâng cao hiệu quả công tác xác định giá tính thuế hàng hóa nhập
khẩu ở Việt Nam.
Tuy nhiên hiện trạng gian lận thương mại qua giá tính thuế hiện nay
ngày càng có dấu hiệu gia tăng. Nguyên nhân chính của tình trạng gian lận
thuế xuất nhập khẩu có thể do khách quan như chính sách chế độ thay đổi,
cũng có thể do nguyên nhân chủ quan như đối tượng nộp thuế cố tình gian
lận, trốn thuế... Vì vậy, cùng với việc tổ chức, triển khai thực hiện chính sách
thuế xuất nhập khẩu thì việc tìm ra giải pháp để chống gian lận thuế xuất nhập
khẩu là một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách
nhằm đảm bảo hiệu quả chính sách thuế của nhà nước.
Vì ý nghĩa trên, nhóm chúng em xin chọn đề tài : “Thực trạng gian lận
thương mại qua trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam từ ” để
nghiên cứu và tìm được giải pháp nhằm hạn chế và dần xóa bỏ những hành vi
gian lận, góp phần đem lại sự minh bạch và phát triển cho đất nước.


CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của thuế nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu


-

Trị giá hải quan (Custom Value): Theo quản lý hải quan hiện đại: “Trị giá hải
quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu là phần số liệu về trị giá của
hàng hoá được đưa ra hoặc đưa vào lãnh thổ hải quan do cơ quan hải quan

-

quản lý và sử dụng phục vụ cho các mục tiêu quản lý Nhà nước về hải quan” .
Trị giá tính thuế (Duty Value): Quan niệm giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
theo Hiệp định trị giá GATT/WTO: “Trị giá tính thuế là trị giá hải quan nhằm
mục đích tính thuế. Xác định trị giá hải quan là xác định trị giá làm cơ sở tính
thuế”. Thông tư 40/2008/TT-BTC cũng ghi rõ “Trị giá hải quan nhằm mục đích
tính thuế (sau đây gọi là trị giá tính thuế)”. Như vậy, từ các khái niệm trên,
thừa nhận một quan điểm chung đó là: “Trị giá tính thuế đối với hàng hoá
nhập khẩu là trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu đó phục vụ mục đích
tính thuế”.
1.1.2. Đặc điểm

-

Thuế nhập khẩu chỉ thu vào hàng hóa nhập khẩu mà không thu vào hàng hóa
sản xuất trong nước.

-

Thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ.

-


Thuế nhập khẩu do cơ quan Hải quan quản lý thu nhằm gắn công tác quản lý
thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với các
hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.3. Vai trò
- Bảo hộ sản xuất trong nước
- Huy động nguồn thu cho Nhà nước
- Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu
1.1.4. Ý nghĩa của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu

-

Trị giá tính thuế là yếu tố cơ bản cấu thành hệ thống thuế quan của một quốc
gia, là căn cứ để xác định các loại thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia

-

tăng, chênh lệch giá hàng nhập khẩu.
Xác định đúng trị giá tính thuế sẽ góp phần chống thất thu cho ngân sách Nhà
nước, bảo hộ sản xuất trong nước phát triển, tạo sự minh bạch, bình đẳng


trong cạnh tranh của các doanh nghiệp, kích thích phát triển giao lưu thương
-

mại quốc tế.
Góp phần xác định đúng về kim ngạch nhập khẩu, làm căn cứ số liệu để
Chính phủ điều hành và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia.
1.2.
Khái niệm, phân loại, ảnh hửơng của gian lận thuế nhập khẩu

(thất thu thuế)
1.2.1. Khái niệm của gian lận thuế nhập khẩu
Gian lận thuế nhập khẩu là khoản tiền thuế bị tổ chức, cá nhân có hàng
hóa nhập khẩu chiếm đoạt, không nộp đúng, nộp đủ theo quy định Luật thuế
xuất nhập khẩu.
1.2.2. Phân loại gian lận thuế nhập khẩu :
 Theo nguyên nhân :
o

Nguyên nhân chủ quan : Do đối tượng nốp thuế cố tình trốn tránh nghĩa
vụ nộp thuế, làm giả chứng nhận xuất xứ (C/O) để được hưởng thuế suất

thấp, lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước...
o Nguyên nhân khách quan : Do sự tác động ngoài dự kiến do văn bản quy
định không rõ ràng dẫn đến tranh chấp về mã số thuế với cơ quan Hải
quan...
 Theo tính chất:
o Khoản tiền thuế thất thu có khả năng thu hồi : Là các khoản nợ có
khả năng thu hồi cao, do các doanh nghiệp nợ thuế vẫn còn hoạt động
bình thường hoặc chờ xác định số thuế phải nộp, ...
o Khoản tiền thuế thất thu không có khả năng thu hồi : Là các khoản
thuế phải truy thu mà đối tượng nộp thuế không có khả năng nộp thuế do
các doanh nghiệp không còn nguồn vốn để nộp, doanh nghiệp giải thể,
phá sản,...
 Cách thức phân loại thuế gian lận thuế nhập khẩu cho ta thấy mỗi loại
gian lận thuế và mỗi loại nguyên nhân dẫn đến gian lận thuế nhập khẩu
là khác nhau. Việc phân loại thuế thât thu có ý nghĩa quan trọng trong
việc xử lý và đề ra các biện pháp quản lý, thu hồi thuế nhập khẩu cho

-


đúng.
1.2.3. Ảnh hưởng của tình trạng gian lận thuế nhập khẩu :
Đối với ngân sách Nhà nước : Gian lận thuế càng tăng thì thất thu ngân sách
Nhà nước càng lớn, dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ quá trình tích lũy vốn để
tiến hành cân đối thu chi và đầu tư cho công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhu cầu


chi tiêu của nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và các đơn vị sự nghiệp,
-

cũng như nhu cầu về vốn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội...
Đối với môi trường kinh doanh : Để đảm bảo môi trường kinh doanh được
bình đẳng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào các hoạt động xuất
nhập khẩu phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước,
trong đó việc nộp thuế nhập khẩu cũng là một tiêu chí quan trọng.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIAN LẬN QUA TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ
HÀNG HÓA NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng áp dụng tại Việt Nam
 Thực trạng về cơ sở pháp lý xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
-

theo ACV tại Việt Nam
Điều 22 phần IV Hiệp định trị giá GATT/WTO qui định về "Luật pháp quốc gia"
khi tham gia Hiệp định như sau: "kể từ ngày áp dụng các qui định của Hiệp
định này tại nước mình, mỗi nước thành viên phải đảm bảo các văn bản pháp
luật, các qui định cùng các thủ tục hành chính của nước mình phù hợp với các

-


qui định của Hiệp định này".
Trên tinh thần Hiệp định, để tiếp cận, áp dụng có bảo lưu và tiến tới áp dụng
đầy đủ Hiệp định, ngay từ khi cam kết tham gia, Việt Nam đã luật hóa các qui


