Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.52 KB, 93 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong
những thập niên cuối của thế kỷ 20 đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển
kinh tế xã hội toàn cầu. Chính trên nền tảng đó, một phương thức thương mại
mới đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng, đó là thương mại điện tử.
Thương mại điện tử chính là một công cụ hiện đại sử dụng mạng Internet giúp
cho các doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường thế giới, thu thập thông
tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn. Với thương mại điện tử, các
doanh nghiệp cũng có thể đưa các thông tin về sản phẩm của mình đến các
đối tượng khách hàng tiềm năng khác nhau ở mọi nơi trên thế giới với chi phí
thấp hơn nhiều so với các phương pháp truyền thống.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử trên thế giới,
các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ phận
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam, cũng đã bước đầu
nhận thức được ích lợi và tầm quan trọng của việc ứng dụng thương mại điện
tử. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế trong nhận thức của bản thân các doanh
nghiệp cũng như các điều kiện cơ sở hạ tầng, việc ứng dụng thương mại điện
tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có thể nói mới ở mức độ sơ
khởi. Vì thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xây dựng cho mình một chiến
lược kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay nhằm tiếp cận nhiều
hơn nữa với thương mại điện tử để có thể khai thác tối đa lợi ích mà phương
thức kinh doanh này đem lại. Đây cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài
“Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Lª Thu Ph¬ng
1


A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Thứ nhất, bước đầu tìm hiểu một số khái niệm về thương mại điện tử để
tiến tới một nhận thức toàn diện hơn về thương mại điện tử, điều mà các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nên biết khi quan tâm đến việc ứng dụng thương
mại điện tử.
Thứ hai, nhấn mạnh xu thế tất yếu phải tham gia vào thương mại điện tử
qua vài nét phác hoạ về tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới,
một số khu vực kinh tế và một số nước điển hình.
Thứ ba, phân tích tình tình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam nói
chung và ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói riêng, qua đó đưa ra
một vài đánh giá sơ bộ về thực trạng áp dụng thương mại điện tử trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở phân tích đánh giá, đưa ra một số phương hướng phát
triển ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,
đồng thời đề cập đến một số giải pháp về phía chính phủ và về phía bản thân
các doanh nghiệp để có thể phát triển hơn nữa ứng dụng thương mại điện tử.
Thương mại điện tử đã và đang bắt đầu được áp dụng trong nhiều doanh
nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp lớn có điều kiện thuận lợi về vốn
và công nghệ. Tuy nhiên, trong điều kiện giới hạn về thời gian và tài liệu,
khoá luận này chỉ xin tập trung nghiên cứu việc ứng dụng thương mại điện tử
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu sử dụng cho đề tài bao gồm phân tích, tổng
hợp, so sánh, kết hợp lý thuyết với thực tiễn. Đồng thời, để cung cấp thông tin
được chính xác, cập nhật, đề tài có sử dụng một số sách, đề tài nghiên cứu về
các vấn đề có liên quan, các tạp chí và thông tin trên Internet.
4. Kết cấu của đề tài:


Lª Thu Ph¬ng
2
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển ứng dụng thương mại
điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
thầy giáo, ThS. Nguyễn Quang Minh, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong
quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài khoá luận tốt nghiệp này. Đồng thời,
em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại
thương cùng các bạn đã giúp đỡ em thực hiện đề tài.

Lª Thu Ph¬ng
3
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Chương I:
Tổng quan về thương mại điện tử
I. Khái niệm và sự ra đời của thương mại điện tử
1. Khái niệm thương mại điện tử

Thương mại điện tử từ khi ra đời đã có nhiều tên gọi khác nhau như
“thương mại trực tuyến”(online trade) (hay còn gọi là “thương mại tại
tuyến”), “thương mại điều khiển học” (cybertrade), “kinh doanh điện tử”
(electronic business), “thương mại không có giấy tờ” (paperless commerce
hoặc paperless trade)…Tuy nhiên, cho đến nay, tên gọi “thương mại điện tử”
(electronic commerce) được sử dụng nhiều nhất rồi trở thành quy ước chung
và được đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có
thể được dùng và hiểu với cùng một nội dung.
Theo quan niệm phổ biến, thương mại điện tử (Electronic Commerce),
một yếu tố hợp thành của “nền kinh tế số hoá”, là hình thái hoạt động thương
mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy
trong bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn gọi là “thương
mại không có giấy tờ”)
Trong định nghĩa trên, chữ “thông tin” (information) không được hiểu
theo nghĩa hẹp là “tin tức” mà là bất cứ cái gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật
điện tử, bao gồm cả thư từ, các tập tin văn bản (text-based file), các cơ sở dữ
liệu (database), các bảng tính (spreadsheet), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính
điệ tử (computer-aid design: CAD), các hình đồ hoạ (graphical image), quảng
cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động(video
image), âm thanh,...