định của Hiệp định, đưa vào điều luật, văn bản luật các qui định về xác định trị
-

giá theo các phương pháp của Hiệp định để áp dụng trong phạm vi quốc gia.
Nhìn chung việc nội luật hóa các qui định về xác định trị giá tính thuế hàng
nhập khẩu, tạo một hành lang pháp lý rõ ràng, cởi mở, minh bạch, tạo tiền đề
cho việc áp dụng đầy đủ Hiệp định trị giá GATT/WTO đã được Chính phủ và
các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam hết sức qua tâm, chú trọng. Ban đầu nội
dung việc nội luật hóa còn chưa sát với nội dung Hiệp định, tính pháp lý chưa
cao, một phần còn mang tính áp đặt của cơ quan quản lý nhất là việc xác định
trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu không theo hợp đồng thương mại
hoặc không phải là đối tượng xác định trị giá tính thuế theo ACV,... cơ chế giải
quyết tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại, cơ chế xử lý vi phạm về giá tính thuế
còn nhiều bất cập, chưa rõ ràng, chặt chẽ. Qua hơn 5 năm thực hiện, với sự
nỗ lực không ngừng học hỏi các quốc gia phát triển trong khu vực và thế giới,
vượt những thử nghiệm ban đầu, những cơ chế bất cập trên đã không ngừng
được hoàn thiện, luật hóa một cách chặt chẽ và có hệ thống.
 Thực trạng cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu tại Việt

-

Nam
Thực hiện xác định trị giá tính thuế tuần tự theo các phương pháp xác định trị
giá hải quan của Hiệp định và được luật hóa tại Nghị định 40/2007/NĐ-CP và

Thông tư 40/2008/TT-BTC. Theo đó, trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu
được xác định theo 6 phương pháp, với một trình tự bắt buộc từ phương pháp
1 đến phương pháp 6, tức là trước hết ưu tiên áp dụng phương pháp 1 (trị giá
giao dịch của hàng hóa nhập khẩu), nếu không áp dụng được phương pháp 1
thì chuyển áp dụng phương pháp 2… cứ như vậy đến phương pháp cuối

-

cùng.
Khi xác định được trị giá tính thuế ở phương pháp nào thì dừng ngay lại ở
phương pháp đó. Tuy nhiên Hiệp định cũng qui định có thể hoán đổi phương
pháp 4 (trị giá khấu trừ) và phương pháp 5 (trị giá tính toán) cho nhau, nhưng
việc hoán đổi chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp yêu cầu và được cơ quan

hải quan chấp nhận.
 Thực trạng về khai báo và kiểm tra trị giá tính thuế hàng nhập khẩu
- Cơ chế khai báo trị giá, tờ khai trị giá


o

Áp dụng ACV, cơ chế khai báo trị giá là việc người nhập khẩu phải
hoàn thành tờ khai trị giá và nộp cho cơ quan hải quan cùng với

thời điểm nộp tờ khai hải quan.
o Tờ khai trị giá là một mẫu khai báo do cơ quan hải quan ban hành
áp dụng thống nhất cho cho quốc gia nước nhập khẩu, trong đó
chứa đựng các thông tin cần thiết để xác định trị giá hải quan theo
các phương pháp của Hiệp định trị giá GATT/WTO và đi kèm với tờ
-


khai hải quan dưới dạng phụ lục hoặc tờ khai riêng biệt.
Cơ chế kiểm tra trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam.
o Qui trình kiểm tra trị giá: Thực hiện theo Quyết định 1636/QĐTCHQ ngày 4/8/2008 của Tổng cục Hải quan ban hành qui trình
kiểm tra, xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu. Theo qui trình này thì kiểm tra trị giá tính thuế được thực
o

hiện ở 2 khâu:
Khâu thông quan: Tức là kiểm tra trong quá trình làm thủ tục hải
quan đối với hàng hoá nhập khẩu ngay sau khi người khai hải

quan nộp tờ khai cho cơ quan hải quan.
o Khâu sau thông quan: Tức là kiểm tra trị giá khi đã kết thúc thủ tục
hải quan, hàng hoá nhập khẩu đã được giải phóng.
Kết luận: Hiệp định trị giá hải quan (ACV) là một trong những hiệp định
trọng tâm của GATT/WTO 1994. Với nội dung căn bản, các đặc tính đặc
trưng, yêu cầu, ràng buộc khi áp dụng, thực hiện các nội dung của Hiệp định
đã nói lên tính hiện đại và ưu việt của ACV. Hơn 5 năm thực hiện ACV, Việt
Nam đã đạt được những thành quả nhất định, những bài học kinh nghiệm cần
thiết. Tuy nhiên, thực tế đã và đang tiếp tục tồn tại những bất cập, vướng mắc
và khó khăn. Mục đích của ACV chưa đạt được một cách trọn vẹn vì doanh
nghiệp thì phần lớn luôn không tán thành và tuân thủ vì lý do bị gián đoạn
thương vụ, phát sinh nhiều thủ tục, và thiếu cơ sở pháp lý,… trong khi cơ
quan Hải quan vẫn thất thu thuế với con số không nhỏ hàng năm, hàng quý,
hàng tháng thậm chí là hàng tuần. Vì vậy, cần định hướng, tiếp tục nghiên cứu
cũng như việc đề xuất một số giải pháp để thực hiện ACV đạt hiệu quả cao
hơn, góp phần tích cực vào quản lý nhà nước đối với các hoạt động xuất



khẩu, nhập khẩu, đưa pháp luật Việt Nam tiến dần tới pháp luật và thông lệ
quốc tế.
2.2. Thực trạng và các hình thức gian lận qua trị giá tính thuế hàng
nhập khẩu ở Việt Nam
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tuy có nhiều dấu hiệu khả quan
nhưng chưa ổn định và không đồng đều giữa các khu vực, kinh tế trong nước
tuy đã có bước tăng trưởng nhưng còn nhiều thách thức. Theo thống kê, số
tiền thuế nộp vào Ngân sách nhà nước ta năm 2014 là 681.100 tỷ đồng, mức
thuế xuất nhập khẩu truy thu cho NSNN từ năm 2005 – 2014 đều có sự giảm
dần, trong đó năm 2005 thuế NK là 33.10% giảm còn 26.77% năm 2014. Tỉ lệ
nợ thuế, trốn thuế của các DN cũng ngày một tăng lên. Riêng ở tại Tp. Hồ Chí
Minh năm 2014, tổng số nợ thuế lại lên đến 19.754 tỷ đồng, tăng 20,3% so với
số nợ thuế cuối năm 2013.

(Nguồn: Tổng cục Hải quan và Bộ Tài Chính)


Nguyên nhân bắt nguồn từ những hành vi gian lận trốn thuế của các DN
trong nước diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Điều này ảnh hưởng rất
nghiêm trọng vì làm giảm thu ngân sách của quốc gia, gây nên nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội, góp phần tạo nên khủng hoảng kinh tế. Dưới đây
là các hành vi gian lận thường được các doanh nghiệp thực hiện dưới các
hình thức sau:
Thứ nhất: Khai báo giá trên hoá đơn thấp hơn giá mua bán thực tế. Đây
là hình thức gian lận phổ biến nhất hiện nay.
• Vụ gian lận giá hàng hóa điển hình bị Chi cục hải quan Cảng Sài Gòn
KV 4 (TP. Hồ Chí Minh) phát hiện gần đây là lô hàng mang nhãn hiệu Pierre
Cardin do Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại Hoa Mặt Trời (trụ sở tại TP. Hồ
Chí Minh) NK vào tháng 5/2013. Theo khai báo của DN, hàng hóa gồm váy,
quần lót, áo ngực… có giá nhập về chỉ từ 6.000 - 16.000 đồng/chiếc. Trong khi

đó, các sản phẩm này được bán trong các cửa hàng thời trang, trung tâm
thương mại lớn, như: Vincom, Parkson với giá khoảng 300.000 - 400.000
đồng/chiếc, tức là gấp 25 lần giá kê khai của DN.
• Tương tự, khi làm thủ tục mở tờ khai hải quan, Công ty Tiến Thành khai
báo những đôi giầy da hiệu Valentino có xuất xứ từ Trung Quốc, giá trị rất bèo,
chỉ từ 16.000 - 300.000 đồng/đôi. Thực tế, giá thị trường của loại giầy này vào
khoảng 3 - 5 triệu đồng/đôi, cao gấp chục lần giá khai báo. Với giá trị lô hàng
giầy Valentino là 1,8 tỷ đồng, nếu làm thủ tục trót lọt thì DN đã "né" được
khoản tiền thuế vài trăm triệu đồng.


• Bằng hình thức khai báo giá thấp, đầu năm 2014, hàng loạt DN kinh
doanh sữa đã bị cơ quan hải
quan nghi vấn trốn thuế, có
những sản phẩm sữa được kê
khai với giá 150.000 đồng/hộp,
tuy nhiên khi phân phối tại thị
trường nội địa lại có giá
550.000 đồng/hộp. Theo Cục
Thuế xuất nhập khẩu (Tổng
cục Hải quan), đây là một trog
những hình thức gian lận thương mại để trốn thuế, làm giảm số thu ngân sách
và ảnh hưởng đến hàng hóa sản xuất trong nước.
Thứ hai: Dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan Hải quan (GTT-22)
để khai báo trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị
giá giao dịch thực tế, sau đó khai thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng
cùng loại, tương tự đã nhập khẩu trước đó.
• Theo Cục Hải quan Thành phố Đà Nẵng, trong 6 tháng đầu năm 2014,
riêng mặt hàng nhập khẩu săm lốp ô-tô từ Trung Quốc được các doanh
nghiệp gian lận khá nhiều, đơn cử như sản phẩm săm ô-tô 11R20, công ty

nhập từ Trung Quốc có giá tính thuế là 317,6 USD/cái, trong khi đó cũng sản
phẩm này, các doanh nghiệp khác chỉ khai báo trong tờ khai nhập khẩu có giá
thấp nhất là 61,5 USD, giá cao nhất là 119 USD/cái (chỉ bằng 25-32% so với
giá nhập khẩu của Công ty Cao su).
Thứ ba: Khai thấp trị giá đối với lô hàng nhập để thăm dò thái độ của cơ
quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn
theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác
minh, xử lý, tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ
đăng ký kinh doanh.
• Theo quy định của Luật Thuế XK, thuế NK, tùy theo từng trường hợp cụ
thể, người nộp thuế có thể phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc có thời
gian ân hạn thuế từ 15 ngày đến 275 ngày. Lợi dụng quy định này, một số đối


tượng đã thành lập DN, thực hiện NK nhiều lô hàng nhưng cố tình nợ thuế,
sau đó tự bỏ kinh doanh, bỏ trốn, hoặc tuyên bố phá sản để trốn thuế
Thứ tư: Giảm giá bằng thủ đoạn tháo rời hàng nguyên chiếc thành linh
kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Lợi dụng chính sách thuế hiện hành thuế
suất đối với linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu thấp hơn hàng nguyên chiếc
nhập khẩu do vậy thủ đoạn này được thực hiện bằng cách lập nhiều công ty
khác nhau hoặc móc nối giữa các công ty với nhau và mỗi công ty nhập khẩu
một bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác nhau
trong các thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan.
• Xe ô tô du lịch loại 12 chỗ ngồi có thuế suất 160% nhưng vẫn chiếc xe
đó nếu thay đổi một vài chi tiết phụ như tháo hết ghế để thành xe tải thì thuế
suất chỉ còn 60%. Lại vẫn chiếc xe đó thêm bớt vài chi tiết khác như tháo bớt
ghế, lắp thêm còi, hiệu cứu thương trở thành xe cứu thương thì thuế suất còn
0%.
• Vụ trốn thuế lên đến hàng nghìn tỷ đồng của hàng loạt các tên tuổi lớn
là thành viên Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) như Toyota Việt

Nam, Ford Việt Nam, Vidamco, Vinamotor…Cuối tháng 3/2011, cơ quan Hải
quan nhận thấy một số linh kiện phụ tùng như ống xả, kính sườn cửa trượt
(của xe Transit)… không đáp ứng đủ mức độ rời rạc theo quy định hiện hành
để có thể áp mức thuế nhập khẩu theo dạng linh kiện, phụ tùng (có thuế suất
từ 0- 27%). Trong khi đó, theo Thông tư 184/2010 của Bộ Tài chính, chỉ cần
một linh kiện phụ tùng không đảm bảo mức độ rời rạc theo Quyết định
05/2005/QĐ- BKHCN của Bộ Khoa học Công nghệ thì sẽ phải áp thuế theo
thuế suất xe nguyên chiếc (thuế suất 82%).
Thứ năm: Lợi dụng các qui định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai
báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng … để làm
giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
Thứ sáu, khai tăng trị giá tính thuế so với trị giá thực tế của hàng hoá
nhập khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển “lậu” lợi nhuận ra nước ngoài, hình
thức này thường được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá
dưới hình thức tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài như các Công ty đa quốc gia,


Công ty mẹ - con... Ngoài ra một số doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh
nghiệp nhập khẩu là đầu mối cung cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước cũng
dùng thủ đoạn này để rút tiền từ ngân sách Nhà nước hoặc trốn thuế thu nhập
doanh nghiệp. Hàng nhập khẩu thường là những mặt hàng có thuế suất nhập
khẩu thấp, hoặc được miễn thuế nhập khẩu như máy móc, thiết bị, hoặc
nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu....
Thứ bảy, lợi dụng cơ chế tự kê khai, tự tính thuế trong quá trình thông
quan, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện hành vi mô tả sai hàng hoá trên tờ
khai Hải quan, đưa hàng hoá từ mã số có thuế suất cao về mã số có thuế suất
thấp để gian lận trốn thuế. So với các hình thức gian lận trên thì hình thức này
ít phổ biến hơn, chỉ tập trung ở một số mặt hàng có hàm lượng công nghệ
cao, tính chất lý hoá phức tạp khó nhận biết bằng mắt thường.
• Mặt hàng có tên tiếng Anh là “Silver target”, có doanh nghiệp khai báo là

“bạc khối” (nguyên liệu dùng để sản xuất đĩa CD-R) với mức thuế nhập khẩu
30%, nhưng lại có DN khai là “hộp khuôn bạc” với mức thuế suất thuế nhập
khẩu ưu đãi 0%.
• Mặt hàng giấy in báo: giấy thường thuế suất 30%-40%, chủ hàng khai
báo giấy cao cấp thuế suất chỉ 10%.
• Mặt hàng ô tô: có trọng tải từ 5 đến dưới 10 tấn khi nhập khẩu phải chịu
thuế suất 50%, chủ hàng khai thành xe chuyên dung đông lạnh, xe có trọng tải
trên 10 tấn chỉ chịu mức thuế suất 10%-30%.
• Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Thành phố Hồ Chí Minh Yteco,
Cục Điều tra chống buôn lậu đã phát hiện 6 tờ khai hải quan nhập loại thuôc
nimfast với 49.102 hộp, trị giá 132.024 USD. Nhưng trong quá trình làm thủ
tục nhập loại thuốc trên, Yteco đã chỉ đạo nhân viên tráo đổi toa trốn thuế, bỏ
chữ “giảm đau” trên toa thuốc, để hạ mức thuế nhập khẩu từ 10% xuống còn
0%.