Lª Thu Ph¬ng
4
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Theo Đạo luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban thuộc Liên hợp
quốc về Luật thương mại quốc tế soạn thảo và đã được Liên hợp quốc thông

qua thì “Thương mại” (Commerce) trong “thương mại điện tử” (Electronic
Commerce) bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính
chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính
thương mại (commercial) bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch
sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá,
dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa
hồng (factoring); cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn;
kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả
thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác
công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá, hành khách bằng đường
biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.
Uỷ ban châu Âu cũng đưa ra định nghĩa thương mại điện tử như sau:
Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện kinh doanh qua các phương
tịên điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn
bản, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm
nhiều hành vi, trong đó có hoạt động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận
các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu
điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên mạng; mua sắm công
cộng; tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối
với thương mại hàng hoá (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên
dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ
pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Thương mại điện tử bao gồm
việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và

Lª Thu Ph¬ng
5
A5 -
K38B

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả
các sản phẩm được giao nhận cũng như các thông tin số hoá qua mạng
Internet.
Còn theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Thương mại
điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ
liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Như vậy, “thương mại” trong “thương mại điện tử” không chỉ là buôn
bán hàng hoá (trade) theo cách hiểu thông thường mà còn bao quát một phạm
vi rộng hơn nhiều, do đó, việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi
cách thức hoạt động của hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện
nay, thương mại điện tử có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn
bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
2. Sự ra đời của thương mại điện tử
Thương mại điện tử ra đời trên cơ sở sự ra đời và phát triển của Internet
-mạng máy tính toàn cầu. ý tưởng về Internet xuất hiện từ những năm 1960
khi Bộ quốc phòng Mỹ bắt tay vào thực hiện việc nghiên cứu kết nối các máy
tính thành một mạng lưới chằng chịt để khi một mối liên kết bị phá hỏng thì
các máy tính vẫn có thể nối kết với nhau bằng các mối liên hệ khác. Trong
thời gian này, Cơ quan nghiên cứu các dự án quốc phòng cao cấp của Mỹ
(ARPA) đã tìm kiếm các công nghệ truyền thông cho phép truyền thông liên
tục thậm chí cả khi các trung tâm điều khiển không hoạt động được. Điều này
dẫn tới việc nghiên cứu các công nghệ chuyển mạch gói. Kết quả là, tới năm
1977, hai giao thức chuyển mạch gói là Giao thức điều khiển truyền thông
(TCP) và Giao thức Internet (IP) được phát minh và trở thành hai giao thức cơ
bản của Internet.
Một bước quan trọng trong cuộc cách mạng Internet là việc Trung tâm

Lª Thu Ph¬ng

6
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

khoa học quốc gia Hoa Kỳ (NSF) thiết lập ra một số trung tâm siêu máy tính
quốc gia vào năm 1986. NSF đã liên kết các siêu máy tính và cho phép các
mạng máy tính của khu vực và các trường đại học được kết nối vào. Hơn thế
nữa, để sử dụng mạng truy cập từ xa các siêu máy tính của NSF, người ta đã
phát triển các chương trình ứng dụng như là thư điện tử, giao thức truyền tệp
và các nhóm tin để việc chia sẻ thông tin được thuận tiện hơn. Liên kết của
các trường đại học với mạng của NSF để kết nối được với các siêu máy tính
chính là nguồn gốc của Internet ngày nay.
Internet tiếp tục phát triển rộng thành mạng toàn cầu khi các nước khác
cũng xin gia nhập mạng. Đặc biệt, khi có sự phát triển của World Wide Web
(www) và sự ra đời của các trình duyệt web đồ hoạ, Internet đã nhanh chóng
thu hút được sự quan tâm chú ý của những người ở ngoài cộng đồng giáo dục
và chính phủ. Với tính chất quốc tế và những tiện ích của các dịch vụ Internet,
các nhà quảng cáo và sau đó là các doanh nghiệp đã không bỏ lỡ cơ hội làm
ăn trên mạng. Từ đó, một phương thức kinh doanh mới của thương mại toàn
cầu xuất hiện và khái niệm thương mại điện tử ra đời. Sau đó, Đạo luật mẫu
về thương mại điện tử do Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về thương mại quốc tế
(UNCITRAL: United Nations Comission on International Trade Law) soạn
thảo đã được Liên Hiệp Quốc chính thức thông qua, trở thành một cơ sở pháp
lý chính thức cho thương mại điện tử trên thế giới.
II. Các phương thức hoạt động của thương mại điện tử
1. Các phương tiện kỹ thuật sử dụng trong thương mại điện tử
1.1 Điện thoại
Điện thoại là một phương tiện được sử dụng nhiều trong giao dịch
thương mại bởi tính dễ sử dụng và sự phát triển rộng rãi của mạng điện thoại


Lª Thu Ph¬ng
7
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

trên toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển của điện thoại di động và liên lạc qua
vệ tinh. Qua điện thoại, các đối tác có thể liên lạc, trao đổi trực tiếp với nhau
bằng giọng nói. Với đặc điểm này, nhiều loại dịch vụ có thể cung cấp trực
tiếp qua điện thoại như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí...
Tuy nhiên, hạn chế của điện thoại là chỉ truyền tải được âm thanh, giao dịch
chính thức vẫn phải thực hiện trên giấy tờ. Ngoài ra, chi phí cho giao dịch qua
điện thoại, nhất là điện thoại đường dài trong nước và quốc tế vẫn còn cao
nên hiệu quả kinh tế thấp.
1.2 Máy Fax
Ưu điểm lớn nhất của máy fax là cho phép truyền các văn bản trên giấy
trong thời gian rất ngắn, giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian so với cách
gửi thư và công văn truyền thống, đặc biệt là khi các đối tác giao dịch ở các
nước khác nhau. Tuy nhiên, máy fax có một số hạn chế như không thể truyền
tải được âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh ba chiều nên ít hấp dẫn đối với
người sử dụng. Hơn nữa, giá thiết bị và chi phí sử dụng còn cao nên việc sử
dụng máy fax có tính kinh tế thấp.
1.3 Truyền hình
Mức độ phổ thông của máy thu hình trên toàn thế giới và tầm phủ sóng
rộng rãi của vô số các kênh truyền hình đặc biệt là với sự phát triển của hệ
thống cáp quang và truyền hình phủ sóng qua vệ tinh đã khiến các nhà kiinh
doanh tìm thấy ở truyền hình một phương tiện kinh doanh hữu hiệu với việc
thực hiện các chương trình quảng cáo trên truyền hình. Tuy nhiên, điểm hạn
chế là truyền hình chỉ là công cụ viễn thông một chiều. Qua truyền hình,

những khách hàng quan tâm đến sản phẩm được quảng cáo không thể tìm
kiếm các dịch vụ chào hàng cũng như đàm phán với người bán về các điều
khoản cụ thể. Hiện nay, nhờ được kết nối với máy tính điện tử, công dụng của
máy thu hình đã được mở rộng hơn và nhược điểm này có thể được khắc