Thứ 8, Gian lận trong việc áp mã số thuế xác định thuế suất hàng hóa
nhập khẩu. Hàng hóa xuất nhập khẩu đãđược phân loại rõ ràng với từng mã
số cụ thể kèm theo các nguyên tắc phân loại hàng hóa và các hướng dẫn về
phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu , các văn bản hiện hành khác. Tuy
nhiên, lợi dụng cơ chế tự khai, tự tính thuế trong quá trình thông quan, nhiều
doanh nghiệp vẫn cố tình thực hiện hành vi mô tả sai hàng hóa trên tờ khai
Hải quan nhằm đưa hàng hóa từ mã số có thuế suất cao về mã số có thuế
suất thấp để gian lận thuế. Cũng có không ít doanh nghiệp đã lợi dụng sự
phức tạp trong cơ cấu sản phẩm cũng như tên gọi, đặc biệt là những sản
phẩm mới, là hỗn hợp của nhiều chất hoặc linh kiện khó phân biệt bằng cảm
quan để kê khai vào mã số thuế suất thấp. Cụ thể, hiện tượng gian lận, trốn
thuế qua việc khai sai mã số thường xảy ra với những mặt hàng có sự chênh
lệch về thuế như: hàng điện tử, điện lạnh, sắt thép, thực phẩm, hàng tiêu
dùng… Một tình trạng nữa cũng diễn ra phổ biến là việc các doanh nghiệp

trốn thuế, nhập nhằng trong khai báo hải quan như: khai báo sai mặt hàng
hoặc tính chất mặt hàng để được áp mã số thuế thấp; nhập nhiều nhưng khai
ít hơn thực tế… Có nhiều lô hàng, do khai báo sai mặt hàng dẫn đến chênh
lệch và thất thoát tiền thuế đến vài trăm triệu thậm chí hàng tỷ đồng. Điển hình
là vụ gian lận thuế lô hàng thép trị giá trên 550.000 USD của Công ty TNHH
Thương mại– sản xuất Nguyễn Minh. Công ty này khai báo nhập khẩu lô hàng


thép lá có thuế suất 0% nhưng trên thực tế kiểm tra thì hàng thực nhập lại là
loại thép có thuế suất 4,5% dẫn đến chênh lệch thuế trên 400 triệu đồng.
Thứ chín, tình hình khai thiếu hàng so với số lượng thực tế hàng hóa
nhập khẩu của doanh nghiệp diễn ra khá phổ biến hiện nay. Các doanh nghiệp
khi tiến hành kê khai tại Chi cục Hải quan khai không đủ số lượng thực tế mà
doanh nghiệp đã nhập khẩu vào nội địa. Điều này ảnh hưởng đến công tác
tính trị giá tính thuế và làm thất thu một khoản thuế lớn của nhà nước. Điển
hình là trường hợp của Công ty TNHH MTV đầu tư phát triển thương mại JBC
về hành vi khai thiếu hàng
hóa nhập khẩu. Công ty đã
khai báo thiếu so với thực tế
một lượng hàng gồm: 20 bộ
lốp xe ô tô 12.00R20, hiệu
QIANG WEI, 20 bộ lốp xe ô
tô 11.00R20/386, hiệu QIANG
WEI mới; 10 bộ lốp xe ô tô
10.00R20/386, hiệu QIANG
WEI mới và 300 bộ săm, yếm ô tô bằng cao su hiệu Hilo dùng cho lốp 140025 mới 100%. Việc Công ty khai báo không đúng đã dẫn đến nộp thiếu số tiền
thuế phải nộp là gần 57 triệu đồng cho ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra,
Khai báo sai xuất xứ: Lô hàng có nguồn gốc xuất xứ từ Anh, Pháp, Mỹ,
Nhật Bản… nhưng DN kê khai nhập từ Trung Quốc, Đài Loan. Những hành vi

gian lận này đã gây ra những hậu quả rất xấu cho chính các doanh nghiệp
trong việc tìm kiếm thị trường làm ăn, ký kết các hợp đồng và còn làm thất thu
một khoản thuế rất lớn của Nhà nước, tác động xấu đến sản xuất trong nước;
ảnh hưởng trực tiếp đến sự cạnh tranh với các mặt hàng trong nước…
Khai thấp về chất lượng hàng hóa: ví dụ như doanh nghiệp nhập khẩu
hàng vải, sợi, sắt, thép… khai báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng
tồn kho, hàng loại A,B,C,D hoặc hàng vỡ vụn nhiều…nhằm làm giảm giá khai
báo, trốn thuế.


Theo báo cáo tổng kết từ Hải quan các địa phương trong cả nước và
nhận định của Cục điều tra chống buôn lậu - Tổng Cục Hải quan, tình hình lợi
dụng chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu để buôn
lậu, trốn thuế, gian lận thương mại đã trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều so
với trước. Các vụ buôn lậu lớn đang có xu hướng chuyển dần sang việc lợi
dụng chính sách một cách tinh vi thay vì lộ liễu vận chuyển trái phép hàng qua
biên giới như trước đây, tình hình lợi dụng việc áp dụng trị giá tính thuế (theo
Điều 7 - Hiệp định GATT /WTO) để trốn thuế ngày càng trở nên đáng lo ngại.
Các mặt hàng bị vi phạm chủ yếu là những mặt hàng có thuế suất cao như
ôtô, xe máy, linh kiện, phụ tùng, máy móc, hàng điện tử, hàng tiêu dùng...Như
tình trạng tại Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn, kể từ khi triển khai thực hiện trị giá
GATT đến nay qua thống kê cho thấy phần lớn các doanh nghiệp đều có giá
khai báo không đúng so với giá thực tế mua bán. Toàn Cục Hải quan tỉnh Lạng
Sơn có 15.342 tờ khai hàng nhập khẩu thuộc diện nghi ngờ về trị giá khai báo
trên tổng số gần 25.000 tờ khai nhập khẩu áp dụng trị giá GATT (chiếm trên
60%) (năm 2006). Trong đó kiểm tra và đã phát hiện số tờ khai sử dụng thủ
đoạn gian lận khai tăng trị giá là 35 tờ khai, mặt hàng vi phạm chủ yếu là máy
móc, thiết bị công nghiệp, vật tư xây dựng công trình, nguyên liệu sản xuất,
thiết bị y tế, giáo dục; Số tờ khai sử dụng thủ đoạn gian lận khai giảm trị giá là
1864 tờ khai, mặt hàng vi phạm chủ yếu ôtô, xe máy, hàng tiêu dùng, hàng gia

dụng, điện máy, điện tử, thiết bị trang trí nội thất, bộ linh kiện xe gắn máy; Số
tờ khai sử dụng thủ đoạn gian lận mô tả sai hàng hoá nhập khẩu là 24 tờ khai,
mặt hàng vi phạm chủ yếu là điều hoà nhiệt độ, máy giặt, tủ lạnh, hoá chất,
thiết bị chính xác.
Ngoài ra, ở một số Cục hải quan lớn như Cục hải quan TP Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Lạng Sơn,
Nghệ An, Vũng Tàu, tổng số thuế điều chỉnh sau khi tham vấn giá là:
118.243.190.902, 00 đồng. Đặc biệt trong đó, Cục hải quan TP Hồ Chí Minh
có số thuế điều chỉnh là: 58.509.268.870, 00 đồng; Cục hải quan TP Hải
Phòng: 26.421.637.013, 00 đồng (năm 2006)