Lª Thu Ph¬ng
8
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

phục.
1.4 Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử
Trong thương mại điện tử việc thanh toán có thể được thực hiện thông
qua các hệ thống thanh toán điện tử và chuyển tiền điện tử. Đây thực chất là
các phương tiện cho phép tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản
khác. Những phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán điện tử là
máy rút tiền tự động (ATM: Automatic Teller Machine), các loại thẻ tín dụng
(credit card), thẻ mua hàng (purchasing card), thẻ thông minh (smart card - là
một loại thẻ từ có gắn vi chíp điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất
nhỏ)...
1.5 Intranet và Extranet
Mạng nội bộ (Intranet) theo nghĩa rộng là mạng thông tin trong nội bộ
một cơ quan, một doanh nghiệp. Bằng sự nối kết giữa các máy tính điện tử
trong cơ quan, doanh nghiệp cùng với các liên lạc di động , các thành viên
trong cơ quan, doanh nghiệp đó có thể liên lạc, trao đổi thông tin và phối hợp
hoạt động với nhau thông qua mạng này. Theo nghĩa hẹp, mạng nội bộ có thể
là mạng kết nối các máy tính ở gần nhau, gọi là mạng cục bộ (LAN: Local
Area Network), hoặc mạng kết nối các máy tính trong một khu vực rộng lớn
hơn, gọi là mạng miền rộng (WAN: Wide Area Network). Hai hay nhiều

mạng nội bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành một liên mạng nội bộ hay còn gọi
là mạng ngoại bộ (Extranet) và tạo ra một cộng đồng điện tử liên xí nghiệp
(inter-enterprise electronic community) .
1.6 Internet và Web
Khi nói Internet là nói tới một phương tiện liên kết các mạng với nhau
trên phạm vi toàn cầu trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP. Công nghệ
Internet chỉ thực sự trở thành công cụ đắc lực khi áp dụng thêm giao thức
chuẩn quốc tế HTTP (HyperText Transfer Protocol - Giao thức truyền siêu

Lª Thu Ph¬ng
9
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

văn bản) với các trang siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
HTML (HyperText Markup Language), tạo ra hàng chục dịch vụ khác nhau,
nhưng nổi bật nhất tới nay là dịch vụ World Wide Web ra đời năm 1991
(thường gọi tắt là web, viết tắt là WWW). Web là công nghệ sử dụng các siêu
liên kết văn bản (hyper link, hyper text), là một giao thức để tạo ra các liên
kết động trong hoặc giữa các văn bản, hay nói cách khác là tạo ra các văn bản
chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác. Nó cho phép người sử dụng tự
động chuyển từ một cơ sở dữ liệu này sang một cơ sở dữ liệu khác. Bằng cách
đó, người sử dụng có thể truy cập các thông tin thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, đồ hoạ, âm thanh...
Web với tư cách là một không gian ảo cho thông tin đã được toàn thế giới
chấp nhận làm tiêu chuẩn giao tiếp thông tin.
Ngày nay, do công nghệ Internet được áp dụng rộng rãi vào việc xây
dựng các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ nên càng ngày người ta càng hiểu
các mạng này là các “phân mạng” (subnet) của Internet. Sự ra đời và phát

triển của Internet đã tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá, tạo ra
bước phát triển mới của ngành truyền thông và đã trở thành công cụ quan
trọng nhất của thương mại điện tử. Dù có hay không có Internet/Web, ta vẫn
có thể làm thương mại điện tử (qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ cùng
với các phương tiện điện tử khác), song ngày nay, nói tới thương mại điện tử
thường có nghĩa là nói tới Internet/Web, vì thương mại đã và đang trong tiến
trình toàn cầu hoá và hiệu quả hoá, nên cả hai xu hướng ấy đều đòi hỏi phải
sử dụng triệt để Internet và Web như các phương tiện đã được quốc tế hoá cao
độ và có hiệu quả sử dụng cao.
2. Các hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử
2.1 Thư điện tử (e-mail)
Các đối tác (người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử

Lª Thu Ph¬ng
10
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua
mạng, gọi là thư điện tử (electronic mail, gọi tắt là e-mail). Đây là một thứ
thông tin ở dạng “phi cấu trúc” (unstructured form), nghĩa là thông tin không
phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận trước.
2.2 Thanh toán điện tử (electronic payment)
Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử
(electronic message). Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử đã
hướng thanh toán điện tử mở rộng sang các lĩnh vực mới , đó là:
♣ Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính ( FEDI - Financial Electronic Data
Interchange) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty
giao dịch với nhau bằng điện tử.