2.3. Những bất cập, khó khăn và hạn chế của công tác chống gian lận
thuế qua trị giá tính thuế ở Việt Nam hiện nay
Thực tế cho thấy rằng, hầu hết các mức giá được chấp nhận trong các tờ
khai Hải quan hiện nay chưa phản ánh trung thực trị giá giao dịch của các lô
hàng nhập khẩu, song công tác chống gian lận qua trị giá tính thuế ở nước ta
hiện nay còn có nhiều bất cập, khó khăn.
-

Các điều kiện kinh tế, xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng như ý thức của công
dân về nghĩa vụ thuế chưa thực sự đảm bảo đủ độ chín để áp dụng xác định

-

trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch.
Cơ quan Hải quan không có đủ cơ sơ để bác bỏ trị giá khai báo của doanh
nghiệp do thiếu thông tin hoặc thông tin thiếu tính thuyết phục không đủ độ tin

-


cậy.
Trình độ, năng lực của một số cán bộ công chức Hải quan về kiểm tra trị giá
khai báo tính thuế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, do thiếu chuyên môn

-

sâu về trị giá tính thuế, về các thông lệ, hình thức thanh toán quốc tế…
Sự phối hợp trao đổi thông tin trong nội bộ ngành Hải quan chưa đáp ứng tính
mau lẹ, thông suốt, mối quan hệ giữa Hải quan Việt Nam với Hải quan các
nước trong khu vực và trên thế giới chưa được thiết lập một cách có hiệu quả.
Do vậy hạn chế lớn trong việc trao đổi thông tin về trị giá hàng hoá, về xuất xứ
hàng trong khi tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn ra ngày càng

-

phức tạp, tinh vi trên nhiều bình diện và sắc thái mới.
Việc cập nhập dữ liệu giá thiếu tính thường xuyên, chưa trở thành một tác
nghiệp bắt buộc trong qui trình quản lý dữ liệu giá. Chính vì vậy đã gây cản trở
không nhỏ tới hiệu quả công tác xác định cũng như công tác tham vấn trị giá

-

tính thuế
Nguồn thông tin phục vụ công tác kiểm tra giá tính thuế còn hạn chế, chưa
phù hợp với yêu cầu đặt ra. Hiện nay việc cập nhật dữ liệu ở các Chi cục rất
lớn nhưng trang thiết bị chưa tương xứng với yêu cầu khai thác và quản lý khi

-


tra cứu dữ liệu trên máy tính.
Công tác kiểm tra sau thông quan chưa thực sự đem lại hiệu quả: Một trong
những yếu tố quan trọng củng cố và nâng cao hiệu quả của công tác chống
gian lận thuế qua trị giá tính thuế là công tác kiểm tra sau thông quan. Mặc dù
công tác này đã được Cục Kiểm tra sau thông quan coi trọng và tích cực triển


khai thực hiện nhưng thời gian qua vẫn chưa phát huy được những gì mà
chúng ta đang kỳ vọng và mong đợi ở nó. Công tác phúc tập hồ sơ tại các Chi
cục chưa được coi trọng đúng mức, việc phối hợp cung cấp thông tin liên
quan tới dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp còn hạn chế, vì vậy tình trạng
gian lận thuế qua trị giá tính thuế vẫn chưa được đẩy lùi.
2.4. Nguyên nhân của việc gian lận thuế qua trị giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu ở Việt Nam
Việc Việt Nam áp dụng Hiệp định trị giá GATT /WTO (2004) đã tạo bước ngoặt
cơ bản cho hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện hành ở Việt Nam, một mặt
vừa đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế và thực hiện cam kết quốc tế,
mặt khác tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
thương mại. Tuy nhiên, trong thời gian qua có khá nhiều doanh nghiệp đã lợi
dụng chính sách này để gian lận thuế qua trị giá tính thuế. Nguyên nhân của
việc gian lận thương mại qua giá tính thuế hàng nhập khẩu đến từ cả hai phía
là Hải quan Việt Nam và cả các doanh nghiệp.
 Đối với phía Hải quan Việt Nam:
-

Nguyên nhân quan trọng trong hoạt động chống gian lận thương mại qua trị
giá tính thuế của Hải quan Việt Nam còn hạn chế là do hệ thống các văn bản
pháp quy hướng dẫn xác định trị giá còn quá sơ sài, thiếu tính đồng bộ đã tạo
điều kiện thuận lợi cho gian lận thương mại qua giá phát triển. Đã vậy, hệ
thống cơ sở vật chất trang thiết bị cho công tác quản lý trị giá tính thuế còn

nghèo nàn và việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý trị giá tính thuế
chưa thực sự hiệu quả. Ở nhiều chi cục hải quan trong cả nước, cơ sở vật
chất, trang bị kỹ thuật gần như chưa có, hoặc nếu có thì cũng chưa đáp ứng
nhu cầu của thực tiễn. Sự phối hợp trao đổi thông tin trong nội bộ ngành Hải
quan chưa đáp ứng tính mau lẹ, thông suốt, mối quan hệ giữa Hải quan Việt
Nam với Hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới chưa được thiết lập

-

một cách có hiệu quả.
Thứ hai, cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị.
Đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không
quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh


theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ
của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài
khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động
kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả
kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn
là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt:
tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh
nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng
-

khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
Nguyên nhân thứ ba phải kể đến đó là thiếu sự quyết liệt trong xử phạt. Theo
lời của Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng, ở Trung Quốc đã xử tử 60
phạm nhân liên quan đến hoàn thuế. Thế nhưng ở nước ta chưa tử hình tội
phạm nào cả, thậm chí xử tù 20 năm cũng chưa có. Theo Thời báo Tài chính

Việt Nam, dẫn nguồn tin từ Tổng cục thuế, mức phạt cao nhất là 100 triệu
đồng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng hoá đơn như: lập hoá đơn
chênh lệch giữa các liên; dùng hoá đơn khống, hoá đơn giả và hoá đơn không
còn giá trị; tẩy xoá nội dung các chỉ tiêu của hoá đơn đã sử dụng. Trên thực
tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát
hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế.
Nếu không trị quyết liệt thì luật pháp không còn khiến người ta sợ. Do đó, tình
hình phạm tội liên quan đến khai thuế, mặc dù đã được công luận cảnh báo
cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về

-

số tiền thuế chiếm đoạt.
Đặc biệt, hệ thống cơ sở dữ liệu của Hải quan còn nghèo nàn, đa số chỉ dựa
vào thông tin do doanh nghiệp khai báo, độ tin cậy còn thấp. Danh mục rủi ro
về giá mang tính dàn trải, phạm vi quá rộng. Các mức giá kiểm tra xây dựng
tại danh mục chủ yếu là mức giá khai báo, độ tin cậy chưa cao. Việc sử dụng
nguồn thông tin do doanh nghiệp khai báo vô hình chung đã hợp thức hóa cho
tình trạng gian lận thương mại. Hơn nữa, thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ
cũng là trở ngại không nhỏ. Không gian của hoạt động kinh doanh thường
rộng lớn, một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp
ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua


nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải
được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa
phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế
không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên
quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch
khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết

quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng,
camera, cân điển tử,… Đây là một trong những nguyên nhân sâu sắc dẫn đến
hiệu quả của công tác kiểm tra trị giá khai báo, công tác tham vấn duy trì ở
mức thấp. Công tác tham vấn trị giá phần lớn mang tính chất chiếu lệ, hình
thức, hiệu quả tham vấn thấp; việc tổ chức tham vấn giá còn sơ sài, chủ yếu
dựa trên mẫu biên bản do Tổng cục hải quan hướng dẫn, chưa làm nổi bật
được những nghi ngờ của cơ quan hải quan đối với trị giá khai báo của doanh
nghiệp, căn cứ để bác bỏ trị giá khai báo còn lệ thuộc quá nhiều vào những
sai lệch trên hồ sơ hoặc sự chấp thuận của doanh nghiệp như có mối quan hệ
đặc biệt nhưng không khai báo hoặc các chứng từ trong hồ sơ không khớp
nhau chưa chỉ ra được những mâu thuẫn trong trị giá khai báo, chưa sử dụng
đầy đủ quyền bác bỏ trị giá khai báo của cơ quan hải quan khi đã có đủ căn
cứ nhưng doanh nghiệp không chấp thuận. Do vậy việc bác bỏ trị giá sau
tham vấn chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu chấp nhận trị giá đã khai báo (chiếm từ 60
đến 70% trên tổng số các tờ khai tham vấn), tỉ lệ bác bỏ trị giá khai báo chỉ đạt
từ 20-25% tổng lô hàng tham vấn, trong khi xu hướng khai báo trị giá hàng
-

hoá thấp ngày càng gia tăng.
Các công tác kiểm tra, tham vấn xác định trị giá trong thời gian qua chưa thật
sự hiệu quả, hải quan còn đang buông lỏng việc xác định lại trị giá tính thuế, tỉ
giá tại thời điểm chuyển tiêu thụ nội địa. Do vậy, doanh nghiệp lợi dụng để trốn

-

thuế.
Ngoài ra, nguyên nhân của việc gian lận thương mại còn do sự thoái hoá của
một số cán bộ thuế. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp
tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế (như vụ việc của ông Đinh Bá An –
cục trưởng Hải quan Lào Cai; ông Nguyễn Tiến Lộc – Chi cục Hải quan cảng

Sài Gòn khu vực 4,…). Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi


dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng
thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm.
Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều
lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế
-

dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
Cuối cùng đó là công tác kiểm tra sau thông quan chưa thực sự đem lại hiệu
quả. Một trong những yếu tố quan trọng củng cố và nâng cao hiệu quả của
công tác chống gian lận thuế qua trị giá tính thuế là công tác kiểm tra sau
thông quan. Nhưng công tác phúc tập hồ sơ tại các Chi cục chưa được coi
trọng đúng mức, việc phối hợp cung cấp thông tin liên quan tới dấu hiệu vi
phạm của doanh nghiệp còn hạn chế, vì vậy tình trạng gian lận thuế qua trị giá

-

tính thuế vẫn chưa được đẩy lùi.
 Về phía doanh nghiệp:
Ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, có hiện tượng doanh
nghiệp lợi dụng sự lỏng lẻo của chính sách giá để khai báo trị giá thấp nhằm
mục đích trốn thuế. Chế tài về xử lý hành chính trong việc doanh nghiệp khai
thiếu thuế do giá khai báo thấp hơn giá thực tế mua bán chưa được qui định
rõ ràng và trên thực tế toàn ngành Hải quan chưa xử phạt hành chính đối với
doanh nghiệp nào với hành vi khai báo giá thấp hơn thực tế mặc dù đã tiến
hành bác bỏ trị giá khai báo, xác định lại trị giá tính thuế, ấn định số thuế phải
nộp cao hơn mức thuế khai báo và doanh nghiệp đã chấp nhận nộp phần thuế
chênh lệch này. Điều đó dẫn đến việc doanh nghiệp mặc sức khai báo trị giá

thấp hơn thực tế, nếu cơ quan hải quan kiểm tra phát hiện, có bằng chứng
bác bỏ mà doanh nghiệp không còn biện pháp nào phản biện thì chấp nhận trị
giá do hải quan xác định, mà mức giá xác định này chỉ bằng hoặc thấp hơn
mức giá thực tế mà doanh nghiệp đã mua bán, doanh nghiệp cũng không bị
xâm hại gì đến lợi ích do không bị xử lý hành chính, còn nếu cơ quan hải quan
không đủ dữ liệu, căn cứ bác bỏ, phải chấp nhận trị giá khai báo thì đương
nhiên doanh nghiệp được hưởng một khoản lợi bất chính do khai báo giá thấp

-

hơn thực tế mang lại.
Mặt khác, việc phân loại hàng hóa của các doanh nghiệp còn chênh so với
Hải quan do nhiều nguyên nhân khác nhau như: doanh nghiệp mới tham gia


vào thị trường xuất nhập khẩu, hoặc cố tình áp sai mã để giảm thuế. Tuy
nhiên, nguyên nhân phổ biến hiện nay là do doanh nghiệp chưa cập nhật đầy
đủ về kiến thức trong việc phân tích phân loại hàng hóa. Bản thân các doanh
nghiệp khi mua hàng cũng chưa quan tâm, không yêu cầu phía bán hàng
cung cấp thông tin đầy đủ về mặt hàng của mình. Do đó, khi thiếu thông tin vô
-

hình chung doanh nghiệp thực hiện phân loại sai mã hàng.
Cùng với đó là việc cơ quan Hải quan chỉ sử dụng nguồn thông tin do doanh
nghiệp khai báo như hiện nay để kiểm tra trị giá khai báo, tham vấn và xác
định trị giá của hàng hoá vô hình đã hợp thức hoá cho tình trạng gian lận
thương mại vì các doanh nghiệp đều đồng loại khai báo trị giá giao dịch thấp
để tìm đường trốn thuế.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC


CHỐNG GIAN LẬN THUẾ QUA TRỊ GIÁ TÍNH TẾ HÀNG NHẬP KHẨU Ở
VIỆT NAM
3.1 Giải pháp chống gian lận qua trị giá tính thuế hàng nhập khẩu ở Việt
Nam.
 Tiếp tục hoàn thiện các qui định của pháp luật về trị giá hải quan về thuế

chống bán phá giá, chống trợ giá trên cơ sở xây dựng cơ chế bảo đảm thực
-

hiện có hiệu quả.
Đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện các qui định về quyền và nghĩa vụ của
người khai hải quan về trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan hải quan. Như
nghĩa vụ tham gia tham vấn giá, nghĩa vụ phải nộp thuế theo số thuế cơ quan
hải quan xác định lại, nghĩa vụ nộp khoản bảo đảm theo yêu cầu của cơ quan
hải quan, nghĩa vụ nộp bảo lãnh để thông quan hàng hoá trong trường hợp cơ
quan hải quan nghi ngờ trị giá khai báo, nghĩa vụ nộp thuế truy thu kể cả trong
trường hợp trị giá tính thuế đã được cơ quan hải quan chấp nhận trước đó…
của người khai hải quan; Trách nhiệm tổ chức tham vấn giá, trách nhiệm phải
thông báo cho người nhập khẩu biết các tài liệu, nguồn thông tin được sử
dụng để xác định trị giá tính thuế, trách nhiệm yêu cầu người khai hải quan
nộp khoản bảo đảm đủ để trả tiền thuế cho lô hàng trong trường hợp cơ quan
hải quan có căn cứ nghi ngờ trị giá khai báo…của cơ quan hải quan. Từng