♣ Tiền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát
hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi tự do sang
các đồng tiền khác thông qua Internet. Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ
thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital
cash), công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “mã hoá
khoá công khai/bí mật” (Public/Private Key Crypto-graphy). Thanh toán bằng
tiền mặt Internet đang trên đà phát triển nhanh vì có hàng loạt ưu điểm nổi
bật:
- Có thể dùng cho thanh toán những món hàng giá trị nhỏ;
- Có thể tiến hành giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ mà không
đòi hỏi phải có một quy chế được thoả thuận trước, các thanh toán là vô hình;
- Tiềnmặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được nguy cơ tiền giả.
♣ Túi tiền điện tử (electronic purse, còn gọi là “ví điện tử”) nói đơn giản
là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (smart card, hay còn
gọi là thẻ giữ tiền - stored value card); tiền được trả cho bất cứ ai đọc được
thẻ đó; kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hoá khoá công

Lª Thu Ph¬ng
11
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”.
♣ Thẻ thông minh (smart card) nhìn bề ngoài tương tự như thẻ tín dụng,
nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có
một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá, tiền ấy chỉ được chi trả khi người sử
dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận thanh toán hoá đơn) được xác thực là
“đúng”.
♣ Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking) và giao dịch chứng

khoán số hoá (digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân
hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống:
- Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại, tại các
điểm bán lẻ, các ki-ốt, giao dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách
hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng...);
- Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu
thị...);
- Thanh toán trong nội bộ một hệ thống ngân hàng;
- Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác.
2.3 Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange)
Trao đổi dữ liệu điện tử là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu
trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác
trong nội bộ công ty, hay giữa các công ty hoặc tổ chức đã thoả thuận buôn
bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp
của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc vì các bên đối tác phải thoả thuận từ
trước khuôn dạng cấu trúc của các thông tin). Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật
thương mại quốc tế đã đưa ra định nghĩa pháp lý sau: “Trao đổi dữ liệu điện
tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính
điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một tiêu chuẩn đã được
thoả thuận về cấu trúc thông tin”.

Lª Thu Ph¬ng
12
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu và chủ yếu
được thực hiện thông qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ.
Thương mại điện tử qua biên giới (Cross-border electronic commerce) về

bản chất là trao đổi dữ liệu điện tử giữa các doanh nghiệp được thực hiện giữa
các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung: giao dịch kết nối, đặt
hàng, giao dịch gửi hàng (shipping) và thanh toán. Trên bình diện này, nhiều
khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các nước có quan
điểm, chính sách và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản, đòi hỏi phải
có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do
hoá thương mại và tự do hoá việc sử dụng Internet. Chỉ như vậy mới có thể
đảm bảo được tính khả thi, tính an toàn và tính hiệu quả của trao đổi dữ liệu
điện tử.
2.4 Giao gửi số hoá các dung liệu (Digital delivery of content)
Giao gửi số hoá các dung liệu là việc mua bán, trao đổi các sản phẩm mà
người ta cần nội dung, tức là hàng hoá, chứ không cần tới vật mang hàng hoá
như phim ảnh, âm nhạc, các chương trình truyền hình, phần mềm máy tính...
Các ý kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm...
nay cũng đã được đưa vào danh mục các dung liệu (content). Đồng thời, trên
giác độ kinh tế - thương mại, các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên
Internet đều có ở mức phong phú, do đó một nhiệm vụ quan trọng của công
tác thông tin ngày nay là khai thác trực tiếp được lượng thông tin trên Web và
phân tích tổng hợp lượng thông tin này sao cho phù hợp với mục đích sử
dụng.
2.5 Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods)
Để tận dụng tính năng đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web
và Java, người bán xây dựng trên mạng các cửa hàng ảo (virtual shop) để
thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa

Lª Thu Ph¬ng
13
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp


hàng, xem hàng háo hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiền bằng
thanh toán điện tử. Vì là hàng hoá hữu hình nên tất yếu sau đó cửa hàng phải
dùng các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay khách. Điều
quan trọng nhất là khách hàng có thể mua hàng tại nhà (home shopping) mà
không cần phải đích thân đi tới cửa hàng.
3. Các loại giao tiếp trong thương mại điện tử
- Giao tiếp giữa người với người: qua điện thoại, thư điện tử, máy fax;
- Giao tiếp giữa người với máy tính điện tử: trực tiếp hoặc qua các mẫu
biểu điện tử (Electronic form) và qua mạng Internet;
- Giao tiếp giữa máy tính điện tử với người: qua thư tín do máy tính tự
động sinh ra, qua máy fax và thư điện tử;
- Giao tiếp giữa máy tính điện tử với máy tính điện tử: qua việc trao đổi
dữ liệu có cấu trúc, thẻ thông minh, các dữ liệu mã hoá bằng vạch (barcoded
data, cũng gọi là dữ liệu mã vạch).
4. Các giao dịch thương mại điện tử
4.1 Căn cứ theo đối tượng giao dịch
Các giao dịch thương mại điện tử hiện nay được xây dựng dựa trên các
mối quan hệ giữa các chủ thể bao gồm chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
dùng. Do vậy, căn cứ theo đối tượng giao dịch, trong thương mại điện tử có
thể có các giao dịch sau:
- B to B (Business to Business): là giao dịch giữa các doanh nghiệp với
nhau và giao dịch bên trong doanh nghiệp (Business to Employee). Các doanh
nghiệp thường sử dụng hình thức giao dịch này để trao đổi chứng từ, thanh
toán tiền hàng và trao đổi thông tin. Hình thức trao đổi này thường được các
doanh nghiệp sử dụng mạng Intranet và Extranet để giao dịch.
- B to C (Business to Consumer): là giao dịch giữa doanh nghiệp và
người tiêu dùng, minh hoạ cụ thể là việc bán hàng qua mạng, làm cho việc

Lª Thu Ph¬ng

14
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

mua sắm của người tiêu dùng trở nên thuận tiện hơn vì người tiêu dùng có thể
thực hiện việc xem hàng, mua hàng và thanh toán tại nhà mà không cần phải
đến tận cửa hàng. Đây chính là sự thể hiện việc điện tử hoá tiêu thụ khi mạng
toàn cầu ra đời và phát triển.
- B to G (Business to Government): giao dịch giữa doanh nghiệp với
chính phủ, bao gồm việc trao đổi thông tin, mua sắm chính phủ theo kiểu trực
tuyến (online government procurement) và quản lý nhà nước về thuế, hải
quan...
- C to G (Consumer to Government): giao dịch giữa người tiêu dùng với
các cơ quan chính phủ nhằm trao đổi các thông tin về thuế, dịch vụ hải quan
và các thông tin khác.
- G to G (Government to Government): giao dịch giữa các chính phủ
nhằm mục đích trao đổi thông tin.
Trong các giao dịch trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp (B to B hoặc
B2B) và giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (B to C hoặc B2C) là hai
dạng giao dịch phổ biến trong thương mại điện tử đặc biệt là nếu xét trên góc
độ thuần tuý kinh doanh.
<1> Giao dịch bên trong doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp
• Thư tín điện tử trong nội bộ doanh nghiệp
• Xuất bản trực tuyến (trên Web) các tài liệu của công ty
• Tra cứu các tài liệu, các dự án và các thông tin khác
• Truyền gửi các thông tin khẩn cấp tới nhân viên
• Quản lý tài chính và nhân sự
• Quản lý vật tư
• Phục vụ hậu cần

• Gửi các thông tin hoặc báo cáo về xử lý đơn hàng cho người cung
cấp hàng.

Lª Thu Ph¬ng
15
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

<2> Giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng
• Tra cứu thông tin về sản phẩm và hàng hoá (trên Web)
• Đặt hàng
• Thanh toán các hàng hoá và dịch vụ
• Cung cấp các lao vụ trực tuyến cho khách hàng
Trước hết, về giao dịch B2B, đây là quan hệ giao dịch chiếm tỷ lệ chủ
yếu trong tổng số các giao dịch thương mại điện tử hiện nay. Khi áp dụng
B2B, các doanh nghiệp xây dựng cho mình các Website trên mạng Internet
nhằm giới thiệu về doanh nghiệp cũng như các sản phẩm của doanh nghiệp
cho các đối tác, đồng thời những đối tác quan tâm có thể giao dịch trực tiếp
với doanh nghiệp ngay trên Website này. Bên cạnh đó, Website cũng là mạng
nội bộ giữa doanh nghiệp với một số khách hàng đã và đang làm việc với
doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với đa số các công ty, các Website này cũng kiêm
luôn chức năng bán lẻ hàng hoá cho người tiêu dùng khi họ truy cập tìm hiểu
sản phẩm và đặt hàng như các khách hàng là doanh nghiệp khác.
Trong phương thức B2B, thông qua mạng Internet, các doanh nghiệp có
thể theo dõi, quản lý được quá trình cung cấp nguyên liệu, dịch vụ từ phía nhà
cung cấp cũng như việc giao hàng hoá cho các đại lý tiêu thụ của mình và các
nhà phân phối độc lập khác. Đồng thời, trong quá trình này, doanh nghiệp
cũng liên tục được cập nhật thông tin từ phía các đối tác do đó có thể nhanh
chóng nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Về phía nội bộ doanh nghiệp,

tất cả các thành viên trong doanh nghiệp đều được quản lý, được tham gia vào
sản xuất một sản phẩm bằng cách truy cập thông tin về sản phẩm, đóng góp ý
kiến về sản phẩm, được thông báo cũng như đóng góp ý kiến về các quyết
định của doanh nghiệp thông qua mạng nội bộ của doanh nghiệp đó. Với
nguồn thông tin từ nhiều phía cả bên trong lẫn bên ngoài, doanh nghiệp có thể
bổ sung, hoàn thiện sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của thị trường từ đó

Lª Thu Ph¬ng
16
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh.
Về giao dịch B2C, đây là một phương thức giao dịch ngày càng phổ biến
bởi những tiện ích mà nó đem lại cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng.
Với sự phát triển của Internet, người tiêu dùng ngày càng quen dần với việc
mua hàng trên mạng, một thị trường điện tử nơi người bán và người mua gặp
nhau mà trong tương lai có thể dần thay thế cho các thị trường truyền thống.
Khi mua hàng trên mạng, hạn chế về khoảng cách địa lý được xoá bỏ, người
tiêu dùng có thể tự do lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ cũng như các nhà cung
cấp chỉ bằng việc truy cập các Website đang xuất hiện ngày một nhiều hơn
trên mạng.
Giao dịch B2C có ảnh hưởng nhiều đến kênh bán lẻ bởi thông qua
Internet, người sản xuất và người tiêu dùng có thể trực tiếp gặp nhau. Do chi
phí trung gian được giảm bớt, người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá hay
dịch vụ mình mong muốn với giá thấp hơn và tin tưởng rằng sẽ được hưởng
các dịch vụ hỗ trợ kèm theo đầy đủ hơn. Việc trao đổi trực tiếp giữa người
bán và người mua giúp người bán nắm được yêu cầu chi tiết của khách hàng
từ đó cung cấp sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu đó, đồng thời, thông

tin phản hồi trực tiếp từ phía khách hàng cũng giúp doanh nghiệp khảo sát
được thị trường một cách chính xác, hiệu quả và kinh tế.
4.2 Căn cứ theo nội dung giao dịch
Hiện nay, nếu căn cứ theo nội dung giao dịch, thương mại điện tử có thể
có các loại giao dịch sau:
- Mua hàng điện tử: là hoạt động thương mại với chức năng bán sản
phẩm. Đối với hoạt động thương mại này, những thông tin như tìm hiểu về
sản phẩm, đặt hàng, thanh toán tiền đều có thể thực hiện qua mạng. Nhưng
hàng hoá đưa đến tay người dùng sẽ được thực hiện thông qua các dịch vụ