bước hoàn thiện các quy định của pháp luật về thuế chống bán phá giá, chống
trợ giá cũng như cơ chế bảo đảm thực hiện là điều hết sức cần thiết, bởi ngay
cả trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, trợ giá thì khi xem xét
trị giá tính thuế vẫn theo trị giá giao dịch. Để bảo hộ cho các ngành sản xuất
trong nước trước sự cạnh tranh không lành mạnh và đảm bảo cho các nhà
nhập khẩu được bình đẳng khi cùng áp dụng các nguyên tắc xác định trị giá

tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT /WTO đòi hỏi phải triển khai đồng bộ các
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ giá từ các nước xuất khẩu. Đồng thời,
phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều
tra và áp dụng thuế chống bán phá giá, trợ giá và phải coi đây là công cụ pháp
lý bắt buộc để đối phó với hàng nhập khẩu khi được khai báo với trị giá quá
thấp.
 Hoàn thiện cơ chế tự khai, tự xác định trị giá tính thuế và quy trình quản lý giá
-

tính thuế hàng hoá nhập khẩu
Cơ chế xác định giá tính thuế hàng nhập khẩu hiện hành ở Việt nam đã hoàn
toàn dựa trên các nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá tính thuế theo
GATT /WTO. Cùng với cơ chế đó là cơ chế tự kê khai, tự xác định trị giá tính
thuế nên bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định như: tạo thông
thoáng cho giao lưu thương mại, phù hợp với thông lệ quốc tế, thay đổi
phương pháp quản lý của công chức Hải quan từ chỗ bị động mang tính áp
đặt sang chủ động kiểm tra, kiểm soát việc tự khai báo của doanh nghiệp, phù
hợp với tiến trình cải cách hành chính, nâng cao ý thức tự giác khai báo của
các doanh nghiệp - đây là phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên,
để góp phần ngăn chặn các hành vi gian lận thuế qua việc tự xác định trị giá
tính thuế cần tiếp tục hoàn thiện và thiết lập hành lang pháp lý cho một số
hoạt động hỗ trợ cho công tác kiểm tra, kiểm soát và xác định trị giá khai báo
như: trưng cầu thẩm định giá tại các trung tâm thẩm định giá, sử dụng thông
tin giá do cơ quan tham tán thương mại, cơ quan thường vụ thuộc sứ quán
Việt Nam tại các nước cung cấp về giá FOB nước bán; sửa đổi bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác kiểm tra sau thông
quan, công tác kiểm toán Hải quan phù hợp với các chuẩn mực kế toán,
chuẩn mực kiểm toán quốc gia và quốc tế.



-

Theo qui trình quản lý giá tính thuế hàng nhập khẩu hiện nay, việc xây dựng
và quản lý trị giá tính thuế chủ yếu diễn ra ở cấp Chi cục còn cấp Cục và Tổng
cục chỉ đóng vai trò cung cấp thông tin là chính. Vì vậy việc hoàn thiện quy
trình quản lý trị giá tính thuế phải theo hướng: quy định rõ nhiệm vụ, trách
nhiệm của từng cá nhân trong từng khâu nghiệp vụ. Đặc biệt quy trình cần
hướng dẫn chi tiết thẩm quyền, trách nhiệm và căn cứ để cơ quan Hải quan
bác bỏ trị giá khai báo không phù hợp với trị giá giao dịch thực tế, vì đây là
khâu nghiệp vụ quan trọng nhằm đảm bảo công tác quản lý trị giá tính thuế
hiệu quả đồng thời góp phần hạn chế đến mức tối đa sự tranh cãi giữa các
doanh nghiệp và cơ quan Hải quan trong các trường hợp áp giá tính thuế

hàng nhập khẩu.
 Triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản về phối kết hợp giữa cơ quan
-

Hải quan với các cơ quan chức năng
Với việc lợi dụng cơ chế tự kê khai, tự tính thuế nhiều doanh nghiệp đã tiến
hành khai báo trị giá hàng hoá rất thấp so với thực tế hoặc mô tả sai hàng hoá
nhằm mục đích trốn và tránh các khoản thuế phải nộp. Để khắc phục được
tình trạng này cần phải có sự tham gia hỗ trợ đắc lực của hệ thống các cơ
quan thuế, hệ thống Ngân hàng, hệ thống cơ quan Công an…, không chỉ ban
hành để có các văn bản pháp luật mà điều quan trọng và đáng quan tâm hơn

cả là hiệu quả của việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đó.
 Củng cố hệ thống thông tin dữ liệu giá và thường xuyên làm “giàu” dữ liệu về
-

giá.

Từ khi bảng giá tối thiểu của Bộ Tài Chính được bãi bỏ, thì cơ sở để các công
chức làm công tác giá so sánh đối chiếu với trị giá khai báo của doanh nghiệp
chính là các thông tin về giá trên thị trường, các mức giá chào bán trên
Internet và đặc biệt là sử dụng đến hệ thống dữ liệu giá (GTT-22) của Tổng
cục Hải quan. Các cơ sở dữ liệu này giúp công chức Hải quan biết được trị
giá của mặt hàng nhập khẩu sẽ nằm trong khoảng nào, cho biết giá trị thực
của một loại hàng hoá, do cùng một doanh nghiệp nhập khẩu được khai báo
như thế nào, từ đó cho phép cơ quan Hải quan có được những nhận định về
tính trung thực của khai báo để cơ quan hải quan xác định đúng trị giá tính
thuế cho lô hàng. Việc làm “giàu” dữ liệu giá trước hết được thực hiện bằng


cách cập nhật thường xuyên các thông tin dữ liệu vào hệ thống GTT -22, cần
chú ý nhập những dữ liệu cần thiết như tên, địa chỉ đối tác nước ngoài, nhà
sản xuất, thương hiệu để phục vụ cho việc xác định hàng hoá nhập khẩu
giống hệt, tương tự. Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác phối kết hợp với
Hải quan khu vực và thế giới trong việc trao đổi thông tin về trị giá. Với việc
hợp tác này Hải quan các bên có thể giúp nhau xác định tương đối chính xác
mức giá của hàng hoá nhập khẩu cần xác định trị giá, từ đó sẽ có cơ sở để
bác bỏ trị giá khai báo của các doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp
khai báo giá quá thấp so với thị trường quốc tế. Đồng thời xây dựng trung tâm
thu thập thông tin tình báo của Hải quan là các cơ quan tham tán, đại sứ quán
ở ngoài nước nhằm cung cấp những thông tin liên quan đến các lô hàng có
nhiều rủi ro.
 Đẩy mạnh công tác kiểm tra trị giá tính thuế và nâng cao hiệu quả công tác
-

tham vấn giá.
Công tác kiểm tra trị giá tính thuế phải được đẩy mạnh ngay tại thời điểm làm
thủ tục thông quan và đặc biệt sau khi thông quan hàng hoá. Bằng các nghiệp