Lª Thu Ph¬ng
17
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

bưu điện đã có hoặc các cơ sở, công ty vận tải. Lợi điểm của loại hình này là
giảm thiểu đến mức tối đa các khâu trung gian trong quá trình lưu thông hàng
hoá.
- Cung cấp thông tin: là giao dịch thương mại điện tử mà đối tượng mua
bán là sản phẩm hoặc dịch vụ thông tin. Toàn bộ quá trình thương mại này
hoàn toàn có thể thực hiện qua mạng.
- Thanh toán điện tử (e-Cash và e-Cheque): là hoạt động cung cấp việc
thanh toán điện tử nhanh chóng nhất thông qua hệ thống thanh toán điện tử
(Electronic Payment System - EPS). Hoạt động này nhằm bổ sung cho hai
hoạt động thương mại kể trên để được một hệ thống hoàn chỉnh trong kinh
doanh. Đây là yếu tố quan trọng và cần có để hoạt động thương mại điện tử
mang đúng bản chất của thương mại. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân cơ
bản thúc đẩy việc điện tử hoá tiền tệ.
III. Lợi ích của thương mại điện tử

1. Giúp doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú
Nhờ các phương tiện điện tử sử dụng trong thương mại điện tử, điển hình
là truy cập các trang web trên Internet và liên lạc qua Internet, các doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận với nguồn thông tin khổng lồ trên Internet cũng
như nắm bắt kịp thời thông tin thị trường để từ đó xây dựng chiến lược sản
xuất kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu
vực và quốc tế. Đồng thời, việc nắm bắt thông tin chính xác và kịp thời cũng
giúp doanh nghiệp nhanh chóng phản ứng được trước những thay đổi của thị
trường. Hơn thế nữa, việc nắm bắt thông tin cũng giúp doanh nghiệp chủ
động đi trước các đối thủ cạnh tranh, đây là một yếu tố rất quan trọng cho sự
tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay,

Lª Thu Ph¬ng
18
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

khi các doanh nghiệp luôn phải chịu sức ép cạnh tranh vô cùng gay gắt. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng được
nhiều quốc gia quan tâm và coi là một trong những động lực phát triển chủ
yếu của nền kinh tế hiện nay.
2. Giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc lựa chọn khi mua hàng
Thương mại điện tử đã và đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho cả người
tiêu dùng cá lẻ và các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của thương mại
điện tử, ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức kinh doanh trực tuyến bằng
cách quảng cáo trên mạng, bán hàng và thanh toán trên mạng. Việc quảng cáo
trên mạng giúp khách hàng có thể dễ dàng tìm hiểu thông tin chi tiết và chính
xác về mặt hàng mình quan tâm. Thêm vào đó, do không phải mất nhiều thời
gian tìm đến tận cửa hàng nơi có trưng bày và bán sản phẩm, khách hàng có

điều kiện thăm quan cùng lúc nhiều trang web của nhiều doanh nghiệp khác
nhau và do đó có thể dễ dàng so sánh để chọn lựa sản phẩm và nhà sản xuất
mà mình ưng ý nhất.
3. Giảm chi phí sản xuất
Nhờ thương mại điện tử, chi phí sản xuất có thể được giảm bớt mà trước
hết là chi phí văn phòng, một nhân tố cấu thành trong chi phí sản phẩm. Cụ
thể là chi phí in ấn hầu như được loại bỏ, chi phí cho việc tìm kiếm và chuyển
giao tài liệu được giảm bớt bởi việc tài liệu được lưu trữ và chuyển giao trên
máy tính cho phép tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức. Cũng vì thế mà
số nhân viên văn phòng được giảm thiểu giúp doanh nghiệp tiết kiệm được
chi phí tiền lương mà lẽ ra phải trả cho số lượng nhân viên lớn hơn nhiều.
Ngoài ra, các văn phòng không giấy tờ (paperless office) cũng chiếm diện tích
nhỏ hơn rất nhiều so với các văn phòng truyền thống. Quan trọng hơn, các
nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ nên có thể

Lª Thu Ph¬ng
19
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

tập trung thời gian và năng lực vào nghiên cứu phát triển và do đó đem lại
nhiều lợi ích hơn cho doanh nghiệp xét về mặt lâu dài, chiến lược.
4. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
Thương mại điện tử cũng giúp giảm bớt chi phí bán hàng và chi phí tiếp
thị. Nhờ có Internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất
nhiều khách hàng - những người thăm quan và đặt hàng trên trang web của
doanh nghiệp, chưa kể việc nhận các đơn đặt hàng có thể được máy tính tự
động xử lý và vì thế chi phí nhân viên bán hàng được giảm đi đáng kể . Với
số lượng người truy cập Internet ngày một nhiều như hiện nay, việc quảng cáo

trên Internet là vô cùng hiệu quả bởi doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi
quảng cáo mà không tốn thêm quá nhiều chi phí. Hơn thế nữa, các catalogue
điện tử mà doanh nghiệp sử dụng để quảng cáo có nội dung phong phú, sinh
động, hấp dẫn hơn nhiều và dễ dàng cập nhật thường xuyên so với các
catalogue in ấn vốn có nhiều hạn chế về in ấn, phát hành.
5. Giảm chi phí giao dịch
Thương mại điện tử thực hiện qua Internet giúp người tiêu dùng và các
doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Một giao dịch
trong thương mại điện tử được tính bao gồm các công đoạn từ quảng cáo, tiếp
xúc ban đầu cho đến giao dịch đặt hàng, giao hàng và thanh toán. Sử dụng
Internet, thời gian giao dịch chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax và bằng
0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ
bằng 5% chi phí giao dịch qua fax hay qua bưu điện hoặc chuyển phát nhanh.
Chi phí thanh toán điện tử qua Internet cũng chỉ bằng 10% đến 20% nếu so
với chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Thời gian tiết kiệm được do giảm bớt thời gian giao dịch có ý nghĩa rất
quan trọng với doanh nghiệp vì việc nhanh chóng đưa thông tin sản phẩm đến

Lª Thu Ph¬ng
20
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

với người tiêu dùng cũng như việc sớm nắm bắt được nhu cầu thị trường từ
thông tin phản hồi của khách hàng giúp doanh nghiệp dễ dàng chủ động thay
đổi để theo kịp sự biến động của nhu cầu thị trường.
6. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác
Thương mại điện tử tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập và củng cố
mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại. Thông qua

mạng, từ các mạng nội bộ cho đến Internet, người tiêu dùng, các doanh
nghiệp và cả các cơ quan chính phủ có thể trực tiếp liên lạc với nhau mà
không có bất cứ hạn chế nào về thời gian cũng như khoảng cách địa lý bởi
việc liên lạc trên mạng Internet mang tính toàn cầu. Hầu như mọi giao dịch
đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Do vậy, các chủ thể của hoạt
động thương mại điện tử đặc biệt là các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm
nhiều bạn hàng mới, nhiều cơ hội kinh doanh mới trên phạm vi toàn quốc,
toàn khu vực và toàn thế giới.
7. Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá
Nền kinh tế số hoá (digital economy) hay còn gọi là nền kinh tế ảo
(virtual economy) là xu thế phát triển trong tương lai gần của nền kinh tế thế
giới. Việc nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế số hoá có ý nghĩa rất quan trọng
đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, để tránh nguy cơ
tụt hậu. Trước mắt, thương mại điện tử kích thích sự phát triển của ngành
công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng
lớn trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, từ đó, thương mại điện tử tạo điều
kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá. Đây là một lợi ích mang
tính tiềm tàng, tính chiến lược công nghệ và liên quan đến chính sách phát
triển của các quốc gia, bởi một quốc gia, đặc biệt là nước đang phát triển, sớm
tiếp cận được với nền kinh tế số hoá có thể tạo ra cho mình một bước phát

Lª Thu Ph¬ng
21
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

triển nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong thời gian ngắn.
IV. Tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới
Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu. Tuy

hiện nay thương mại điện tử được áp dụng chủ yếu ở các nước phát triển,
trong đó riêng Mỹ đã chiếm khoảng 1/2 tổng doanh số thương mại điện tử
trên thế giới, các nước đang phát triển cũng đã bắt đầu tham gia ngày càng
nhiều vào hoạt động kinh doanh này. Tuỳ đặc điểm kinh tế xã hội và định
hướng phát triển riêng mà mỗi quốc gia có cách nhìn nhận, đánh giá, cách
chuẩn bị, triển khai và có các bước đi khác nhau trong quá trình tham gia vào
thương mại điện tử. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy,
để có thể tham gia có hiệu quả vào thương mại điện tử và hạn chế đến mức
thấp nhất các rủi ro, mỗi nước đều phải có chiến lược chung về thương mại
điện tử, có chương trình tổng thể, phương án hành động từng bước và phải có
tổ chức chuyên trách cho công việc này.
Sự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới
Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên nền tảng của sự phát triển
công nghiệp công nghệ thông tin trên thế giới. Công nghệ thông tin ngày nay
đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đặc biệt, sự kết hợp hữu cơ ba bộ phận công nghiệp là máy tính (mạng, máy
tính, thiết bị điện tử, phần mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện thoại
hữu tuyến, vô tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản
phẩm nghe, nhìn, vui chơi giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin v.v.) đang
tạo ra vai trò và tính chất mới của công nghiệp công nghệ thông tin.
Nền tảng cho sự phát triển của thương mại điện tử thế giới là Internet,
bao gồm cả các phân mạng do đó bao quát toàn bộ các máy tính điện tử đang