vụ cụ thể của công tác kiểm tra sau thông quan với thời hạn kiểm tra là 5 năm
kể từ ngày thông quan hàng hoá, điều đó cho phép cơ quan Hải quan có thể
thu thập đầy đủ số liệu, chứng cứ để đấu tranh chống gian lận thuế qua trị giá.
Công tác kiểm tra trị giá tính thuế thực sự có hiệu quả sẽ không tách rời hiệu

o

quả của công tác tham vấn trị giá tính thuế, với tư tưởng chỉ đạo:
Tuyệt đối không tham vấn chiếu lệ, vừa không có hiệu quả vừa ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc bỏ qua không tham vấn đối

o

với những lô hàng có dấu hiệu nghi ngờ.
Nghiêm cấm công chức tham vấn giá có hành vi sách nhiễu tiêu cực, lợi dụng
ảnh hưởng của nhiệm vụ được giao để gây khó khăn cho doanh nghiệp như:
Cố tình tham vấn, dự kiến xác định mức giá quá cao sau đó “mặc cả” với
doanh nghiệp; hoặc cố tình từ chối kết quả chứng minh tính trung thực hợp lý
của mức giá doanh nghiệp đã khai báo; hoặc có hành vi thông đồng với doanh
nghiệp chấp nhận kết quả chứng minh của doanh nghiệp khi thiếu cơ sở,

không đủ cơ sở thuyết phục gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
 Tăng cường phối kết hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ: Giá - Kiểm tra sau
thông quan - Điều tra chống buôn lậu.


-

Để công tác quản lý giá đạt được kết quả cao hơn, phải xây dựng quy chế
phối hợp chặt chẽ giữa ba bộ phận: Giá - Kiểm tra sau thông quan - Điều tra

chống buôn lậu trên các mặt: thông tin, tác nghiệp, biện pháp xử lý... Cụ thể
bộ phận giá phải đưa ra được những thông tin xác thực nhất về đối tượng và
hành vi gian lận thuế qua trị giá bằng việc tích cực tìm kiếm thông tin, chủ
động tham khảo thông tin từ bộ phận điều tra chống buôn lậu để thực hiện có
hiệu quả việc bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp khi có nghi ngờ. Đối
với bộ phận kiểm tra sau thông quan, chủ động các kế hoạch kiểm tra doanh
nghiệp khi có thông tin từ bộ phận giá chuyển sang, trong quá trình kiểm tra
nếu phát hiện thấy dấu hiệu phức tạp cần điều tra kỹ thì phối hợp với bộ phận
điều tra chống buôn lậu để đảm bảo định hướng “tuân thủ pháp luật tự
nguyện” của doanh nghiệp. Đồng thời những kết quả phân tích, đánh giá từ
hệ thống kiểm tra sau thông quan sẽ định hướng cho hoạt động của lực lượng

kiểm soát.
 Xây dựng và kiện toàn lại hệ thống tổ chức cán bộ thực hiện quản lý, kiểm tra
-

giá tính thuế.
Để thực hiện tốt yêu cầu hiện đại hoá Hải quan, đòi hỏi phải có một lực lượng
cán bộ công chức tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Thực tế cho thấy, hiện nay các lớp đào tạo,
tập huấn về xác định trị giá tính thuế hầu hết chưa chú ý đến đào tạo kỹ năng
nên trình độ của nhiều công chức vẫn chưa đáp ứng được thực tiễn làm công
tác giá. Đặc biệt đối với các cán bộ làm công tác giá ở cấp Chi cục cần được
đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu về trị giá hải quan bởi họ là những người trực
tiếp tư vấn và kiểm tra xác định trị giá tính thuế cho các doanh nghiệp nhập
khẩu. Bên cạnh đó cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ và khai thác có hiệu quả sự
trợ giúp của Tổ chức hải quan thế giới (WCO), Tổ chức Hải quan ASEAN, Hải
quan các nước như Nhật Bản, Malaysia trong đào tạo bồi dưỡng kiến thức về
trị giá tính thuế và quản lí rủi ro trong kiểm soát xác định trị giá. Đồng thời,


o

kiện toàn lại hệ thống tổ chức cán bộ làm công tác giá theo hướng:
Tại cấp Chi cục Hải quan cửa khẩu: phải có cán bộ giá chuyên trách, không
kiêm nhiệm, tuỳ theo đặc điểm, tính chất, mức độ của từng Chi cục để bố trí
số lượng công chức làm công tác giá cho phù hợp; Tại cấp Cục: Thành lập và


hoàn thiện được mô hình tổ chức phòng giá, phải tăng cường các cán bộ làm
công tác giá chuyên sâu, đảm bảo tuân thủ nguyên tắc không để cán bộ kiêm
nhiệm làm công tác giá.
o Việc bố trí cán bộ phải dựa trên kiến thức chuyên môn được đào tạo, ưu tiên
các cán bộ có kinh nghiệm thực tế về công tác giá, cán bộ có kiến thức về
thương phẩm học, không bố trí các cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn vào
bộ phận giá; Việc luân chuyển phải tính đến yếu tố chuyên sâu, chỉ luân
chuyển cán bộ trong bộ phận giá với nhau, không điều chuyển làm công tác
khác.
o Tiếp tục thực hiện đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ làm
công tác giá với các chuyên đề thiết thực, gắn liền với thực tiễn, tập trung đào
tạo kỹ năng về tham vấn giá, kỹ năng bác bỏ trị giá khai báo của doanh
nghiệp.
 Đẩy mạnh xây dựng hệ thống quản lý rủi ro trên cơ sở không ngừng hoàn
-

thiện hệ thống thông tin doanh nghiệp.
Việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phải dựa trên việc tổ chức đánh giá,
phân tích những nhóm hàng mặt hàng đặc thù có nguy cơ gian lận trị giá cao
theo các tiêu chí: thuế suất cao, trị giá lớn, mặt hàng nhạy cảm như ôtô, xe
máy, hàng điện tử, điện lạnh, cơ khí, rượu, mỹ phẩm…; kết hợp với việc đánh
giá, phân tích những nhóm hàng mặt hàng nhập khẩu có xuất xứ từ những

nước, khối nước có nguy cơ gian lận thương mại cao như hàng nhập khẩu có
xuất xứ từ Trung quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thái lan, Singapore…để lựa
chọn mặt hàng, nhóm hàng quản lý rủi ro, hạn chế gian lận thuế qua trị giá
tính thuế. Tất nhiên hệ thống quản lý rủi ro chỉ thực sự phát huy tối đa hiệu
quả trên cơ sở có một hệ thống thông tin doanh nghiệp hoàn hảo.

 Xây dựng chiến lược “Tuân thủ pháp luật tự nguyện”
- Nội dung trọng tâm của chiến lược “Tuân thủ pháp luật tự nguyện” đó là đảm

bảo sự chấp hành pháp luật tự nguyện của doanh nghiệp, coi trọng việc giáo
dục ý thức mới của công dân về nghĩa vụ thuế trên cơ sở lấy yếu tố tự nguyện
làm điểm mấu chốt thay vì sự điều chỉnh các hành vi vi phạm; nâng cao chất
lượng dịch vụ công của cơ quan hải quan; khuyến khích doanh nghiệp tham
gia hỗ trợ một số công việc của cơ quan hải quan nhất là trong việc cung cấp


×