Lª Thu Ph¬ng
22
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

hoạt động trên toàn thế giới, và các phương tiện truyền thông hiện đại bao

gồm vệ tinh viễn thông, cáp, vô tuyến và các khí cụ điện tử.
Internet đang phát triển rất nhanh cả về phạm vi bao phủ, phạm vi ứng
dụng và chất lượng vận hành. Nếu như năm 1991 mới có 31 nước nối mạng
vào Internet thì tới giữa năm 1997 đã có 171 nước. Số trang web vào giữa
năm 1993 là 130, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu. Số lĩnh vực sử dụng
Internet/Web vào giữa năm 1991 là 1600, tới giữa năm 1997 đã lên 1,3 triệu.
Giữa năm 1994, toàn thế giới có 3,2 triệu địa chỉ Internet (chủ yếu là ở
Mỹ và mỗi địa chỉ có thể có nhiều trang web do sử dụng các lĩnh vực khác
nhau, dùng nhiều cổng khác nhau), tới giữa năm 1996 đã lên 12,9 triệu địa chỉ
với khoảng 67,5 triệu người sử dụng ở khắp các châu lục và tới giữa năm
1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng. Số
người sử dụng Internet toàn thế giới đã tăng lên trên 350 triệu vào năm 2000
và theo các nhà dự báo, vào năm 2005 sẽ có khoảng 1 tỷ người trên thế giới
sử dụng Internet.
Trước đây, kiểu tiêu biểu mà một cá nhân ở gia đình truy cập vào
Internet là thông qua một máy tính cá nhân (PC: Personal Computer) và một
đường dây điện thoại. Cách truy cập này có tốc độ rất chậm, ví dụ, nếu dùng
một modem 28,8 kbps (nghìn bit/sec) thì phải mất 46 phút mới tải xuống
được một chương trình video dài 3,5 phút. Hiện nay, các công ty điên thoại,
vệ tinh và cáp đã tạo ra các phương tiện truy cập Internet với tốc độ cao hơn
rất nhiều. Công nghệ “đường thuê bao số hoá không đồng bộ” (ADSL:
Asynchronous Digital Subscriber Line), với modem 8 Mbps (triệu bit/sec),
cho phép chương trình video nói trên được tải xuống chỉ trong 10 giây. Khi
các công ty Mỹ phát triển công nghệ dùng ti vi để truy nhập vào Internet (gọi
là HDTV: high-definition television) dùng cáp, với modem 10 Mbps sẽ chỉ
mất 8 giây cho việc tải chương trình đó. Các công ty mà chủ yếu là các công

Lª Thu Ph¬ng
23
A5 -

K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

ty Mỹ đã có chương trình 5 năm 1998-2002 xây dựng một mạng viễn thông
băng rộng toàn cầu thông qua các vệ tinh, cho phép với tới hầu hết số dân 2 tỷ
người đang sống ở các vùng không có điện thoại trên toàn thế giới. Hệ thống
cáp ở các nước đã và đang chuyển thành hệ thống lưu thông Internet 2 chiều
(two-way internet traffic) dùng cáp quang, có hộp giải mã các âm thanh, mã
hình ảnh và dữ liệu truyền gửi dưới dạng số hoá. Các phương tiện liên lạc vô
tuyến cũng đều đang hội nhập vào Internet. Các tuyến cáp quang đang được
rải trên khắp các nước, các châu lục để liên kết tất cả các khí cụ điện tử vào
Internet, sẽ cho phép truy cập vào Internet nhanh gấp 10 lần so với mạng lưới
cáp điện thoại hiện nay. Theo ước tính của các chuyên gia Mỹ, Internet/Web
đang phát triển với tốc độ cứ 100 ngày thì tổng lượng thông tin qua “võng
mạng toàn cầu” lại tăng lên gấp đôi. Nhìn xa hơn, các nhà “tương lai học” đã
đưa ra dự báo rằng “kinh tế số hoá”, “xã hội số hoá” trên cơ sở công nghệ
điện tử với điện tử là vi tố cuối cùng sẽ sớm bị thay thế bởi công nghệ cao
hơn nữa là công nghệ lượng tử với vi tố là các hạt cơ bản.
Theo số liệu trung bình các nguồn, doanh số thương mại điện tử toàn thế
giới năm 1997 đạt khoảng 18 tỷ USD, năm 1998 đạt 47 tỷ USD và năm 1999
đạt 95,5 tỷ USD. Theo IDC, ước tính doanh thu thương mại điện tử toàn cầu
sẽ tăng lên 1,3 nghìn tỷ USD vào năm 2003, còn công ty Marketing
“Forrester Research”lại dự đoán mức doanh thu sẽ lên tới 6,7 nghìn tỷ USD
vào năm 2004, tương đương 8,6% tổng doanh thu thương mại trên thế giới.
Trong đó, buôn bán giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua
trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) sẽ chiếm khoảng 50%, dịch vụ tài chính và các
dịch vụ khác khoảng 45%, dịch vụ bán lẻ khoảng 5%. Để công việc kinh
doanh có hiệu quả hơn, các công ty đang chuyển từ thương mại điện tử sang
kinh doanh điện tử, nối và gắn kết kinh doanh nội bộ với các nhà cung cấp và
khách hàng. Doanh thu do ứng dụng thương mại điện tử sẽ đạt mức lãi gộp


Lª Thu Ph¬ng
24
A5 -
K38B
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

hàng năm trên 60% từ năm 1999 đến năm 2004. IDC dự báo doanh số của
thương mại điện tử và doanh thu từ việc ứng dụng các chiến lược Marketing
sẽ tăng từ 709 triệu USD trong năm 1999 lên tới 4,5 tỷ USD trong năm 2004.
Cũng trong giai đoạn này, doanh thu từ bán hàng qua thương mại điện tử dự
kiến sẽ tăng từ 222 triệu USD lên tới 5 tỷ USD.
Như vậy, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin,
thương mại điện tử trên thế giới đang phát triển vô cùng mạnh mẽ và tạo ra
một xu thế phát triển chung mà các nước đang hướng tới. Trong đó, không chỉ
các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc Liên
minh châu âu mà cả các nước đang phát triển cũng đang nhanh chóng tham
gia vào thương mại điện tử. Sự phát triển của thương mại điện tử một mặt là
kết quả của xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình “số hoá” toàn bộ hoạt
động của con người, mặt khác là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng
nước, từng nhóm nước và toàn thế giới nói chung, đặc biệt là trên bình diện
tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho kinh tế số hoá nói chung
và thương mại điện tử nói riêng.

Lª Thu Ph¬ng
25
A5 -
K38B

×